Qua việc nghiên cứu các kinh nghiệm phát triển ngoại thương của Trung Quốc, chúng ta có thể nhận thấy vai trò của Nhà nước trong hoạch định chính sách và đưa ra những biện pháp tổng thể vĩ mô là rất quan trọng đối với hoạt động ngoại thương. Hơn thế nữa, Chính phủ Trung Quốc rất linh hoạt trong việc tạo lập và thực hiện các chính sách bởi vì tuy Trung Quốc cũng là một nước đang phát triển, trong quá trình phát triển kinh tế bản thân họ cũng phải học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước mà đặc biệt là các nước NIEs, nhưng từ việc học hỏi đó Trung Quốc lại tự mình xây dựng các chính sách và thực thi các biện pháp phù hợp với yêu cầu tồn tại và phát triển của chính ngoại thương Trung Quốc đồng thời cũng đáp ứng được với xu hướng phát triển chung của thời đại. Các chính sách phát triển ngoại thương không bị ép theo một khuôn mẫu phát triển nào, mà linh hoạt vận động chuyển biến theo thực tiễn vì vậy mà ngoại thương Trung Quốc phát triển vững chắc và có triển vọng lâu dài.
120 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2332 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số bài học kinh nghiệm trong phát triển ngoại thương của trung quốc và gợi ý đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Âu: Tỷ trọng của thị trường Châu Âu tăng lên khá đều. Nếu như năm 1991, tỷ trọng xuất vào Châu Âu mới chiếm 5,7% kim ngạch xuất khẩu thì tới năm 1999, tỷ trọng này đã gần 28%.
- Thị trường Châu Mỹ: Thị trường Châu Mỹ mà chủ yếu là Hoa Kỳ đang là hướng mới trong phát triển mở rộng thị trường xuất khẩu của Việt Nam. Việc Việt Nam và Hoa Kỳ ký hiệp định thương mại song phương đã mở đường cho hàng hoá Việt Nam tiếp cận thị trường Mỹ. Nếu năm 1991, Châu Mỹ chỉ chiếm tỷ trọng 0,16% trong tổng kim ngạch của Việt Nam thì năm 2002 đã tăng lên là 16,3%, tăng chủ yếu do xuất khẩu vào Hoa Kỳ (tăng 45%).
- Thị trường Châu Phi: Cho đến nay, tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Châu Phi mới chỉ đạt 1,1%, tăng gần gấp đôi so với tỷ trọng năm 1991 là 0,68%.
- Thị trường Châu Đại dương: Tỷ trọng của thị trường này đã tăng lên đáng kể, từ 0,2% năm 1991 lên đến 8,1% vào năm 2002. Chúng ta đang tiếp cận thị trường này và việc mở rộng thêm thị trường này đang có nhiều chuyển biến.
2.3.2 Cơ cấu thị trường nhập khẩu của Việt Nam
Như đã phân tích ở trên, thị trường xuất khẩu của Việt Nam chuyển dịch từ Đông sang Tây, nhất là từ năm 1996 trở lại đây. Tuy nhiên thị trường nhập khẩu lại không có thay đổi đáng kể. Đặc điểm rõ nhất của thị trường nhập khẩu Việt Nam đó là: khu vực thị trường chủ yếu vẫn là các nước Châu Á.
Bảng 15: Cơ cấu khu vực thị trường nhập khẩu của Việt Nam
Đơn vị: %
Thị trường
1994
1995
1997
1999
2001
2002
2003
Châu Á
67,13
77,47
74,28
79,90
79,00
80,20
80,00
Châu Âu
17,50
13,35
13,39
14,10
12,00
14,20
17,00
Châu Mỹ
1,59
2,08
3,99
3,23
3,00
2,60
3,00
Châu Phi
0,04
0,27
---
---
---
---
---
Châu Đại dương
1,19
1,27
1,69
2,25
2.50
---
---
Thị trường khác
12,48
5,28
6,64
7,86
3.50
---
---
Chú thích: Số liệu 2003 là số liệu của 6 tháng đầu năm.
Nguồn: Số liệu 1994-1999:Vụ Kế hoạch Thống kê-Bộ Thương mại, Báo cáo tổng kết tình hình ngoại thương 1991-2000. Số liệu 2001-2002: Tổng cục Thống kê: Kinh tế xã hội Việt Nam 3 năm 2001-2003, NXB Thống kê 2003
Qua số liệu trên ta thấy tỷ trọng thị trường nhập khẩu Châu Á vẫn được duy trì ở mức rất cao, năm 1994 chiếm 67,13% nhưng đến nay đã chiếm tới hơn 80%, cho đến nay đây là khu vực thị trường duy nhất nước ta nhập siêu. Trong khi đó thị trường Châu Âu có thay đổi, nhưng tốc độ tăng chậm, từ năm 1995 đến 2002 vẫn giữ xung quanh mức 13- 14%, 6 tháng đầu năm 2003 thì có dấu hiệu tăng mạnh hơn.
Điều này cho thấy Việt Nam vẫn có xu hướng nhập khẩu từ những nước có trình độ công nghệ ở mức chưa cao. Một lý do đáng kể là do hàng nhập khẩu của ta chủ yếu là máy móc thiết bị công nghệ mà những thiết bị này của Châu Âu và Mỹ tuy có trình độ công nghệ cao nhưng giá cũng ở mức vượt quá khả năng của Việt Nam.
Còn đối với thị trường Châu Phi và Châu Úc thì tình hình không mấy khả quan và tỷ trọng nhập khẩu vẫn còn rất khiêm tốn. Trong suốt thời gian qua, tỷ trọng của Châu Phi chỉ là 0,1-0,2% còn thị trường Châu Úc cũng chỉ ở mức 1-2%.
3. Những thuận lợi và thách thức đối với ngoại thương Việt Nam hiện nay
3.1. Thuận lợi
Thứ nhất là từ khi đổi mới hoạt động ngoại thương đến nay, về cơ bản tư duy cách nghĩ cách làm của các doanh nghiệp Việt Nam- những chủ thể của hoạt động ngoại thương- đã có sự chuyển biến tích cực. Các doanh nghiệp Việt Nam đã làm quen với hoạt động ngoại thương trong nền kinh tế thị trường mở, nhiều doanh nghiệp đã mạnh dạn đầu tư lớn vào hoạt động sản xuất kinh doanh xuất khẩu, chủ động sáng tạo trong kinh doanh.
Thứ hai là một số mặt hàng mà Việt Nam có lợi thế so sánh cũng bắt đầu tìm được chỗ đứng trên thị trường thế giới, với chất lượng và mẫu mã ngày càng nâng cao, đáp ứng được một số thị trường cấp cao.
Thứ ba là kinh tế Việt Nam vẫn đang tiếp tục tăng trưởng ổn định, đây vẫn sẽ là xu hướng cơ bản trong thời gian tới. Đây là điều kiện hết sức thuận lợi cho ngoại thương phát triển vì kinh tế ổn định, sản xuất phát triển, nhu cầu ngày càng nâng cao sẽ là tiền đề tốt để phát triển cả xuất khẩu và nhập khẩu.
Thứ tư là Việt Nam đang và sẽ tận dụng được những cơ hội do việc gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế mang lại, điển hình là với việc gia nhập AFTA bên cạnh việc mở cửa thị trường thì hàng hóa Việt Nam cũng đang được hưởng những ưu đãi khi vào thị trường các nước ASEAN.
Thứ năm là, Việt Nam cũng đang nhận được sự ủng hộ của nhiều nước trong hội nhập kinh tế thương mại quốc tế. Chẳng hạn như về việc gia nhập WTO Việt Nam đang có nhiều thuận lợi. Trong năm 2002, Việt Nam đã tiến hành đàm phán song phương với 16 quốc gia thành viên WTO trong đó có nhiều đối tác “nặng ký” như Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thụy Sỹ, Australia... và đều nhận được sự ủng hộ tích cực đối với nguyện vọng và hoàn cảnh của Việt Nam khi gia nhập WTO. Cho đến nay, về cơ bản quá trình thương lượng gia nhập WTO của Việt Nam là thuận lợi, thậm chí khá suôn sẻ. Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ, cảm thông và cả các cam kết hỗ trợ nhiều mặt từ nhiều nước và tổ chức quốc tế. Việt Nam được coi là trường hợp đặc biệt cần được dành cho những ưu đãi khác biệt khi tham gia WTO; được Mỹ và Canada trợ giúp xây dựng văn bản chính sách; được EU và Italia đang triển khai các dự án lớn nhiều triệu USD về đào tạo nhân lực và được UNDP tham gia hỗ trợ bảo vệ quyền lợi Việt Nam trong khi tuân thủ các quy định của WTO.
3.2. Thách thức
Thách thức lớn nhất hiện nay đối với ngoại thương Việt Nam trong tiến trình hội nhập như đánh giá của Thủ tướng Phan Văn Khải tại Hội nghị với các nhà doanh nghiệp (24-25/03/2003 tại Tp. Hồ Chí Minh) là: Năng lực cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam kém và hiệu quả kinh tế chưa cao. Thật vậy, chi phí sản xuất sản phẩm và thực hiện nhiều loại hình dịch vụ của Việt Nam còn cao. Theo báo cáo kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2003 trình bày tại Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành TƯ Đảng khóa IX, nhiều loại hàng hóa của Việt Nam có giá thành cao hơn so với các nước trong khu vực là 20-30%. Nguyên nhân chủ yếu là do chi phí dịch vụ, cơ sở hạ tầng thương mại, công nghiệp chế biến… cao đã làm giảm đáng kể khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. Ví dụ như chi phí bốc xếp gạo tại cảng TP.Hồ Chí Minh cao gấp 2,5 lần tại một cảng có diều kiện tương tự tại Trung Quốc; chi phí bốc xếp của Việt Nam là 6,3 cent (Mỹ)/kWh, trong khi tại Trung Quốc chỉ là 4,5 cent [2].Vấn đề giảm chi phí đầu vào nhằm hạ thấp giá thành sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng hóa Việt Nam vẫn là vấn đề gây thách thức lớn nhất đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Tới đây, khi Việt Nam thực hiện đầy đủ các cam kết của AFTA và trở thành thành viên của WTO thì năng lực cạnh tranh của sản phẩm, của doanh nghiệp càng là vấn đề sống còn đối với ngoại thương Việt Nam.
Thách thức thứ hai, đó là trong giai đoạn hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực hiện nay, việc thay đổi cơ chế, chính sách cho phù hợp với thông lệ quốc tế và đáp ứng yêu cầu của các tổ chức quốc tế mà Việt Nam tham gia là hết sức khó khăn và phức tạp. Việt Nam tiến hành đổi mới kinh tế, đổi mới hoạt động ngoại thương chưa được bao lâu, các cơ chế, chính sách ngoại thương của chúng ta phần nhiều chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Để có thể tham gia bình đẳng vào “sân chơi” thương mại quốc tế, Việt Nam sẽ phải tiến hành sửa đổi nhiều chính sách thương mại, điều chỉnh nhiều về cơ chế quản lý xuất nhập khẩu, về biện pháp quản lý xuất nhập khẩu. Đây là công việc phức tạp, khó khăn mà chúng ta lại phải tiến hành trong một khoảng thời gian tương đối gấp rút vì hiện nay Việt Nam là một trong những nước nằm trên “chuyến tàu vét” hội nhập vào thương mại thế giới.
Thách thức thứ ba, là trong giai đoạn hiện nay Việt Nam cũng đang và sẽ phải đối mặt với chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch mới. Trong thời gian qua, một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đã bắt đầu “xen chân” vào được một số thị trường cấp cao như Mỹ, EU. Tuy nhiên, các thị trường này cũng thường áp dụng các biện pháp bảo hộ mậu dịch phức tạp và tinh vi( như việc lạm dụng hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật với hàng nhập khẩu từ các nước khác, việc áp đặt thuế chống bán phá giá...) gây trở ngại cho hoạt động mậu dịch quốc tế, tạo nên những rào cản thương mại khó lường. Điển hình là vụ kiện các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá cá tra và cá basa sang thị trường Mỹ. Lấy cớ Việt Nam bán phá giá cá basa, phía Mỹ đã áp dụng thuế chống phá giá làm giảm khả năng cạnh tranh của mặt hàng này trên thị trường Mỹ. Để đối phó với tình trạng này thì ngoài việc nâng cao chất lượng và năng lực cạnh tranh của sản phẩm, còn đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải nắm vững về hệ thống luật pháp quốc tế, nắm vững thông tin về các rào cản thương mại ở nước nhập khẩu để có thể bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình nhưng hiện nay việc nắm bắt những thông tin này và vận dụng trên thực tiễn cũng vẫn còn là một trong những điểm yếu của doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam.
III. MỘT SỐ GỢI Ý ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM
1. Hoàn thiện môi trường pháp lý, đổi mới cơ chế quản lý xuất nhập khẩu
Chính sách quản lý xuất nhập khẩu hàng hóa của Trung Quốc luôn được thực hiện theo xu hướng tự do hóa thương mại, xóa bỏ dần những cản trở đối với hoạt động ngoại thương, tạo mọi điều kiện cho hoạt động xuất nhập khẩu. Học tập kinh nghiệm từ Trung Quốc, chúng ta nên thấy rằng:
Trước hết, cần phải đổi mới quan điểm, luận cứ khi xây dựng cơ chế điều hành xuất nhập khẩu: Thống nhất nội dung quản lý Nhà nước bằng cách chuẩn hoá các nội dung về hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá theo quy định quốc tế; thống nhất quản lý hoạt động xuất nhập khẩu bằng pháp luật; hoàn thiện luận cứ khoa học của việc đổi mới cơ chế quản lý Nhà nước về xuất nhập khẩu hàng hoá; đổi mới sự phân công và phối hợp giữa cơ quan liên quan đến nghiên cứu, xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật (Chính phủ - Bộ thương mại và các bộ ngành liên quan).
Để thúc đẩy ngoại thương Việt Nam, Nhà nước cần phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, cơ chế điều hành xuất nhập khẩu. Đó là xây dựng chính sách về xuất nhập khẩu ổn định cho nhiều năm, từ đó cụ thể hoá cho điều hành từng thời kỳ, đảm bảo sự thống nhất theo các chương trình mục tiêu dài hạn đã định của Nhà nước; cần nhanh chóng tự do hoá xuất khẩu tất cả những mặt hàng không phải là quốc cấm; chỉ tự do hoá nhập khẩu đối với những mặt hàng trong nước chưa sản xuất được, hoặc sản xuất được nhưng hiệu quả kinh tế thấp; ưu tiên nhập những loại hàng có tác dụng đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; không nên quản lý giá với hàng xuất khẩu.
Hoàn thiện môi trường pháp lý là một giải pháp quan trọng tạo tiền đề cho ngoại thương phát triển. Để làm được điều này Nhà nước cần phải :
- Rà soát lại Luật thương mại và các văn bản dưới luật để điều chỉnh các quy định không còn phù hợp hoặc chưa được rõ. Về Luật thương mại, cần mở rộng phạm vi điều chỉnh cho phù hợp với các quy định của WTO.
- Ban hành các văn bản luật mới phù hợp với tình hình như: Luật về Tối huệ quốc (MFN) và Đối xử quốc gia (NT); Luật Cạnh tranh và chống độc quyền; Luật chống bán phá giá và chống trợ cấp, Luật Phòng vệ khẩn cấp; Luật chống chuyển giá - một chính sách rất quan trọng đối với việc thu hút có hiệu quả nguồn vốn đầu tư của các tập đoàn xuyên quốc gia.
- Xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn hàng hoá - dịch vụ xuất khẩu phù hợp với đòi hỏi của thị trường, nâng dần sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. Đây là một đòi hỏi cấp thiết nhằm khắc phục hạn chế của hàng hoá xuất nhập khẩu Việt Nam về chất lượng.
- Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực thương mại theo hướng xoá bỏ các thủ tục phiền hà, phấn đấu ổn định môi trường pháp lý để tạo tâm lý tin tưởng cho các doanh nghiệp, khuyến khích họ chấp nhận bỏ vốn đầu tư lâu dài. Từng bước giảm các thủ tục xuất nhập khẩu cho đơn giản gọn nhẹ.
- Tăng cường tính đồng bộ của cơ chế chính sách; áp dụng thí điểm mô hình liên kết 4 bên trong xây dựng các đề án phát triển sản xuất và xuất khẩu (doanh nghiệp liên kết với trường,viện nghiên cứu, các tổ chức tài chính và các cơ quan quản lý nhà nước)
- Nghiên cứu đưa ra các chính sách thuế xuất nhập khẩu có tính nhất quán ổn định giúp các doanh nghiệp yên tâm kinh doanh. Điều hành lãi suất, tỷ giá hối đoái một cách linh hoạt để vừa đảm bảo sự ổn định kinh tế - xã hội trong nước, vừa có lợi cho xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, tiến tới biến đồng tiền Việt Nam thành đồng tiền có khả năng chuyển đổi.
2. Hoàn thiện các biện pháp khuyến khích xuất khẩu
Trung Quốc đã rất thành công khi vận dụng một số biện pháp tài chính như tín dụng, thuế và đặc biệt là tỷ giá để khuyến khích xuất khẩu. Cụ thể trong thời kì 1985 1994, Trung Quốc tạo nhiều “cú sốc tỉ giá”, đồng Nhân dân tệ liên tục bị phá giá từ mức 2,9 NDT/USD (tháng 1-1985) xuống 8,7 NDT/USD (tháng 1-1994), “cú sốc phá giá” trên 35% đầu năm 1994 [7] đã tạo nên đồng NDT rẻ, làm tăng sức cạnh tranh cho hàng hóa Trung Quốc, góp phần giúp Trung Quốc liên tục xuất siêu. Từ đó tới nay, dưới nhiều sức ép của các đối tác đặc biệt là Mỹ, Trung Quốc vẫn tiếp tục duy trì mức tỉ giá có lợi cho xuất khẩu này (8,3-8,4 NDT/USD). Với Việt Nam trong thời gian tới cũng cần đẩy mạnh việc áp dụng các biện pháp tài chính.
- Tạo vốn: Vốn luôn là vấn đề cần thiết để tăng năng lực sản xuất, kinh doanh đổi mới công nghệ và cải tiến công tác quản lý. Do vậy cần phải huy động cả nguồn vốn trong nước bằng nguồn vốn tự có, góp vốn, vay và hỗ trợ của ngân hàng và các tổ chức tài chính khác. Mặt khác, các doanh nghiệp chủ dộng tìm nguồn vốn từ bên ngoài để đầu tư cho sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu.
- Chính sách lãi suất ưu đãi: Để khuyến khích xuất khẩu đồng thời hạn chế nhập khẩu những mặt hàng trong nước sản xuất được, lãi suất đối với vốn vay để sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu nên chỉ bằng 50% mức lãi suất cho vay nhập khẩu. Mặt khác, lãi suất cũng cần có nhiều mức khác nhau để áp dụng cho từng ngành hàng, mặt hàng theo mức độ ưu đãi riêng.
- Duy trì tốt hoạt động của “Quỹ thưởng xuất khẩu”: Đây là hình thức trợ cấp xuất khẩu trực tiếp gần đây nhất khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 764/QĐ- TTg về việc lập quỹ ngày 24/08/1998. Đây là hình thức trợ cấp nhằm khuyến khích kịp thời những doanh nghiệp xuất khẩu của cả nước. Để khuyến khích sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu cần trích một phần ngân sách từ các khoản thuế để thưởng cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu tốt. Trong thời gian tới, Nhà nước cần thưởng cao hơn trước đây đối với những doanh nghiệp mở được thị trường mới hoặc có mặt hàng mới xuất khẩu (mà trong nước có khả năng sản xuất với số lượng lớn, hiệu quả cao) hoặc xuất khẩu được nhiều sản phẩm khó xuất; sản phẩm xuất khẩu có chất lượng cao, hiệu quả lớn. Hình thức thưởng có nhiều loại, có thể trực tiếp, có thể gián tiếp. Bên cạnh đó, cần có mức thưởng khác nhau và cụ thể đối với từng lĩnh vực xuất khẩu mà Nhà nước khuyến khích hoặc ít khuyến khích.
- Xây dựng và sử dụng: “Quỹ bảo hiểm xuất khẩu”: Hoạt động này đối với các nước trong khu vực đã được áp dụng từ lâu. Song Việt Nam đến năm 1997 bắt đầu xây dựng “quỹ bảo hiểm”. Đây là một hoạt động rất có ý nghĩa đối với xuất khẩu, đặc biệt đối với mặt hàng nông sản xuất khẩu vì đây là những sản phẩm chịu ảnh hưởng nhiều các yếu tố khách quan. Hoạt động này tạo điều kiện giữ vững và ổn định sản xuất, chế biến xuất khẩu.
- Lập công ty bảo hiểm tín dụng xuất khẩu: Công ty dạng này nên là công ty Nhà nước hay nói một cách khác là Nhà nước thông qua công ty đứng ra đảm bảo quyền lợi cho các nhà xuất khẩu theo hình thức tín dụng thương mại như: bán chịu, trả chậm do yêu cầu của khách hàng mà ta tranh thủ được giá cao, xâm nhập được thị trường mới, khuyến khích xuất được các sản phẩm khó bán. Mặc khác cần bảo lãnh cả nhập khẩu khi ta ít vốn phải trả chậm đối với các loại vật tư, thiết bị đầu tư cho sản xuất hàng xuất khẩu.
- Trong thời gian qua,Việt Nam đồng thời có Quỹ hỗ trợ xuất khẩu (trực thuộc Bộ Tài chính) và Quỹ hỗ trợ phát triển cũng có nhiệm vụ hỗ trợ xuất khẩu. Trong thời gian tới, để thống nhất quản lý và nâng cao hiệu quả thì cần chuyển giao chính thức cho Quỹ hỗ trợ phát triển nhiệm vụ tín dụng hỗ trợ xuất khẩu và các nhiệm vụ khác có liên quan, đồng thời đổi tên thành Ngân hàng Phát triển và Hỗ trợ xuất khẩu, trong đó nêu rõ chức năng bình ổn giá xuất khẩu nhằm tạo sự ổn định kinh doanh khi xu hướng giá trên thị trường thế giới giảm.
- Sử dụng, điều chỉnh chính sách tỷ giá hối đoái hợp lý: Trong thời gian tới Nhà nước cần tiếp tục điều chỉnh tỷ giá một cách hợp lý theo hướng có lợi cho xuất khẩu, đáp ứng được sự thay đổi nhanh chóng của thị trường trong và ngoài nước. Hơn thế nữa, chúng ta cần áp dụng cả chính sách tỷ giá có thưởng đối với xuất khẩu (có phần trăm thưởng cộng với tỷ giá cho các doanh nghiệp xuất khẩu có hiệu quả, xuất khẩu sang thị trường mới.)
- Về thuế:
+ Tiến tới giảm mức thuế xuất khẩu từ 12 mức xuống còn 3 mức (0%, 10%, và 20%). Mức 0% áp dụng đối với hàng hoá đã qua chế biến, mức 10% đối với hàng xuất khẩu chưa qua chế biến và mức 20% đối với hàng không khuyến khích xuất khẩu.
+ Việc giảm và miễn thuế xuất khẩu nên áp dụng rộng rãi hơn cho các loại hàng xuất khẩu của ta. (Vì kinh nghiệm một số nước đang phát triển trong đó có Trung Quốc cho thấy, nhìn chung số miễn giảm thường chiếm khoảng gần 20% tổng giá trị thuế của một nước).
3. Đẩy mạnh thu hút FDI vào phát triển ngoại thương
Cũng giống như ở Trung Quốc, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong thời gian qua đã đóng góp tích cực cho hoạt động ngoại thương Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh và đạt trung bình khoảng 65%/năm trong thời kỳ 1991-2000. Tính riêng thời kỳ 1996-2000, kim ngạch xuất khẩu của khu vực này đạt trên 10,6 tỷ USD, chiếm 23% kim ngạch xuất khẩu của cả nước [9]. Hoạt động xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài đã góp phần mở rộng thị trường trong nước, thúc đẩy các hoạt động dịch vụ phát triển nhanh, tạo cầu nối cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận với thị trường quốc tế và nâng cao chất lượng của hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Bảng 16: Đóng góp của các doanh nghiệp có vốn FDI đối với xuất khẩu Việt Nam
Đơn vị: tỷ USD
Chỉ tiêu
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Vốn thực hiện
2,87
3,07
2,20
2,15
2,00
2,30
2,35
Doanh thu
2,77
3,85
3,95
4,80
6,20
7,40
9,00
Kim ngạch xuất khẩu
0,92
1,79
1,98
2,59
3,32
3,60
4,50
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Kinh tế Việt Nam & Thế giới 2002-2003 [36]
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp có vốn ĐTNN cũng đóng góp vai trò đáng kể trong việc thực hiện nhập khẩu công nghệ hiện đại theo định hướng cơ cấu nhập khẩu của Việt Nam. Thông qua hoạt động nhập khẩu của các doanh nghiệp này, nước ta đã nhận được một số kỹ thuật, công nghệ tiến bộ trong nhiều ngành kinh tế như: thông tin viễn thông, thăm dò khai thác dầu khí, công nghiệp điện tử, sản xuất lắp ráp ô tô, xe máy. Trong đó, có những ngành công nghệ có chất lượng cao và đạt mức tiên tiến của thế giới như: công nghệ trong lĩnh vực dầu khí, viễn thông. Mặc dù phần lớn công nghệ chuyển giao vào nước ta là công nghệ trung bình của thế giới nhưng nó đã có tiến bộ rất nhiều so với những công nghệ đã có từ trước đó, và nếu không có FDI thì bản thân các doanh nghiệp trong nước khó có thể đạt được trong một thời gian ngắn như vậy. Đây thực sự là đóng góp quan trọng của FDI, góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng mẫu mã, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng Việt Nam.
Trong thời gian tới, để thu hút hơn nữa đầu tư nước ngoài vào hoạt động ngoại thương, Việt Nam cần chú ý giải quyết tốt những điểm sau:
3.1. Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước
Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy, Nhà nước có vai trò quan trọng trong hoạch định chiến lược tổng thể phát triển đất nước, xác định mục tiêu từng thời kỳ trên cơ sở đó bố trí cơ cấu vốn đầu tư một cách hợp lý, thu hút đầu tư vào những ngành, vùng theo mục tiêu định hướng tránh tình trạng tự phát. Ở Việt Nam thời gian qua có tình trạng đã cấp giấy phép đầu tư ồ ạt vào một số lĩnh vực và sản xuất tạm thời vượt quá nhu cầu hiện tại như: các dự án khách sạn, văn phòng cho thuê, thức ăn gia súc, nước giải khát có ga, sản phẩm điện tử gia dụng, lắp ráp ô tô. Điều này đã gây ra sức ép với sản xuất trong nước và sự giải thể của một số dự án đầu tư nước ngoài. Nguyên nhân là chúng ta chưa xác định được chính thức quy hoạch đối với một số ngành chủ chốt, trong khi đó một số ngành tỏ ra có sức hấp dẫn đối với nhiều nhà đầu tư thì gần như đã đến giai đoạn bão hoà về nhu cầu đầu tư.
Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của nhà nước theo quy định của nhà nước theo quy định của pháp luật, tránh tình trạng không kiểm soát được như hiện nay, đẩy mạnh cải cách nền hành chính quốc gia như phân công trách nhiệm và quyền hạn rõ ràng trong bộ máy hành chính, tinh giảm theo hướng gọn nhẹ, nâng cao năng lực quản lý của bộ máy này nhằm ngăn chặn tham nhũng, quan liêu, gây phiền hà cho các nhà đầu tư.
3.2. Tiếp tục giữ vững ổn định chính trị, lành mạnh hoá môi trường kinh tế vĩ mô
Khi nhà đầu tư bỏ vốn ra kinh doanh thì ổn định kinh tế và chính trị là vấn đề quan tâm hàng đầu, đặc biệt là với những nền kinh tế mới chuyển đổi như Việt Nam và Trung Quốc. Chính trị có ổn định thì đời sống kinh tế xã hội trong nước mới có điều kiện phát triển. Trong những năm vừa qua, nước ta dưới sự lãnh đạo thống nhất và xuyên suốt của Đảng vẫn được dư luận thế giới đánh giá cao về sự ổn định của môi trường chính trị.
Sự ổn định và phát triển của nền kinh tế theo hướng tích cực cũng là tiền đề cho việc mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động của FDI. Môi trường kinh tế vĩ mô tốt cho đầu tư bao hàm sự lành mạnh về giá cả hàng hoá nguyên vật liệu, về giá trị đồng tiền và tỉ giá hối đoái, về hoạt động của hệ thống ngân hàng, thị trường vốn, cơ chế tổ chức quản lý nền kinh tế.
Một nền kinh tế thị trường thực sự phát triển, có hệ thống thị trường đồng bộ, một môi trường chính trị ổn định sẽ là một nhân tố tích cực đối với việc tạo dựng môi trường đầu tư hấp dẫn tại Việt Nam, góp phần thu hút nhiều hơn vốn FDI từ các nước phát triển.
3.3. Tăng cường sức hấp dẫn của môi trường đầu tư
Bên cạnh việc xây dựng một quy hoạch tổng thể nhằm nâng cấp cơ sở hạ tầng một cách hợp lý, hiệu quả để cải thiện môi trường đầu tư “cứng” trong thời gian tới Việt Nam cần đặc biệt quan tâm tới việc cải thiện môi trường đầu tư “mềm” theo hướng sau:
- Hoàn thiện hệ thống chính sách và pháp luật về thu hút FDI đặc biệt là FDI hướng về xuất khẩu và khuyến khích các doanh nghiệp FDI xuất khẩu.
Về Luật đầu tư nước ngoài, cần bổ sung các quy định về bảo đảm nguyên tắc về đầu tư có liên quan tới thương mại (TRIMs) của WTO. Tiến tới thiết lập mặt bằng pháp lý chung cho nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước, có lộ trình thống nhất Luật đầu tư nước ngoài và Luật khuyến khích đầu tư trong nước thành một bộ luật chung về khuyến khích đầu tư.
- Đa dạng hóa các hình thức FDI để khai thác các kênh thu hút đầu tư mới, nghiên cứu và thí điểm một số hình thức đầu tư mới như công ty quản lý vốn, công ty hợp danh...
- Đa dạng hóa đối tác đầu tư trong đó chú trọng thu hút đầu tư của các TNCs và của các nhà sản xuất chìa khóa trao tay (đặc biệt là trong lĩnh vực điện tử và công nghệ thông tin) để vừa đảm bảo thị trường xuất khẩu thông qua hệ thống phân phối toàn cầu vừa góp phần chuẩn bị tiền đề cho thời kỳ sau là thời kỳ đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm có hàm lượng chất xám và hàm lượng công nghệ cao.
- Mở rộng lĩnh vực đầu tư phù hợp với cam kết trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là mở cửa các lĩnh vực thương mại dịch vụ, kinh doanh bất động sản cho các nhà đầu tư.
- Thực hiện đồng bộ các chính sách khuyến khích đầu tư, đặc biệt là các dự án hướng vào xuất khẩu có những ưu đãi hơn để thể hiện sự ưu tiên vốn ĐTNN vào phát triển xuất khẩu
- Hoàn thiện các chính sách khuyến khích đầu tư trước hết là chính sách thuế. Để nâng cao hiệu quả của công cụ thuế, hệ thống thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cần được cải tiến theo hướng: dễ tính toán, đơn giản các mức thuế; đảm bảo lợi ích quốc gia; có tác dụng khuyến khích đầu tư, từng bước áp dụng hệ thống thuế chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài; phù hợp với thông lệ quốc tế. Cụ thể:
+ Cần thực hiện chính sách thuế thực sự khuyến khích các doanh nghiệp FDI vào sản xuất cơ khí, điện, điện tử, thiết bị viễn thông, cơ khí chế tạo, đặc biệt là công nghiệp phụ trợ sản xuất phụ tùng, linh kiện. Cho phép các dự án sản xuất nguyên liệu phụ trợ phục vụ hàng xuất khẩu được hưởng ưu đãi tương tự như các dự án đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu.
+ Tập trung vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp, chế biến nông lâm thuỷ sản, phát triển nông thôn nhằm tăng cường xuất khẩu của lĩnh vực này, góp phần đẩy mạnh công tác hiện đại hoá nông nghiệp. Trong thời gian tới, Nhà nước cần chú ý: tiếp tục bổ sung các ưu đãi, khuyến khích đầu tư nước ngoài đối với các dự án chế biến nông, lâm, thuỷ sản như áp dụng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp ưu đãi nhất trong khung, ưu đãi đặc biệt cho các dự án tạo giống cây, giống con mới, chất lượng cao đáp ứng yêu cầu xuất khẩu.
+ Đối với các dự án đặc biệt quan trọng cần xử lý đặc cách và có chính sách bảo hộ hợp lý, hiệu quả trong lộ trình hội nhập.
- Tiếp tục thực hiện lộ trình giảm chi phí đầu tư, tăng sức cạnh tranh về giá cả cho các sản phẩm xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI trên thị trường thế giới.
Quyết định số 53/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ là bước đi đầu tiên thực hiện lộ trình tiến tới tạo dựng một mặt bằng thống nhất giá hàng hoá dịch vụ đối với doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo tinh thần Nghị quyết TW lần thứ IV. Muốn vậy cần tiếp tục điều chỉnh một bước giá, phí các hàng hoá dịch vụ theo hướng quy định một mức giá, phí chung cho các doanh nghiệp không phân biệt hình thức sở hữu. Hiện tại ta đang duy trì mức giá, phí khác nhau nhất là giá, phí các loại vật tư thiết yếu cho sản xuất và sinh hoạt như quy định giá điện nước, cước phí vận tải, bưu điện… khác nhau giữa doanh nghiệp trong và ngoài nước tạo ra chi phí đầu tư cao cho nhà đầu tư nước ngoài và cản trở thu hút đầu tư nước ngoài của môi trường Việt Nam gây khó khăn cho các doanh nghiệp này trong việc cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu thế giới so với các doanh nghiệp đầu tư ở các nước trong khu vực như Thái Lan, Singapore…
- Hướng đầu tư nước ngoài vào xây dựng các ngành công nghiệp công nghệ cao để tạo ra hàng xuất khẩu có giá trị cao trong thời gian tới. Chính sách khuyến khích các ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu cần xây dựng theo hướng sau:
+ Thực hiện chế độ phân bố hạn ngạch xuất khẩu cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
+Thực hiện ưu đãi về hỗ trợ xuất khẩu bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
+ Thu hẹp danh mục các sản phẩm phải đảm bảo xuất khẩu từ 80% trở lên theo hướng chỉ áp dụng yêu cầu này đối với một số sản phẩm thật cần thiết phải bảo hộ; đối với những sản phẩm thực sự có lợi thế cạnh tranh, đồng thời xử lý linh hoạt bằng cách không bắt buộc các nhà đầu tư phải cam kết xuất khẩu ngay từ đầu mà có thể thực hiện từng bước. Đối với các dự án đang hoạt động, gặp khó khăn khách quan do thị trường bị thu hẹp có thể cho phép tăng tỷ lệ tiêu thụ nội địa trong trường hợp sản phẩm cùng loại vẫn phải nhập khẩu vào thị trường trong nước có nhu cầu. Thêm nữa, cần chuyển sang áp dụng các biện pháp kinh tế, dùng đòn bẩy kinh tế là chủ yếu để khuyến khích XK.
- Nâng cao hiệu quả của các khu chế xuất (KCX): Để nâng cao hiệu quả theo đúng những ưu thế vốn có của KCX, góp phần tạo ra sự hấp dẫn hơn đối với đầu tư nước ngoài cũng như nhà đầu tư trong nước, trước mắt chúng ta cần có sự tập trung hơn cho việc hoàn thành xây dựng cơ bản các KCX đã phê duyệt để sớm đưa hệ số sử dụng cao hơn. Tuy nhiên, sự phát triển của hình thức này cũng cần phải tuân theo quy hoạch tổng thể, phù hợp với yêu cầu phát triển và điều kiện thực tế của Việt Nam, quan tâm đến chất lượng hơn số lượng vốn đầu tư. Chúng ta cần thận trọng trong việc phê duyệt thành lập KCX mới. Sắp tới, nên hình thành một cách cân đối các KCX với quy mô khác nhau, nhất là các KCX quy mô vừa và nhỏ phục vụ nông nghiệp, nông thôn.
4. Tiếp tục thực hiện đa dạng hóa mặt hàng, đa phương hóa thị trường xuất nhập khẩu
4.1. Đa dạng hóa mặt hàng
* Chính sách cơ cấu hàng xuất khẩu của Trung Quốc trong thời gian qua là đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu. Đây là một chính sách hợp lý mà không chỉ Trung Quốc mà cả Việt Nam hiện nay đã và đang áp dụng. Thành công của Trung Quốc là ở chỗ xác định được các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đạt hiệu quả kinh tế cao dựa trên cơ cấu sản xuất trong nước và phù hợp với thị trường thế giới. Đồng thời, Trung Quốc tiến hành điều chỉnh cơ cấu hàng xuất khẩu bằng cách tăng cường sản xuất những mặt hàng mới đáp ứng những thay đổi về nhu cầu trên thị trường thế giới, luôn lấy nhu cầu thị trường làm nguyên tắc hướng đạo. Chính sự đa dạng về chủng loại hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc đã đưa hàng xuất khẩu của Trung Quốc đến các thị trường khắp nơi trên thế giới. Điểm nổi bật trong cơ cấu hàng xuất khẩu của Trung Quốc là tỷ trọng của các sản phẩm thuộc ngành có kỹ thuật cao như: điện tử, tin học, máy tính, thông tin, quang học, hàng không và vũ trụ, công nghệ sinh học và siêu âm không ngừng tăng lên. Điều này là do chính sách đầu tư vốn và công nghệ tiên tiến đúng đắn, có trọng điểm. Trung Quốc nhận thấy rằng đa dạng hóa hoàn toàn không có nghĩa là đầu tư phát triển tràn lan tất cả các loại mặt hàng mà cần phải dành những khoản đầu tư tương đối lớn để phát triển một số sản phẩm chủ lực, nhất là những sản phẩm đã tìm được thị trường lớn và có nhiều triển vọng phát triển. Đây chính là một bài học mà Việt Nam cần phải áp dụng trong quá trình cải cách cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới.
Bên cạnh việc đa dạng hóa chủng loại hàng hóa, chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng giảm tỷ trọng sản phẩm thô và sơ chế, tăng tỷ trọng sản phẩm chế biến sâu và tinh. Để thực hiện chính sách chuyển dịch cơ cấu theo hướng trên cần có chính sách khuyến khích đầu tư trong nước, chính sách ưu tiên, ưu đãi cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu theo hướng đó. Mặt khác, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, bao gồm cả đầu tư trực tiếp và vay nợ, viện trợ đều ưu tiên cho đầu tư phục vụ cho xuất khẩu. Bên cạnh đó cũng cần tập trung sự cố gắng vào xuất khẩu một số sản phẩm thô và sơ chế dựa trên lợi thế so sánh sẵn có do điều kiện tự nhiên mang lại.
* Để hiện đại hóa nền sản xuất trong nước, Trung Quốc thực hiện chính sách “tam lai, nhất bổ” (ba cái đến, một cái bổ sung), ba cái đến là nguyên vật liệu quý hiếm; những linh kiện thay thế đồng bộ; những công nghệ mới tiên tiến. Với chính sách này Trung Quốc đã từng bước thay đổi cơ cấu sản xuất trong nước. Từ kinh nghiệm của Trung Quốc, về cơ cấu nhập khẩu trong giai đoạn hiện nay Việt Nam cần khuyến khích nhập khẩu theo hướng đổi mới, hiện đại hoá thiết bị và công nghệ, phục vụ công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, bằng cách chuyển nhanh sang nhập khẩu thiết bị kỹ thuật hiện đại từ các nước phát triển như Nhật Bản, Mỹ, Tây Âu. Bảo đảm vật tư hàng hoá thiết yếu cho xây dựng, sản xuất và đời sống mà nền kinh tế quốc dân chưa có điều kiện đáp ứng; góp phần ổn định thị trường, ổn định nền kinh tế và đời sống xã hội. Nhập khẩu phải bảo hộ hợp lý sản xuất nội địa để giúp các ngành có tiềm năng phát triển cạnh tranh được trên thị trường nội địa và thị trường quốc tế; nhập khẩu phục vụ cho sản xuất.
Thực hiện yêu cầu mục tiêu trên, biện pháp quản lý nhập khẩu cần hoàn thiện theo hướng:
+ Khuyến khích nhập khẩu thiết bị máy móc và công nghệ tiên tiến của thế giới, kiên quyết không nhập thiết bị cũ, lạc hậu đi đôi với việc tạo điều kiện thuận lợi nhất về vốn, về con người sử dụng và quản lý, điều hành sản xuất các thiết bị, máy móc, công nghệ này.
+ Đối với việc nhập khẩu các yếu tố bổ sung cho sản xuất và hàng tiêu dùng cần tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhập khẩu các yếu tố sản xuất là đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu và gây cản trở nhất định cho việc nhập khẩu các đầu vào mà trong nước có khả năng sản xuất.
4.2. Đa phương hóa thị trường
Chính sách đa dạng hóa thị trường đã góp một phần không nhỏ vào thành tựu ngoại thương Trung Quốc trong thời gian qua. Cũng như Trung Quốc, Việt Nam nhận thấy cần phải đa phương hóa các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, đa phương hóa thị trường và năng động tìm kiếm bạn hàng. Trong thời gian qua, Việt Nam đã thực hiện chính sách này nhưng hiệu quả vẫn chưa được như mong muốn. Điều này phần nào thể hiện qua việc Việt Nam “đánh mất” thị trường Nga trong nhiều mặt hàng cho hàng hóa Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ dù đây là thị trường truyền thống và dễ tính, chính vì vậy việc giành lại thị trường này hiện nay vẫn rất khó khăn; hay qua việc Việt Nam có lúc đã tập trung quá mức xuất cá basa vào thị trường Mỹ mà không đồng thời khai phá thị trường mới dẫn đến việc khi xảy ra tranh chấp thì các doanh nghiệp lúng túng cho việc tìm thị trường. Trong thời gian tới, Việt Nam nên:
- Trước hết cần phải chú ý tới các thị trường trọng điểm, bạn hàng lớn, đặc biệt là thị trường, bạn hàng các nước khu vực Châu Á-Thái Bình Dương và khu vực EU, trong đó với thị trường ASEAN đang nổi lên vấn đề tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) với việc từng bước và tiến tới sẽ thực hiện hoàn toàn Hiệp định về ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT). Bên cạnh đó, cần hết sức quan tâm tới thị trường liền kề là Trung Quốc khi mà thị trường này đã tăng “độ mở” sau khi vào WTO.
- Đối với các thị trường mới như thị trường Trung Đông, Nam Á, Châu Phi, chúng ta nên áp dụng các chiến lược như “ nhen nhóm”, “bổ khuyết”, “cát cứ” mà Trung Quốc đã áp dụng thành công. Để mở rộng thị trường mới, Việt Nam nên mạnh dạn áp dụng nhiều hình thức mua bán, kể cả hàng đổi hàng với những thị trường có điều kiện.
- Tích cực khôi phục các thị trường cũ như các nước SNG và Đông Âu, nhất là chúng ta cần tận dụng việc các nước này sẽ trở thành thành viên mới của EU trong năm 2004.
- Khắc phục tình trạng phải xuất khẩu qua thị trường trung gian làm giảm hiệu quả hoạt động xuất khẩu. Trong thời gian tới phấn đấu giảm dần thị trường trung gian mà tiến tới tập trung quan hệ buôn bán trực tiếp vào các khu vực thị trường ổn định, vững chắc và lâu dài.
5. Nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến thương mại
Công tác xúc tiến thương mại là một trong những giải pháp có hiệu quả thúc đẩy hoạt động ngoại thương phát triển. Trong thời gian tới, Nhà nước cần tăng cường mạnh mẽ công tác thu thập và phổ biến thông tin về thị trường ngoài, từ tình hình chung cho tới các cơ chế chính sách của các nước, dự báo các chiều hướng cung-cầu hàng hóa và dịch vụ ... Để thông tin có thể đến với mọi doanh nghiệp quan tâm theo con đường ngắn nhất, tiết kiệm nhất, Bộ Thương mại cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu và trang chủ (trang Web: www.mot.gov.vn) của Bộ, tăng cường phát hành các tài liệu theo chuyên đề, phát huy tối đa vai trò của các tham tán thương mại. Tại thị trường ngoài, các tham tán thương mại phải là tác nhân gắn kết doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp trên thị trường sở tại. Các tham tán thương mại, các phái đoàn ngoại giao, các văn phòng đại diện và hiệp hội kinh doanh ở nước ngoài sẽ thu thập và cung cấp thông tin cho các nhà nghiên cứu, các doanh nghiệp nào quan tâm đến luật pháp quốc tế, đặc điểm riêng của từng thị trường thành viên.
Tháng 6/2000, Chính phủ đã cho phép thành lập Cục Xúc tiến Thương mại tại Bộ Thương mại với nhiệm vụ chính là phổ biến thông tin và tổ chức xúc tiến các hoạt động thương mại. Trên cơ sở chiến lược thâm nhập thị trường đã được hoạch định, Cục Xúc tiến có nhiệm vụ xây dựng lộ trình hành động cụ thể để đưa được hàng hoá Việt Nam ra thị trường ngoài. Cục sẽ quản lý cơ sở dữ liệu của Bộ Thương mại và các vấn đề kỹ thuật như tạo dựng cơ sở dữ liệu, tạo dựng trang Web ...Để thực hiện tốt chức năng của mình, Cục Xúc tiến Thương mại cần được trang bị đầy đủ hơn nữa về cơ sở vật chất và đội ngũ. Ngoài ra cần tiến hành các hoạt động cụ thể như thiết lập các văn phòng đại diện của Việt Nam tại các nước; tổ chức các hội chợ triển lãm nhằm giúp các doanh nghiệp Việt Nam trong công tác tuyên truyền quảng cáo, khuyếch trương hoạt động kinh doanh thương mại, tiếp xúc với bạn hàng, trao đổi học tập kinh nghiệm kinh doanh trên thương trường quốc tế; tổ chức các đoàn doanh nghiệp Việt Nam đi nghiên cứu thăm dò chào hàng ở thị trường ngoài nước, đồng thời mời các doanh nghiệp nước ngoài vào làm việc, tìm hiểu các cơ hội kinh doanh và đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu ở Việt Nam...
Nhà nước cần phải xây dựng hệ thống chính sách và biện pháp để đẩy mạnh công tác thị trường ngoài nước bao gồm: Khuyến khích hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng ở nước ngoài đại lý, phân phối hàng hoá, kho ngoại quan, trung tâm trưng bày sản phẩm, áp dụng các phương thức mua bán linh hoạt như giao hàng thanh toán chậm, đổi hàng, lập công ty pháp nhân nước sở tại để nhập hàng từ Việt Nam; khuyến khích và hỗ trợ cộng đồng người Việt Nam để phát triển quan hệ buôn bán với nước sở tại; hợp tác với nước ngoài trong lĩnh vực quảng cáo, giới thiệu hàng hoá thông qua báo chí, truyền hình và xuất bản ấn phẩm, có biện pháp và phương thức hoạt động thích hợp nhằm tạo mối quan hệ gắn bó giữa các tham tán thương mại với các hiệp hội ngành hàng, các tổng công ty trong nước trước hết là trong hoạt động xúc tiến thương mại; nghiên cứu hình thức và cơ chế hoạt động của đại diện uỷ thác cho các doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài.
6. Đẩy nhanh hội nhập vào các liên kết kinh tế khu vực và thế giới
Trong thời gian tới Việt Nam cần có những bước đi nhanh hơn nữa để hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Việc hội nhập này ngoài ý nghĩa là sẽ mở ra những khu vực thị trường mới, đem lại những điều kiện mậu dịch dễ dàng hơn cho hàng hóa Việt Nam thì quan trọng hơn là nó sẽ tạo ra những động lực để ngoại thương nói riêng, cả nền kinh tế Việt Nam nói chung có những chuyển biến tích cực theo hướng hiện đại hơn, phù hợp hơn với thông lệ quốc tế hay nói cách khác điều đó sẽ giúp Việt Nam xây dựng nền kinh tế thị trường mở hoàn thiện hơn qua đó tạo cho ngoại thương môi trường lành mạnh hơn, cạnh tranh hơn để phát triển. Bởi vì muốn hoà nhập vào các tổ chức kinh tế quốc tế và các khu vực trên đây, trước hết Việt Nam phải đổi mới cơ chế, chính sách, pháp luật ngoại thương cho phù hợp, xây dựng một lộ trình hợp lý, phù hợp với điều kiện của Việt Nam và với cam kết quốc tế về giảm thuế quan, thuế hoá đi đôi với việc xoá bỏ hàng rào phi thuế quan, áp dụng chế độ đãi ngộ quốc gia, lịch trình bảo hộ, công bố công khai để các ngành có hướng sắp xếp sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh; chủ động thay đổi về căn bản phương thức quản lý nhập khẩu; tăng cường sử dụng các công cụ phi thuế “hợp lệ” như các hàng rào tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh, môi trường, hạn ngạch thuế quan, thuế tuyệt đối, thuế mùa vụ, thuế chống phá giá, chống trợ cấp.
Về cụ thể, trong thời gian tới Việt Nam cần xúc tiến nhanh quá trình tham gia vào Tổ chức thương mại thế giới WTO. Dự tính Việt Nam sẽ gia nhập tổ chức này vào năm 2005. Bên cạnh việc tận dụng những thuận lợi (như đã nêu ở phần thuận lợi của ngoại thương Việt Nam), chúng ta cần tích cực và nỗ lực chuẩn bị về nhiều mặt: công tác nhân lực, phương án đàm phán, kỹ thuật đàm phán, dự trù các tình huống có thể xảy ra...để đảm bảo việc gia nhập nhanh chóng và bảo vệ quyền lợi chính đáng mà Việt Nam cần được hưởng.
KẾT LUẬN
Sau gần 25 năm tiến hành cải cách mở cửa, cho đến nay có thể nói Trung Quốc đã đạt được những thành công rực rỡ trong phát triển kinh tế và đặc biệt là trong phát triển ngoại thương. Từ một quốc gia có nền ngoại thương trì trệ kém phát triển, hiện nay Trung Quốc đã là cường quốc ngoại thương lớn thứ 5 trên thế giới và quan trọng hơn là trong tương lai, vị thế của Trung Quốc trong thương mại quốc tế sẽ ngày càng được nâng cao.
Đạt được những thành công như vậy là nhờ trong thời gian qua Trung Quốc đã có những chính sách, biện pháp đúng đắn, phù hợp để phát triển ngoại thương mà tựu trung là:
Thứ nhất, Trung Quốc đã thực hiện mở cửa, đồng thời thu hút mạnh đầu tư nước ngoài vào góp phần phát triển ngoại thương. Thực hiện những chiến lược này Trung Quốc không chỉ tạo ra được một không gian thông thoáng cho các chủ thể ngoại thương hoạt động mà còn thêm được một nguồn ngoại lực quan trọng hợp với nội lực đất nước cùng đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu.
Thứ hai là Trung Quốc đã có những bước tiến mạnh mẽ trong việc cải cách thể chế ngoại thương, cơ chế quản lý ngoại thương, đề ra những chính sách và biện pháp hợp lý như đa dạng hóa sản phẩm và thị trường, nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến thương mại, theo đuổi chính sách tỉ giá có lợi cho xuất khẩu... vì vậy mà hàng hóa Trung Quốc có những bệ đỡ thuận lợi để “tiến ra ngoài”.
Thứ ba là Trung Quốc chủ động trong việc hội nhập với khu vực và thế giới, coi đó là đường hướng quan trọng trong phát triển kinh tế nói chung và ngoại thương nói riêng trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Trong thời gian qua, Trung Quốc đã và đang tích cực hội nhập và trong “dòng chảy” này Trung Quốc thường không để rơi vào thế bị động mà luôn có những kế hoạch chủ động tiến bước để thích ứng với mọi thời cơ và thách thức mới.
Có thể nói, trên con đường mở cửa -cải cách ngoại thương, Trung Quốc không hẳn lúc nào cũng thành công và gặt hái được nhiều thành tựu. Cũng có lúc Trung Quốc vấp phải những sai lầm và kết quả đến nay cũng chưa hẳn được như mong muốn, vẫn còn tồn tại một số vấn đề cần tiếp tục khắc phục như: việc nâng cao chất lượng hàng hóa xuất khẩu và hiệu quả hoạt động ngoại thương, vấn đề chênh lệch vùng miền ...
Qua việc nghiên cứu các kinh nghiệm phát triển ngoại thương của Trung Quốc, chúng ta có thể nhận thấy vai trò của Nhà nước trong hoạch định chính sách và đưa ra những biện pháp tổng thể vĩ mô là rất quan trọng đối với hoạt động ngoại thương. Hơn thế nữa, Chính phủ Trung Quốc rất linh hoạt trong việc tạo lập và thực hiện các chính sách bởi vì tuy Trung Quốc cũng là một nước đang phát triển, trong quá trình phát triển kinh tế bản thân họ cũng phải học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước mà đặc biệt là các nước NIEs, nhưng từ việc học hỏi đó Trung Quốc lại tự mình xây dựng các chính sách và thực thi các biện pháp phù hợp với yêu cầu tồn tại và phát triển của chính ngoại thương Trung Quốc đồng thời cũng đáp ứng được với xu hướng phát triển chung của thời đại. Các chính sách phát triển ngoại thương không bị ép theo một khuôn mẫu phát triển nào, mà linh hoạt vận động chuyển biến theo thực tiễn vì vậy mà ngoại thương Trung Quốc phát triển vững chắc và có triển vọng lâu dài. Một điểm khác rất đáng lưu ý là, khi áp dụng một chính sách hoặc biện pháp Trung Quốc thường tiến hành thí điểm trên quy mô nhỏ để thử nghiệm, sau đó nếu thành công mới nhân rộng trên quy mô lớn nhờ vậy mà sẽ có điều kiện điều chỉnh kịp thời nếu chưa phù hợp. Về thực chất là Trung Quốc tiến hành cải cách ngoại thương với những bước đi thận trọng, vững chắc. Đây mới chính là những bài học lớn nhất, có giá trị nhất mà Việt Nam cần rút ra cho quá trình phát triển ngoại thương của mình.
Là một nước đi sau, lại là một nước láng giềng “núi liền núi, sông liền sông” với nhiều yếu tố tương đồng, Việt Nam có nhiều ưu thế trong việc tham khảo thực tiễn ngoại thương Trung Quốc để từ đó đúc kết những bài học kinh nghiệm, tìm tới những gợi mở về chiến lược phát triển ngoại thương phù hợp với đất nước. Hy vọng rằng Việt Nam với truyền thống ham học hỏi, tìm tòi và sẵn sàng tiếp thu cái mới sẽ vận dụng một cách sáng tạo những bài học kinh nghiệm của Trung Quốc, tìm được lối đi riêng trong điều kiện cụ thể của mình để phục vụ cho công cuộc phát triển ngoại thương của đất nước trong những năm tới.
Việc nghiên cứu về con đường phát triển của ngoại thương Trung Quốc từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm, thành công cũng như thất bại, để Việt Nam học tập và tìm ra con đường riêng của mình là vấn đề không dễ, đòi hỏi phải được xem xét tổng thể trên nhiều góc độ. Trong khuôn khổ của khóa luận tốt nghiệp này, với vốn kiến thức và nguồn tài liệu cũng như thời gian còn hạn chế, người viết khó tránh khỏi còn những chỗ thiếu sót, kính mong nhận được sự góp ý, bổ sung của các thầy cô giáo và các bạn để khóa luận được hoàn thiện hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Phần tiếng Việt
[1]. GS.TS. Bùi Xuân Lưu, Giáo trình Kinh tế Ngoại thương, NXB Giáo dục 2002
[2]. GS. TS. Võ Thanh Thu, Quan hệ kinh tế quốc tế, NXB Thống kê 2003
[3]. TS. Võ Đại Lược (chủ biên), Bối cảnh quốc tế và những xu hướng điều chỉnh chính sách phát triển kinh tế ở một số nước lớn, NXB Khoa học xã hội 2003
[4]. Ngân hàng thế giới, Trung Quốc 2020, NXB Khoa học xã hội 2001
[5]. Lý Thiết Ánh, Về cải cách và mở cửa ở Trung Quốc, NXB Khoa học xã hội 2002
[6]. PGS. Nguyễn Văn Hồng (chủ biên), Trung Quốc cải cách mở cửa những bài học kinh nghiệm, NXB Thế giới 2003
[7]. Phạm Thái Quốc, Trung Quốc quá trình công nghiệp hóa trong 20 năm cuối của thế kỷ XX, NXB Khoa học xã hội 2001
[8]. Nguyễn Trần Quế, Lựa chọn sản phẩm và thị trường trong ngoại thương thời kỳ công nghiệp hóa của các nền kinh tế Đông Á, NXB Chính trị quốc gia 2000
[9]. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Chính sách phát triển kinh tế-kinh nghiệm và bài học của Trung Quốc, NXB Giao thông vận tải 2003
[10]. Tề Quế Trân, Trung Quốc 20 năm cải cách mở cửa, cải cách chế độ sở hữu, NXB Chính trị quốc gia 2001
[11]. Đỗ Tiến Sâm- Lê Văn Sang (chủ biên), Trung Quốc gia nhập WTO và tác động đối với Đông Nam Á, NXB Khoa học xã hội 2002
[12]. Đổi mới chính sách nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Lao động 2003
[13]. Tiêu Thi Mỹ, Mưu lược Đặng Tiểu Bình, NXB Chính trị quốc gia 1996
[14]. Ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế, Trung Quốc gia nhập WTO kinh nghiệm đối với Việt Nam, 2001
[15]. Nguyễn Thế Tăng, Quá trình mở cửa đối ngoại của CHND Trung Hoa, NXB Khoa học xã hội 1997
[16]. Joseph E.Stiglitz- Shahid Yusuf, Suy ngẫm lại sự thần kỳ Đông Á, NXB Chính trị quốc gia 2002
[17]. TS. Nguyễn Thế Tăng (chủ biên), Trung Quốc cải cách và mở cửa (1978-1998), NXB Khoa học xã hội 2000
[18]. Hà Ninh, Cục trưởng cục mậu dịch quốc tế- Bộ Thương mại Trung Quốc, Trung Quốc đánh giá một năm sau khi vào WTO, Quốc tế thương báo 15/04/2003 (Bản dịch của Trung tâm nghiên cứu Trung Quốc)
[19]. Cục Thống kê quốc gia Trung Quốc, Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Trung Quốc 1952-2001, Tân Hoa Xã 2002
[20]. Bộ Thương mại Trung Quốc, Báo cáo tình hình mậu dịch đối ngoại của Trung Quốc 2002 (Bản tin nội bộ của Thông tấn xã Việt Nam 25/02/2003)
[21]. Cục Thống kê quốc gia Trung Quốc, Báo cáo tình hình kinh tế xã hội Trung Quốc 2002, Kinh tế nhật báo 28/02/2003 (Bản dịch của Trung tâm nghiên cứu Trung Quốc)
[22]. Trung tâm nghiên cứu Trung Quốc, Chuyên đề Kinh tế Trung Quốc từ khi cải cách mở cửa đến nay 2/2003
[23]. PTS. Nguyễn Minh Hằng, Quan hệ kinh tế đối ngoại Trung Quốc thời kỳ mở cửa, NXB Khoa học xã hội 1997
[24]. Vụ phát triển khoa học kỹ thuật và xuất nhập khẩu- Bộ Thương mại Trung Quốc, Hàng rào khoa học kỹ thuật trong xuất khẩu, một khó khăn lớn Trung Quốc gặp phải sau khi gia nhập WTO, Kinh tế nhật báo 20/06/2003 (Bản dịch của Trung tâm nghiên cứu Trung Quốc)
[25]. Lý Lưu Sâm, Ý nghĩa của việc tăng trưởng kinh tế Trung Quốc đối với thế giới, Quốc tế thương báo 15/09/2003 (Bản dịch của Trung tâm nghiên cứu Trung Quốc)
[26]. Quan hệ Trung Quốc- Hàn Quốc dưới góc độ kinh tế thương mại, Quốc tế thương báo 08/07/2003 (Bản dịch của Trung tâm nghiên cứu Trung Quốc)
[27]. Quan hệ Trung- Nhật dưới góc độ kinh tế thương mại, Quốc tế thương báo 24/01/2003 (Bản dịch của Trung tâm nghiên cứu Trung Quốc)
[28]. ThS. Trương Mai Hương, Khu vực thương mại tự do ASEAN- Trung Quốc, cơ hội và thách thức, Tạp chí Kinh tế đối ngoại số 4/2003
[29]. Báo cáo Công tác chính phủ của Thủ tướng Chu Dung Cơ tại kỳ họp lần thứ nhất Quốc hội Trung Quốc khóa 10 và Chính hiệp Trung Quốc 05-16/03/2003 (Bản tin nội bộ của Thông tấn xã Việt Nam)
[30]. Bộ Thương mại Trung Quốc& Viện nghiên cứu hợp tác kinh tế mậu dịch quốc tế Trung Quốc, Báo cáo tình hình mậu dịch đối ngoại của Trung Quốc 9 tháng đầu 2003 (Bản tin nội bộ của Thông tấn xã Việt Nam 28/10/2003)
[31]. Nguyễn Minh Hằng, Việc thành lập các đặc khu kinh tế ở Trung Quốc, Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc số 5/1996
[32]. Du Minh Khiêm, Trung Quốc gia nhập WTO một năm nhìn lại, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc số 3/2003
[33]. Cục Thống kê quốc gia Trung Quốc, Cơ cấu giá trị tổng sản phẩm quốc nội Trung Quốc 1978-2001, Tân Hoa Xã 2002
[34]. Kinh tế Việt Nam& Thế giới 2000-2001 ( Chuyên san của Thời báo kinh tế Việt Nam)
[35]. Kinh tế Việt Nam& Thế giới 2001-2002 (nt)
[36]. Kinh tế Việt Nam& Thế giới 2002-2003 (nt)
[37]. Thông tấn xã Việt Nam, Những nét lớn về kinh tế Trung Quốc 2001, Thông tin chuyên đề 3/2002
[38]. Vụ Kế hoạch Thống kê- Bộ Thương mại, Báo cáo tổng kết tình hình ngoại thương 1991-2000
[39]. Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, các số từ năm 1997 đến 2003
[40]. Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới các số năm 1999, 2001,2002,2003
[41]. Tạp chí Kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương các số năm 2001,2002,2003
II. Phần tiếng Anh
[42]. Gregory C.Chow, The impact of joining WTO on China’s economic, legal and political institutions, Princeton University, NJ –USA 2001
[43]. China economic outlook 2001,2002
[44]. World Bank, World economic outlook 2002
[45].Paul B.Edelberg, China and the World Trade Organization, Special to Angel Investor News,2002
[46]. The Economist (20/11/1999)
[47]. Far Eastern Economic Review( FEER 01/06/2000)
[48]. Far Eastern Economic Review (FEER 17/07/2003)
[49]. WTO, Leading exporters and importers in world merchandise trade 2002
III. Internet
1. www.mofcom.gov.cn ( trang web chính thức hiện nay của Bộ Thương mại TQ)
2. www.xinhuanet.com ( trang web của Tân Hoa xã)
3. www.chinabig.com (trang web tổng hợp kinh tế Trung Quốc)
4. www.wto.org ( trang web của Tổ chức Thương mại thế giới)
5. www.mot.gov.vn ( trang web chính thức của Bộ Thương mại Việt Nam)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kltnduong_438.doc