Công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay ở nước ta là sự nghiệp
của toàn Sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất biện chứng giữa quá
trình sản xuất và qúa trình lưu thông, giữa quá trình tạo ra giá trị thặng dư
và quá trình thực hiện giá trị thặng dư. Vì vậy nghiên cứu lý thuyết tuần
hoàn và chu chuyển của tư bản chính là nghiên cứu quá trình lưu thông để
xác định rõ hơn vị trí của lưu thông và hiểu biết đầy đủ sự vận động của tư
bản cùng với những biểu hiện của quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa trong
qúa trình vận động đó.
22 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2993 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Học thuyết tuần hoàn và chu chuyển tư bản (TB), sự vận dụng trong quản lý các doanh nghiệp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận văn:
“Học thuyết tuần hoàn và chu chuyển tư bản
(TB), sự vận dụng trong quản lý các doanh
nghiệp ở Việt Nam”
2
LỜI NÓI ĐẦU
Đất nước ta đang trong thời kỳđổi mới mà sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá là mục tiêu và nhiệm vụ hàng đầu. Tuy nhiên, để hoàn thành mục tiêu
này cần có một nguồn vốn đầu tư PT vô cùng lớn. Nhưng để huy động và sử
dụng tốt nguồn vốn này là một vấn đềđáng quan tâm của mọi người.
Trên thực tế hiện nay, việc quản lý và sử dụng nguồn vốn đầu tư PT ở tầm
vĩ mô là nền kinh tế quốc dân và cảở các doanh nghiệp còn rất nhiều điều khó
khăn. Tình trạng thừa vốn trong các ngân hàng thương mại và thiếu vốn trong
các doanh nghiệp, vốn kinh doanh không phải làít, việc sử dụng vốn bừa bãi
và lãng phí vốn đang là một thực trạng đáng buồn hiện nay.
Trong giới hạn hiểu biết của mình, em cũng muốn góp phần nào ý kiến
để có phương pháp giải quyết vấn đề này. Chính vì vậy em đã chọn đề tài:
"Học thuyết tuần hoàn và chu chuyển tư bản (TB), sự vận dụng trong
quản lý các doanh nghiệp ở Việt Nam ". Bài viết của em gồm các nội
dung chính sau:
Chương I: Tuần hoàn của tư bản
1. Giai đoạn vận động của tư bản và sự biến hóa hình thái của tư bản.
2. Sự thống nhất của ba hònh thái tuần hoàn của tư bản công nghiệp.
Chương II: Chu chuyển của tư bản
1. Thơì gian chu chuyển
2. Số vòng chu chuyển
Chương III :Tư bản cốđịnh và tư bản lưu động.
Chương IV: Ý nghĩa thực tiễn khi ngiên cứu lý thuyết tuần hoàn và chu
chuyển của tư bản đối với việc quản lý các doanh nghiệp ở nước ta khi
bước vào nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
3
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: TUẦNHOÀNCỦATƯBẢN
Sự tuần hoàn của tư bản ởđây là gì?
Nóđược hiểu như một chu kỳ hay một vòng quay của tiền tệ, sự tuần
hoàn đó nó sẽ không mất đi mà chỉ biến đổi từ dạng này sang dạng khác,
nóđược hiểu qua công thức sau:
T - H - T'
T - là số tiền tệ (tư bản), bỏ ra ban đầu để mua tư liệu sản xuất, sức lao
động, sau đó biến thành "H" đem bán để thu về một lượng giá trị là T'. T'
ởđây là số tiền hay giá trị kết tinh của sản xuất hàng hoá mà chúng ta nói
một cách chính xác hơn là lợi nhuận mà nhà tư bản thu được qua quá trình
đầu tư sản xuất. Mỗi quá trình của tư bản, tiền tệ càng lớn thì lợi nhuận thu
được càng cao tức "T' " vàđể minh chứng cho những khái niệm trên đây,
chúng ta sẽ xem kỹ hơn các qúa trình chu chuyển của tư bản trong bài dưới
đây để từđó có thể hiểu rõ hơn về quá trình tuần hoàn và chu chuyển của tư
bản!
1.1. Ba giai đoạn vận động của tư bản và sự biến hoá hình thái của
tư bản.
Mọi tư bản sản xuất trong qúa trình vận động đều trải qua 3 giai đoạn, tồn
tại dưới ba hình thức và thực hiện ba chức năng.
Giai đoạn thứ nhất: Nhà tư bản xuất hiện trên thị trường với tư cách
người mua, thực hiện hành vi T - H, tức là mua.
Giai đoạn thứ hai: Nhà tư bản tiêu dùng sản xuất các hàng hoáđã mua,
tức tiến hành sản xuất, kết quả là nhà tư bản cóđược một hàng hoá có giá trị
lớn hơn giá trị các yếu tố sản xuất ra hàng hoáđó.
Giai đoạn thứ ba: Nhà tư bản trở lại thị trường với tư cách là người bán,
thực hiện hành vi H' - T', tức là bán.
a. Giai đoạn thứ nhất: T - H
4
T - H ởđây chỉ là hành vi mua bán thông thường, tiền tệđược sử dụng
làm phương tiện mua như mọi số tiền khác trong lưu thông. Tiền tuy làm
phương tiện mua nhưng phải mua được hàng hoá sức lao động và tư liệu
sản xuất nhằm mục đích sản xuất giá trị thặng dư. Hành vi T - H không
chỉđơn thuần biểu thị việc chuyển hoá một món tiền thành hàng hoá, mà
nóđã bước vào 9 giai đoạn vận động tuần hoàn của tư bản.
Hơn nữa, việc mua tư liệu sản xuất và sức lao động không những phải
phù hợp với loại sản phẩm cần chế tạo, mà phải tỉ lệ thích hợp với nhau về
số lượng. Tỉ lệđó nhằm bảo đảm cho quá trình sản xuất được tiến hành bình
thường và nhất làđể sử dụng được triệt để toàn bộ thời gian lao động của
công nhân. Nếu thiếu tư liệu sản xuất thì công nhân không không đủ việc
làm. Ngược lại, thiếu công nhân thì tư liệu sản xuất cũng không được tận
dụng để tạo ra sản phẩm. Do đó, lòng thèm khát lao động thặng dư của nhà
tư bản cũng không được thoả mãn.
Quá trình này thể hiện như sau:
Slđ
TLsx
Rõ ràng, trong quá trình này hành vi T - Slđ (việc mua sức lao động)
là yếu tốđặc trưng khiến tiền xuất hiện ngay từđầu với tư cách là tư bản.
Hành vi T - Tlsx chỉ cần thiết để sức lao động đã mua có thể hoạt động
được song T - Slđđược coi là nét đặc trưng của phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa không phải do tính chất tiền tệ của mối quan hệđó. Tiền đã
xuất hiện rất sớm để mua cái được gọi là sự phục vụ, nhưng tiền lúc ấy vẫn
không biến thành tư bản tiền tệ. Nét đặc trưng không phải ở chỗ người ta có
thể mua sức lao động bằng tiền, mà sức lao động biến thành hàng hoá. Đây
là một việc mua bán, một quan hệ hàng hoá tiền tệ, những người mua là
nhà tư bản - kẻ chiếm hữu tư liệu sản xuất và người bán là người lao động
làm thuê bị tách rời hoàn toàn với tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt. Vậy
không phải bản chất của tiền tệđãđẻ ra mối quan hệ tư bản chủ nghĩa; trái
lại, chính sự tồn tại của quan hệ tư bản chủ nghĩa mới làm cho chức năng
của tiền tệ là công cụ của lưu thông hàng hoá nói chung biến thành chức
năng của tư bản. Do đó, trên cơ sở tư liệu sản xuất và sức lao động đã hoàn
toàn bị tách rời nhau, quan hệ giai cấp giữa nhà tư bản và người lao động
làm thuêđã có rồi, thì tiền của nhà tư bản ứng ra để thực hiện hành vi:
T - H
5
Slđ
Tlsx
Hoàn thành quá trình này, giá trị tư bản đã trút bỏ hình thái tiền tệ và
mang hình thái các yếu tố của sản xuất TBCN: tư liệu sản xuất và sức lao
động, tức là hình thái tư bản sản xuất. Như vậy, kết quả của giai đoạn thứ 1'
là tư bản tiền tệ biến thành tư bản sản xuất.
b. Giai đoạn thứ hai: ...... SX.....
Tư bản ứng ra mua hàng hoá sức lao động tư liệu sản xuất nhằm mục
đích thu về một tư bản có gía trị lớn hơn. Mục đích đó không thể thực hiện
được bằng cách bán ngay các hàng hoáđã mua mà chỉ có thểđạt được bằng
cách sử dụng các hàng hoáấy sản xuất ra một hàng hoá mới. Do đó, tiếp
theo giai đoạn thứ 1' (mua sức lao động và tư liệu sản xuất) tất yếu dẫn đến
giai đoạn thứ hai - giai đoạn sử dụng các hàng hoáđã mua, tức sản xuất.
Quá trình này có thể biển diễn như sau:
Slđ
Tlsx
Quá trình sản xuất ởđây diễn ra cũng giống như quá trình sản xuất
của mọi hình thái xã hội khác, là sự kết hợp của hai yếu tố sức lao động và
tư liệu sản xuất. Phương thức kết hợp đặc thù này không chỉ là kết quả, mà
còn là yêu cầu của sự vận động tư bản, qúa trình sản xuất vì vậy trở thành
một chức năng của tư bản, trở thành quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Trong khi thực hiện chức năng của mình, tư bản sản xuất tiêu dùng các
thành phần của nóđể biến thành một khối lượng sản phẩm có giá trị lớn
hơn. Kết quả là một hàng hoá mới được tạo ra khác cả về giá trị sử dụng và
lượng giá trị so với các hàng hoá cấu thành tư bản sản xuất. Hàng hoá mới
này là hàng hoá mang giá trị thặng dư, đã trở thành H', có giá trị bằng giá
trị của tư bản sản xuất hao phí ra nó cộng với gía trị thặng dư (m) do tư bản
sản xuất ấy đẻ ra. Nhờ vậy kết quả của giai đoạn thứ hai là tư bản sản xuất
biến thành tư bản hàng hoá.
c. Giai đoạn thứ ba: H ' - T'
Sản xuất hàng hoá, tư bản chưa thể ngừng vận động nhà tư bản đang
tồn tại dưới hình thức hàng hoá, cần phải đem bán để thu tiền về.
T - H
H .... SX.... H'
6
Quá trình này có thể biểu hiện bằng công thức H' - T'. Không khác gì
hàng hoá thông thường, hàng hoá tư bản đưa ra lưu thông cũng chỉ thực
hiện chức năng vốn có của hàng hoá là bán để lấy tiền. Nhưng nó là tư bản
hàng hoá người ngay sau khi quá trình sản xuất, nóđã là hàng hoá, có giá trị
bằng giá trị tư bản ứng trước và giá trị thặng dư. Nhờ vậy, tiến hành trao
đổi theo đúng quy luật giá trị của nó thu vềđược T', nghĩa là thu vềđược số
tiền trội hơn so với số tiền ứng ra ban đầu. Chức năng của H' không chỉ là
chức năng của mọi sản phẩm hàng hoá, mà quan trọng hơn còn là chức
năng thực hiện giá trị thặng dưđược tạo ra trong qúa trình sản xuất. Kết
thúc giai đoạn này, tư bản hàng hoáđã biến thành tư bản tiền tệ. Đến đây,
mục đích của tư bản được thực hiện. Tư bản trở lại hình thái ban đầu, với
số lượng lớn hơn trước.
Tổng hợp quá trình vận động của tư bản trong cả ba giai đoạn, ta có
công thức:
Slđ
Tlsx
Trong công thức này, với tư cách là một giá trị, tư bản đã trải qua một
chuỗi biến hoá hình thái có quan hệ với nhau, qui định lẫn nhau; có bao
nhiêu biến hoá hình thái là có bấy nhiêu thời kỳ hay giai đoạn của quá trình
vận động từ tư bản. Trong giai đoạn đó, có hai giai đoạn thuộc lĩnh vực lưu
thông và một giai đoạn thuộc lĩnh vực sản xuất. Sự vận động của tư bản trải
qua đoạn, lần lượt mang ba hình thái rồi quay trở về hình thái ban đầu với
giá trị không chỉđược bảo tồn mà còn tăng lên, gọi là sự tuần hoàn của tư
bản.
Tuần hoàn của tư bản chỉ có thể tiến hành bình thường chừng nào các
giai đoạn khác nhau của nó không ngừng chuyển tiếp. Mặt khác, bản thân
sự tuần hoàn của tư bản lại làm cho tư bản phải nằm lại ở mỗi một giai
đoạn tuần hoàn trong một thời gian nhất định. Do đó, sự vận động tuần
hoàn của tư bản là sự vận động đứt quảng không ngừng. Chính trong sự
T - H ………sản xuất…….. …….H' - T
G. đoạn I
Hình thức tư bản
tiền tệ.
Chức năng: mua
các yếu tố sản
G. đoạn II
Hình thức tư bản
sản xuất.
Chức năng sản
xuất ra hàng hoá
tạo ra giá trị
thặng dư
G. đoạn III.
Hình thức tư bản
hàng hoá.
Chức năng thực
hiện giá trị và giá trị
thặng dư
7
vận động mâu thuẫn đó mà tư bản tự bảo tồn, chuyển hoá giá trị và không
ngừng lớn lên.
2.1. Điều kiện để cho tuần hoàn TB được bình thường
Sự vận động của TB chỉ diễn ra bình thường khi các giai đoạn của
nóđược diễn ra liên tục, kế tiếp nhau. Mỗi sự gián đoạn ở bất kỳ giai đoạn
nào cũng khiến cho sự tuần hoàn này bịđình trị.
Mặt khác, TB phát tồn tại dưới cả ba hình thái là TB tiền tệ, TB sản xuất,
TB hàng hoá.
3.1. Các hình thái tuần hoàn của tư bản
Trong quá trình vận động trải qua 3 giai đoạn, tư bản lần lượt khoác
lấy các hình thái tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất, tư bản hàng hoá vàở mỗi
hình thái nó hoàn thành một chức năng thích hợp. Đó là tư bản công nghiệp
(công nghiệp với ý nghĩa bao quát mọi ngành sản xuất vật chất kinh
doanh). Tư bản công nghiệp là hình thái tồn tại duy nhất của tư bản với
chức năng không chỉ chiếm lấy giá trị thặng dư mà còn tạo ra giá trị thặng
dư.
Tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất và tư bản hàng hoáđều không phải là
những loại tư bản độc lập mà chỉ là những hình thái chức năng đặc thù của
tư bản công nghiệp. Tư bản này lần lượt mang 3 hình thái và xét trong qúa
trình vận động liên tục, mỗi hình thái đều có thể xem làđiểm xuất phát
đồng thời làđiểm hồi qui của nó. Vì vậy, tư bản công nghiệp vận động đồng
thời cùng một lúc dưới cả 3 dạng tuần hoàn: tuần hoàn của tư bản tiền tệ,
tuần hoàn của tư bản sản xuất, tuần hoàn củatư bản hàng hoá.
a. Dưới chủ nghĩa tư bản, tư bản cho vay là một bộ phận của tuần
hoàn tư bản công nghiệp dưới hình thức tư bản tiền tệ tách ra. Trong quá
trình tuần hoàn của tư bản công nghiệp tất yếu sẽ dẫn đến hai hiện tượng
ngược nhau: Một số nhà tư bản có một lượng tiền tạm thời chưa dùng đến,
họ cần cho vay để thu lợi tức; trong khi đó, một số nhà tư bản khác cần tư
bản để mua NVL, cần mở rộng kinh doanh mà chưa tích luỹđủ vốn... họ
cần phải đi vay. Từđó xuất hiện tư bản cho vay.
Tư bản cho vay là tư bản mà quyền sở hữu và quyền sử dụng tách rời
nhau. Cùng một tư bản, đối với người cho vay nó là tư bản sở hữu, tức là
8
nó chỉđược tạm giao cho người khác sử dụng sau kỳ hạn nhất định sẽđược
hoàn lại kèm theo một số lãi , đối với người đi vay nó là tư bản hoạt động,
làm chức năng tạo ra lợi nhuận - tư bản cho vay là một loại hàng hoáđặc
biệt vì người bán không mất quyền sở hữu còn người mua khi dùng thì giá
trị của nó không mất đi mà còn tăng lên, giá cả của nó không do giá trị mà
do giá trị dùng của nó quyết định và thấp hơn nhiều so với giá trị. Tuần
hoàn của tư bản tiền tệ có công thức: T - H... SX... H' - T', với điểm xuất
phát là T vàđiểm kết thúc là T', biểu thị một cách rõ nhất động cơ và mục
đích vận động của tư bản là giá trị tăng thêm giá trị, tiền đẻ ra tiền hay tư
bản cho vay. Trong tuần hoàn này, T là phương tiện ứng ra trong lưu thông
nên hình như lưu thông đẻ ra giá trị lớn hơn và T' là mục đích đạt được
trong lưu thông nên hình như lưu thông đẻ ra giá trị lớn hơn, còn giai đoạn
sản xuất chỉ làkhâu trung gian. Do đó hình thái tuần hoàn của tư bản tiền tệ
là hình thái nổi bật nhất, đặc trưng nhất nêu rõ nhất động cơ, mục đích của
tuần hoàn của tư bản đồng thời cũng là hình thái phiến diện nhất, che giấu
nhất quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa.
b. Tuần hoàn của tư bản sản xuất có công thức:
SX... H' - T' - H'...SX
Nói lên sự hoạt động lắp đi lắp lại theo chu kỳ của tư bản sản xuất. Tư
bản hàng hoá trong tuần hoàn này cho thấy rõ nó là kết quả trực tiếp của
sản xuất, còn tư bản tiền tệ kết thúc sự thực hiện tư bản hàng hoá (H') - là
phương tiện mua, chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho sản xuất, tức là chỉ
làm môi giới cho tư bản hàng hoá chuyển thành tư bản sản xuất. Tuần hoàn
này vạch rõ nguồn gốc của tư bản. Dù là tái sản xuất giản đơn hay tái sản
xuất mở rộng, nguồn gốc tư bản đều từ qúa trình sản xuất mà ra. Song tuần
hoàn này không biểu thị việc sản xuất giá trị thặng dư. Dù là sản xuất hay
sản xuất kết cục của nó chỉ xuất hiện dưới hình thái cần thiết để làm chức
năng tư bản sản xuất, thực hiện qúa trình tái sản xuất, nó không hề chỉ ra
mục đích của quá trình là làm tăng thêm giá trị. Do đó người ta dễ lầm rằng
mục đích của nó chỉ là sản xuất, trung tâm của vấn đề là cố gắng sản xuất
thật nhiều, thật rẻ, có trao đổi sản phẩm cũng chỉ là trao đổi sản phẩm để
sản xuất được liên tục.
c. Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, tư bản thương nghiệp là một bộ
phận của tư bản công nghiệp dưới hình thái tư bản hàng hoá tách ra.
9
Nóđược hình thành khi có một số thương nhân ứng tư bản tiền tệ ra đảm
bảo việc mua và bán hàng hoá cho tư bản công nghiệp nhằm mục đích thu
lơị nhuận. Tư bản thương nghiệp là tư bản hoạt động trong lĩnh vực lưu
thông hàng hoá. Nó thực hiện chức năng của tư bản hàng hoáđã tách ra
khỏi quá trình tuần hoàn của tư bản công nghiệp. Sự tách rời này phản ánh
sự phát triển sản xuất và phân công lao động xã hội.
Ra đời từ tư bản công nghiệp, tư bản thương nghiệp có quan hệ hai
mặt đối với tư bản công nghiệp: sự "phụ thuộc ở bên trong" và "độc lập ở
bên ngoài".
Tuần hoàn của tư bản hàng hoá có công thức: H' - T' - H... SX...H'
khác hẳn với các hình thái tuần hoàn khác, điểm xuất phát của nó bao giờ
cũng bắt đầu bằng H' - một giá trịđã tăng thêm giá trị, một giá trị tư bản
ứng trước đã chứa đựng giá trị thặng dư với bất kỳ qui mô như thế nào. Do
đó tuần hoàn tư bản hàng hoá có một sốđặc điểm sau đây:
- Ngay từđầu nóđã biểu hiện là hình thái của sản xuất hàng hoá tư bản
chủ nghĩa nên đã bao gồm cả tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân.
- Kết thúc bằng H chứ chưa chuyển hoá trở lại thành tiền đã tăng thêm
giá trị mới (T'), nó là hình thái chưa hoàn thành, còn phải tiếp tục vận động.
- Tuần hoàn của tư bản hoàng hoá là hình thái nổi bật sự liên tục của
lưu thông hàng hoá. H' làđiểm bắt đầu tuần hoàn và H' điểm kết thúc tuần
hoàn đều biểu hiện một khối lượng giá trị sử dụng được sản xuất ra để bán.
Do đó H' điểm bắt đầu tuần hoàn đòi hỏi lưu thông thìđiểm kết thúc H'
cũng đòi hỏi ngay một qúa trình lưu thông mới.
- Hình thái tuần hoàn này còn trực tiếp bộc lộ mối quan hệ giữa những
người sản xuất hàng hoá với nhau. Nó không phải là một hình thái vận
động chung cho mọi tư bản công nghiệp cá biệt - màđồng thời còn là hình
thái vận động của tổng số những tư bản cá biệt, tức là toàn bộ tư bản của
các giai cấp các nhà tư bản, là một vận động trong đó vận động của mỗi
một tư bản công nghiệp cá biệt chỉ là một vận động bộ phận, chằng chịt với
những vận động của các tư bản khác nhau vàđược qui định bởi những vận
động này.
Tóm lại, nếu xét riêng từng hình thái tuần hoàn, mỗi hình thái chỉ
phản ánh hiện thực tư bản chủ nghĩa một cách phiến diện, làm nổi bật bản
10
chất này và che dấu bản chất khác sự vận động của tư bản công nghiệp. Do
đó, phải xem xét đồng thời cả 3 hình thái tuần hoàn mới nhận thức đầy đủ
sự vận động thực tế của tư bản, mới hiểu biết đúng đắn bản chất của mối
quan hệ giai cấp mà tư bản biểu hiện trong sự vận động của nó.
Trong thực tế, chỉ có sự thống nhất của 3 hình thái tuần hoàn thì qúa
trình vận động của tư bản mới có thể tiến hành liên tục không ngừng. Tuần
hoàn của tư bản chỉ tiến hành được bình thường khi cả ba giai đoạn chuyển
tiếp một cách trôi chảy. Nếu một giai đoạn nào ngừng trệ thì toàn bộ tuần
hoàn sẽ bị ngừng trệ. Song muốn đảm bảo tuần hoàn không ngừng của tư
bản, bảo đảm cho tư bản liên tục chuyển hoá hình thái qua các giai đoạn kế
tiếp nhau thì phải đủ hai điều kiện.
Thứ nhất, toàn bộ tư bản phải phân ra ba bộ phận, tồn tại đồng thời ở
cả ba hình thái.
Thứ hai, mỗi bộ phận tư bản ở mỗi hình thái khác nhau đều phải
không ngừng liên tục trải qua 3 hình thái. Hai điều kiện này quan hệ chặt
chẽ với nhau, ràng buộc lẫn nhau, làm tiền đề cho nhau. Chỉ khi có sự sắp
xếp của các bộ phận tư bản tồn tại đồng thời ở cả 3 hình thái thì mới có sự
kế tục nhau của các bộ phận tư bản ấy. Vì vậy, tuần hoàn của tư bản trong
sự liên tục của nó không những là sự thống nhất của quá trình lưu thông và
quá trình sản xuất, mà còn là sự thống nhất của cả 3 tuần hoàn của nó nữa.
11
CHƯƠNG II. CHUCHUYỂN TƯBẢN
1.2. Khái niệm chu chuyển TB
Sự vận động của TB khi là một quá trình định kỳđổi mới, lặp đi lặp lại
nhiều lần chứ không phải là một quá trình cô lập thìđược gọi là chu chuyển
TB.
Khi nghiên cứu sự tuần hoàn của TB là ta nghiên cứu về chất, còn khi
nghiên cứu chu chuyển TB là ta nghiên cứu về lượng.
Nếu như khi phân tích tuần hoàn của tư bản, ta phân tích các hình thái
chuyển đổi của tư bản qua 3 giai đoạn vận động của nó thì khi phân tích
chu chuyển của tư bản ta sẽ phải lần lượt phân tích tốc độ vận động của tư
bản nhanh hay chậm hay nói cách khác phân tích thời gian chu chuyển và
số vòng chu chuyển và nghiên cứu ảnh hưởng của tốc độđóđối với việc sản
xuất và giá trị thặng dư.
2.2. Thời gian và tốc độ chu chuyển của TB
1.2.2. Thời giai chu chuyển và số vòng chu chuyển.
Thời gian chu chuyển của tư bản là khoảng thời gian là khi nhà tư bản
ứng một lượng tư bản ra dưới một hình thái nào đó cho đến khi nó chở về
tay nhà tư bản cũng dưới hình thái như thế có thêm giá trị thặng dự.
Vì chu chuyển của tư bản chỉ là tuần hoàn của tư bản xét trong một
quá trình định kỳ nên thời gian chu chuyển của tư bản cũng là thời gian tư
bản trải qua các gian đoạn lưu thông và sản xuất trong quá trình tuần hoàn
tức là bằng tổng thời gian lưu thông và thời gian sản xuất cộng lại.
Thời gian chu chuyển= Thời sản xuất + Thời gian lưu thông
Thời gian sản xuất của tư bản là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực
sản xuất. Thời gian sản xuất bao gồm:
- Thời gian lao động trực tiếp: Là thời gian người lao động dùng tư
liệu lao động tác động vào đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm. Đây là
thời gian đầu tạo ra giá trị và giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
12
- Thời gian gián đoạn lao động: Là thời gian đối tượng lao động hoặc
bán thành phẩm, chịu sự tác động của tự nhiên mà không cần lao động của
con người góp sức hoặc nếu có không đáng kể.
Thời gian lao động trực tiếp và thời gian gián đoạn lao động có thể
xen kẽ vào nhau, cũng có thể tách thành những thời kỳ riêng biệt tuỳ thuộc
từng ngành sản xuất cụ thể.
Thời gian gián đoạn lao động không tạo ra giá trị và giá trị thặng dư.
Do đó, rút ngắn thời gian này là vấn đề cóý nghĩa hết sức quan trọng đối
với các xí nghiệp tư bản chủ nghĩa.
Thời gian sản xuất của tư bản dài hay ngắn do tác động của nhiều yếu
tố, chủ yếu là 4 nhân tố sau đây:
- Tính chất của ngành sản xuất.
- Sản phẩm sản xuất chịu sự tác động của quá trình tự nhiên dài
hay ngắn.
- Năng xuất lao động, trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật cao
hay thấp.
- Dự trữ sản xuất đủ, thiếu hay thừa.
Thời gian lưu thông của tư bản là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực
lưu thông. Trong thời gian lưu thông tư bản không làm chức năng sản xuất
do đó không sản xuất không sản xuất ra hàng hoá, cũng không sản xuất ra
giá trị thặng dư.
Thời gian lưu thông ngắn hay dài khiến cho quá trình sản xuất lắp đi
lắp lại nhanh hay chậm, khối lượng một tư bản nhất định làm chức năng ưt
bản sản xuất được nhiều lần hay ít lần do đó hiệu quả của tư bản, tức là
việc sản xuất ra giá trị thặng dư cao hay thấp.
Thời gian lưu thông gồm thời gian mua và thời gian bán, trong đó thời
gian bán quan trọng hơn và khó khăn hơn. Thời gian lưu thông dài hay
ngắn chủ yếu là 3 nhân tố: tình hình thị trường tốt hay xấu; khoảng cách thị
trường xa haygần; giao thông khó khăn hay thuận lợi, phương tiện giao
thông hiện đại hay thô sơ.
Chịu ảnh hưởng của hàng loạt nhân tố nên thời gian sản xuất và thời
gian lưu thông của các nhà tư bản không thể không giống nhau. Do đó thời
13
gian chu chuyển tư bản trong các ngành khác nhau cũng như trong cùng
một ngành rất khác nhau. Thời gian chu chuyển của tư bản dài ngắn khác
nhau nên tất yếu sẽ dẫn đến sự muốn tính toán và so sánh chúng người ta
thường tính tốc độ chu chuyển của các tư bản trong cùng một thời gian nhất
định, thường là một năm, xem tư bản đã quay được mấy vòng. Ta có công
thức sau:
n = Error!
n: Số vòng chu chuyển
CH: Là thời gian trong 1 năm
ch: Là thời gian chu chuyển 1 vòng của tư bản.
2.2.2.Tốc độ chu chuyển của TB
Do những nhân tốảnh hưởng tới nó và do những yêu cầu riêng của từng
ngành, từng lĩnh vực sản xuất nên thời gian chu chuyển của TB dài hay
ngắn khác nhau. Chính vì thế, thời gian chu chuyển của TB chưa phản ánh
đúng tính chất và lượng TB chu chuyển TB mà người ta còn căn cứ vào tốc
độ chu chuyển của TB. Do chính là số vòng chu chuyển của TB thực hiện
được trong một khoảng thời gian nhất định (một năm).
14
CHƯƠNG III. TƯBẢNCỐĐỊNHVÀTƯBẢNLƯUTHÔNG
Thời gian chu chuyển của tư bản bao gồm toàn bộ thời gian chu
chuyển của các bộ phận tư bản phải ứng ra để tiến hành sản xuất. Nhưng
phương thức chu chuyển của các bộ phận tư bản không giống nhau, do đó
vòng chu chuyển của chúng cũng rất khác nhau. Trong lĩnh vực kinh tế
người ta phân chia các bộ phận tư bản thành tư bản cốđịnh và tư bản lưu
động.
a- TB cốđịnh là bộ phận TB sản xuất mà bản thân nó tham gia hoàn toàn
vào qúa trình sản xuất, nhưng GT thì lại không chuyển hết một lần, mà
chuyển dần từng phần một vào sản phẩm, ví dụ: nhà xưởng, máy
móc...Trong sản xuất, những thứ này hao mòn dần đi và chỉ chuyển hết GT
của chúng vào sản phẩm sau một thời gian dài.
b- TB lưu động là bộ phận TB, khi tham gia vào quá trình sản xuất, nó
chuyển toàn bộ GT của nó sang sản phẩm. Đó là bộ phận tứ bản bất biến
dưới hình thái nguyên vật liệu, nhiên liệu...Bộ phận TB khả biến có phương
thức chu chuyển giống như thế nên cũng được coi là chủ nghĩa TB lưu
động.
Sự khác nhau giữa TB cốđịnh và TB lưu động đôi khi chỉ là tương đối.
Lấy ví du như “con trâu”, đối với người nông dân thì con trâu là phương
tiện sản xuất, do đó nó là TB cốđịnh, song đối với các lò mổ thì con trâu là
“nguyên liệu sản xuất”, do đó nó là TB lưu động.
Sự phân chia tư bản thành tư bản cốđịnh và tư bản lưu động làđặc
điểm riêng của tư bản sản xuất. Căn cứ vào sự phân chia là phương thức
chu chuyển của tư bản. Tư bản cốđịnh chu chuyển chậm hơn tư bản lưu
động. Trong khi tư bản cốđịnh chu chuyển được 1 vòng thì tư bản lưu động
có thể chu chuyển được nhiều vòng hơn.
Xác định tư liệu sản xuất là tư bản cốđịnh hay tư bản lưu động phải
căn cứ vào chức năng của nó trong quá trình sản xuất. Trong quá trình sản
xuất tư bản cốđịnh bị hao mòn dần. Một chiếc máy từ chỗ mới nguyên vẹn
bị hao mòn dần trong quá trình sử dụng cuối cùng chỉ còn làđống sắt vụn.
Đó là hao mòn về mặt giá trị sử dụng. Đi đôi với hao mòn vật chất giá trị
15
của nó cũng bị giảm dần do đã chuyển từng phần sang sản phẩm. Đó là hao
mòn về mặt giá trị. Những sự hao mòn đó gọi là hao mòn hữu hình - hao
mòn do sử dụng trong sản xuất, do phá hoại của thiên nhiên gây ra.
Ngoài hao mòn hữu hình tư bản cốđịnh còn bị hao mòn vô hình. Hao
mòn vô hình là nói về những trường hợp máy móc tuy còn tốt nhưng đã bị
mất giá vì có những máy móc tốt hơn hiện đại hơn xuất hiện. Nó là hao mòn
thuần tuý về mặt giá trị. Một số nguyên nhân dẫn đến hao mòn hữu hình:
- Năng suất lao động tăng lên do đó làm giảm giá trị của những chiếc
máy cũ tuy giá trị sử dụng của chúng còn nguyên vẹn hoặc mới bị hao mòn
một phần.
- Tiến bộ của khoa học kỹ thuật được ứng dụng đã tạo ra những máy
móc tối tân hơn, có công suất cao hơn các máy móc cũ. Tình hình này là
làm cho các máy móc cũ tuy giá trị sử dụng còn nguyên vẹn nhưng giá trị
bị giảm đi nhiều.
Hao mòn vô hình và hao mòn hữu hình của tư bản cốđịnh đều được
tính chuyển vào giá trị sản phẩm, lưu thông của sản phẩm, chuyển hoá
thành tiền và hình thành quỹ khấu hao dùng đểđổi mới tư bản cốđịnh khi
đến kỳ tái tạo ra tư bản đó dưới hình thái hiện vật.
Tư bản cốđịnh phải được bảo quản chu đáo để tránh những hao mòn
bất thường và nâng cao hiệu quả của nó. Việc bảo quản thực hiện một phần
ngay trong việc sử dụng, bảo tồn nó và chuyển giá trị của nó vào sản phẩm.
Việc bảo quản này là một cống hiến tự nhiên, không mất tiền của lao động
sống. Ngoài việc bảo quản đó, tư bản cốđịnh còn phải được bảo quản thực
sự. Do đó phải có những chi tiêu đặc biệt để bảo dưỡng, tu bổ và sửa chữa
TSCĐ. Những chi phí bảo quản và sửa chữa đóđược phân phối bình quân
vào suốt cuộc đời phục vụ trung bình của tư bản cốđịnh và tính vào giá cả
sản phẩm sản xuất ra. Số tư bản chi cho bảo quản và sửa chữa xét về nhiều
điểm là một thứ tư bản có tính chất đặc biệt, không thể xếp vào tư bản lưu
động cũng không thể xếp vào tư bản cốđịnh. Nhưng vì là một bộ phận
trong chi phí thường ngày nên nóđược sắp xếp vào tư bản lưu động, trừ
những chi phí sửa chữa lớn có tính chất thay thế hay đổi mới tư bản cốđịnh
tính vào quĩ khâú hao TSCĐ.
CHƯƠNG IV
16
ÝNGHĨATHỰCTIỄNKHINGHIÊNCỨULÝTHUYẾTTUẦNHOÀNV
ÀCHUCHUYỂNCỦATƯBẢNĐỐIVỚIVIỆCQUẢNLÝCÁCDOANHN
GHIỆPỞNƯỚCTAKHIBƯỚCVÀONỀNKINHTẾTHỊTRƯỜNGCÓS
ỰQUẢNLÝCỦANHÀNƯỚC.
Tại Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đánh dấu một bước ngoặt quan
trọng cho nền kinh tế nước ta, từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp
chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Trước năm
1986 quan hệ ngoại giao của nước ta với các nước trên thế giới rất mờ nhạt,
chủ yếu quan hệ với một số nước anh em như: Liên Xô (cũ), Trung Quốc,
Bungari... với mục đích tiếp tục nhận viện trợ . Nền kinh tế trong nước còn
đang yếu, các doanh nghiệp sản xuất theo lệnh từ cấp trên đưa xuống và
cũng chính Nhà nước tìm cách tiêu thụ sản phẩm cho doanh nghiệp bên
cạnh đó lạm phát luôn là mức phi mã. Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước các doanh nghiệp có trách nhiệm duy trì, bảo
tồn và phát triền nguồn vốn hiện có nghĩa là doanh nghiệp tự mình sản xuất
kinh doanh tìm "đầu vào" và "đầu ra" cho doanh nghiệp. Về phía Nhà nước
lúc này chỉ quản lý các doanh nghiệp ở tầm vĩ mô. Do đó nghiên cứu lý
thuyết thuần hoàn của tư bản rất cóý nghĩa đối với việc quản lý các doanh
nghiệp ở nước ta trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
1.4. Biện pháp nâng cao tốc độ chu chuyển của tư bản
Thứ nhất: xác định đường lối sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp.
Hiện nay nước ta đang tồn tại song song 5 phần kinh tế. Cùng với sự
xuất hiện của những doanh nghiệp mới thành lập đã có rất nhiều doanh
nghiệp làm ăn không có hiệu quả dẫn đến phá sản. Ngay từ khi có quyết
định bỏ vốn thành lập doanh nghiệp nhà quản trị phải trả lời được 3 câu
hỏi: doanh nghiệp sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai?
chỉ khi trả lời ba câu hỏi này một cách đầy đủ và chính xác nhất thì hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mới được tiến hành bình
thường và liên tục hay nói cách khác doanh nghiệp góp phần thực hiện quá
trình tuần hoàn tư bản.
17
Để trả lời được câu hỏi doanh nghiệp sản xuất cái gì? doanh nghiệp
cần phân tích nhu cầu của thị trường xem thị trường đang thiếu cái gì mà
nhu cầu về mặt hàng ngày đang tăng và nó sẽ mang lại nhiều lợi nhuận nhất
cho doanh nghiệp trong khả năng vốn hiện có. Sau đó nhà quản trị sẽ bỏ
vốn để mua tư liệu sản xuất như nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu
phụ, thiết bị sản xuất, nhiên liệu, nhà xưởng, kho tàng và mua sức lao động
(trả lương cho công nhân). Đây là giai đoạn vốn của doanh nghiệp từ hình
thái tiền tệ chuyển sang hình thái hiện vật. ở giai đoạn này nhà quản trị phải
cân đối vốn để mua tư liệu sản xuất và trả lương cho công nhân theo tỉ lệ
thích hợp. Nếu thiếu một trong hai nhân tốđó thì quá trình sản xuất sẽ bị
gián đoạn làm ảnh hưởng tới sự tuần hoàn và chu chuyển của tư bản. Dựa
vào phân tích tốc độ chu chuyển của vốn các doanh nghiệp không chỉ lên
kế hoạch sản xuất kinh doanh mà còn phải xây dựng chiến lược kinh doanh
dài hạn bằng cách hình thành các quĩ như quĩđầu tư, phát triển, quĩ khấu
hao, quĩ phúc lợi. Sau một thời gian sản xuất những quĩ này được đưa ra sử
dụng mở rộng sản xuất (theo chiều rộng) hoặc cải tiến máy móc, nhập thêm
dây chuyền hiện đại để tăng năng suất lao động (mở rộng theo chiều sâu).
Thứ hai: tiết kiệm được tư bản ứng trước.
Sau một thời gian dài hoạt động máy móc sẽ bị hao mòn dần do chuyển
một phần giá trị vào sản phẩm. Ngoài việc cải tiến máy móc, nhập thêm
những dây chuyền sản xuất tiên tiến, hiện đại các doanh nghiệp phải dựa
vào kinh nghiệm sản xuất kinh doanh mà dự tính trước những công việc
bảo dưỡng, tiểu tu, trung tu, đại tu tài sản cốđịnh sau những khoảng thời
gian hoạt động nhất định, cũng như việc sửa chữa hư hỏng thông thường và
bất thường có thể xảy ra.
Ngoài ra, để tránh hao mòn vôích, nhất là hao mòn vô hình doanh
nghiệp phải ra sức tiết kiệm các chi phí bảo quản và sửa chữa bằng cách
nâng cao ý thức người lao động đối với việc sử dụng máy móc, tăng cường
sử dụng hết công suất máy thiết kếđể thu hồi vốn nhanh và thu nhiều lợi
nhuận trong thời gian ngắn nhất.
Thứ ba: đưa ra các giải pháp để tăng tốc độ chu chuyển vốn.
18
Muốn quay vòng vốn nhanh để tiếp tục một chu kỳ sản xuất mới các
doanh nghiệp phải ra sức rút ngắn thời gian sản xuất và thời gian lưu thông
vì nó là thành phần tạo nên thời gian chu chuyển của vốn. Các doanh
nghiệp ở nước ta trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
thường đưa ra những giải pháp sau đây để rút ngắn thời gian sản xuất.
+ Áp dụng khoa học - kỹ thuật hiện đại để tăng năng suất lao động.
Bên cạnh việc nhập khẩu một số dây chuyền nước ngoài có công nghệ tiên
tiến các doanh nghiệp không nên bỏ qua những dây chuyền sản xuất có khả
năng sử dụng bằng cách bán lại cho những doanh nghiệp cần nó.
+ Mở rộng quan hệđể liên doanh, liên kết. Việt Nam là một trong
những nước nghèo nhất trên thế giới do đó liên doanh liên kết là con đường
ngắn nhất để bắt kịp với sự tiến bộ của xã hội.
+ Cải tiến bộ máy tổ chức và quản lý lao động. Hiện nay một số
doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu tổ chức quản lý cồng kềnh dẫn đến giải
quyết công việc bị chồng chéo lên nhau,vi phạm quyền hạn và trách nhiệm
của người này với người khác. Vì vậy, các doanh nghiệp cần phải giảm lực
lượng lao động gián tiếp không có năng lực để bộ máy được gọn nhẹ linh
hoạt, tuân thủ chếđộ một thủ trưởng. Mặt khác lực lượng lao động trực tiếp
là người sản xuất ra sản phẩm nên phải bố trí ca kíp làm việc hợp lý cho
mọi người để có thời gian nghỉ ngơi. Thực hiện chếđộ làm việc 40 giờ một
tuần đồng thời trả lương xứng đáng cho người lao động đã bỏ sức ra,
khuyến khích người lao động làm việc có năng suất, hiệu quả bằng những
phần thưởng vật chất và tinh thần.
Một số giải pháp rút ngắn thời gian lưu thông.
+ Nhu cầu của con người thường xuyên biến đổi, khi một nhu cầu này
được thoả mãn nhu cầu khác lại xuất hiện, qúa trình này không ngừng diễn
ra. Để thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng đồng nghĩa bán được sản
phẩm và thu hồi vốn nhanh, các doanh nghiệp phải thường xuyên nghiên
cứu thị trường, tìm hiểu thị trường xem sản phẩm nào đang có nhu cầu trên
thị trường để tăng sản lượng sản xuất. Ngược lại, nếu một số sản phẩm do
doanh nghiệp sản xuất ra đang bão hoà và có xu hướng giảm dần doanh
nghiệp nên chuyển hướng sản xuất kinh doanh sản phẩm khác.
19
+ Cải tiến mặt hàng sao cho chủng loại hàng hoá của doanh nghiệp
luôn phong phúđa dạng, phù hợp với từng đối tượng, giới tính, độ tuổi. Sản
xuất đa dạng hoá sản phẩm không những thoả mãn tối đa nhu cầu của
người tiêu dùng mà còn tận dụng được những tư liệu sản xuất chưa dùng
đến và giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh.
+ áp dụng các hình thức thanh toán linh hoạt vàđặc biệt phải xây dựng
các kênh phân phối. Xác định đâu loại thị trường chính, thị trường mục tiêu
từđó phân khúc thị trường nhằm mở rộng thị phần.
Thứ tư: hạn chế rủi ro trong kinh doanh.
Trong cơ chế thị trường sự cạnh tranh diễn ra hết sức khốc liệt, nó tạo
ra nhiều cơ hội làm ăn mới nhưng cũng chứa đầy những thách thức vàđe
doạ. Nắm bắt được qui luật tuần hoàn và chu chuyển vốn của doanh nghiệp
các nhà quản trị tận dụng cơ hội đểđầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh.
2.4. Vốn- Vai trò của việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả
Việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả là một chìa khoá quan trọng
cho thành công của các doanh nghiệp nói riêng và của cả nền kinh tế nói
chung. Tuy nhiên, do có những hạn chế nhất định cho nên tiểu luận này chỉ
nghiên cứu về vốn, việc quản lý và sử dụng vốn ở phương diện vĩ mô.
Để thấy được vai trò của việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả, chúng ta
nhìn lại nền kinh tế nước ta thời kỳ kế hoạch hoá tập trung. Với tham vọng
mau chóng xây dựng một nền kinh tế PT “toàn diện tự chủ”, trong đó công
nghiệp hiện đại, giao thông, bưu điện, thương nghiệp quốc doanh tiên
tiến...., các nhà hoạch định chính sách đãđưa ra chiến lược “ưu tiên PT
công nghiệp nặng”. Như chúng ta đã biết, công nghiệp nặng là ngành đòi
hỏi phải có một lượng TB ứng trước lớn, thời gian chu chuyển của TB
cốđịnh rất dài, do đó hiệu quả TB đương nhiên không cao và hiệu quả kinh
tế thu được rất chậm. Trong điều kiện nước ta lúc bấy giờ, nền kinh tế tăng
trưởng chậm, lạm phát tăng, vốn đầu tư hầu hết chỉ dựa vào ngân sách quốc
gia. Do nguồn vốn ít ỏi, thực lực kinh tế còn yếu cho nên nhà TB đã không
đầu tư vào các ngành có thời gian chu chuyển ngắn hay tốc độ chu chuyển
nhanh. Chính vì sai lầm này, mọi nguồn lực đều bị sử dụng vô tội vạ, các
20
nguồn vốn tài trợ...đều được đổ vào công nghiệp nặng bất chấp hiệu quả,
bất chấp quy luật cung cầu. Hậu quả là ngân sách nhà nước cạn kiệt, nợ
nước ngoài chồng chất, lạm phát tăng, hệ thống công nghiệp nặng đồ sộ
không còn được nuôi dưỡng bỗng chốc trở thành gánh nặng kinh tế.
Như vây, việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả là hết sức quan trọng,
đặc biệt là trong việc xác định mục tiêu và hoạch định chiến lược PT kinh
tế, từđó có chiến lược huy động vốn và sử dụng vốn thích hợp. Nước ta
hiện nay đang trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, với một nền
kinh tế hết sức nhạy cảm với các tác động chủ quan cũng như khách quan.
Vì thế việc xác định “chính sách công nghiệp hoá” sao cho phù hợp là bước
quan trọng đầu tiên và quan trọng nhất.
21
KẾTLUẬN
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay ở nước ta là sự nghiệp
của toàn Sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất biện chứng giữa quá
trình sản xuất và qúa trình lưu thông, giữa quá trình tạo ra giá trị thặng dư
và quá trình thực hiện giá trị thặng dư. Vì vậy nghiên cứu lý thuyết tuần
hoàn và chu chuyển của tư bản chính là nghiên cứu quá trình lưu thông để
xác định rõ hơn vị trí của lưu thông và hiểu biết đầy đủ sự vận động của tư
bản cùng với những biểu hiện của quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa trong
qúa trình vận động đó.
Nước ta sau hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới chuyển từ nền
kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường đã thu được
nhiều kết quả to lớn đáng khả quan. Bộ mặt đất nước đã vàđang thay đổi
một cách nhanh chóng, đời sống nhân dân được cải thiện và nâng cao. Đặc
biệt trong một vài năm trở lại đây kinh tế thị trường đã tạo ra một môi
trường kinh tế hết sức sôi động và cạnh tranh gay gắt do đóđể tồn tại
vàđứng vững trên thị trường các doanh nghiệp cần kết hợp phân tích lý
thuyết tuần hoàn và chu chuyển của tư bản với điều kiện hiện có của doanh
nghiệp. Do lần đầu tiên với việc nghiên cứu môn Kinh tế chính trị và thời
gian có hạn nên không thể tránh được những sai sót trong quá trình thực
hiện. Em rất mong được sự chỉ bảo đóng góp ý kiến cho bản tiểu luận được
hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
22
TÀILIỆUTHAMKHẢO
1. C.Mác tư bản quyển 2 - Tập 1
2. C.Mác tư bản quyển 2 - Tập 2
3. Chính sách cổ phần hoá DNNN (NXB chính trị quốc gia 1997)
4. Một số văn kiện Đại hội Đảng VIII
5. Giáo trình “Kinh tế chính trị” tập II - Trường ĐH KTQD
6. Tạp chí “Tài chính tiền tệ” số 2, 05, 18 năm 1999
7. Tạp chí “Phát triển kinh tế” các số: 20-22/2000
8. Tạp chí “Ngân hàng” số 4/2000
9. Tạp chí “Doanh nghiệp” số 8/2000
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ktct_31_6073.pdf