Luận văn Hoạt động bảo vệ môi trường tự nhiên của giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Bình Phước hiện nay

1. Bình Phước là một tỉnh lị được tách ra từ tỉnh Sông Bé, có nhiều hạn chế về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, giao thông vận tải, du lịch và an ninh quốc phòng. Bên cạnh đó, tỉnh có nhiều đất rừng cung cấp nhiều loại gỗ quý, động vật quý hiếm cho nước nhà, và có hai khu rừng quốc gia là Vườn quốc gia Bù Gia Mập và Rừng Tà thiết dước sự quản lí của nhà nước, hai khu rừng đã được bảo tồn và phát triển ngày một vững mạnh cả về tiềm năng kinh tế và du lịch. Cùng với sự phát triển của tỉnh nhà GHPGVN tỉnh Bình Phước luôn gắn bó mật thiết với các cơ quan chức năng trong việc giữ gìn, bảo vệ và phát huy truyền thống tốt đạo đẹp đời. Thể hiện đúng tinh thần đoàn kết hòa hợp trong mọi tổ chức hoạt động của Giáo hội luôn quan tâm và sát sâu đến đời sống sinh hoạt của Tăng, Ni tỉnh nhà, đồng thời, quan tâm đến cuộc sống hàng ngày của tín đồ Phật tử. 2. Vấn đề BVMTTN đã được Đảng, Nhà nước cũng như GHPGVN tỉnh Bình Phước lưu tâm thể hiện trong các quan điểm, chủ trương, chính sách, đồng thời, có những kế hoạch cụthể cho vấn đề BVMTTN hiện nay. Thực trạng BVMTTN của GHPGVN tỉnh Bình Phước hiện nay phải đối mặt với thách thức to lớn do biến đổi khí hậu gây ra, đặt biệt là những hiện tượng thời tiết cực đoan, thiên tai, bão lụt có mối quan hệ vô cùng mật thiết với tài nguyên thiên nhiên. Trách nhiệm của GHPGVN tỉnh Bình Phước hiện nay là tuyên truyền, giáo dục Phật tử sống cho phù hợp với thiên nhiên và đạo đức để bảo vệ môi trường xanh, sạch cho thế giới. Tuy nhiên, vẫn cần sự chung tay của các cơ quan ban ngành, các tổ chức tôn giáo cùng doanh nghiệp, tổ chức cá nhân trong hoạt động BVMTTN. 3. Với tình hình thực trạng về môi trường tỉnh Bình Phước như hiện nay cần đưa ra những phương hướng và khuyến nghị cấp trên nhanh chóng giải quyết. Vì BVMTTN là một hoạt động mà bất cứ ai cũng có thể thực hiện được.73 GHPGVN là một tổ chức có vai trò không nhỏ trong việc đưa ra những phương hướng cũng như khuyến nghị đối với nhà nước những vấn đề liên quan đến môi trường. - Đối với Giáo hội: Khuyết khích việc ăn chay vì môi trường và lòng từ bi để tránh giết hại dã man, tránh ăn uống thừa mứa và lãng phí thực phẩm. Phóng sinh hay việc thả các động vật hoan dã trở về với rừng xanh cũng mang những ý nghĩa thiết thực. Ngoài việc ăn chay, phóng sinh, GHPGVN tỉnh Bình Phước còn khuyên tín đồ nên trồng nhiều cây xanh trong vườn nhà, hay tham gia trồng rừng, ngoài việc làm từ thiện, điều đó càng thể hiện tinh thần nhập thế của Phật giáo với xã hội Việt Nam hiện nay. - Đối với Tăng, Ni, Phật tử: Tích cực tham gia các hoạt động trồng rừng và tái tạo rừng để phòng chống lũ, hạn hán và cải thiện môi trường. Trồng nhiều cây xanh nơi cư trú cũng như tăng gia sản xuất, nhân rộng các mô hình rau sạch. Đặc biệt, công việc vệ sinh hằng ngày cần được thực hiện nghiên túc. - Đối với chính quyền các cấp: Đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường tạo điều kiện thu hút các tổ chức trong và ngoài nước đầu tư cho lĩnh vực môi trường; tăng cường cơ sở vật chất cũng như trang thiết bị kỷ thuật để thực hiện các hoạt động quản lí của nhà nước về môi trường; hỗ trợ kinh phí mua sắm trang thiết bị cho trung tâm quan trắc môi trường; tăng cường các dự án về môi trường; thành lập đoàn thanh tra để phạt thưởng những hành vi tốt xấu đến môi trường; phát động nhiều phong trào BVMT cho dân chúng tham gia. Xây dựng hồ chứa nước đầu nguồn, phòng chống lũ lụt và hạn hán. Như vậy, từ nhận thức đến hành động về MT, BVMTTN, mỗi Tăng, Ni, Phật tử cũng như người dân tỉnh Bình Phước thực hiện những điều trên không những đã đích thực tham gia các hoạt động BVMTTN mà còn tái tạo và phát triển môi trường tự nhiên ngày một vững mạnh./

pdf111 trang | Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 606 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoạt động bảo vệ môi trường tự nhiên của giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Bình Phước hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u tư, nên ngành du lịch đã và đang có những bước phát triển tích cực, số lượng khách du lịch và doanh thu ngày càng tăng, ngành du lịch của tỉnh ngày càng được chú trọng đến. Để đáp ứng nhu cầu tâm linh của người dân, tỉnh cũng đã xây dựng lại một số khu vực tâm linh như: Núi Bà Rá được xây dựng lại với quy mô lớn, là khu du lịch tâm linh lớn nhất của tỉnh. Hàng năm thu hút hàng chục ngàn lượt khách đến tham quan, nhất là vào dịp tết. Trên núi còn có một ngôi chùa nhỏ. Người dân đến đó để chiêm bái và cầu xin vào đầu năm. Chính vì thế mà núi Bà Rá được xây dựng lại khang trang hơn, tiện nghi hơn; khu bảo tồn Sóc Bompo, là nơi tổ chức các lễ hội, văn hóa của các dân tộc anh em, các du khách cũng thường đến đây để tham gia lễ hội, cũng như xem lại các văn hóa truyền thống mà các dân tộc thiểu số dựng lại. Trên cơ sở định hướng phát triển du lịch. Tỉnh Bình Phước đã triển khai thực hiện các dự án lớn tại núi Bà Rá, Thác Mơ, hồ suối Lam, suối cam, Mộ 3000 người v.vv... Ngoài ra, để tăng cường các hoạt động phối hợp nhằm tạo liên kết các vùng, miền lân cận trong phát triển du lịch, do đó, tỉnh đã ký hợp tác với các tỉnh miền Đông Nam bộ để phát triển du lịch với Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bạc Liêu [60, tr 42]. Tuy nhiên, sự vô ý thức của con người cũng như lòng tham mà con người đã chặt phá rừng một cách bừa bãi dẫn đến ảnh hưởng đến sự biến đổi khí hậu cũng như phát triển về du lịch sinh thái của tỉnh nhà. Quá trình phát triển, ngành du lịch của tỉnh phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Ngoài những khó khăn về kinh tế, về dịch vụ, về nguồn lực còn là vấn đề tuyên truyền nhằm nâng cao ý thức du khách khi đến các điểm du lịch. Hoạt động du lịch sẽ làm gia tăng lượng chất thải cũng như đe dọa đến nguồn tài nguyên sinh thái trong khu vực như; gây sụt giảm tầng nước ngầm do 57 khai thác quá mức còn gây ô nhiễm môi trường do lượng nước thải phát sinh từ các hoạt động của du khách khi đến thăm quan. Việc khai thác lâm sản phục vụ du khách gây tổn hại đến đời sống sinh hoạt của các sinh vật, các hoạt động du lịch sẽ làm mất đi sự yên tỉnh, ảnh hưởng đến lãnh thổ của các loài động vật hoang dã, làm mất đi nơi sống và các điều kiện để duy trì sự sống của các hệ sinh thái dưới nước, tạo ra hàng rào vật chất trên con đường di cư của một số động vật làm cho chu kì sinh đẻ tự nhiên của chúng bị rối loạn [60, tr 43]. Như vậy, với du lịch sinh thái không chỉ ảnh hưởng đến đời sống người dân mà còn ảnh hưởng đến MTTN, đến các sinh vật khác, về mặc tích cực lẫn tiêu cực. 2.3.3. Với sản xuất kinh doanh Các nhà khoa học khẳng định rằng nguyên nhân trực tiếp của biến đổi khí hậu là do phát thải quá mức khí nhà kính, đặc biệt là CO2 từ việc đốt một khối lượng chưa từng có các loại nhiên liệu hóa thạch như than, dầu và khí đốt trong quá trình phát triển công nghiệp. Nạn phá rừng và khai thác gỗ không bền vững cũng gây ra hơn 20% rác thải khí nhà kính trên toàn cầu. Một số hình thức canh tác, chăn nuôi, vận chuyển, thói quen sử dụng các loại nhiên liệu không tái tạo và các lâm sản khác cũng tăng đáng kể lượng phát thải khí nhà kính, làm cho nhiệt độ nóng lên, từ đó tạo ra các biến đổi khí hậu trên toàn cầu.[46, tr 143] Thực tế cho thấy, hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian qua diễn ra này càng sâu rộng, điều này đã làm cho nền kinh tế Việt Nam ngày một phát triển vượt bậc. Kinh tế thị trường đã làm cho Phật tử không thực hiện đúng những gì Đức Phật dạy. Do họ không theo phương châm sống thiểu dục và tri túc, biết đủ theo lời Phật dạy để đóng góp tích cực cho sự ổn định dân số, tiết kiệm tài nguyên và năng lượng, làm giảm sức ép lên môi trường và các hệ sinh thái tự nhiên nên thời gian qua vấn đề phát triển kinh tế cũng đã ảnh hưởng và làm thay đổi nhiều đến vấn đề MTTN như đất đai, khoáng sản. [23, tr 493] Hoạt động kinh doanh phát triển làm tăng nhu cầu khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Việc khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên để đáp ứng nhu 58 cầu ngày càng cao của hoạt động sản xuất, kinh doanh có thể tạo ra những ảnh hưởng bất lợi cho môi trường. Vì vậy, muốm phát triển bền vững kinh tế - xã hội phải đi đôi với bảo vệ môi trường, vì nó vừa là mục tiêu vừa là nguyên tắc trong quá trình phát triển kinh tế. Mặc dù, hầu hết các huyện, thị trên địa bàn tỉnh đã được quy hoạch các khu công nghiệp, nhưng do các cơ sở sản xuất công nghiệp đã tồn tại từ trước đây và nằm rải rác các khu chung cư, công nghiệp sản xuất lạc hậu, hệ thống sử lí chất thải hầu như không có hoặc có nhưng sử lí chưa đạt nên ảnh hưởng đến môi trường. Ngoài ra, việc xây dựng các hồ chứa nước và nhà máy thuỷ điện sẽ làm ngập nước một số vùng đất ở khu vực xung quanh. Hệ quả tất yếu nếu không có biện pháp quản lý thích hợp như: Làm mất đi hệ quần thể thực vật, làm thay đổi hệ sinh thái dưới nước ở khu vực có công trình thuỷ điện. Bên cạnh đó, việc phát triển kinh tế nông, lâm, thủy sản là nhu cầu tất yếu nhằm thúc đẩy quá trình phát triển và cải biến cơ cấu kinh tế nông thôn, đẩy mạnh quá trình CNH khu vực nông thôn, tạo việc làm, thực hiện xóa đói, giảm nghèo và không ngừng nâng cao mức sống của người nông dân, xóa dần khoảng cách chênh lệch so với khu vực thành thị. Tuy nhiên, quá trình phát triển ngành Nông lâm nghiệp và thủy sản cũng khiến cho môi trường chịu ảnh hưởng nặng nề. Hiện nay, ngoài các cơ sở sản xuất nằm trong khu công nghiệp còn có các cơ sở sản xuất nằm rải rác mang tính tự phát và các cơ sở sản xuất cũ, nhỏ nằm xen lẫn trong khu dân cư với công nghệ lạc hậu, không có hệ thống xử lí chất thải hoặc có đầu tư xây dựng hệ thống như chưa đạt hiệu quả. Trên địa bàn tỉnh còn có một số cơ sở sản xuất công nghiệp mang tính chất ô nhiễm nặng nề, nằm trong khu dân cư như: Nhà máy chế biến mủ cao su Trung Tâm (Bù Gia Mập), Xí nghiệp cơ khí chế biến cao su Thuận Phú (Đồng Phú), xí nghiệp chế biến cao su Lộc Ninh (thị trấn Lộc Ninh)... làm cho nguồn nước cũng như không khí bị ô nhiễm ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt con người cũng như xã hội. 59 Tiểu kết chương 2 Từ những quan điểm của Đảng và Nhà nước, kết hợp với quan điểm mà Đức Phật đã chỉ dạy, GHPGVN tỉnh Bình Phước đã bày tỏ, đồng thời có những phương pháp cũng như trách nhiệm trong vấn đề BVMTTN như: Hoằng dương chánh pháp, tuyên truyền, giáo dục cũng là những phương tiện vận dụng những am hiểu từ trí tuệ mình đạt được song hành với các hạnh từ bi được rèn giũa mỗi ngày để lan tỏa tâm từ đến mọi chúng sinh và truyền bá hiểu biết của mình đến với mọi tầng lớp trong xã hội. Nhờ có được sự tuyên truyền, giáo dục mà trong những năm qua, GHPGVN tỉnh Bình Phước cũng đã đạt được những thành tựu đáng kể trong công tác bảo vệ MTTN như: tái tạo môi trường tự nhiên, xây dựng môi trường sinh thái và xây dựng nếp sống văn hóa mới. Từ những phân tích thực trạng nêu trên, có thể thấy, hiện trạng về môi trường mà Bình Phước phải gánh chịu trong những năm qua là rất nặng: nạn phá rừng; săn bắt thú vật hoang dã, dẫn đến cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, từ đó thiên tai, bão lũ cũng như vấn đề ONMT ngày càng cao. Sự khai thác bừa bãi các vùng đầm lầy và rừng núi và các loài động vật hoang dã bị lạm sát, v.vv.. đều đe dọa môi trường sống của nhân loại. Có rất nhiều người thử giải quyết những vấn đề này trên phương diện khoa học, nhưng lại thường phát sinh những vấn đề mới. Đó chính là sự thách thức môi trường không chỉ hạn chế trên phương diện khoa học, mà quan trọng hơn nó lại liên quan đến những vấn đề như giá trị quan của nhân loại, mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên, con người đối xử với vạn vật như thế nào v.vv... Nói cách khác, ý thức môi trường phải được xây dựng trên Đạo đức học và Triết học, hơn nữa cộng thêm sự giúp đỡ của khoa học mới có thể quán triệt công tác bảo vệ môi trường. Trước những ý thức yếu kém về việc giữ gìn vệ sinh chung, bảo vệ MTTN, các giảng sư Phật giáo đã khéo léo lồng ghép những tác hại về ô nhiễm môi sinh, những căn nguyên do hàng loạt các dịch bệnh kéo dài vào trong thời thuyết pháp để nhằm nâng cao ý thức giữ gìn môi trường của đại chúng. Giảng dạy cho đại chúng hiểu rõ tầm quan trọng của việc giữ gìn môi trường và khuyến khích đại chúng tiếp tục bão vệ, giữ gìn và tôn tạo. 60 Chương 3 VAI TRÒ CỦA GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM TỈNH BÌNH PHƯỚC TRONG BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ 3.1. Vai trò của Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Bình Phước trong bảo vệ môi trường tự nhiên hiện nay 3.1.1. Vai trò của GHPGVN tỉnh Bình Phước trong truyền thông về bảo vệ môi trường nhằm nâng cao nhận thức của Tăng, Ni, Phật tử Để mọi giá trị đạo đức Phật giáo đến được người dân nói chung và phật tử nói riêng, GHPGVN tỉnh Bình Phước luôn chú trọng đến công tác tuyên truyền, hoằng pháp, nâng cao chất lượng để mọi ý hay lời đẹp của Đức Phật được các hàng đệ tử thấu hiểu mà hành theo, đồng thời mọi kinh nghiệm cuộc sống cũng được lồng ghép vào các buổi thuyết giảng hay tuyên truyền cả hình thức cổ truyền (truyền miệng, sách, báo) lẫn hình thức hiện đại (internet..). Hàng đệ tử Phật thể nghiệm giáo pháp Phật dạy, không tham lam, không làm những việc gây tác hại đến vạn vật qua cách sống thiểu dục tri túc. Đó là cách sống hiểu biết và cao thượng, hạn chế tâm vị kỉ, không vì làm lợi ích cho riêng mình mà gây tổn hại đến người khác, các sinh vật khác, sống hài hòa với thiên nhiên, không phá hoại môi sinh, không khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách bừa bãi, chỉ khai thác những gì thiết yếu và khai thác có mức độ, để thế hệ kế tiếp có thể tiếp tục được hưởng của cải thiên nhiên, chứ không để con em mình phải hứng chịu những tai họa khủng khiếp “thiên nhiên nổi giận” như các trận sóng thần, động đất [51, tr 131]. Thông qua những giáo lý đó, giáo hội tổ chức những buổi thuyết giảng, hay phát hành những bài văn, bài báo rộng rãi để tín đồ hiểu biết và nâng cao sự nhận thức của mình. Bằng tình thương nhân loại, bằng lòng từ của một vị lãnh đạo. GHPGVN nên hướng đến tâm tư cũng như tiềm thức của tín đồ để hướng dẫn một cách chuẩn sát nhất. Ở đây, không chỉ là tình thương cá nhân, hay theo một lí thuyết nào mang tính cực đoan kiêng kị của tôn giáo, mà xuất phát từ lòng 61 từ bi, bình đẳng, bởi nhà Phật khẳng định rằng Phật và chúng sanh đều đồng một thể tính, đều có khả năng giác ngộ như nhau. Khi chúng ta nhận thức chính xác mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên, tôn trọng quy luật phát triển của thiên nhiên thì chúng ta mới có thể cùng chung sống hòa bình với thiên nhiên. Sự nhận thức ấy mỗi tu sĩ ngoài việc tu tập cho bản thân còn hướng dẫn tín đồ của mình phải yêu thương và gìn giữ môi trường xung quang. Những chùa có đạo tràng tu tập trách nhiệm của giới tu sĩ phải truyền dạy những bài pháp nói đến tâm thương yêu, sống biết đủ và luôn tỉnh thức trong mọi hành động của mình, để mình biết đó là hành động thiện hay ác mà khắc phục. Truyền thông là một trong nhưng phương pháp hữu hiệu hiện nay, thời đại mà truyền thông chiếm ngự hết mọi sinh hoạt của từng cá nhân con người. Mỗi Tăng, Ni, Phật tử chúng ta cần ý thức rõ và sử dụng các phương tiện truyền thông để hỗ trợ cho công cuộc hoằng pháp và góp phần xây dựng và phát triển con người, xã hội để tất cả cùng sống tốt, sống thiện. GHPGVN tỉnh Bình Phước trong bốn nhiệm kỳ qua, mặc dù chưa đủ nhân lực cũng như điều kiện thành lập Ban thông tin truyền thông. Thế nhưng, với hoạt động tích cực GHPG tỉnh đã tạo một trang Webside: PhatGiaoBinhPhuoc.vn – PhatGiaoBinhPhuoc.com. Nhằm đăng tải những tin tức, hình ảnh cũng như giáo lý vào đây để tiện cho Tăng, Ni, Phật tử tìm hiểu về Đạo Phật. Đến nhiệm kỳ V, GHPGVN tỉnh Bình Phước thành lập Ban Thông tin Truyền thông. Có thể nói thông qua Ban này, tín đồ Phật giáo dễ dàng tìm hiểu bằng nhiều phương tiện khác nhau. BVMT là một trong những vấn đề mà luôn đề cập đến trong xã hội hiện nay trên mạng intenet. Như vậy, để việc đến tai người nghe và đến mắt người thấy thì GHPGVN tỉnh Bình Phước ngoài việc kiến lập những trang mạng còn phải khuyến khích mọi người biết những điều ấy và thực hành ngay trong cuộc sống hành ngày. Có thư thế vấn đề môi trường phần nào được bảo vệ tốt hơn. Rất nhiều vấn đề liên quan đến môi trường mà GHPGVN tỉnh cần phải truyền đạt cho tín đồ của mình. Mỗi chùa, cụ thể là mỗi tu sĩ có một cách để 62 truyền đạt những lời Phật dạy đến cho tín đồ, để nâng cao sự nhận thức về cuộc sống, về hành động, để từ đó, vấn đề BVMT hoàn thiện hơn, chỉnh chu hơn. 3.1.2. Vai trò của GHPGVN tỉnh Bình Phước trong giáo dục về bảo vệ môi trường nhằm phát triển KT-XH bền vững Giáo dục Phật giáo là một quá trình chuyển đổi nội tâm, bồi dưỡng và phát huy những kiến thức để con người có hành trang đi vào đời, nền giáo dục Phật giáo đã có bước tiến nhất định cho sự trao dồi kiến thức đối với tín đồ như mở các trường Phật học trải dài các tỉnh trong nước từ Bắc-Trung-Nam để cho Tăng, Ni cũng như Phật tử dễ dàng tìm hiểu và theo học giáo lý đạo Phật. Hoạt động giáo dục không chỉ dừng lại ở đó mà đa phần các chùa tổ chức các khóa tu để hướng dẫn Thanh thiếu niên cũng như các cụ già, tu tập, sinh hoạt theo giáo lý cũng như giới luật của Phật giáo. Đúng với tinh thần nhập thế mà đức Phật muốn truyền tải. Trong các buổi thuyết pháp các vị Giảng sư đều đề cập đến các vấn đề Ngũ giới, Ăn chay, Nhân quả, Nghiệp báo, Từ-bi-hỷ-xã (tứ vô lượng tâm) v.vv... những vấn đề gần gũi với con người, dễ nghe, dễ hiểu, dễ thực hành mà bất kì người nào từ tri thức đến thất học đều có thể nghe, hiểu và thực hành theo được. Đó là thế mạnh của nền giáo dục Phật giáo Việt Nam. Hiện nay tỉnh Bình Phước vì nhiều lí do, nên chưa có lớp Phật học chính thức. Tuy nhiên, trong nhiệm kỳ V (2016-2021) Ban Trị Sự tỉnh đã bầu ra Ban Hoằng Pháp và Ban Giáo dục. Hai ban có trách nhiệm hướng dẫn cũng như khuyên dạy Tu sĩ và Phật tử về những vấn đề đạo đức của con người. Làm thế nào để có một cuộc sống tốt đẹp hơn từ trong Thiền Môn cho đến ngoài xã hội. Vấn đề giáo dục của GHPGVN tỉnh Bình Phước về BVMT thường được giảng dạy qua các buổi thuyết pháp trong các chùa là chính. Trong đó, các giảng sư thường nhắc nhở về đạo đức trong kinh tế, trong đời sống sinh hoạt và trong cách ứng xử của con người với con người và con người với thiên nhiên. Bên cạnh đó là những hành động thiết thực của các Tăng, Ni và Phật tử trong sinh hoạt hằng ngày hay trong các hội nghị, hội trại để người dân từ đó có những nhận thức bằng việc làm mà hành động theo. 63 Việc giáo dục ý thức tín đồ Phật giáo là cốt lõi làm thay đổi suy nghĩ và hành động của mọi người. Giáo dục mang nhiều hình thức như: Văn hóa ứng xử; nếp sống đạo đức; Giáo dục kinh doanh v.vv.. Tùy theo phương tiện, môi trường, hoàn cảnh mà thể hiện sự giáo dục. Việt Nam ta có nền văn hóa lâu đời là kính trên nhường dưới, đi thưa về trình. Trong Phật giáo cũng vậy, gặp người lớn kính chào, gặp người quen vui vẻ. Thậm chí gặp người không quen khi đi đến chùa cũng chấp tay cúi đầu. Câu niệm Mô Phật và chấp tay chào nhau là một biểu tượng văn hóa nổi bật của Phật giáo, thể hiện sự tôn trọng lẫn nhau. Cách ứng xử muôn loài cũng tương tự, biết yêu thương bảo vệ nhau. Hay đạo đức con người thì Phật giáo lấy năm giới căn bản làm nền tảng đạo đức con người và thông qua năm giới ta có thể BVMT một cách hiệu quả. GHPGVN tỉnh Bình Phước cũng thông qua giới Luật này mà khuyên dạy tín đồ sống có đạo đức. Thời pháp nào giảng Sư cũng đem năm giới ra để khuyên dạy tín đồ. Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu. Bình Phước hiện nay là vùng kinh tế trọng tâm của Đông Nam bộ, việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh phần nào ảnh hưởng đến khu vực. Vì vậy để có nền kinh tế - xã hội ổn định, không gì hơn GHPGVN tỉnh Bình Phước bắt buộc đưa giáo lý Đức Phật để giáo dục cho tín đồ trong việc kinh doanh, bằng những bài pháp thiết thực. Việc phát triển kinh tế là nhu cầu của mỗi người, gia đình và xã hội, nhưng phải làm với tâm thiện lương, không lấy mục đích lợi nhuận đặt lên hàng đầu. Đức Phật đã từng dạy đệ tử về việc kinh doanh như thế nào cho đúng cách và những loại kinh doanh nào mà Phật tử không nên làm. Trong kinh doanh có lợi nhuận, Phật cũng dạy chúng ta phải biết sử dụng lợi nhuận có ý nghĩa, bằng cách chia lợi nhuận làm ba phần: “Phần thứ nhất nhập vào vốn cũ, thứ hai để chi tiêu cho nhu cầu gia đình, và thứ ba dùng làm việc công ích xã hội gồm những việc từ thiện, hay cúng dường Tam bảo, phát triển đạo pháp” [94, tr 28 ]. Từ việc này đã làm lợi ích cho nhiều người và tạo ra phước báo bền vững trong một đời cho đến nhiều đời. 64 Vậy nên trong kinh doanh Phật dạy cần thiểu dục và tri túc, chính hai pháp môn này hình thành nên Đạo đức kinh doanh của một người Phật tử. Đức Phật hoàn toàn tin tưởng vào khả năng tu tập giải thoát của con người. Ngài đã khẳng định rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, mỗi người đều có khả năng nâng cao trình độ hiểu biết của mình về cuộc sống, về chân lý, về các phương diện tu tập, giải thoát. Để giáo dục cho tín đồ trong việc BVMT nhằm ổn định kinh tế - xã hội không gì hơn là giới Tu sĩ truyền đạt cho tín đồ về cách thức kinh doanh mà Đức Phật đã chỉ dạy trong kinh, ngoài ra lấy tâm thương yêu, ít tham muốn, hay luật nhân quả là những bài pháp mà tín đồ nên áp dụng trong việc kinh doanh. Khi ta làm với tâm trung thực thì tất nhiên hàng hóa chất lượng, và việc kinh doanh tất ngày càng được mọi người tin tưởng, có thể mặc hàng của ta nhiều nơi biết đến và mở rộng sang các tỉnh, thậm chí xuất khẩu ra nước bạn đó cũng là một cách giúp ích cho xã hội, cho nước nhà. 3.1.3. Vai trò của GHPGVN tỉnh Bình Phước trong mối quan hệ với chính quyền địa phương về vấn đề bảo vệ MTTN Cùng với Luật Bảo vệ môi trường kết hợp với Pháp lênh tín ngưỡng, tôn giáo hay Luật tín ngưỡng, tôn giáo đã tạo hành lang pháp lý để nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước và trách nhiệm của chính quyền các cấp, các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi cá nhân trong việc bảo vệ môi trường nhằm bảo vệ sức khoẻ nhân dân nói chung, với tăng, ni, phật tử nói riêng, bảo đảm quyền con người được sống trong môi trường trong lành, phục vụ sự nghiệp phát triển lâu bền của đất nước, góp phần bảo vệ môi trường tự nhiên trong khu vực và toàn cầu. Có thể nói, GHPGVN tỉnh Bình Phước là một tổ chức của Phật giáo trong tỉnh trên mặc hành chính, pháp lí và chức việc. Thông qua tổ chức này mà giữa Phật giáo (các tín đồ Phật giáo) và nhà nước (các cơ quan ban ngành) có sự liên hệ chặc chẽ với nhau trên mọi phương diện, đồng thời để GHPGVN tỉnh thể hiện tinh thần nhập thế của mình trên mọi lĩnh vực của xã hội trong đó có BVMT. Vì 65 thế, GHPGVN tỉnh Bình Phước cần xây dựng một hệ thống liền mạch để giữa người có đạo và người không có đạo sống hòa thuận không phân biệt, mỗi người là một công nhân của tỉnh nhà, có phúc cùng hưởng, có họa cùng chia, đồng thời, tham gia các phong trào mà nhà nước tổ chức nhằm gắng kết giữa đạo và đời. Chúng ta có thể kể đến Hội nghị Tôn giáo thế giới năm 1993 cho rằng: “Tôn giáo không thể giải quyết những vấn đề môi trường, kinh tế, chính trị, xã hội của thế giới. Tuy nhiên tôn giáo đưa ra những điều mà chỉ dựa vào kế hoạch kinh tế, cương lĩnh chính trị, hoặc điều khoảng pháp luật không thể có được; tức là sự thay đổi khuynh hướng nội tại, thay đổi hoàn toàn trạng thái tâm lí, thay đổi tâm linh con người, cho đến từ một phương pháp sai lầm hướng đến một sự thay đổi phương hướng sinh mệnh mới”. [23, tr 167]. Trong thời đại toàn cầu hóa như hiện nay, với tầm nhìn chiến lược hiện đại, cách nhà khoa học môi trường trên thế giới đã lên tiếng kêu gọi mỗi quốc gia cần phải có hướng đi đúng đắn để chung tay góp phần bảo vệ môi trường. Đây là trách nhiệm chung của toàn nhân loại chứ không của riêng ai, cũng không phải của các nhà lãnh đạo quốc gia nào. Những suy nghĩ và hành động xuất phát từ lợi ích quốc gia nào, lợi ích nhóm, mang tính cá nhân cần phải loại trừ. Không chỉ có tôn giáo mà nhân dân toàn tỉnh phải có những suy nghĩ tích cực trong vấn đề BVMT. Lợi ích kinh tế phải được đặt trên nền tảng đạo đức, mà việc bảo vệ môi trường là việc làm thiết thực nhất, thể hiện được quan điểm của con người với cái nhìn hướng về tương lai, hướng về cộng đồng, với tinh thần mình vì tất cả mọi người. Trên phương diện là một tổ chức của GHPGVN, GHPGVN tỉnh Bình Phước có những biện pháp nhằm cải thiện môi trường. Với tâm thương yêu muôn loài, tôn trọng quyền sống của muôn loài, nói lên tiếng nói của tín đồ về vấn đề BVMT là bảo vệ sự sống của muôn loài. Có thể trong những lần diễn tập, hay phát động phong trào BVMT, GHPGVN tỉnh Bình Phước phải có sự giao thoa với chính quyền để đưa những thông tin đó đến với tín đồ. Như việc tuyên 66 truyền về BVMT tháng 5/2016 Ban Tôn Giáo tỉnh đã có một buổi tuyên truyền về vấn đề BVMT và trên 600 tín đồ các tôn giáo đến tham dự, trong đó có Phật giáo. Đặc biệt, vào tháng 7/2017 Sở Tài nguyên & Môi trường cũng đến hai địa điểm Phật giáo để tuyên truyền về vấn đề BVMT. Như vậy, ta có thể thấy rằng vai trò của GHPGVN tỉnh Bình Phước rất quan trọng trong việc gắn kết giữa tín đồ và nhà nước lại với nhau. 3.2. Một số khuyến nghị 3.2.1. Khuyến nghị đối với GHPGVN tỉnh Bình Phước Trước hết, cần nói đến ngôi nhà chung của PGVN trong việc bảo vệ MTTN. Có thể nói, trong thời gian qua GHPGVN cũng đã phát động phong trào trồng cây, BVMT xanh, sạch ở nhiều địa phương, điển hình như chương trình. “Trồng 1000 cây hoa Ngọc Lan” tại các di tích lịch sử, đền, chùa; “Trồng 10000 cây Hoa Ban tại Điện Biên và cả nước”. Tuy nhiên, các chương trình còn nhỏ lẻ, chưa đồng nhất cần được cụ thể để hóa Tăng, Ni, Phật tử thực hiện dễ dàng như sống hợp vệ sinh, không xả rác bừa bãi đến những hành động lớn như tham gia các hoạt động xã hội về BVMT. Nên khuyến khích Phật tử và người dân sống theo lối sống tiết kiệm trong tiêu dùng, hiệu quả sẽ làm giảm khí thải độc hại ra môi trường. Môi trường có cây xanh thoáng mát sẽ cung cấp dưỡng khí oxy trong lành cho cơ thể chúng ta hoạt động và phát triển. Môi trường sống được quản lí và bảo vệ tốt, sẽ cung cấp những tài nguyên khoáng sản tốt để nuôi sống chúng ta. Bên cạnh đó, GHPGVN cần đẩy mạnh hơn nữa giáo dục truyền thống Phật giáo về BVMT. Thực tế cho thấy trong các buổi thuyết giảng về Phật giáo hiện nay còn vắng bóng những vấn đề về môi trường. GHPGVN cũng còn thiếu vắng những buổi hội thảo, tọa đàm về môi trường. GHPGVN nên thường xuyên tổ chức những buổi hội thảo về cuộc sống và môi trường để giúp mọi người hiểu thấu đáo hơn về trách nhiệm của mình đối với môi trường sống. 67 Thực hiện các chương trình hành động BVMT của GHPGVN, GHPGVN tỉnh Bình Phước cũng đã có những bước phát triển đáng kể trong vấn đề giáo dục, tuyên truyền cũng như phát động những hoạt động thiết thực cho Tăng, Ni và tín đồ về vấn đề đạo đức con người. Tuy nhiên vấn đề bảo vệ MTTN thì GHPGVN tỉnh đang trong quá trình cải tiến và áp dụng lời Phật dạy để vấn đề BVMT của tỉnh nhà ngày một mở rộng hơn. Để các hoạt động BVMTTN đi vào trình tự, nề nếp và khoa học, GHPGVN nói chung và GHPGVN tỉnh Bình Phước nói riêng cần có những dự định cho hiện tại và tương lai như thế nào để đem lại môi trường xanh-sạch-đẹp cho tất cả mọi người trong lãnh thổ Việt Nam cũng như trên toàn cầu. Là tổ chức thành viên của MTTQVN, GHPGVN nên có chương trình cụ thể về bảo vệ môi trường và tổ chức phát động, tuyên truyền tới các giáo hội địa phương. Như vậy, vai trò của GHPGVN cũng như các tổ chức đoàn thể xã hội khác trực thuộc Mặt trận là chia sẻ trách nhiệm với nhà nước trong BVMTTN. Tuy nhiên, để đạt được những thành tựu cao hơn trong các hoạt động bảo vệ MTTN, GHPGVN tỉnh Bình Phước cần tập trung vào một số vấn đề sau: Thứ nhất, GHPGVN tỉnh Bình Phước cần phải nâng cao nhận thức môi trường cho Tăng, Ni, tín đồ Phật tử về biến đổi khí hậu thông qua các phương tiện cổ động truyền thông, thông tin công cộng và giáo dục thay đổi suy nghĩ và hành vi của cộng đồng. Thứ hai, GHPGVN tỉnh Bình Phước cần giáo dục cho Tăng, Ni, tín đồ Phật tử việc bảo vệ chống nạn phá rừng; bảo tồn khôi phục và phát triển rừng nguyên sinh, rừng ngập mặn. Thứ ba, thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo, các hoạt động về BVMT cho tín đồ tham gia và thực hiện. Để từ đó nắm rõ tầm quan trọng cũng như vai trò mà môi trường đem lại cho con người. 68 Thứ tư, đề xuất những cơ sở, tự viện cũng như gia đình Phật tử trồng cây xanh trong khu đất mà mình đang sinh sống. Tạo cảnh quan cho chùa cũng như môi trường xanh-sạch-đẹp. Thứ năm, cần tăng cường quan hệ, hợp tác với chính quyền địa phương để tổ chức các cuộc mít tin, tuyên truyền cũng như hành động về việc BVMT. 3.2.2. Khuyến nghị đối với Tăng, Ni, Phật tử Tăng, Ni, Phật tử là cộng đồng người có sức ảnh hưởng không chỉ cho Giáo hội mà cho cả tỉnh nhà, vì vậy mỗi Tăng, Ni , Phật tử cần có trách nhiệm trong vấn đề BVMT hiện nay. Thứ nhất, khuyết khích Tăng, Ni và tín đồ tính đoàn kết. Bởi vì hoạt động BVMT của GHPGVN tỉnh Bình Phước là một hoạt động cần tính tập thể, tính cộng đồng mới thực hiện tốt nhiệm vụ BVMT một cách tốt nhất. Thứ hai, Tăng, Ni, Phật tử cần tự trau dồi thêm kiến thức, tìm đọc những giáo lý mà Đức Phật dạy về vấn đề BVMT. Chính những lời dạy đó sẽ giúp cho tín đồ Phật giáo thực hiện tốt trong suy nghĩ cũng như sinh hoạt hàng ngày được tốt hơn. Thứ ba, mỗi Tăng, Ni, Phật tử sống đúng với chủ trương của Đảng và nhà nước trong những quy định, những quy luật, nhất là Luật BVMT kết hợp với Luật Tín ngưỡng, tôn giáo mà Nhà nước đã ban hành. Thứ tư, mỗi cá nhân Tăng, Ni, Phật tử sống đúng với giới luật đã thọ nhận, không xâm hại của cải của người khác, không phá hoại tài sản của Nhà nước. Biết giữ gìn vệ sinh môi trường chung. Thứ năm, suy nghĩ và hành động có lợi ích cho mình và cho người khác, thể hiện lòng từ bi, tâm thương yêu đến muôn loài. Thứ sáu, thường xuyên tham gia vào các hoạt động có ích cho xã hội như việc trồng rừng, vệ sinh đường phố, thu gom rác thải, tái sử dụng những chất nhựa và nilon tại gia đình và cộng đồng. 69 3.2.3. Khuyến nghị đối với chính quyền địa phương Bình Phước với nhiều điều kiện thuận lợi để phát triền kinh tế, du lịch, nhưng do chưa khai thác thế mạnh vốn có của tỉnh cũng như vốn đầu tư chưa nhiều dẫn đến còn hạn chế để các nhà đầu tư tìm đến và phát triển. Đồng thời tỉnh nằm ở vùng sâu vùng xa, địa hình cách trở, có những đoạn đường nắng lên thì bụi mà mưa xuống thì lầy lội, khó có thể thông hành như các tỉnh khác. Nên việc đi lại gặp nhiều khó khăn. Với nhu cầu sống hiện nay là cần nhanh, gọn thế nhưng với địa hình Bình Phước là sự trở ngại không nhỏ trong vấn đề phát triển thị trường. Người dân còn nghèo khổ, dẫn đến nạn phá rừng, săn bắt vẫn còn tồn tại. Nhiều dân tộc sinh sống nên vấn đề vệ sinh chưa thực hiện tốt. Các cơ quan chức năng cũng như chính quyền địa phương cần có những biện pháp để khắc phục tình trạng này. Thứ nhất, Cần nâng cao nhận thức của cán bộ địa phương về MT và BVMT, đồng thời có kế hoạch cụ thể, chi tiết về mối liên hệ giữa các cơ quan ban ngành tỉnh Bình Phước trong công tác BVMT, hỗ trợ, phòng ngừa và kiểm soát MTTN. Thứ hai, Cần tuyên truyền, giáo dục cho Tăng, Ni, Phật tử và người dân về vấn đề BVMT rồi tuyên truyền, giáo dục ở gia đình - nhà trường - xã hội. Thứ ba, tổ chức các cuộc mít tin, diễu hành về vấn đề BVMT, trong ngày môi trường thế giới, cần triển khai rộng rãi cho các tôn giáo, các tộc người tham gia. Thứ tư, Cần thanh tra, kiểm tra các doanh nghiệp, nhà sản xuất cũng như xí nghiệp chế biến, để hạn chế tối đa ONMT, canh giữ và kiểm ta chặt chẽ khu vực rừng cấm, tránh phá hoại và chiếm đoạt tài nguyên rừng. Thứ năm, Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa GHPGVN tỉnh Bình Phước và các ban ngành địa phương trong việc tổ chức thực hiện. 70 Thứ sáu, Cần đưa ra những giải pháp, giải quyết các bất cập trong cơ chế, chính sách, pháp luật và công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường tự nhiên trong việc đưa hoạt động bảo vệ môi trường tự nhiên vào nề nếp. Thứ bảy, Thành lập quỹ cứu trợ hiểm họa và công ty bảo hiểm thiên tai. Hiểm họa do biến đổi khí hậu gây nên. Quỹ cứu trợ cần đề ra hỗ trợ và phòng chống không những biến đổi khí hậu nước biển dâng mà cần hỗ trợ tất cả các hiểm họa địa chất và môi trường tự nhiên khác, còn nguy hiểm hơn nhiều, quốc gia nào cũng có thể gặp phải. Thiên tai là rủi ro tự nhiên gây ra không ai đoán trước, nếu chỉ dựa vào trợ giúp nhà nước e rằng không đủ, không kịp thời và gặp nhiều khó khăn. Thứ tám, Cần có các cơ chế, chế tài phạt – thưởng rõ ràng trong việc phát hiện người dân vi phạm BVMT như: ONMT, cạn kiệt nguồn tài nguyên, săn bắn trái phép, vi phạm bảo vệ đa dạng sinh học Từ những khuyến nghị trên, GHPGVN tỉnh Bình Phước cần có những kế hoạch hành động cụ thể cho vấn đề BVMT, đồng thời phối kết hợp với cơ quan chức năng để làm tốt công tác này. 71 Tiểu kết chương 3 Trải qua bao cuộc thăng trầm của lịch sử nước nhà, Phật giáo luôn đồng hành cùng dân tộc trong mọi thời đại. Với thời đại công nghiệp hóa hiện đại hóa bắt buộc giới tu sĩ ngoài việc tu ra cần phải biết ngoài kia xã hội đang như thế nào?. Giới tu sĩ hay cư sĩ Phật tử cũng là một con người, một công dân của nước Việt Nam, phải có trách nhiệm đối với nước nhà và ngượi lại được xã hội bảo vệ. Hoạt động bảo vệ môi trường tự nhiên cũng chính là bảo vệ sự sống của con người, bảo vệ môi trường là trách nhiệm của mỗi chúng ta; bảo vệ rừng là bảo vệ đời sống nhân dân, v.v như vậy, GHPGVN tỉnh Bình Phước đã thể hiện rõ vai trò của mình trong hoạt động bảo vệ MTTN đối với Tăng, Ni, Phật tử thông qua tuyên truyền, giáo dục, đồng thời việc bảo vệ môi trường không phải chỉ riêng GHPGVN tỉnh Bình Phước mà việc BVMT là của chung mỗi cá nhân, cộng đồng trong môi trường đó. Từ những phân tích và nhận định nêu trên, chúng tôi tạm đưa ra một số khuyến nghị đối với GHPGVN nói chung và GHPGVN tỉnh Bình Phước nói riêng; khuyến nghị với tăng, Ni, Phật tử và khuyến nghị với chính quyền địa phương. Hoạt động bảo vệ MTTN nếu có sự chung tay, chung sức, chung lòng của các ban ngành từ trung ương xuống địa phương, từ GHPGTW xuống các giáo hội địa phương, có những chương trình hoạt động thống nhất, thì hoạt động BVMTTN ngày càng trở thành thiết thực và cuộc sống của mỗi người dân được tốt hơn, bền vững hơn. 72 KẾT LUẬN 1. Bình Phước là một tỉnh lị được tách ra từ tỉnh Sông Bé, có nhiều hạn chế về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, giao thông vận tải, du lịch và an ninh quốc phòng. Bên cạnh đó, tỉnh có nhiều đất rừng cung cấp nhiều loại gỗ quý, động vật quý hiếm cho nước nhà, và có hai khu rừng quốc gia là Vườn quốc gia Bù Gia Mập và Rừng Tà thiết dước sự quản lí của nhà nước, hai khu rừng đã được bảo tồn và phát triển ngày một vững mạnh cả về tiềm năng kinh tế và du lịch. Cùng với sự phát triển của tỉnh nhà GHPGVN tỉnh Bình Phước luôn gắn bó mật thiết với các cơ quan chức năng trong việc giữ gìn, bảo vệ và phát huy truyền thống tốt đạo đẹp đời. Thể hiện đúng tinh thần đoàn kết hòa hợp trong mọi tổ chức hoạt động của Giáo hội luôn quan tâm và sát sâu đến đời sống sinh hoạt của Tăng, Ni tỉnh nhà, đồng thời, quan tâm đến cuộc sống hàng ngày của tín đồ Phật tử. 2. Vấn đề BVMTTN đã được Đảng, Nhà nước cũng như GHPGVN tỉnh Bình Phước lưu tâm thể hiện trong các quan điểm, chủ trương, chính sách, đồng thời, có những kế hoạch cụthể cho vấn đề BVMTTN hiện nay. Thực trạng BVMTTN của GHPGVN tỉnh Bình Phước hiện nay phải đối mặt với thách thức to lớn do biến đổi khí hậu gây ra, đặt biệt là những hiện tượng thời tiết cực đoan, thiên tai, bão lụt có mối quan hệ vô cùng mật thiết với tài nguyên thiên nhiên. Trách nhiệm của GHPGVN tỉnh Bình Phước hiện nay là tuyên truyền, giáo dục Phật tử sống cho phù hợp với thiên nhiên và đạo đức để bảo vệ môi trường xanh, sạch cho thế giới. Tuy nhiên, vẫn cần sự chung tay của các cơ quan ban ngành, các tổ chức tôn giáo cùng doanh nghiệp, tổ chức cá nhân trong hoạt động BVMTTN. 3. Với tình hình thực trạng về môi trường tỉnh Bình Phước như hiện nay cần đưa ra những phương hướng và khuyến nghị cấp trên nhanh chóng giải quyết. Vì BVMTTN là một hoạt động mà bất cứ ai cũng có thể thực hiện được. 73 GHPGVN là một tổ chức có vai trò không nhỏ trong việc đưa ra những phương hướng cũng như khuyến nghị đối với nhà nước những vấn đề liên quan đến môi trường. - Đối với Giáo hội: Khuyết khích việc ăn chay vì môi trường và lòng từ bi để tránh giết hại dã man, tránh ăn uống thừa mứa và lãng phí thực phẩm. Phóng sinh hay việc thả các động vật hoan dã trở về với rừng xanh cũng mang những ý nghĩa thiết thực. Ngoài việc ăn chay, phóng sinh, GHPGVN tỉnh Bình Phước còn khuyên tín đồ nên trồng nhiều cây xanh trong vườn nhà, hay tham gia trồng rừng, ngoài việc làm từ thiện, điều đó càng thể hiện tinh thần nhập thế của Phật giáo với xã hội Việt Nam hiện nay. - Đối với Tăng, Ni, Phật tử: Tích cực tham gia các hoạt động trồng rừng và tái tạo rừng để phòng chống lũ, hạn hán và cải thiện môi trường. Trồng nhiều cây xanh nơi cư trú cũng như tăng gia sản xuất, nhân rộng các mô hình rau sạch. Đặc biệt, công việc vệ sinh hằng ngày cần được thực hiện nghiên túc. - Đối với chính quyền các cấp: Đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường tạo điều kiện thu hút các tổ chức trong và ngoài nước đầu tư cho lĩnh vực môi trường; tăng cường cơ sở vật chất cũng như trang thiết bị kỷ thuật để thực hiện các hoạt động quản lí của nhà nước về môi trường; hỗ trợ kinh phí mua sắm trang thiết bị cho trung tâm quan trắc môi trường; tăng cường các dự án về môi trường; thành lập đoàn thanh tra để phạt thưởng những hành vi tốt xấu đến môi trường; phát động nhiều phong trào BVMT cho dân chúng tham gia. Xây dựng hồ chứa nước đầu nguồn, phòng chống lũ lụt và hạn hán. Như vậy, từ nhận thức đến hành động về MT, BVMTTN, mỗi Tăng, Ni, Phật tử cũng như người dân tỉnh Bình Phước thực hiện những điều trên không những đã đích thực tham gia các hoạt động BVMTTN mà còn tái tạo và phát triển môi trường tự nhiên ngày một vững mạnh./. 74 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đào Duy Anh (2005), Hán Việt Từ Điển, Nxb. Văn Hóa Thông Tin. Tp HCM. 2. Thái Văn Anh (Thích Không Tú) (2018), Niềm tin Tôn giáo của Tín đồ Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Hồng Đức. Tp HCM 3. Minh Đức Triều Tâm Ẩn, (2008), Lịch sử Phật giáo Thế giới, Nxb Thuận Hoá. 4. Lê Huy Bá- Lâm Minh Triết (2015), Sinh Thái Môi Trường-Ứng Dụng. Nxb. Đại Học Quốc Gia. Tp.HCM. 5. Ban Hoằng Pháp, (2011), Kỷ Yếu Hội thảo hoằng pháp toàn quốc, Bình Dương. 6. Thích Minh Cảnh (2004), Từ Điển Phật học Huệ Quang, Nxb. TP HCM 7. Thích Minh Châu (dịch), (2015), Kinh Tiểu Bộ, Nxb. Tôn giáo. Hà Nội 8. Thích Minh Châu (dịch), (2015). Kinh Trung Bộ, tập 1. Nxb. Tôn giáo. Hà Nội 9. Thích Minh Châu (dịch), (2015). Kinh Trung Bộ, tập 2. Nxb. Tôn giáo. Hà Nội 10. Thích Minh Châu, (dịch), (2015), Kinh Trường Bộ, Viện Nghiên cứu Phật học VN, Nxb. Tôn giáo. 11. Thích Minh Châu, (dịch), (2015), Kinh Tăng Chi Bộ II. Viện Nghiên cứu Phật học VN. Nxb. Tôn giáo. 12. Thích Minh Châu, (dịch), (2015), Kinh Tăng Chi Bộ III. Viện Nghiên cứu Phật học VN. Nxb. Tôn giáo. 13. Thích Minh Châu, (dịch), (2015), Kinh Tương Ưng Bộ II, Viện Nghiên cứu Phật học VN. Nxb Tôn giáo. 75 14. Thích Minh Châu, (dịch), (2015), Kinh Tương Ưng Bộ III, Viện Nghiên cứu Phật học VN. Nxb Tôn giáo. 15. Thích Minh Châu (dịch), (2000), Kinh Pháp Cú. Nxb. Tôn giáo. Hà Nội 16. Thích Minh Châu, (2002), Đạo đức Phật giáo và hạnh phúc con người, Viện Nghiên cứu Phật học VN. Nxb Tôn giáo. 17. Thích Minh Châu, (1998), Hãy tự thắp đuốc lên mà đi, Nxb. TP. HCM. 18. Nguyễn Văn Chiển- Trịnh Tấn Đạt, (2010), Từ điển bách khoa, Đất nước và con người Việt Nam, Nxb. Từ Điển bách Khoa, Hà Nội. 19. Hoàn Chương (2010), Nghệ thuật Phật giáo và đời sống hôm nay, Nxb. Dân Trí. 20. Trương Chí Cương (Trần Nghĩa Phương dịch) (2007), Tôn giáo học là gì?. Nxb. Tổng hợp. TPHCM. 21. Vũ Dũng, (2011) Đạo đức môi trường ở nước ta- lý luận và thực tiễn, Nxb. Bách Khoa. Hà Nội. 22. Nguyễn Đình Hữu Đại, (2017), Luật bảo vệ môi trường (những quy định mới), Nxb Lao Động. 23. Thích Nhuận Đạt (dịch) (2010), Đạo Phật và Môi Trường, Nxb Tổng Hợp, Tp HCM. 24. Tuệ Đăng (dịch) (2000), Giới luật học cương yếu, Nxb. TP.HCM 25. Giáo Hội Phật giáo Việt Nam (Nhiệm kỳ 2017-2022), Văn kiện Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ VIII. Hà Nội. 26. GHPGVN tỉnh Bình Phước (Nhiệm kỳ 2011-2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu Phật giáo tỉnh Bình Phước lần thứ IV. Bình Phước 27. GHPGVN tỉnh Bình Phước (Nhiệm kỳ 2017-2022), Văn kiện Đại hội Đại biểu Phật giáo tỉnh Bình Phước lần thứ IV. Bình Phước 76 28. GHPGVN- Hội Đồng Tri Sự (1981-2016), Hội thảo kỉ niệm 35 năm thành lập GHPGVN Thành tựu-Ổn định-Phát triển ,TP HCM. 29. Thích Nguyên Hiệp (2010), (Thích Nhất Hạnh dịch) Kinh Từ Bi, Nxb. Thuận Hóa. 30. Phương Hoa, (2017), Luật tín ngưỡng Tôn giáo, Nxb Hồng Đức. 31. Phương Hoa (Sưu tầm và hệ thống) (2016), Luật Tín ngưỡng, tôn giáo - Tìm hiểu về lễ hội tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo truyền thống thờ cúng và bản sắc văn hóa dân tộc. Nxb. Hồng Đức. Tp HCM. 32. Thích Thiện Hoa, (1995), Phật học phổ thông, Nxb. Tp HCM. 33. Phạm Quỳnh Hoa và Dương Minh Hào (dịch) (2016) Sống hòa hợp với môi trường. Nxb. Giáo Dục 34. Đỗ Quang Hưng, (2009), Nghiên cứu các tôn giáo- nhân vật và sự kiện, Nxb. Tổng Hợp. 35. Hoàng Hưng (1997), Con người và môi trường, Nxb. Trẻ. Tp HCM 36. Lê Văn Khoa, (2014), Môi trường và giáo dục bảo vệ môi trường. Nxb Giáo dục VN. 37. Thích Thanh Kiểm (1997), Thiền Lâm Bảo Huấn, Nxb. Tp HCM. THPG Tp HCM 38. Tịnh Không, Thích Nhuận Châu (dịch), (2011), Nhận thức Phật giáo, Nxb Tôn Giáo. 39. Hoàng Ngọc Kỷ, (2014), An ninh môi trường- Hiểm hoạ và biện pháp phòng chống, Nxb. Công An Nhân Dân. Tp.HCM 40. Nguyễn Lang, (1974), Việt nam Phật giáo sử luận, tập 1, Lá Bối. Sài Gòn. 41. Quý Lâm (Hệ Thống) (2018), Luật Bảo vệ môi trường nhiệm vụ trọng tâm và biện pháp, xử lý khắc phục hậu quả, Nxb. Lao Động, Hà Nội. 77 42. Quý Lâm-Kim Thư (sưu tầm và hệ thống) (2015), Luật Bảo vệ môi trường và công tác bảo vệ môi trường đối với các tổ chức, cơ quan, ban ngành, Nxb. Lao Động, Tp HCM. 43. Quý Lâm (Hệ thống), (2017), Hướng dẫn xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và công tác bảo vệ môi trường cụm công nghiệp, khu kinh doanh, dịch vụ tập trung, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, Nxb. Lao Động, Tp HCM 44. Leopold Cadiere, (Đỗ Trinh Huệ dịch) (2015), Văn hoá tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người Việt, Nxb Thuận Hoá, Huế. 45. Nàrada, (Tịnh Minh dịch) (1995), Thi Kệ Pháp Cú Kinh, Tủ Sách Phật Học. 46. Narada (1994) (Phạm Kim Khánh dịch), Đức Phật và Phật Pháp, Nxb. Thuận Hóa, Tp HCM 47. Đức Nghiệp, (1998), Đạo Phật Việt Nam, Thành Hội PGVN. Tp HCM 48. Dương Quang Ngọc, (2010), Môi trường với cuộc sống của chúng ta, Viện khoa học giáo dục VN. 49. Nguyễn Thọ Nhân, (2009), Ăn Chay chống lại biến đổi khí hậu, Nxb Tổng Hợp. Tp HCM. 50. Nhiều tác giả, (2014), Phật giáo và các thiên niên kỷ của Liên Hiệp Quốc, Nxb. Tôn giáo. 51. Nhiều tác giả, (2015), Phật giáo vùng Mê Công - ý thức môi trường và toàn cầu hoá, Nxb Đại Học Quốc Gia Tp HCM. 52. Nhiều tác giả, (2001), Giáo dục Phật giáo trong thời hiện đại, Nxb. Tp Hồ Chí Minh. 53. Nhiều tác giả (2015), Hạt giống tâm hồn, Nxb. Tổng Hợp. Tp HCM 54. Nhóm Việt Ngữ, Phạm Lê Liên (chủ biên - 2015), Tự điển Tiếng Việt thông dụng, Nxb. Hồng Đức 78 55. Hoàng Đức Nhuận, Nguyễn Văn Khang (1999), Một số phương pháp tiếp cận giáo dục môi trường. Nxb. Giáo dục. Hà Nội, 56. Minh Niệm (2014), Hiểu về trái tim, Nxb Trẻ. Tp HCM 57. Thích Hoàn Quan (1971), Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Nxb. Hoa Đạo. 58. Thích Hoàn Quan (1995), Phật Tổ Ngũ Kinh, Nxb. Tp HCM. THPG Tp HCM 59. Thích Trung Quán (dịch) 1999, Kinh Hiều Ngu, Nxb Tp HCM. 60. Thích Trí Quang (dịch), (1997), Kinh Thập Thiện Nghiệp, Nxb. TP.HCM 61. Thích Chân Quang, (2004), Tâm lí đạo đức, Nxb. Tôn giáo. TP HCM 62. Thích Trí Quảng, (2008), Phật giáo nhập thế và phát triển, Nxb. Tôn giáo 63. Quốc Hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (2017), Luật tín ngưỡng, tôn giáo, Nxb Chính Trị Quốc Gia Sự Thật, TP.HCM. 64. Rosemary Ellenguiley, (2008), Từ điển tôn giáo, Nxb Tôn giáo 65. SachuMann. H.W., Trần Phương Lan (dịch), (2000), Đức Phật lịch sử, Nxb. Tp HCM. 66. Sở Tài Nguyên và Môi Trường tỉnh Bình Phước (giai đoạn 2011- 2015), Báo cáo hiện trạng môi trường 5 năm tỉnh Bình Phước. Chi Cục Bảo Vệ Môi Trường, Bình Phước. 67. Ngô Đức Thịnh, (2016), Tín ngưỡng của các dân tộc Việt Nam, Nxb Khoa Học Xã Hội. 68. Thích Trí Tịnh (dịch) (1990), Kinh Đại Bát Niết Bàn .Tịnh xá Minh Đăng Quang 69. Thích Trí Tịnh, (dịch) (2008), Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, Nxb Tôn Giáo. 79 70. Thích Trí Tịnh (dịch) (1997), Kinh Phạm Võng Bồ tát giới. THPG TP.HCM 71. Thích Viên Trí, (2008), Ấn Độ Phật giáo Sử Luận, Phương Đông. 72. Thích Đức Thắng (Việt dịch), Tuệ Sỹ (Hiệu đính & Chú thích), (2005) Kinh Tăng Nhất A Hàm, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam. 73. Lâm Minh Triết - Huỳnh Thị Minh Hằng, (2008), Con người và môi trường, Nxb. Đại học Quốc gia. TP. HCM. 74. Thích Minh Tuệ, (1994), Phật và Thánh chúng, Nxb Tp Hồ Chí Minh. 75. Nhật Thuỷ, (2016), Luật Bảo vệ môi trường và văn bản hướng dẫn xử lý vi phạm về môi trường, Nxb Thế Giới. 76. Thích Nhật Từ, (2011), Phật giáo và thời đại, Nxb Phương Đông. 77. Thích Thanh Từ, (1992), Thiền Sư Việt Nam, Nxb. TP Hồ Chí Minh. 78. Thích Thiện Thông (2010), Phật giáo và đời sống văn hóa và giáo dục, Hội thảo Hoằng gháp toàn quốc, Kiên Giang. 79. Ủy Ban Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam Tỉnh Bình Phước (2017), Sổ tay Công tác bảo vệ môi trường dành cho cán bộ mặt trận cơ sở, Lưu hành nội bộ. Bình Phước. 80. Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam-Trương Đại Học Khoa Hộc Xã Hội và Nhân Văn (2015), Phật Giáo Vùng Mê Công. Ý thức môi trường và toàn cầu hóa. Nxb. Đại Học Quốc Gia, Tp.HCM 81. Hoàng Tâm Xuyên, (2003) Mười tôn giáo lớn trên thế giới, Nxb Chính Trị Quốc Gia. Hà Nội 82. Viện Nghiên Cứu Phật học Việt Nam, (2017), Giáo hôi Phật giáo Việt Nam 35 năm hình thành và phát triển, Nxb Hồng Đức. Tp. HCM 83. Viện Ngôn Ngữ Học (2013), Từ Điển tiếng Việt Phổ Thông, Nxb. Phương Đông, Tp HCM. 80 84. Viện Khoa Học Xã Hội tại TP HCM- Trung Tâm Nghiên cứu Dân Tộc Học và Tôn giáo (1995), 20 nghiên cứu Dân tộc học và Tôn giáo. TP HCM 85. Nguyễn Thanh Xuân (2013), Một số tôn giáo ở Việt Nam, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội. Báo, Tạp chí 86. Tâm Diệu, (2011), Ăn chay bảo vệ môi trường sinh thái, Tạp chí đạo Phật ngày nay. 87. Hồ Công Đức (2016), Mối quan hệ giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài trong việc khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên ở nước ta hiện nay, Nhân Lực Khoa Học Xã Hội,( số 03(34), trang 94-100 88. Long Giang, (2002), Nguồn rau nào cũng bị nhiễm thuốc trừ sâu, báo Người lao động, ngày 26/8/2002 89. Trần Hà, (23-4-2016), 171 nước ký thỏa thuận về chống biến đổi khí hậu, Báo Điện tử VTV.vn, 90. Trần Ngọc Hằng (2009), Thờ thục tính Việt Nam, Tạp chí Khuông Việt, số 7, trang 48. 91. Nguyễn Khánh, (2017), “Lá phổi xanh Sơn Trà bị ung thư thì ta thở bằng gì”, báo Tiền phong, ngày 30/5/2017. 92. Chúc Thiệu (2011), Khi Người trẻ Ý Thức Về Môi Trường, Báo Giác Ngộ, (số 581), trang 20. 93. Thích Bảo Nghiêm (2011), Nhận thức sâu sắc giáo lý Duyên sinh để tích cực cải thiện môi trường sinh thái, Báo Giác Ngộ, (số 588), trang 12-14. 94. Thích Trí Quảng, (30/3/2016) Đạo Đức Kinh Doanh theo Phật giáo, Báo Giác Ngộ, tr 28 81 95. Tâm Nhiên (2012), Bình Phước Phật giáo trên vùng đất mới, Báo Giác Ngộ, số 633, trang 12-14 96. Như Nguyệt (2018), Câu chuyện trồng rừng, báo Hoa Đàm, (số 54), trang 62-66. 97. Nguyễn Việt Thanh (2016), Tầm quan trọng của việc giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh tiểu học ở Việt Nam hiện nay, Nhân Lực Khoa Học Xã Hội, (số 02), trang 51-59. 98. Nguyễn Khắc Thạch (2015), Ăn chay và Môi trường, Tạp chí Văn Hóa Phật giáo, Tập 1 , (từ số 216-227) , trang 28-30 99. Jeremy Rifkin (Tâm Linh dịch 2010), Thay đổi cách nhìn về loài vật, tạp chí văn hóa PG, (số 2554) trang 81-84. 100. Mai Hương (2018), Nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra về Tài nguyên và MT, Tạp Chí Môi Trường, số 1, trang 6 Website 101. Thích Phước Đạt, (ngày 9-9-2011), Quan điểm của Phật giáo về thái độ sống bảo vệ môi sinh, Thuvienhoasen, https://thuvienhoasen.org/a13025/quan-diem-cua-phat-giao-ve-thai-do- song-bao-ve-moi-sinh-ts-thich-phuoc-dat. Truy cập ngày 22/6/2018 102. Hồng Cúc (2018), Cao su Bình Phước, Bình Phước online binh-quan-67-trieu-dongnguoithang-5. Truy cập ngày 18/07/2018 103. Nguyễn Minh Chiến (2015) Rừng Bình Phước qua các thời kỳ Tin-dia-phuong/Rung-Binh-Phuoc-qua. Truy cập ngày 17/12/2017 82 104. Duyên Đỗ (tổng hợp)( 2015), Các lễ hội của Bình Phước. phuoc.htm.Truy cập ngày 18/07/2018 105. Hội Nông Dân tỉnh Bình Phước (2015), Giới thiệu về Bình Phước. Trang thông tin điện tử Hội nông dân tỉnh Bình Phước phuoc-14.html. Truy cập ngày 18/07/2018 106. Đại sư Tinh Vân -Nguyễn Phước Tâm, (dịch) (2014), Phật giáo và môi trường, Thư viện Hoa Sen, https://thuvienhoasen.org/a22005/phat-giao- va-moi-truong, ngày truy cập 28/10/2017 107. nguong-ton-giao-co-hieu-luc-tu-1-1-2018-voi-nhieu-diem-moi. Truy cập ngày 1/7/2018 108. _nguong_ton_giao_hien_hanh_va_nhung_dinh_huong_trong_xay_dun g_Luat_tin_nguong_ton. Truy cập ngày 2/7/2018 109. Lê Quang Đạo ( đã ký), Hiến Pháp nước Cộng Hòa Chủ Nghĩa Xã Hội Việt Nam năm 1992, ThuKyLuat.vn, https://thukyluat.vn/vb/hien-phap- nam-1992-955e.html. Truy Cập ngày 2/7/2018 110. Dẫn theo Thích Trí Quảng (2011), Phật giáo và môi trường sinh thái, thai-thich-tri-quang. Truy cập ngày 20/6/2018 111. duc/5072-dao-phat-voi-viec-bao-ve-moi-truong.html. Truy cập ngày 16/7/2018 112. Thanh Hòa (30/1/2017) Khai thác, sử dụng, quản lý và bảo vệ thiên nhiên, môi trường Việt Nam hiện nay, Tạp chí Cộng Sản, 83 quyet-dai-hoi-dang-XII/2017/43277/Khai-thac-su-dung-quan-ly-va- bao-ve-thien-nhien-moi.aspx 113. ThS Lê Xuân Tú (2016), Vấn đề bảo vệ môi trường theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Lí Luận Chính Trị luan/item/1858-van-de-bao-ve-moi-truong-theo-tinh-than-nghi-quyet- dai-hoi-xii-cua-dang.html. Truy cập ngày 27/8/2018. 114. Bài Pháp thoại của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 TN.Tịnh Quang chuyển ngữ, khái niệm Phật giáo về môi trường tự nhiên, thư viện hoa sen, https://thuvienhoasen.org/a23780/khai-niem-phat-giao-ve-moi-truong- tu-nhien. Truy cập ngày 25/10/2018 84 PHỤ LỤC 1. Bảng phỏng vấn sâu 2. Một số hình ảnh về hoạt động BVMTTN của tỉnh Bình Phước; GHPGVN tỉnh Bình Phước và các Tăng, Ni, Phật tử tại Bình Phước 85 HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI KHOA TÔN GIÁO HỌC ************ PHIẾU KHẢO SÁT ĐỊNH TÍNH (Dành cho Tăng, Ni, Phật tử, cán bộ quản lý công tác môi trường và chức sắc Phật giáo) Phần I: Thông tin chung 1. Tỉnh/ TP: Quận/Huyện: Phường/Xã: Thôn/Xóm: Cơ sở thờ tự 2. Ngày phỏng vấn: /./ 20.... Người phỏng vấn: Phần II: Thông tin người trả lời 3. Giới tính: 4. Năm sinh: 5. Dân tộc: 6. Nghề nghiệp: 7. Trình độ học vấn:(bậc học cao nhất đã hoàn thành) 8. Địa bàn cư trú: Phần III: Nội dung 9. Xin ông/bà cho biết về vấn đề môi trường tự nhiên tại địa phương nơi ông bà sinh sống và làm việc? 10. Theo ông/bà các hoạt động bảo vệ môi trường của tỉnh nhà cũng như của GHPGVN là những hoạt động nào? 86 11. Xin ông/bà cho biết các hoạt động bảo vệ môi trường của tỉnh nhà cũng như của GHPGVN diễn ra như thế nào? 12. Ông/bà có biết các buổi thuyết giảng của các chức sắc Phật giáo về bảo vệ môi trường không? Nội dung các buổi thuyết pháp như thế nào? 13. Theo ông/bà vấn đề trồng cây xanh có ý nghĩa như thế nào với việc bảo vệ môi trường? 14. Theo ông/bà vấn đề ô nhiễm môi trường ở trên địa bàn tỉnh như thế nào? 15. Theo ông/bà tình trạng nạn phá rừng, khai thác khoáng sản bừa bãi có còn xảy ra trên địa bàn tỉnh nhà không? 16. Theo ông/bà, việc xây dựng các khu công nghiệp ảnh hưởng thế nào đến môi trường hiện nay? 17. Theo ông/bà, ý thức bảo vệ môi trường của Tăng - Ni, Phật tử hiện nay như thế nào? 18. Ông/bà cho biết công tác tuyên truyền, thông tin cổ động về BVMTTN của tỉnh và GHPGVN tỉnh thời gian qua? 19. Theo ông/bà, cần làm gì để bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh hiện nay? Xin cảm ơn ông (bà) đã dành thời gian cho cuộc điều tra! 87 MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ - HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ MTTN CỦA GHPGVN CÙNG CÁC TĂNG, NI, PHẬT TỬ TỈNH BÌNH PHƯỚC HIỆN NAY - HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ MTTN CỦA TỈNH BÌNH PHƯỚC VÀ CÁC BIỂN CỔ ĐỘNG TUYÊN TRUYỀN VỀ BVMTTN 88 89 90 CHÙA QUAN ÂM – LỘC NINH – BÌNH PHƯỚC Cảnh quan chùa Quan Âm 91 Đạo tràng tu tập 92 CHÙA THANH AN – Bù Đăng – Bình Phước Cảnh quan chùa Thanh An 93 Sư cô chăm sóc vườn rau sạch 94 CHÙA THANH TƯỜNG – Bù Đốp – Bình Phước Phỏng vấn sư cô Trụ trì 95 96 Quan cảnh và vườn ươm CHÙA SÓC LỚN – XÃ LỘC KHÁNH – LỘC NINH – BÌNH PHƯỚC 97 Phật tử nghe pháp 98 Phật tử làm đường Sóc Lớn 99 Ngày lễ hội người dân Khơme Ao nước bị nhiễm đục 100 Chùa Từ Quang – Lộc Ninh – Bình Phước Người dân buôn bán ở chợ trước cổng chùa Phật tử nghe pháp 101 Cảnh sau lụt tại chùa 102 103 104 105 Phỏng vấn học sinh về MT

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_hoat_dong_bao_ve_moi_truong_tu_nhien_cua_giao_hoi_p.pdf
Luận văn liên quan