Qua việc phân tích nghiên cứu chúng ta có thể thấy được rằng lợi nhuận trong nền
kinh tế thị trường luôn có vai trò quyết định và đặc biệt quan trọng. Nó là mục tiêu và
động lực cho mọi hoạt động của con người và của toàn xã hội. Tuy nhiên, cũng phải
thấy rằng động lực lợi nhuận là con dao hai lưỡi. Một mặt nó tạo động lực thúc đẩy con
người và xã hội phát triển .
56 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2618 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Học thuyết của Mác, xem xét tới vai trò của lợi nhuận, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trở thành nhân tố gây ra sự mâu thuẫn
giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội,gây ra những xung đột và từ đó có thể trở thành
nhân tố kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Sở dĩ như vậy là vì,đối với mỗi cá nhân thì lợi ích sẽ liên quan tới tính ích kỉ. Chính
tính ích kỉ này làm cho mỗi một cá nhân chỉ thấy được lợi ích của mình mà không thấy
được lợi ích của người khác, lợi ích của cộng đồng... thậm chí sẵn sàng đi ngược lại lợi
ích cộng đồng để thoả mãn lợi ích của riêng mình,như Mác đã viết “...bởi vì theo bản
tính của nó, lợi ích là mù quáng, không biết đến mức độ, phiến diện, tóm lại, là một bản
năng bẩm sinh vô pháp luật...”. Chính vì vậy,khi chúng ta quá đề cao, coi trọng lợi ích
cá nhân, đặc biệt là các lợi ích kinh tế mà biểu hiện trong thực tiễn là xu hướng chạy
theo lợi nhuận, thì không những không thúc đẩy phát triển mà còn đẩy xã hội vào tình
trạng rối loạn khủng hoảng.
Như vậy là,trong mục này, chúng ta đã dựa trên cơ sở phân tích, giải thích về vai trò
động lực của lợi ích để nhằm chứng minh vai trò động lực của lợi nhuận đối với sự phát
triển của từng cá nhân cũng như của toàn xã hội. Tuy nhiên, ở phần này, khái niệm lợi
nhuận mới chỉ được xem xét với ý nghĩa thuần tuý, được coi như một hình thức đặc biệt
của lợi ích kinh tế. Trong hai mục sau, chúng ta sẽ lần lượt xem xét những biểu hiện
mang tính động lực của lợi nhuận qua việc xem xét những học thuyết kinh tế của hai
trường phái lý luận TBCN và XHCN cũng như qua việc phân tích những biểu hiện thực
tiễn ở hai khối nước TBCN và XHCN tương ứng với hai trường phái lý luận trên.
2/ Vai trò của lợi nhuận đối với các nước Tư bản Chủ nghĩa:
a/ Lợi nhuận là động lực thúc đẩy sự phát triển của cá nhân và xã hội:
Như trên đã phân tích,lợi nhuận trước hết là một động lực cơ bản trong mọi hoạt động
của mỗi cá nhân,đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường. Chính vì vậy mà ở các nước
TBCN, những nước vẫn luôn coi trọng và đề cao lợi ích cá nhân lên trên lợi ích cộng
đồng xã hội, thì vai trò động lực của lợi nhuận được thể hiện rất rõ nét. Đối với các
nước này thì lợi nhuận được coi là một động lực trực tiếp mạnh mẽ và cơ bản nhất thúc
đẩy nhà tư bản lao vào tiến hành sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận đưa các doanh nghiệp
đến các khu vực sản xuất hàng hoá mà người tiêu dùng cần nhiều hơn,bỏ các khu vực có
ít người tiêu dùng.Lợi nhuận đưa các nhà doanh nghiệp đến việc sử dụng kỹ thuật sản
xuất có hiệu quả nhất.Vì vậy,hệ thống thị trường luôn phải dùng lãi và lỗ để quyết định
ba vấn đề của sản xuất như:cái gì,thế nào và cho ai?, như một nhà kinh tế đã nói “...lợi
nhuận là phần thưởng và hình phạt đối với nhà sản xuất kinh doanh,nó là kim chỉ nam
cho cơ chế thị trường :Cũng giống như người nông dân sử dụng củ cà rốt và cây gậy để
nhử con lừa đi tới,hệ thống thị trường lấy lợi nhuận và thua lỗ để hướng các nhà kinh
doanh vào sản xuất các hàng hoá một cách có hiệu quả...”. Đặc biệt trong thời đại Công
nghệ thông tin hiện nay thì lợi nhuận được coi như là phần thưởng cho sự đổi mới của
các doanh nghiệp.Một tiến bộ về công nghệ có thể đem lại những khoản thu nhập khổng
lồ cho người sáng tạo ra công nghệ cũng như người ứng dụng nó. Sự thành công trong
đổi mới công nghệ, trong việc ứng dụng thành công các công nghệ mới sẽ mang lại một
khoản lợi nhuận siêu ngạch tạm thời do độc quyền mang lại. Sở dĩ nó chỉ mang tính tạm
thời vì khoản lợi nhuận siêu ngạch dôi ra này sẽ thúc đẩy các đối thủ cạnh tranh của
doanh nghiệp tìm mọi cách ứng dụng công nghệ mới vào trong doanh nghiệp của mình.
Tuy nhiên khi khoản lợi nhuận siêu ngạch thu được nhờ một phát minh, sáng chế công
nghệ này bị giảm dần và mất đi thì lại xuất hiện những sáng chế phát minh mới và lại
tạo ra khoản lợi nhuận siêu ngạch mới. Cứ như vậy, khoản lợi nhuận siêu ngạch đó sẽ
đóng vai trò động lực không chỉ đối với cá nhân mỗi doanh nghiệp mà nó còn là động
lực thúc đẩy khoa học công nghệ phát triển, từ đó góp phần làm cho cả xã hội phát triển.
Như vậy,đối với các nước TBCN thì lợi nhuận không chỉ đóng vai trò thúc đẩy sự
phát triển của mỗi cá nhân mà nó còn góp phần tạo động lực cho sự phát triển của xã
hội. Điều này được thể hiện rõ nét trong lý thuyết “bàn tay vô hình” của Adam
Smith.Trong lý luận của mình,Adam Smith coi lợi nhuận là động lực cho sự phát triển
của xã hội.Ông cho rằng, khi theo đuổi lợi ích của cá nhân mình mỗi người đều bị dẫn
dắt bởi bàn tay vô hình.Chính vì vậy mà kết quả cuối cùng đạt được của các hoạt động
kinh tế là làm lợi cho tất cả mọi người. Cụ thể là: “...mỗi cá nhân đều cố gắng sử dụng
vốn liếng của mình sao cho nó tạo ra giá trị lớn nhất. Nói chung, anh ta không chú ý tới
việc khuyến khích lợi ích cộng đồng và cũng không biết khuyến khích nó như thế nào.
Anh ta chỉ chú ý tới sự an toàn cá nhân, tới các thu hái cá nhân.Trong quá trình đó, anh
ta đã bị “ bàn tay vô hình” dẫn dắt tới một kết cục mà anh ta không định. Do việc theo
đuổi lợi ích cá nhân, anh ta thường xuyên khuyến khích nâng cao lợi ích cộng đồng một
cách có hiệu quả hơn là khi anh ta chủ động làm điều đó...".
Tuy nhiên,xét cho cùng thì cái mà các nhà tư bản gọi là lợi nhuận,về bản chất chính
là phần giá trị thặng dư được tạo ra do lao động không công của người công nhân .Và
do đó,sở dĩ lợi nhuận có vai trò mang tính động lực cho mỗi cá nhân và toàn bộ xã hội
là do việc tạo ra và chiếm đoạt giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản củaCNTB.
Theo quy luật đó thì việc theo đuổi giá trị thặng dư bằng bất cứ thủ đoạn nào là mục
đích và động cơ thúc đẩy sự hoạt động của mỗi nhà tư bản,cũng như của toàn bộ xã hội
tư bản.Chính vì vậy,việc mọi nhà tư bản tìm mọi cách có được lợi nhuận tối đa,thực
chất,chính là việc cố gắng sản xuất ra giá trị thặng dư một cách tối đa.Sau đây chúng ta
sẽ xem xét hai phương pháp sản xuất GTTD của CNTB để thấy được sự thèm khát giá
trị thặng dư của nhà tư bản nói riêng và của toàn bộ giai cấp tư bản nói chung.
Trước hết,trong giai đoạn đầu của CNTB khi khoa học kĩ thuật còn thấp và mới có
những bước tiến chậm chạp thì để tạo ra lượng giá trị thặng dư lớn nhất,nhà tư bản đã
tìm mọi cách để kéo dài ngày lao động của công nhân và trên cơ sở đó kéo dài thời gian
lao động thặng dư .
Như ta đã biết ,ngày lao động của người công nhân được chia làm hai phần là thời
gian lao động cần thiết và thời gian lao động thặng dư.Thời gian laođộng cần thiết là
khoảng thời gian mà với nó người công nhân tạo ra được một lượng giá trị ngang bằng
với giá trị sức lao động của mình.Còn thời gian lao động thặng dư là khoảng thời gian
người công nhân tạo ra phần giá trị thặng dư.Giả định là ngày lao động có mười giờ
chia đều cho thời gian lao động cần thiết và thời gian lao động thặng dư.Như vậy là,ban
đầu,thời gian lao động cần thiết bằng thời gian lao động thặng dư và bằng năm giờ.Bây
giờ giả sử nhà tư bản dùng biện pháp nào đó kéo dài ngày lao động thêm hai giờ trong
khi thời gian lao động cần thiết là không đổi(do tiền lương trả cho người lao động đó là
không đổi).Khi đó với khoảng thời gian lao động cần thiết không đổi,thời gian lao động
thặng dư sẽ tăng lên là bảy giờ. Như vậy, nếu trước đây,tỷ suất giá trị thặng dư(m') đại
diện cho trình độ bóc lột của nhà tư bản là:
m' = 5/5 * 100% =100%
thì bây giờ với việc kéo dài ngày lao động, m' sẽ bằng:
m' = 7/5 *100% =140%.
Phần giá trị thặng dư được tạo ra bằng cách kéo dài ngày lao động trong điều kiện thời
gian lao động cần thiết không đổi gọi là giá trị thặng dư tuyệt đối.
Để thấy rõ về phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối,đặc biệt là cái cách
nhà tư bản dùng để kéo dài thời gian lao động,chúng ta sẽ xem xét quá trình sản xuất tại
các công xưởng nước Anh vào thời kì giữa thế kỉ 19.
Trước hết, theo “Luật công xưởng” năm 1850 thì người công nhân phải làm việc từ 10
đến 12 giờ trong một ngày đối với năm ngày đầu tuần (từ 6 giờ sáng đến 6 giờ chiều),
trong đó, luật pháp cho phép người công nhân có nửa giờ ăn sáng và một giờ ăn trưa.
Còn đối với ngày thứ bảy, người công nhân phải làm việc tám giờ(5 giờ sáng đến 2 giờ
chiều) trong đó có nửa giờ ăn sáng.Như vậy, tổng cộng là sáu mươi giờ lao động một
tuần.Đây quả là một sự bóc lột sức lao động dã man.
Tuy nhiên, với khoảng thời gian lao động dài như vậy nhưng nhà tư bản,mà ở đây là
các chủ xưởng,vẫn chưa bằng lòng. Họ tìm mọi cách để kéo dài thời gian lao động ra
thêm nữa. Với một báo cáo của những thanh tra được giao giám sát việc chấp hành của
các chủ xưởng dưới đây, ta sẽ xem cái cách mà người chủ xưởng dùng để kéo dài thời
gian lao động của công nhân :
“...người chủ xưởng nham hiểm bắt làm việc trước 6 giờ sáng khoảng 15 phút, có khi
hơn, có khi kém, và cho nghỉ việc sau 6 giờ chiều khoảng 15 phút, có khi hơn, có khi
kém. Hắn ăn cắp 5 phút vào đầu và cuối nửa giờ dành cho bữa ăn sáng và mười phút
vào đầu và cuối một giờ dành cho bữa ăn trưa.Ngày thứ bảy hắn bắt làm việc trước 5
giờ sáng khoảng 15 phút và thêm chừng 15 phút sau hai giờ chiều.Như vậy, hắn sẽ kiếm
được 300 phút trong năm ngày,cả tuần sẽ được 340 phút và trong một năm thông
thường,trừ đi những ngày nghỉ, ngày lễ và những giai đoạn bất thường,sẽ có 50 tuần lao
động và với 50 tuần này, nhà tư bản sẽ có khoảng hai mươi bảy ngày lao động làm
thêm...".
Và như vậy,ta có thể thấy rằng,với những vụ " ăn cắp vặt thời gian ăn cơm và nghỉ
ngơi của công nhân " , "nibbling and cribbling at meal times ",nhà tư bản đã tạo nên một
tháng thứ mười ba thêm vào mười hai tháng trong một năm làm việc của người công
nhân.
Nói tóm lại,với sự thèm khát giá trị thặng dư,biểu hiện trong xã hội tư bản là sự ham
muốn lợi nhuận,nhà tư bản đã tìm cách để kéo dài ngày lao động.Tuy nhiên với phương
pháp này thì nhà tư bản vấp phải những sự đấu tranh phản đối của giai cấp công nhân và
cơ bản là độ dài của ngày lao động có những giới hạn nhất định. Do những giới hạn về
thể chất và tinh thần của người lao động,nhà tư bản không thể kéo dài ngày lao động
mãi được, tối đa chỉ có thể là 24 giờ trong một ngày. Hơn nữa cùng với sự phát triển của
CNTB thì khoa học kỹ thuật cũng ngày càng phát triển do đó tạo điều kiện hình thành
một phương pháp sản xuất giá trị thặng dư mới. Đó là phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư tương đối.
Với phương pháp sản xuất GTTD mới,nhà tư bản có thể nâng cao trình độ bóc lột
(chính là tỷ suất giá trị thặng dư) bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần thiết trong
điều kiện ngày lao động không đổi và do đó kéo dài một cách tương đối thời gian lao
động thặng dư. Và cuối cùng,kết quả là nhà tư bản vẫn tăng được lượng giá trị thặng dư
được sản xuất ra và do đó vẫn tăng được lợi nhuận. Để thấy rõ được điều đó, ta sẽ xem
xét ví dụ sau:
Giả sử thời gian lao động là 8 giờ và được chia thành 4 giờ lao động cần thiết và 4 giờ
lao động thặng dư. Lúc này tỉ suất giá trị thặng dư sẽ là:
m’ = 4/4 * 100% = 100%.
Giả sử nhà tư bản rút ngắn được thời gian lao động cần thiết xuống còn 3 giờ. Như
vậy, thời gian lao động sẽ được phân chia thành 3 giờ thời gian lao động cần thiết và 5
giờ thời gian lao động thặng dư. Khi đó, tỉ suất giá trị thặng dư sẽ là:
m’ = 5/3 * 100% = 166%.
Vậy phần giá trị thặng dư được tạo ra bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần thiết
trong điều kiện độ dài này không đổi, nhờ đó kéo dài tương đối thời gian lao động thặng
dư được gọi là giá trị thặng dư tương đối.
Để rút ngắn được thời gian lao động cần thiết, là thời gian mà người công nhân tạo ra
được một lượng giá trị ngang bằng với giá trị sức lao động của mình, nhà tư bản phải
giảm được giá trị sức lao động,được đo bằng giá trị của các tư liệu sinh hoạt cần thiết
mà người công nhân cần để phục hồi sức lao động.Điều này chỉ có thể thực hiện được
khi năng suất lao động(NSLĐ) của toàn xã hội được nâng cao.Mặt khác,CNTB càng
phát triển thì NSLĐ của toàn xã hội càng được nâng cao. Chính vì vậy mà cùng với sự
phát triển của CNTB, các nhà tư bản cũng dần chuyển từ phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư tuyệt đối sang phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
Trên đây chúng ta đã nghiên cứu, phân tích hai phương pháp sản xuất thặng dư của
PTSX TBCN. Tuy nhiên, có thể nói,đây là những phương pháp mang tính phổ biến,
được toàn bộ giai cấp tư bản sử dụng để bóc lột người lao động.Ngoài các phương pháp
chung này,vì mục đích tối đa hoá lợi nhuận, mỗi nhà tư bản lại có những phương pháp
riêng cạnh tranh lẫn nhau nhằm thu được giá trị thặng dư siêu ngạch.Trong giai đoạn
đầu của CNTB, khi khoa học kĩ thuật còn chưa phát triển, các nhà tư bản tạo ra giá trị
thặng dư siêu ngạch bằng cách sử dụng cả các lao động phụ nữ và trẻ em với giá nhân
công rẻ mạt,nhờ đó giảm được giá trị của hàng hoá, tăng sức cạnh tranh với các hàng
hoá của các đối thủ cạnh tranh khác để thu được phần lợi nhuận siêu ngạch.Còn về sau
này khi khoa học kĩ thuật đã có những bước tiến vượt bậc thì dựa trên việc áp dụng các
thành tựu khoa học kĩ thuật nhờ đó nâng cao năng suất lao động cá biệt lên trên năng
suất lao động xã hội.Trên cơ sở đó giảm được giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn so
với giá trị xã hội của nó.Khoản chênh lệch giữa giá trị cá biệt và giá trị xã hội của hàng
hoá sẽ đem lại cho nhà tư bản khoản giá trị thặng dư siêu ngạch, nguồn gốc của lợi
nhuận siêu ngạch. Đến khi CNTB chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn
độc quyền thì với sự hình thành các tổ chức độc quyền,có khả năng thao túng một phần
hoặc toàn bộ nền kinh tế,thì lúc này đã hình thành một phương thức thu lợi nhuận dựa
trên sức mạnh độc quyền...
Như vậy qua các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trên, ta có thể thấy rằng tất cả
các phương pháp đó đều chỉ nhằm một mục đích là đem về cho nhà tư bản càng nhiều
giá trị thặng dư càng tốt và chỉ nhằm để thoả mãn ham muốn tối đa hoá lợi nhuận của
nhà tư bản. Nói cho cùng thì,đối với nhà tư bản, cái duy nhất mà hắn quan tâm, cái duy
nhất khiến hắn phải hành động để đạt được chính là lợi nhuận.Vì mục tiêu lợi nhuận,
nhà tư bản có thể dùng mọi phương cách,bất chấp thủ đoạn để đạt được. Điều này được
thể hiện rõ trong một nhận xét dưới đây của một nhà kinh tế học đã được Mác trích dẫn:
“...lợi nhuận mà thích đáng thì nhà tư bản trở nên can đảm, lợi nhuận mà bảo đảm
được 10% thì người ta có thể sử dụng tư bản ở khắp mọi nơi, bảo đảm được 20% thì nó
hăng máu lên, bảo đảm được 30% thì nó không biết sợ là gì, bảo đảm được 100% thì nó
chà đạp lên tất cả luật lệ của loài người, bảo đảm được 300% thì nó chẳng từ một tội ác
nào mà không dám,thậm chí,có thể bị treo cổ nó cũng không sợ...”
b/ Những ảnh hưởng tiêu cực của lợi nhuận ở các nước Tư bản Chủ nghĩa:
Nói tóm lại, trong xã hội tư bản, lợi nhuận thực sự đóng một vai trò quan trọng,nó là
động lực thúc đẩy sự phát triển của mỗi cá nhân cũng như toàn bộ xã hội.Trên cơ sở
theo đuổi lợi nhuận, mỗi cá nhân không chỉ làm lợi cho riêng mình mà còn làm lợi cho
người khác,cho cộng đồng và cho toàn bộ xã hội.Tuy nhiên, trong một xã hội quá đề
cao lợi nhuận như xã hội tư bản thì do sự thèm khát lợi nhuận đến mức thái quá cho nên
mọi cá nhân đều tìm mọi cách để tối đa hoá lợi nhuận của riêng mình bất chấp, thậm chí
chà đạp lên,lợi ích của những cá nhân khác cũng như của cộng đồng. Khi đó thì lợi
nhuận không còn vai trò động lực như trước đây mà nó lại trở thành nguyên nhân của
các mâu thuẫn, xung đột và khủng hoảng xảy ra ngày càng nhiều trong xã hội tư bản.Ta
có thể kể ra một số những mâu thuẫn chủ yếu sau:
Chính vì mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận cho nên,để thoả mãn ham muốn thu được càng
nhiều lợi nhuận càng tốt,nhà tư bản tiến hành sản xuất vô số sản phẩm,vượt quá sức
mua của quần chúng nhân dân. Đây chính là một trong những nguyên nhân gây ra hiện
tượng khủng hoảng thừa mang tính chu kì,một căn bệnh trầm kha của Chủ nghĩa Tư
bản. Tuy nhiên,mặc dù sản phẩm hàng hoá được tạo ra nhiều vô số thì quần chúng nhân
dân lao động vẫn nghèo đói, khổ cực. Nguyên nhân của mâu thuẫn phi lý này cũng xuất
phát từ lợi nhuận. Do muốn đạt được lợi nhuận cao nên giới tư bản sẵn sàng đốt bỏ, phá
huỷ đi hàng triệu tấn hàng hoá sản phẩm để giữ được giá bán cao.Như trong cuộc đại
khủng hoảng năm1929-1933 ở Mĩ,giới tư bản đã phá đi 10 triệu 40 vạn mẫu anh cây
bông, giết bỏ 6 triệu 46 vạn con lợn.ở Braxin, phá huỷ gần 22 triệu bao cà phê, ở Đức,
thiêu huỷ 117 nghìn con súc vật vv...
Hay như sự phân hoá giầu nghèo, phân phối bất bình đẳng trong quy mô một nước
cũng như các nước tư bản với nhau. Có thể nói rằng,CNTB ngày càng phát triển thì sự
phân hoá giầu nghèo cũng ngày càng tăng lên.Nguyên nhân của sự phân hoá này cũng
xuất phát từ ham muốn tối đa lợi nhuận.Để thoả mãn ham muốn này, mọi nhà tư bản
sẵn sàng lờ đi lợi ích của nhiều người, sẵn sàng lao vào cuộc cạnh tranh khốc liệt nhằm
thu được lợi nhuận. Và lẽ tất nhiên là trong cuộc cạnh tranh phải có kẻ thắng, thua. Tuy
nhiên trong xã hội tư bản,do nhà nước không quản lý,điều chỉnh các nguồn thu
nhập,không tiến hành phân phối lại thu nhập qua các công cụ thuế và trợ cấp để đảm
bảo công bằng xã hội mà để mặc cho thị trường tự phát,cho nên xảy ra tình trạng người
đã giầu lại càng giầu còn người nghèo thì cứ nghèo mãi đi,làm cho hố phân cách giầu
nghèo ngày càng rộng ra.Hơn thế nữa, sự phân cách giàu nghèo này không chỉ tồn tại
trong phạm vi một quốc gia mà còn lan ra trên phạm vi toàn thế giới.Theo số liệu thống
kê thì hiện nay, một phần năm dân số giàu nhất thế giới đã chiếm 87,5% GNP ; 84,2%
thương mại thế giới ; 85% tích luỹ và 85% đầu tư của thế giới còn một phần năm dân số
nghèo nhất chỉ chiếm tương ứng là 1% ; 0,9% ; 0,7% và 0,95%. Sự phân hoá giữa các
nước cũng có thể thấy rõ qua ví dụ sau:
Theo một tờ báo ở Nga,năm 1995, toàn thế giới có khoảng 457 tỉ phú thì riêng 5 nước
đứng đầu đã chiếm 263 người trong đó nước đứng đầu là Mĩ với 140 người, đứng thứ
hai là Đức thì cũng chỉ có 51 người.
Ngoài ra,còn có thể kể ra rất nhiều những tồn tại trong xã hội tư bản do sự ham muốn
tối đa hoá lợi nhuận gây ra như các nhà tư bản vì chạy theo lợi nhuận mà sẵn sàng sử
dụng các công nghệ độc hại do chi phí thấp nên gây ra nạn ô nhiễm môi trường hoặc
như tình hình các tệ nạn xã hội như buôn bán ma tuý, ngày càng gia tăng ở các nước tư
bản mà nguyên nhân cuối cùng là do chạy theo lợi nhuận vv...
Mặc dù các chính phủ của các nước tư bản đã có những biện pháp để ngăn chặn, khắc
phục tuy nhiên cần phải thấy rằng những tồn tại, những mâu thuẫn đó mặc dù có nguyên
nhân bắt nguồn từ sự ham muốn lợi nhuận nhưng chỉ có trong xã hội tư bản thì chúng
mới nảy sinh ngày càng nhiều. Sử dĩ như vậy là do,trong các xã hội có giai cấp bóc lột
thống trị nói chung mà điển hình là xã hội TBCN thì giai cấp thống trị luôn tìm mọi
cách để thoả mãn lợi ích cá nhân của giai cấp mình mà không hề quan tâm đến lợi ích
của các giai cấp còn lại trong xã hội. Như vậy là tuyệt đại đa số nhân dân bị áp bức bóc
lột, bị buộc phải phục vụ cho một số ít giai cấp thống trị. Khi đó, chỉ có lợi ích cá nhân
của giai cấp thống trị là được thoả mãn còn lợi ích cá nhân của người lao động thì bị
giày xéo. Sự bất công đó đã đặt lợi ích cá nhân của một số ít giai cấp thống trị đối lập
với lợi ích của đông đảo quần chúng nhân dân.Chính vì vậy mà trong xã hội tư bản, dù
cố gắng đến mấy, chính quyền của giai cấp tư sản cũng không thể dung hoà được mối
quan hệ giữa lợi ích cá nhân của riêng giai cấp tư sản và lợi ích chung của toàn xã hội.
Do đó tất yếu nẩy sinh các mâu thuẫn và khủng hoảng trong xã hội TBCN.
Như vậy, trong phần 2 này, chúng ta,trên cơ sở phân tích các học thuyết kinh tế cũng
như một số biểu hiện trong thực tiễn của xã hội tư bản,đã chỉ ra được vai trò động lực
của lợi nhuận đối với xã hội tư bản đồng thời cũng đã thấy được những ảnh hưởng tiêu
cực của động lực lợi nhuận tới xã hội. Trong phần sau này, chúng ta cũng sẽ tiến hành
phân tích nhằm thấy được vai trò động lực của lợi nhuận đối với các nước XHCN.
3/ Vai trò của lợi nhuận đối với các nước Xã Hội Chủ Nghĩa :
a/ Vai trò của lợi nhuận đối với các nước Xã Hội Chủ Nnghĩa trong các giai đoạn
trước và sau đổi mới:
Đối với các nước XHCN vai trò động lực của lợi nhuận được biểu hiện khá khác biệt
ở hai giai đoạn phát triển của CNXH mà chúng ta tạm gọi là giai đoạn trước đổi mới và
giai đoạn sau đổi mới.Giai đoạn trước đổi mới bắt đầu từ khi nhà nước XHCN đầu tiên
được thành lập cho đến thời điểm xã hội có những đổi mới khá quan trọng trong lý luận
và thực tiễn về CNXH. Thời điểm đổi mới này được đánh dấu bằng chính sách 'kinh tế
mới' của LêNin, tuy nhiên việc đổi mới tư tưởng chỉ được áp dụng triệt để và thành
công bắt đầu từ công cuộc đổi mới của Trung Quốc năm 1979. Hơn nữa,ở các nước
khác nhau thì thời điểm đổi mới cũng khácnhau, như ở Việt Nam thời điểm đổi mới lý
luận, thực tiễn được bắt đầu từ Đại Hội Đảng Toàn Quốc lần thứ VI năm 1986. Còn giai
đoạn sau đổi mới thì được bắt đầu từ khi tiến hành đổi mới cho đến nay, ứng với mỗi
nước. Trong hai giai đoạn này,lợi nhuận mang ý nghĩa và vai trò hoàn toàn trái ngược
nhau.
Trong giai đoạn trước đổi mới,nhận thức của chúng ta về CNXH còn quá giản đơn,
mang tính rập khuôn máy móc... Chúng ta chưa nhận thức được rằng bất kì một lý luận
nào dù mang tính khoa học đến đâu cũng đòi hỏi phải được vận dụng một cách sáng tạo
vào hoàn cảnh thực tế bởi vì lịch sử một quá trình phát triển và không hề có điều gì là
đúng đắn một cách tuyệt đối trong mọi hoàn cảnh được. Chính vậy mà ngay cả những lý
luận của CN Mác - Lênin về CNXH cũng cần được vận dụng một cách sáng tạo và hợp
lý.Tuy nhiên,trong giai đoạn này,tất cả các nước XHCN đều mới chỉ áp dụng những lý
luận về CNXH của CN Mác-LêNin một cách rập khuôn,máy móc. Đó là nguyên nhân
cơ bản, sâu xa khiến cho lợi nhuận hoàn toàn mất đi vai trò động lực của nó trong giai
đoạn này. Ngoài ra,ta có thể kể ra một số những nguyên nhân cụ thể gây ra điều này
như:
Trước tiên, xuất phát từ những đặc trưng của CNXH mà Mác đã nêu ra trong học
thuyết của mình, các nhà lãnh đạo,trong giai đoạn này,cho rằng trong CNXH sẽ không
còn sự bóc lột mà lợi nhuận lại gắn liền với sự bóc lột, mang bản chất bóc lột. Chính vì
vậy họ đã thực hiện một loạt các chính sách nhằm triệt tiêu động cơ lợi nhuận như thực
hiện phương pháp phân phối bình quân chủ nghĩa,xoá bỏ các thành phần kinh tế phi
quốc doanh và phi tập thể... đặc biệt là dựa trên lý luận của Mác cho rằng “...khi chế độ
tư hữu tự nó tiêu vong thì tiền tệ trở thành thừa và khi đó xã hội không cần thước đo giá
trị nữa mà dùng thước đo tự nhiên của nó tức là thời gian để biểu hiện những số lượng
lao động ấy...”, các nước XHCN bấy giờ đã thực hiện xoá bỏ nền kinh tế hàng hoá và
thiết lập nền kinh tế kế hoạch,tập trung một cách cao độ và do vậy đã triệt tiêu đi động
lực lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường.
Hoặc do,xuất phát từ bản chất tốt đẹp của CNXH, là một xã hội tiến bộ mà trong xã
hội đó, nền kinh tế thì phát triển, đời sống nhân dân được ấm no, hạnh phúc..., so với
những ảnh hưởng tiêu cực mà động cơ lợi nhuận có thể mang lại, các nước XHCN đã
cho rằng lợi nhuận mâu thuẫn với những bản chất tốt đẹp của CNXH và cho rằng nó có
thể phá bỏ sự tốt đẹp đó của CNXH do đó trong CNXH không thể tồn tại lợi nhuận.
Ngoài ra,còn một số các nguyên nhân khác như quan niệm cho rằng lợi nhuận là biểu
hiện của lợi ích cá nhân và do đó nó sẽ mâu thuẫn với những lợi ích chung của cộng
đồng và của xã hội.Nói tóm lại,trong giai đoạn trước đổi mới này,do những sai lầm
mang tính chủ quan,máy móc...trong việc nhận thức về CNXH đã dẫn tới việc xoá bỏ đi
động lực lợi nhuận.Vì vậy,trong giai đoạn này,mọi thành phần kinh tế trong xã hội đều
hoạt động một cách không có hiệu quả do không còn cái gì làm động lực,làm mục tiêu
cho các hoạt động của họ.Do đó,đã làm cho tình trạng kinh tế cũng như chính trị và xã
hội của các nước XHCN bắt đầu có những biểu hiện khủng hoảng và suy thoái.Tình
trạng này tồn tại ở các nước XHCN trong một thời gian khá dài và nó là một trong
những nguyên nhân cơ bản làm nảy sinh nhu cầu phải nhận thức lại những lý luận trước
kia về CNXH .
Như trên đã nêu,giai đoạn đổi mới được đánh dấu bởi điểm mốc đầu tiên chính là
'chính sách kinh tế mới' (NEP) của Lê-Nin ra đời năm 1921.Tư tưởng chủ yếu của chính
sách này là sử dụng công cụ kinh tế thị trường(KTTT) và thông qua chủ nghĩa tư bản
nhà nước để đi lên CNXH.Nhưng chính sách này không được thử nghiệm rộng rãi và
chỉ được tiến hành trong một thời gian ngắn.Vì vậy,có thể nói rằng,chính sách kinh tế
mới của Lê-Nin chỉ có vai trò như là một điểm mốc về lý luận của giai đoạn đổi
mới.Phải đến năm 1979 khi Trung Quốc tiến hành công cuộc đổi mới của nước mình thì
giai đoạn đổi mới mới thực sự bắt đầu trong thực tiễn.Đối với Việt Nam,quá trình đổi
mới bắt đầu từ năm 1986 khi Đại Hội Đảng Toàn Quốc lần thứ vi đã đưa ra yêu cầu
phải đổi mới nhận thức về con đường đi lên CNXH ở nứoc ta.Nhìn chung,mặc dù mỗi
nước đều có những đặc trưng riêng trong công cuộc đổi mới của quốc gia mình
nhưng,về cơ bản,đều dựa trên một số những nhận thức đúng đắn hơn, phù hợp hơn với
hoàn cảnh hiện tại về CNXH.Ta có thể kể ra một số nhận thức cơ bản sau :
Trước hết là sự nhận thức lại về lý luận của CN Mác về hoàn cảnh xuất hiện của
CNXH.Cần phải thấy rằng những dự đoán của Mác về CNXH được xuất phát từ giả
định cho rằng cách mạng vô sản(CMVS) nổ ra và giành thắng lợi trên phạm vi toàn thế
giới hoặc ít ra là ở đại bộ phận những nước tư bản phát triển nhất,ở đó tính chất xã hội
hoá của LLSX phát triển đến mức không còn sản xuất nhỏ.Tuy nhiên,trong thực tế thì
CMVS đã "nổ ra ở những mắt xích yếu nhất của CNTB " tức là ở những nước mà nền
sản xuất còn kém phát triển,còn mang nặng tính chất của nền sản xuất nông nghiệp lạc
hậu.Chính vì vậy,khi các nước này tiến hành xây dựng CNXH,không thể áp dụng những
lý luận của CN Mác một cách rập khuôn,máy móc như những lý luận về việc không tồn
tại nền kinh tế thị trường
(KTTT),không tồn tại các thành phần kinh tế phi XHCN vv...trong CNXH.Ngoài
ra,cũng cần phải bác bỏ những lý luận thiếu tính khoa học khi đem gắn CNTB với nền
KTTT và gắn CNXH với nền kinh tế kế hoạch(KTKH).Cần phải thấy rằng,KTTT hay
KTKH,xét cho cùng,đều chỉ là một công cụ để phát triển kinh tế và chúng không liên
quan tới bản chất TBCN hay XHCN của xã hội.Nói tóm lại,các nước XHCN đã nhận
thức được rằng để xây dựng thành công CNXH thì phải thiết lập một nền KTTT có định
hướng XHCN và trong KTTT,tất yếu luôn coi lợi nhuận như là một động lực cơ bản cho
mọi hoạt động của con người.
Một nhận thức quan trọng khác là về vị trí của các nước trên con đường tiến lên
CNXH. Nếu trước đây,các nước XHCN thường mắc phải căn bệnh nóng vội,muốn
nhanh chóng tiến lên CNXH,muốn "quá độ nghèo,quá độ nhanh"lên CNXH.Chính vì
vậy,các nước này đã tiến hành thực thi các QHSX XHCN như chỉ duy trì hai thành phần
kinh tế quốc doanh và tập thể,thực hiện chính sách phân phối bình quân chủ nghĩa
vv...mà không quan tâm tới trình độ phát triển của LLSX.Tuy nhiên,nhờ sự đổi mới
trong lý luận nhận thức,các nước này đã tự đánh giá lại vị trí của mình,cho rằng họ mới
chỉ đang ở giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên CNXH.Hơn nữa,họ đã nhận thức được
quy luật QHSX phải phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX do đó,với LLSX còn
kém phát triển thì cần phải điều chỉnh và vận dụng QHSX XHCN một cách phù hợp.
Ngoài ra,còn rất nhiều những nhận thức khác nữa được hình thành trong giai đoạn đổi
mới tư tưởng này.Những nhận thức này,có thể được phát triển từ lý luận hoặc được đúc
kết từ thực tiễn,đã làm thay đổi khá nhiều những lý luận trước đó về CNXH.Những thay
đổi này thì nhiều nhưng nếu chỉ xét riêng về vấn đề ta đang xem xét thì có thể nói rằng
nhờ sự nhận thức đúng đắn hơn về CNXH,các nước XHCN đã đánh giá đúng được vai
trò của lợi nhuận,đã thừa nhận vai trò động lực của lợi nhuận đối với sự phát triển của
từng cá nhân cũng như của toàn xã hội.
b/Vai trò của lợi nhuận ở Việt Nam trước và sau công cuộc đổi mới :
Trên đây,chúng ta đã nghiên cứu sự chuyển đổi trong nhận thức và lý luận về CNXH
của các nước XHCN nói chung.Chúng ta đã thấy được sự đổi mới trong việc nhận thức
về những đặc trưng của CNXH nói chung và sự đổi mới trong những lý luận về lợi
nhuận cũng như vai trò của nó nói riêng.Tuy nhiên,để cụ thể hơn,ta sẽ nghiên cứu sự đổi
mới này ở Việt Nam nhằm qua đó thấy được những biểu hiện khác nhau,thậm chí là trái
ngược nhau,của vai trò mang tính động lực của lợi nhuận trong hai giai đoạn trước và
sau đổi mới.
Trước hết là trong giai đoạn trước đổi mới,ở Việt Nam,giai đoạn này được bắt đầu
chính thức sau khi chúng ta hoàn toàn giải phóng và thống nhất được đất nước năm
1975.Nó kéo dài đến năm 1986,khi Đại Hội Đảng Toàn Quốc lần thứ VI họp và quyết
định tiến hành công cuộc đổi mới tư tưởng mà nhiệm vụ chính là đổi mới trong nhận
thức về CNXH.Trong giai đoạn này,Đảng ta chủ trương quyết tâm nhanh chóng khôi
phục lại nền kinh tế sau chiến tranh và bước đấu xây dựng những tiền đề vật chất của
CNXH.Tuy nhiên,do còn tồn tại những hạn chế và sai lầm trong nhận thức về các đặc
trưng cơ bản của CNXH và con đường quá độ lên CNXH cho nên trong quá trình thực
hiện Đảng ta đã mắc một số sai lầm dẫn tới việc xoá bỏ đi vai trò động lực của lợi
nhuận.Đây là một trong các nguyên nhân dẫn tới thực trạng là,vào cuối giai đoạn
này,tình hình kinh tế,chính trị và xã hội của đất nước ta trở nên rối loạn,mất ổn định.Cả
nước ta bị rơi vào một tình trạng khủng hoảng về mọi mặt. Sau đây,ta có thể kể ra một
vài nguyên nhân chủ yếu dẫn tới việc triệt tiêu động lực lợi nhuận :
Thứ nhất,xét theo lý luận lợi ích,trong giai đoạn trước đổi mới,nhằm mục tiêu khôi
phục nền kinh tế và bước đầu xây dựng CNXH,quan điểm của Đảng ta là tiếp tục khai
thác triệt để và phát huy cao độ các giá trị,các lợi ích tinh thần và các lợi ích chung của
nhân dân.Đó là các lợi ích đã góp phần quan trọng giúp nhân dân ta đánh đuổi quân
xâm lược,giải phóng và bảo vệ Tổ Quốc.Chính vì vậy mà Đảng ta muốn tiếp tục kế thừa
và phát huy các lợi ích này như là một động lực quan trọng cho công cuộc xây dựng
CNXH ở nước ta.Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện,ban đầu còn đạt được một số
thành tựu nhưng về sau,dần dần,các lợi ích này mất dần vai trò động lực của chúng,đặc
biệt là vào cuối những năm 70 và đầu những năm 80 khi trong xã hội có những biến
chuyển lớn,thì các lợi ích đó mất hẳn vai trò động lực,và hơn thế nữa,việc quá đề cao
coi trọng các lợi ích tinh thần,các lợi ích chung,khi đó,còn làm cho tình hình xã hội
thêm hỗn loạn.Nguyên nhân chính là do,trong giai đoạn này,chúng ta chỉ coi trọng các
lợi ích xã hội,lợi ích chung...còn các lợi ích riêng đặc biệt là lợi ích kinh tế cá nhân của
người lao động thì bị xem nhẹ,thậm chí là bị phủ nhận vì cho rằng quan tâm tới lợi ích
cá nhân là quan điểm của CNTB.Hoặc cho rằng có thể khuyến khích,kích thích tính tích
cực của người lao động đơn giản chỉ bằng công tác tư tưởng,bằng sự động viên tinh
thần.
Thứ hai,sau khi giành được độc lập,Đảng và nhân dân ta đã chủ trương quyết tâm
thực hiện cải tạo PTSX cũ TBCN,bước đầu xây dựngPTSX mới XHCN thông qua việc
dần thiết lập các đặc trưng của CNXH như thiết lập QHSX XHCN dựa trên chế độ công
hữu với hai thành phần kinh tế căn bản là Nhà Nước và Tập Thể hay như hình thành
phương thức phân phối bao cấp bình quân chủ nghĩa vv...Tuy nhiên,trong quá trình thực
hiện,do chủ quan duy ý chí,do nóng vội muốn nhanh chóng tiến lên CNXH... cho nên đã
mắc phải một số sai lầm nghiêm trọng.Một trong số đó là do có các quan niệm ấu
trĩ,giản đơn về CNXH đã dẫn đến việc bỏ qua quy luật 'QHSX phải phù hợp với tính
chất và trình độ của LLSX '- một quy luật cơ bản của sự phát triển. Chính vì vậy,trong
giai đoạn trướcđổi mới ,chúng ta vì nôn nóng nghĩ rằng càng thiết lập các đặc trưng của
CNXH nhanh bao nhiêu thì càng chóng có được CNXH nhanh bấy nhiêu cho nên đã vội
vàng xoá bỏ những cái mà chúng ta cho rằng trái với các đặc trưng của CNXH như các
thành phần kinh tế phi XHCN,nền kinh tế thị trường,động lực lợi nhuận vv...làm cho
nền kinh tế bị lâm vào tình trạng suy thoái nghiêm trọng.
Ngoài ra,còn một số những hạn chế,sai lầm khác cũng xuất phát từ việc nhận thức
không đúng về CNXH như việc thiết lập cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp,coi
đó như là một công cụ đảm bảo cho công cuộc cải tạo và xây dựng CNXH không bị đi
chệch hướng vv... Nói tóm lại,do một loạt những nhận thức còn mang tính chủ quan,
máy móc, nóng vội và không có tính khoa học... đã dẫn tới việc triệt tiêu mất động lực
lợi nhuận gây ra tình trạng trì trệ,khủng hoảng và tạo ra nguy cơ mất ổn định trong xã
hội Việt Nam vào cuối giai đoạn trước đổi mới.
Trước tình trạng nền kinh tế suy giảm và dựa trên sự đánh giá một cách khách
quan,đúng đắn quá trình cải tạo kinh tế trong giai đoạn trước đổi mới,Đảng ta chủ
trương phải sửa đổi,định hướng lại phương thức tiến hành quá trình cải tạo XHCN.Với
sự nhận thức lại một cách đầy đủ và đúng đắn hơn về CN Mác-LêNin,về thời kỳ quá độ
lên CNXH và quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX,với
tinh thần thẳng thắn thừa nhận sự nóng vội chủ quan trong quá trình cải tạo XHCN
trước kia,Đảng ta đã quyết tâm sửa chữa,điều chỉnh cho phù hợp với nhận thức mới và
thực tiễn của thời kỳ quá độ ở nước ta theo như Văn Kiện Đại Hội Đảng Toàn Quốc lần
thứ VI đã khẳng định:"...Trong nhận thức cũng như trong hành động,chúng ta chưa thực
sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại trong một thời gian
tương đối dài,chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa QHSX với
tính chất và trình độ của LLSX ".Đại hội này cũng đánh dấu sự đổi mới trong nhận
thức,đánh dấu cho sự bắt đầu giai đoạn đổi mới ở Việt Nam.Với sự đổi mới trong nhận
thức,Đảng ta đã nhận ra và từng bước khắc phục những nhận thức sai lầm trước kia.Đặc
biệt là,trên cơ sở có được những nhận thức đúng đắn,khoa học hơn về CNXH và con
đường quá độ lên CNXH...Đảng ta đã nhận thức,đánh giá lại về khái niệm lợi nhuận và
vai trò động lực của nó trong giai đoạn hiện nay.Ta có thể thấy được điều đó qua một số
biểu hiện sau:
Thứ nhất,cũng vẫn xét theo lý luận lợi ích,Đảng ta đã nhận thức được rằng muốn cho
xã hội phát triển thì trước hết phải quan tâm đến những lợi ích mỗi con người,mỗi thành
viên của xã hội đó trước đã.Có nghĩa là,muốn cho xã hội phát triển thì trước hết phải tạo
điều kiện cho từng con người,từng cá nhân phát triển thông qua việc sử dụng các lợi ích
kinh tế thiết thân của họ như là một động lực trực tiếp cơ bản nhất,trước hết là,của mỗi
cá nhân và sau đó là động lực cho sự phát triển của toàn xã hội.Tuy nhiên,cũng cần
nhấn mạnh rằng, khi Đảng ta thừa nhận vai trò động lực của các lợi ích cá nhân thì cũng
không có nghĩa là quá đề cao các lợi ích cá nhân , phủ nhận hay hạ thấp các lợi ích tinh
thần,các lợi ích chung của xã hội mà phải kết hợp được hài hoà giữa các lợi ích vật chất
và tinh thần,giữa lợi ích riêng và lợi ích chung nhằm mục tiêu tạo lập một nền kinh tế
tăng trưởng ổn định phát triển hài hoà,một xã hội tiến bộ...tiến tới xây dựng thành công
CNXH ở Việt Nam.Điều này cũng đã được Đảng ta khẳng định:"...lấy lợi ích tối cao
của dân tộc và quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động làm nền tảng,kết hợp hài hoà
giữa lợi ích riêng và lợi ích chung,lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể...".
Thứ hai,nói đến những nhận thức về CNXH và các đặc trưng của nó,Đảng ta đã nhận
thức rõ hơn rằng do điều kiện hoàn cảnh của mỗi nước trong giai đoạn quá độ lên
CNXH là khác nhau và khác nhiều so với trong lý luận của CN Mác-LêNin cho nên yêu
cầu đặt ra là mỗi nước,trong giai đoạn quá độ ở nước mình,phải biết vận dụng những lý
luận của CN Mác-LêNin về CNXH và con đường đi lên CNXH cũng như vận dụng
những kinh nghiệm thành công của các nước khác một cách hợp lý sao cho phù hợp với
hoàn cảnh của từng nước.Chính vì vậy,nhận thức được rằng nước ta quá độ lên CNXH
từ một cơ sở khoa học-kỹ thuật lạc hậu,nền kinh tế kém phát triển,còn mang nặng tính
chất của một nền sản xuất nhỏ nông nghiệp... do vậy mà Đảng ta chủ trương xây dựng
và củng cố QHSX XHCN nhưng cũng đồng thời có những chính sách sử dụng,chỉ đạo
và hướng dẫn đúng đắn đối với các thành phần kinh tế khác.Điều đó có nghĩa là Đảng ta
đã thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế khác,thừa nhận sự tồn tại của nền
kinh tế đa thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở một nước còn lạc hậu và kém
phát triển như Việt Nam.Đảng ta chủ trương:"... xây dựng QHSX mới nhằm mục tiêu
chính là để giải phóng sức sản xuất,nâng cao đời sống nhân dân;phát triển các loại hình
QHSX khác,trong đó kinh tế Nhà Nước giữ vai trò chủ đạo,xác lập địa vị làm chủ của
người lao động trong sản xuất;phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế là chính
đồng thời kết hợp phân phối theo vốn và phúc lợi xã hội...".
Thêm vào đó,đi đôi với việc xây dựng QHSX mới là việc xác lập lại một cơ chế quản
lý thích hợp.Đảng ta đã khẳng định:"...cơ chế tập trung quan liêu bao cấp từ những năm
qua đã không tạo được động lực cho sự phát triển,làm suy giảm kinh tế XHCN,hạn chế
việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác,kìm hãm sản xuất,làm giảm năng
suất,chất lượng,hiệu quả gây rối loạn trong phân phối và lưu thông,đẻ ra những hiện
tượng tiêu cựu trong xã hội...".Do đó,Đảng ta quyết tâm xoá bỏ thể chế cũ và thiết lập
một cơ chế quản lý mới.Đó là một cơ chế kinh tế mà "...Nhà nước nắm các mạch máu
kinh tế,quản lý nền kinh tế quốc dân theo một kế hoạch thống nhất,sử dụng đầy đủ và
đúng đắn quan hệ hàng hoá tiền tệ trong kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân,gắn sản xuất
với thị trường..."
Nói tóm lại,nhờ sự đổi mới trong nhận thức,Đảng ta đã nhận ra được các sai lầm
trước kia và đã khắc phục chúng mà điển hình là sự chuyển biến trong nhận thức về vai
trò mang tính động lực của lợi nhuận.Với việc thiết lập lại động lực lợi nhuận,chúng ta
đã ra tạo ra động lực cho xã hội phát triển,giúp cho nền kinh tế nước ta dần được phục
hồi,đưa nước ta dần thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng và phát triển.
c/Những thành tựu và tồn tại của công cuộc đổi mới ở các nước XHCN:
Công cuộc đổi mới ở Việt Nam cũng như ở các nước XHCN khác đã đem lại một số
những thành tựu to lớn đối với các nước này.Như đối với Trung Quốc,nhờ có được
những thức được đúng đắn đã thúc đẩy được nền kinh tế phát triển.Sau hơn 20 năm cải
cách,Trung
Quốc đã tiến bộ vượt bậc với tốc độ phát triển vào loại nhanh nhất thế giới,từ năm 1980
cho đến năm 1997,tốc độ tăng GDP trung bình trên 9%/năm.Từ một nước còn đang bị
khủng hoảng trầm trọng do đường lối phát triển sai lầm,nhờ đổi mới tư tưởng nhận thức
và trên cơ sở đó đề ra được các chính sách,đường lối phát triển đúng đắn,Trung Quốc đã
vươn lên trở thành một nước có nền kinh tế phát triển,thậm chí còn trở thành nước đứng
đầu thế giới trong một số lĩnh vực như sản xuất lương thực,sắt thép,ximăng vv...Trong
nước thì đời sống của nhân dân được ổn định và không ngừng được nâng cao,thu nhập
trung bình của người dân ở thành thị tăng trung bình khoảng 6,2%/năm và trong hơn 20
năm qua tăng hơn 3,1 lần còn ở nông thôn thì cũng trong khoảng thời gian đó đã tăng
trên 15 lần.
Còn đối với Việt Nam,công cuộc đổi mới cũng đã đem lại cho chúng ta những thành
tựu to lớn.Như trên đã phân tích,với việc thiết lập lại động lực lợi nhuận đã góp phần
thúc đẩy nền kinh tế phát triển.Việt Nam từ một nước thiếu đói quanh năm đã trở thành
một nước xuất khẩu gạo đứng thư hai thế giới.Từ chỗ là một nước mang nặng tính nông
nghiệp nhỏ bé lạc hậu còn công nghiệp thì hết sức kém phát triển,Việt Nam đã có những
bước tiến vượt bậc trở thành một nước công-nông nghiệp khá phát triển và mục tiêu tiến
tới trở thành một nước công nghiệp phát triển.Còn về đời sống của nhân dân,từ chỗ ăn
đói mặc rét đã trở nên ăn no mặc ấm và đang tiến tới ăn ngon mặc đẹp,ăn sung mặc
sướng.Phúc lợi xã hội cũng ngày càng được quan tâm hơn.Mặc dù,trình độ và mức phúc
lợi xã hội ở nước ta có thể không bằng một số các nước tư bản phương tây.Tuy nhiên
cần phải thấy rằng,xét về bản chất thì hệ thống phúc lợi ở nước ta mang tính XHCN còn
ở các nước tư bản phương tây đó mặc dù hệ thống phúc lợi cao hơn nhưng vẫn mang
bản chất TBCN.
Nói tóm lại là,nhờ có sự đổi mới trong nhận thức tư tưởng nên đã tạo ra được một
động lực thúc đẩy sự phát triển của các cá nhân cũng như của toàn xã hội ở các nước
XHCN.Tuy nhiên,không chỉ đem lại những thành quả tiến bộ mà việc đổi mới cũng
đem lại một số những hạn chế và tồn tại không nhỏ.Có thể kể ra sau đây một số những
ảnh hưởng tiêu cực mà công cuộc đổi mới đem lại:
Trước hết,phải kể đến những ảnh hưởng ngày càng trở nên nghiêm trọng do động lực
lợi nhuận mang lại.Mặc dù lợi nhuận đã tạo ra động lực thúc đẩy xã hội phát triển tuy
nhiên khi con người qua ham mê chạy theo lợi nhuận để thoả mãn những lợi ích của cá
nhân mình thì tất yếu sẽ dẫn tới tình trạng hỗn loạn,vô tổ chức trong nền kinh tế vì ai
cũng chạy theo lợi ích của mình.Khi đó,con người sẵn sàng xâm phạm tới lợi ích của
người khác,lợi ích của công đồng để có thể thoả mãn được lợi ích của cá nhân
mình.Điều đó đã gây ra tình trạng vô hiệu quả trong hoạt động kinh tế và một loạt các
hiện tượng kinh tế-xã hội khác như tình trạng phân hoá giàu nghèo ngày càng tăng,nạn
thất nghiệp cũng đang lâm vào tình trạng báo động,các hiện tượng xã hội như trộm
cắp,nghiện hút...cũng đang là những mối quan tâm hàng đầu của xã hội vv...Nghiêm
trọng hơn,điều này còn tạo ra nguy cơ chệch định hướng XHCN đối với công cuộc xây
dựng CNXH.
Sau nữa,như ta đã biết,việc tồn tại nền KTTT với các hình thức sở hữu đa dạng trong
giai đoạn quá độ lên CNXH là một điều tất yếu.Tuy nhiên,KTTT không phải là một
công cụ kinh tế hoàn chỉnh,tự nó không biết đến sự kết hợp hài hoà các thành phân kinh
tế khác nhau.Nếu để cho KTTT tự do hoạt động thì sẽ gây ra sự xung đột giữa các thành
phần kinh tế có lợi ích mâu thuẫn,thậm chí là đối kháng nhau làm cho hoạt động kinh tế
mất hiệu quả và gây mất ổn định xã hội.Hơn nữa,bản thân nền KTTT hoạt động mà
không phân biệt đâu là thành phần kinh tế XHCN và đâu là thành phần kinh tế
TBCN.Vì vậy,hoạt động thị trường,với sự phân phối theo hiệu quả công việc,có thể tạo
điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế TBCN phát triển trong khi lại gây khó khăn
cho sự phát triển của các thành phần kinh tế XHCN và do đó có thể làm cho nền kinh tế
phát triển chệch hướng XHCN.
Ngoài ra,còn một số những tồn tại khác như sự ảnh hưởng của phát triển kinh tế tới
văn hoá truyền thống,tới ổn định xã hội vv...Những tồn tại này đã đặt ra cho chúng ta
yêu cầu phải khắc phục được chúng để có thể phát triển nền kinh tế,nâng cao tiến bộ xã
hội và từ đó xây dựng thành công CNXH.Để khắc phục được các tồn tại này sẽ có rất
nhiều việc phải làm tuy nhiên ở đây ta sẽ chỉ đề cập đến những biện pháp mang tính
khái quát nhất.
d/Những phương hướng khắc phục:
Trước hết,xét về mặt lý luận,trước những nguy cơ chệch hướng con đường XHCN
yêu cầu đặt ra là phải giữ vững định hướng XHCN trong quá trình đổi mới,kết hợp sự
kiên định về nguyên tắc và chiến lược cách mạng với sự linh hoạt trong sách lược,nhạy
cảm nắm bắt cái mới.Rút kinh nghiệm từ bài học xương máu là Liên Xô và khối các
nước XHCN ở Đông Âu trước đây,trước những biến đổi lớn của thế giới,đặc biệt là
trước chiến lược hoà bình của đế quốc Mỹ,nhưng lại không có sự điều chỉnh linh hoạt
cho nên đã dẫn tới sự sụp đổ dây chuyền của CNXH ở những nước này.Phải thấy được
rằng đi lên CNXH là con đường tất yếu của chúng ta.
Hơn nữa,trong nhận thức phải luôn tiến hành đổi mới tư tưởng,phải luôn đặt ra yêu
cầu phải vận dụng những lý luận của CN Mác-LêNin nói chung và các thành tựu của
các nước khác nói riêng một cách sáng tạo,phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của từng quốc
gia. Chúng ta đổi mới trong nhận thức nhằm phê phán những khuyết tật,những sai lầm
trong quá trình xây dựng CNXH nhưng phê phán không phải để rồi quan niệm những
lệch lạc đó là khuyết tật của bản thân chế độ và dẫn tới việc phủ nhận CNXH.Phải nhận
thức được rằng đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu CNXH mà là làm cho mục tiêu
ấy được thực hiện có kết quả bằng những quan niệm đúng đắn về CNXH,bằng những
hình thức,bước đi và biện pháp thích hợp.
Nói tóm lại,về mặt lý luận,luôn phải coi trọng việc thường xuyên tiến hành đổi mới
trong nhận thức tư tưởng nhằm mục tiêu luôn có những tư tưởng đúng đắn và khoa học
về CNXH và con đường quá độ lên CNXH.Chỉ có như vậy chúng ta mới có thể xây
dựng thành công CNXH.
Còn trong thực tiễn đối với các hạn chế,tồn tại kể trên của quá trình đổi mới,ta có thể
thấy một số biện pháp như sau:
Trước tiên,để khắc phục được những hạn chế của động lực lợi nhuận như việc chạy
theo lợi nhuận hay như tình trạng phân hoá giàu nghèo...thì trước hết chúng ta phải biết
kết hợp thoả đáng giữa các lợi ích riêng của mỗi cá nhân và các lợi ích chung của xã
hội.Phải thấy được rằng trong CNXH,do bản chất tốt đẹp của CNXH,có sự thống nhất
dung hoà giữa các lợi ích riêng và các lợi ích chung.Điều đó tạo điều kiện để có thể kết
hợp hài hoà các lợi ích này tạo động lực cho xã hội phát triển.
Còn để khắc phục tình trạng phân hoá giàu nghèo thì ngoài hình thức phân phối theo
lao động,các nhà nước XHCN còn có thể thiết lập các hình thức phân phối bổ sung
khác,hoặc sử dụng các công cụ thuế và trợ cấp để thực hiện phân phối lại thu nhập sao
cho vừa đảm bảo công bằng nhưng vẫn khuyến khích tính tích cực,năng động,sáng tạo
của chủ thể nhằm mục tiêu làm cho cả nước ai cũng được cơm no áo ấm.
Ngoài ra,còn rất nhiều các biện pháp khác nữa nhằm khắc phục các tồn tại của CNXH
mà chúng ta sẽ không thể kể hết ra đây được.Tuy nhiên,khái quát lại thì để khắc phục
được các tồn tại,các khuyết tật mà công cuộc đổi mới mang lại cần có sự tham gia quản
lý vĩ mô của nhà nước XHCN.Có nghĩa là,Nhà nước dùng luật pháp và kế hoạch để
định hướng và các chính sách kinh tế để thúc đẩy thị trường phát triển đồng thời dùng
các chính sách phân phối và điều tiết để đảm bảo phúc lợi cho toàn dân và thực hiện
công bằng xã hội.
Kết luận
Như vậy, qua đề án này chúng ta đã lần lượt nghiên cứu những vấn đề liên quan đến
phạm trù lợi nhuận. Bắt đầu từ nghiên cứu phân tích những lý luận của các nhà kinh tế
chính trị từ trước tới nay và qua đó thấy được nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận.
Không chỉ đơn thuần xem xét mà trên cơ sở so sánh đối chiếu các lý luận. Chúng ta có
thể thấy được tính khoa học đầy đủ, chính xác và vượt trội hơn hẳn trong các lý luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin về nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận. Hơn nữa không chỉ
dừng lại ở việc nghiên cứu nguồn gốc bản chất của lợi nhuận mà chúng ta dựa trên sự
phân tích những biểu hiện của lợi nhuận trên lý thuyết cũng như trong thực tế đã phần
nào chứng minh được vai trò động lực của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường hiện
nay.
Nói tóm lại, đề án này đã giúp chúng ta có được cái nhìn rõ nét chính xác, đầy đủ
hơn về nguồn gốc bản chất, vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường ngày nay.
Qua việc phân tích nghiên cứu chúng ta có thể thấy được rằng lợi nhuận trong nền
kinh tế thị trường luôn có vai trò quyết định và đặc biệt quan trọng. Nó là mục tiêu và
động lực cho mọi hoạt động của con người và của toàn xã hội. Tuy nhiên, cũng phải
thấy rằng động lực lợi nhuận là con dao hai lưỡi. Một mặt nó tạo động lực thúc đẩy con
người và xã hội phát triển . Tuy nhiên mặt khác nếu để mặc nó tự do hoạt động thì nó
lại gây ra những hậu quả làm giảm hiệu qủa kinh tế của các hoạt động của con người,
thậm chí là những hậu quả có ảnh hưởng kìm hãm sự phát triển của xã hội đặc biệt là
đối với nước ta - là một nước đang tiến hành quá độ lên CNXH - thì ảnh hưởng của
những tác hại này lại càng to lớn. Vì vậy tất yếu nảy sinh yêu cầu phải có những biện
pháp nhằm khắc phục những hậu quả đó.
Đề án trên cũng đã đưa ra một số những biện pháp nhằm khắc phục những hậu quả
mặt trái của động lực lợi nhuận mà tư tưởng cơ bản là qua sự quản lý của Nhà nước để
kết hợp hài hoà các lợi ích, nhờ đó làm cho động lực lợi nhuận thực sự mang vai trò tích
cực.
Như vậy, nói tóm lại thông qua đề án này mặc dù còn chưa đầy đủ nhưng chúng ta
cũng đã phần nào xem xét, phân tích được tương đối về đề tài đang nghiên cứu. Tuy
nhiên, cần phải thấy rằng những nhận thức này nói riêng và bất kỳ các nhận thức nào
khác cũng chỉ mang tính đúng đắn một cách tương đối. Có nghĩa là chúng chỉ đúng
trong những điều kiện nhất định về không gian và thời gian. Do đó, để đảm bảo luôn
nhận thức được đúng đắn về lợinhuận nói riêng và các phạm trù khác nói chung chúng
ta phải luôn đổi mới, nhận thức lại tư tưởng nhằm đảm bảo vận dụng phù hợp các lý
luận trước đây vào hoàn cảnh mới. Có như vậy chúng ta mới có thể đảm bảo phát triển
cân đối bền vững cả kinh tế và xã hội để có thể xây dựng thành công CNXH.
Tài liệu tham khảo
1. Tư bản quyển I, tập 1.
2. Tư bản quyển III, tập 1;2;3
3. Giáo trình kinh tế chính trị tập I, II - NXB Giáo dục.
4. Lịch sử các học thuyết kinh tế của trường Đại học KTQD.
5. Kinh tế học của P.Samuellson.
6. Kinh tế học của David Begg.
7. Tạp chí nghiên cứu lý luận số 6, 7, 8/2000.
mục lục
Trang
Lời nói đầu 1
Phần I. Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận 2
I. Quan điểm về lợi nhuận trong các học thuyết Mác - xít 2
II. Quan điểm về lợi nhuận trong học thuyết của Mác 5
Phần II. Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường 16
1. Vai trò động lực của lợi nhuận - xét từ khía cạnh lợi ích 16
2. Vai trò của lợi nhuận đối với các nước Tư Bản Chủ Nghĩa 18
3. Vai trò của lợi nhuận đối với các nước Xã Hội Chủ Nghĩa 22
Kết luận 29
Tài liệu tham khảo 30
Mục lục 31
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Học thuyết của Mác, xem xét tới vai trò của lợi nhuận.pdf