Phát triển KCN theo hướng bền vững là yêu cầu cấp thiết của bất kỳ KCN
nào. Tuy còn một số tồn tại nhưng các KCN của Hà Nội đã chứng tỏ được vai trò
của các KCN của thủ đô khi thu hút được các dự án lớn, sản xuất các sản phẩm có
công nghệ cao, đóng góp quan trọng vào sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế, sự hình
thành các khu đô thị, giải quyết được rất nhiều việc làm và góp phần tăng thu ngân
sách. Trong thời gian tới, khi mà cả 5 KCN đã đi vào hoạt động, Sở kế hoạch đầu
tư Hà Nội, Ban quản lý các KCN&CX Hà Nội cùng với chính quyền các cấp quản
lý hiệu quả hơn các dự án đầu tư và sự hoạt động của các KCN, có những phương
hướng nhằm phát triển các KCN phát triển bền vững về tất cả các mặt.
84 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2810 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp phát triển các khu công nghiệp tập trung trên địa bàn Hà Nội theo hướng bền vững về kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y càng tăng, bình
quân doanh thu 5 năm gần đây là 52,6%/năm, bình quân xuất khẩu tăng
58,24%/năm; cao hơn rất nhiều tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu chung của Hà Nội,
trung bình hai năm 2006 và 2007 xuất khẩu chiếm 34,9% , nhập khẩu chiếm 27,7%
giá trị xuất khẩu và nhập khẩu của toàn thành phố Hà Nội. Điều này cho thấy tiềm
năng phát triển và vai trò của quan trọng của các KCN Hà Nội. Giá trị xuất khẩu
tương đối so với nhập khẩu có chiều hướng tăng dần. Nguyên nhân là do thị trường
xuất khẩu ổn định.
Theo số liệu đến hết năm 2005, với 105 dự án đầu tư nước ngoài và 1,25 tỷ
USD vốn đầu tư, các KCN Hà Nội đã chiếm khoảng 40% về số dự án đầu tư nước
ngoài và 60% vốn đầu tư toàn vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ (gồm Hà Nội, Hải
Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Tây, Bắc Ninh, và Vĩnh Phúc); tỷ
lệ vốn đầu tư thực hiện so với tổng vốn đầu tư của các doanh nghiệp trong các KCN
Hà Nội đạt trên 50%. Trong năm 2005, các doanh nghiệp trong KCN đang hoạt
động ở Hà Nội đã tạo ra giá trị sản xuất trên 1.203 triệu USD. Trong đó giá trị xuất
khẩu đạt trên 834 triệu USD và đóng góp cho ngân sách nhà nước 25,5 triệu USD,
tạo việc làm cho trên 27.000 lao động. Điều đáng khích lệ là các KCN Hà Nội tuy
chỉ chiếm 14,8% tổng số dự án và 13,5% tổng vốn đăng ký của các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn nhưng lại chiếm tới 43% tổng doanh thu,
88% kim ngạch xuất khẩu và 35% việc làm. Suất đầu tư bình quân mỗi dự án là 9,7
triệu USD, cao hơn mức bình quân của cả nước. (BQL các KCN &CX Hà Nội,
2005).
2.3.1.4 Giải quyết việc làm và kéo theo sự phát triển của các dịch vụ xung
quanh KCN.
Hiện nay, các KCN Hà Nội đã giải quyết việc là cho hơn 60 ngàn người lao
động, trong đó trình độ đại học, cao đẳng chiếm hơn 20%nâng cao thu nhập và giải
quyết việc làm cho người lao động địa phương và các tỉnh thành lân cận. Người lao
động trong các KCN Hà Nội không chỉ là người dân ở ngay địa phương xây dựng
KCN mà còn có những người lao động ở các tỉnh khác đến như: Hải Dương, Bắc
Ninh, Nam Định, Thái Bình… và thậm chí ở cả các tỉnh miền Trung như Thanh
Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh…
Đồng thời, cùng với sự phát triển của các KCN thì các dịch vụ xung quanh
KCN cũng phát triển theo nhằm đáp ứng nhu cầu của người lao động như các nhà
trọ, quán ăn, quán giải khát, giải trí…góp phần tăng thêm thu nhập cho người dân
địa phương , tiến tới hình thành các khu đô thị.
2.3.2 Hạn chế.
Hiệu quả kinh tế của các dự án đầu tư chưa cao:
- Hiệu quả sử dụng đất thấp:
Ngoại trừ KCN Thăng Long, Sài Đồng B là có tỷ lệ vốn đầu tư trên 1ha là trên
5 triệu USD/ha, còn lại các khu khác thì tỷ lệ này rất thấp, đặc biệt là khu Hà Nội –
Đài tư và Nam Thăng Long.
Tỷ lệ trung bình của 5khu chỉ đạt 3,44 triệu USD/ha. Trong khi đó, tỷ lệ này
của các KCN ở Đồng Nai đạt 3,57 vẫn đánh giá là chưa cao.
Nguyên nhân là do các chủ đầu tư kinh doanh hạ tầng KCN muốn nhanh
chóng lấp đầy diện tích cho thuê nhằm thu lại vốn đầu tư kinh doanh cơ sở hạ tầng.
Do vậy, trong quá trình xúc tiến, mời gọi đầu tư vào các KCN, Công ty kinh doanh
hạ tầng tuy vẫn quan tâm đến các chỉ tiêu như vốn đầu tư, số lao động, trình độ
công nghệ, hiệu quả dự án,… nhưng vẫn sẽ chú trọng trước hết là diện tích cho thuê
của dự án đầu tư.
- Chính sách mời gọi đầu tư chưa thu hút được nhiều dự án công nghệ cao
Tuy đã có thu hút được một số dự án công nghệ cao và công nghiệp cơ bản
nhưng chủ yếu là công nghiệp lắp ráp, số đó không nhiều và chủ yếu tập trung ở
các khu Thăng Long, Sài Đồng, Nội bài, máy móc thiết bị phần lớn đã qua sử dụng
ở chính quốc được các nhà đầu tư nước ngoài tận dụng di chuyển sang đầu tư ở
nước ta nhằm đổi mới công nghệ ở chính quốc. Công nghệ kỹ thuật cũng là công
nghệ cũ so với chính quốc, tỷ lệ vốn trang bị cho một công nhân là không cao. Nếu
không quản lý chặt chẽ vấn đề này thì trong tương lai nước ta sẽ trở thành một “bãi
rác công nghệ”, căn bệnh “ung thư” khó mà chữa được.
Còn ở Khu Nam Thăng Long chủ yếu là các dự án của các nhà đầu tư trong
nước, các mặt hàng sản xuất chủ yếu là hàng tiêu dùng. Khu Hà Nội- Đài tư là các
dự án của các công ty Đài Loan, Trung Quốc thì chủ yếu các ngành nghề sản xuất
sử dụng sức tay chân lao động là chính chứ hàm lượng công nghệ không cao, khả
năng gây ô nhiễm môi trường cao.
- Phát triển thiếu tính liên kết:
Các dự án FDI đầu tư vào nước ta nhằm mục đích khai thác nguồn lao động
địa phương và nguồn nguyên liệu trong nước. Tuy nhiên, đa số các doanh nghiệp
100% nguyên liệu nhập ngoại. Đặc biệt các ngành công nghiệp trong các khu
Thăng Long, Nội Bài, Sài Đồng nguyên liệu chủ yếu là sắt, thép thì hoàn toàn là
nhập từ các nước Đài Loan, Nhật, Singapo, Thái Lan…Tỷ lệ sử dụng nguồn
nguyên liệu trong nước rất thấp, giá trị không cao, và đa phần là các nguồn nguyên
liệu dùng cho mặt hàng chế biến thực phẩm và tiêu dùng.
Nhìn vào bảng 6, ta thâý giá trị xuất khẩu dôi ra so với nhập khẩu rất ít, thậm
chí có năm còn đạt giá trị âm (-) như năm 2002(-22,48%), hoặc năm 2004 (-
13,32%), năm 2007 đạt giá trị cao nhất cũng chỉ có 10,21%. Điều này cho thấy hiệu
quả xuất khẩu của các dự án không cao.
Vấn đề này cho thấy việc tìm tòi khai thác các nguồn nguyên liệu có sẵn tại
địa phương, trong nước, hoặc tạo nguồn nguyên liệu cung cấp trực tiếp cho các
doanh nghiệp tại các KCN còn hạn chế. Riêng công nghiệp phụ trợ chủ yếu tập
trung cho các ngành xe máy, điện và điện tử nhưng theo hướng liên kết của các
nhà đầu tư nước ngoài với nhau, công nghiệp phụ trợ của địa phương hầu như chưa
phát triển.
Cơ cấu phát triển KCN thiếu cân đối
Cơ cấu vốn của các thành phần kinh tế thiếu bền vững . Thể hiện, các dự án
đầu tư vào các KCN chủ yếu là các doanh nghiệp nước ngoài, còn doanh nghiệp
trong nước thì số lượng ít. Mặt khác, các dự án đầu tư nước ngoài chủ yếu là từ
Châu Á như: Nhật, Hàn Quốc, Singapo, Ả rập xê út, Đài Loan… như KCN được
quan tâm nhất hiện nay là khu Thăng Long thì 100% là các công ty của Nhật. Có
rất ít các doanh nghiệp Châu Âu (Medicos France- Pháp) cũng như Châu Mỹ. Việc
độc quyền của các doanh nghiệp Nhật trong các KCN Hà Nội sẽ làm giảm tính
cạnh tranh của các doanh nghiệp. Trong khi đó, các quốc gia Âu, Mỹ là các nước có
trình độ khoa học công nghệ cao, có năng lực cạnh tranh và trình độ quản lý kinh tế
tốt, có thị phần thế giới lớn và ổn định thì các KCN Hà Nội không thu hút được. Mà
các tiêu chí này chính là tiêu chuẩn quan trọng đánh giá chất lượng đầu tư .
Các mặt hạn chế về hạ tầng, dịch vụ.
Ngược lại với hạ tầng bên trong KCN, hạ tầng ngoài KCN lại bị các doanh
nghiệp đánh giá khá thấp.
Về cấp nước, Hà Nội bị đánh giá thấp so với các tỉnh khác, tương đương với
Hải Dương, Bắc Ninh và Đà Nẵng nhưng thấp hơn các tỉnh còn lại do chất lượng
nước cung cấp chưa ổn định, chất lượng nước chưa tốt. Nhiều trường hợp, thời
điểm, KCN không đủ nước cung cấp cho nhu cầu sản xuất của các doanh nghiệp
trong KCN.
Khả năng xử lý nước thải và chất thải trong các KCN Hà Nội được đánh giá ở
mức trung bình so với các địa phương khác. Kết quả này được nhận định do Hà Nội
chỉ có duy nhất KCN Thăng Long có hệ thống xử lý nước thải chung, ngoài ra
không có KCN nào khác có hệ thống này.
Với vị trí là Thủ đô của cả nước, nơi tập trung đông dân cư nên kết quả xử lý
chất thải chỉ ở mức trung bình là điều khó chấp nhận vì nếu không có hệ thống xử
lý chất thải tốt, khả năng gây ô nhiễm ra môi trường dân cư xung quanh là rất lớn,
và tác động của nó là khó lường. Điều này đòi hỏi cần có sự quan tâm nhiều hơn
nữa từ phía thành phố.
Điều này cho thấy chất lượng hạ tầng ngoài KCN vẫn chưa đáp ứng được
mong muốn của các doanh nghiệp và cần được tiếp tục cải thiện. Thêm một lý do
khác là các dịch vụ xã hội cũng chưa theo kịp với đòi hỏi của người lao động và các
doanh nghiệp hoạt động trong các KCN, đặc biệt là các doanh nghiệp đầu tư nước
ngoài.
Chất lượng lao động
Tuy được đánh giá Hà Nội là nơi có đội ngũ lao động có tay nghề cao hơn so
với các địa phương khác. Nhưng theo đánh giá của các nhà đầu tư trong các KCN
Hà Nội về khả năng tuyển dụng lao động qua đào tạo hiện nay là không cao.
Nguyên nhân của sự đánh giá này là do các doanh nghiệp Hà Nội thường sử dụng
các công nghệ sản xuất cao hơn nên họ cũng có yêu cầu cao hơn về chất lượng lao
động đã qua đào tạo so với các địa phương khác, nơi mà lao động “qua” đào tạo
không nhất thiết là lao động có trình độ, tay nghề cao. Điều này cho thấy dù Hà Nội
có đội ngũ đông đảo lao động qua đào tạo nhưng vẫn chưa thực sự đáp ứng được
nhu cầu của các doanh nghiệp, nhất là lao động có trình độ kỹ thuật cao.
2.3.3 Nguyên nhân của những hạn chế trên
- Việc đầu tư xây dựng hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN chưa đồng bộ,
chậm trễ.
Điển hình như KCN Nam Thăng Long được xây dựng theo hình thức cuốn
chiếu, tức là xây dựng hạ tầng khi nhà đầu tư bắt đầu triển khai xây dựng nhà máy.
Việc làm này có lợi cho công ty hạ tầng do không phải bỏ ra một lượng vốn đầu tư
ngay từ đầu, chi phí bỏ ra sẽ ít tốn kém. Nhưng chính điều này sẽ khiến các nhà đầu
tư cảm thấy e ngại khi cơ sở hạ tầng KCN vẫn chưa được hoàn chỉnh, đặc biệt là
các dịch vụ hỗ trợ bên trong cũng như bên ngoài không có. Khó có thể thu hút được
các nhà đầu tư lớn. Và việc cơ sở hạ tầng KCN chưa được hoàn thiện, làm cho
nhiều nhà máy khi đi vào hoạt động nhưng cơ sở hạ tầng KCN chưa phát triển
tương ứng, đặc biệt là việc chậm xây dựng hoàn chỉnh các tuyến đường giao thông
trong KCN sẽ ảnh hưởng nhiều đến việc sản xuất của các doanh nghiệp. Mặt khác,
là việc chậm đầu tư xây dựng nhà máy xử lý nước thải sẽ làm ảnh hưởng đến môi
trường, gây ô nhiễm cục bộ từng khu vực.
- Vấn đề đền bù giải phóng mặt bằng thiếu kiên quyết.
Chính việc chậm trễ trong việc giải phóng mặt bằng và đền bù mà cho đến
nay, dù đã có quy hoạch xây dựng từ lâu, nhưng 2 lô C và lô D của KCN Sài Đồng
B vẫn chưa được triển khai xây dựng. Đến nay, KCN Sài Đồng tuy đã lấp đầy 2-3
năm nay nhưng vẫn không thể mở rộng thêm quy mô diện tích để thu hút đầu tư.
Nguyên nhân do nhiều khi giá đền bù không thống nhất, người dân phàn nàn quá
thấp, trong khi các cơ quan lại cho rằng quá cao. Điều đó thường dẫn đến kéo dài
thời gian thoả thuận và dây dưa trong vòng nhiều năm.
- Nhà nước và cơ quan quản lý địa phương chưa có chính sách điều tiết các
công ty kinh doanh hạ tầng. Chính điều này mà các công ty kinh doanh hạ tầng chỉ
chú ý tới lợi ích trước mắt của họ mà chưa thực sự tính toán đến những hiệu quả
kinh tế cho xã hội.
- Quan điểm chạy theo thành tích mà không tính đến hiệu quả phát triển bền
vững :
Việc các cơ quan chính quyền địa phương đánh giá cao khả năng giải quyết
việc làm là “kẽ hở” cho các doanh nghiệp sử dụng trình độ công nghệ thấp. Giải
quyết được nhiều việc làm là một chỉ tiêu đơn thuần, không dùng để đánh giá hiệu
quả của các dự án đầu tư cũng như sự phát triển bền vững của các KCN. Bởi vì,
một doanh nghiệp mà sử dụng nhiều lao động nhưng vốn đầu tư ít, khả năng áp
dụng trình độ khoa học công nghệ thấp tức là quá trình sản xuất của doanh nghiệp
đó có hàm lượng công nghệ thấp, sử dụng nhiều lao động tay chân. Điều này không
phù hợp với chính sách phát triển bền vững các KCN. Đáng tiếc là sự phát triển các
KCN chưa thực sự quan tâm đến vấn đề này mà chỉ chạy theo số lượng lao động.
- Chính sách xúc tiến thương mại, đầu tư là lĩnh vực mới chưa có nhiều kinh
nghiệm. Các trang Website về KCN gần đây mới được thiết kế xây dựng, song nội
dung sơ sài chưa có nhiều thông tin.
Mặc dù còn có nhiều điểm hạn chế cả mang tính chủ quan và khách quan ảnh
hưởng tiêu cực đến sức hấp dẫn về đầu tư cũng như sự phát triển bền vững đối với
các KCN Hà Nội nhưng do lợi thế quá lớn về các điều kiện dịch vụ, thị trường, nên
sức hút về đầu tư trong các KCN vẫn rất lớn, vượt quá khả năng cung ứng về đất
đai cho nhu cầu hiện tại.
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÁC KCNTT TRÊN ĐỊA
BÀN HÀ NỘI THEO HƯỚNG BỀN VỮNG VỀ KINH TẾ
3.1 Định hướng phát triển công nghiệp và phân bố công nghiệp của Hà Nội
trong thời gian tới.
3.1.1 Định hướng phát triển công nghiệp và các KCNTT
Sự phát triển các KCN là một trong những động lực quan trọng giúp đẩy
nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế Hà Nội
nói riêng và Việt Nam nói chung theo hướng phát triển. Hiện nay, chỉ với 543ha
diện tích KCN đang hoạt động, nhưng các KCN Hà Nội đã cho thấy vai trò quan
trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố. Trong những năm tới đây,
chắc chắn rằng các KCN sẽ tiếp tục đóng góp ngày càng lớn cho tăng trưởng kinh
tế Hà Nội, nên việc mở rộng và phát triển thêm các KCN là yêu cầu quan trọng cần
đặt ra đối với thành phố trong giai đoạn hiện nay.
Tốc độ phát triển đô thị Hà Nội nhanh đến mức dường như không thể lường
trước được. Đơn cử, khi mới thành lập, KCN “Cao - Xà - Lá” (cao su, xà phòng,
thuốc lá) đã được xem là nằm rất xa trung tâm thành phố, thì đến nay nó đã nằm
gọn trong đô thị và đang phải tính đến chuyện di chuyển. Hay như CCN Vĩnh Tuy
mới thành lập cách đây khoảng 5 - 6 năm, đến nay nó cũng đã nằm gọn trong khu
đô thị. KCN Sài Đồng nay cũng đã nằm trong khu vực thị trấn Sài Đồng, dân cư
sinh sống ngày càng đông đúc. Mặt khác, do không được trồng cây xanh bảo vệ với
các khu chức năng lân cận đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ cộng đồng.
Việc di dời các KCN đang là bài toán nan giải và tốn kém của Hà Nội .
Với tổng diện tích tự nhiên hiện tại là 921 km2 , Hà Nội không thể đáp ứng
được nhu cầu mở rộng các KCN hiện có và phát triển các KCN mới. Theo dự kiến
quy hoạch phát triển Hà Nội đang được Bộ Kế họach đầu tư xây dựng theo yêu cầu
của Thủ tướng Chính phủ từ năm 2003, Hà Nội sẽ được mở rộng cả về không gian
đô thị, và không gian hành chính. Do vậy, việc xây dựng định hướng phát triển các
hành lang công nghiệp Hà Nội cần dựa vào không chỉ chiến lược phát triển Hà Nội,
mà còn cả vùng Đồng bằng sông Hồng và nay là vùng Thủ đô. Do vậy, việc qui
hoạch KCN Hà Nội không thể chỉ dựa trên qui mô diện tích hiện tại với dân số
khoảng 3 triệu người, sau đó đưa công nghiệp ra ven đô như hiện nay mà cần
nghiên cứu bố trí KCN trên qui mô diện tích quy hoạch Hà Nội khoảng 2.000 km2
(lớn gấp gần 2,5 lần Hà Nội hiện nay), mở rộng sang các địa bàn lân cận.
Hà Nội đang chuẩn bị mở thêm quốc lộ 5 mới (cách Quốc lộ 5 cũ khoảng 1 -
5 km về phía Nam), nối Hải Phòng - vành đai 3 (đầu phía Bắc cầu Thanh Trì). Như
vậy hai tuyến quốc lộ là Quốc lộ 18 và Quốc lộ 5 được kỳ vọng sẽ trở thành hành
lang công nghiệp hoàn chỉnh của Hà Nội. Phát triển các KCN Hà Nội cần bám theo
hành lang 18, hành lang mang tính chiến lược nối từ Vân Nam (Trung Quốc) - Lào
Cai - QL 2 - Nội Bài- QL 18 - cảng nước sâu Cái Lân (Quảng Ninh). Theo bản qui
hoạch Hà Nội đến năm 2020 của Chương trình phát triển tổng thể thủ đô Hà Nội
(HAIDEP), các KCN mới của Hà Nội sẽ nằm ở phía Nam sân bay Nội Bài, dọc
theo đường QL 18 và QL 2 nối với tỉnh Vĩnh Phúc. Đây là vị trí rất thuận lợi cho
việc vận tải hàng hoá đi cảng Hải Phòng và Cái Lân. Ngoài ra, vị trí này về cơ bản
thuận lợi vì có sẵn mặt bằng cần thiết, nền đất cứng. Tuy nhiên, qui mô các KCN
chưa được xác định cụ thể.
Sắp tới, tỉnh Hà Tây, một huyện của tỉnh Vĩnh Phúc (Mê Linh) và 4 xã của
tỉnh Hoà Bình… sáp nhập với Hà Nội về không gian địa lý và hành chính. Hà Nội
sẽ được mở rộng ra rất nhiều. Việc xây dựng các KCN trong phạm vi thành phố
hiện nay là không cần thiết và không nên làm. Vì Hà Nội hiện nay quỹ đất mở rộng
các KCN đã không còn, cần phải để đất đai cho dân cư sinh sống. Mặt khác, khi sáp
nhập thêm không gian địa lý với các tỉnh lân cận thì phần diện tích của tỉnh Hà Tây
là còn khá nhiều để xây dựng các KCN. Với không gian như vậy, cần tính đến các
KCN nằm dọc các cửa ngõ của thủ đô trên địa bàn các tỉnh bạn, như KCN Tiên Sơn
(Bắc Ninh), KCN Như Quỳnh, Phố Nối A (Hưng Yên), KCN Tiền Phong, Quang
Minh (Vĩnh Phúc), KCNC Hoà Lạc (Hà Tây). Với quan điểm này, quy hoạch phát
triển các KCN phải là một bộ phận trong quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của
Hà Nội, của khu vực phía Bắc và cả nước.
3.1.2 Danh mục dự án kêu gọi đầu tư phát triển vào các KCN Hà Nội từ nay đến
năm 2010.
TT Tên sự án Mục tiêu Vốn đầu tư (Triệu USD)
1. Khu công nghệ Hà Nội
Xây dựng cơ sở hạ tầng và sản
xuất các sản phẩm công nghệ cao
94,000
2.
Sản xuất khuôn mẫu cho
công nghiệp
10,000
3. Sản xuất phụ tùng xe ô tô
Sản xuất phụ tùng cho ô tô các
loại
8,000
4.
Sản xuất chip và wafe
cho các thiết bị điện tử
viễn thông
Sản xuất các loại khuôn mẫu
dùng cho công nghiệp
20,000
5.
Sản xuất ống cao áp cho
xe ô tô
Sản xuất các loại ống cao áp
dùng co xe ô tô các loại
5,000
6.
Sản xuất gioăng đệm cho
xe ô tô
Sản xuất gioăng đệm các loại
cho xe ô tô
4,000
7.
Sản xuất phoi và bột
nhôm
Sản xuất các loại phoi và bột
nhôm
1,000
8.
Nhà máy sản xuất thiết bị
phòng cháy chữa cháy
sản xuất thiết các thiết bị phòng
cháy chữa cháy
5,500
9.
Sản xuất sợi thuỷ tinh
công nghiệp
Sản xuất sợi thuỷ tinh cho công
nghiệp
4,000
10.
Sản xuất văn phòng
phẩm
Sản xuất văn phòng phẩm các
loại
2,000
TT Tên sự án Mục tiêu Vốn đầu tư (Triệu USD)
11. Sản xuất thiết bị gia dụng
Sản xuất các loại thiết bị gia
dụng
5,000
12. Sản xuất mỹ phẩm Sản xuất các loại mỹ phẩm 5,000
Bảng 7: Danh mục dự án kêu gọi đầu tư phát triển vào các KCN Hà Nội
từ nay đến năm 2010.
3.2 Một số giải pháp phát triển bền vững về kinh tế của các KCNTT trên địa
bàn Hà Nội.
3.2.1 Huy động vốn đầu tư vào các KCN
Chia ra làm 2 loại: KCN đã lấp đầy và KCN chưa lấp đầy.
Đối với các KCN lấp đầy, thì cần nâng cao hiệu quả sản xuất của các doanh
nghiệp bằng cách có các biện pháp khuyến khích các doanh nghiệp tăng vốn điều
chỉnh cho doanh nghiệp, đổi mới máy móc thiết bị, áp dụng khoa học công nghệ
tiên tiến vào sản xuất.
Đối với các KCN chưa lấp đầy cần đẩy mạnh các biện pháp nâng cao tính hấp
dẫn của các KCN.
Để nâng cao tính hấp dẫn của các KCN, cần hoàn chỉnh các mặt sau đây:
- Thành phố cần hoàn thiện môi trường pháp lý và đơn giản hoá các thủ tục
hành chính, thông qua việc hoàn thiện cơ chế “một cửa tại chỗ”, đưa ra khung
chính sách ổn định và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư vào
KCN theo định hướng phát triển Hà Nội bền vững.
- Cần tiếp tục xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng, bên trong KCN bao gồm: hạ
tầng giao thông, năng lượng, nước sạch, thông tin liên lạc, và duy trì các dịch vụ hạ
tầng. Dịch vụ bên ngoài cần xây dựng các khu dịch vụ hỗ trợ cho KCN, các khu vui
chơi giải trí cho người nước ngoài, bưu điện, nhà ăn, nhà y tế, ngân hàng….
+ Các KCN chưa xây dựng thì cần hoàn thiện các chính sách đầu tư xây dựng
hạ tầng bên trong cũng như bên ngoài. Việc thu hút vốn đầu tư cơ sở hạ tầng KCN
chủ yếu huy động từ các doanh nghiệp có năng lực tài chính và kinh nghiệm thực
hiện các dự án đầu tư hạ tầng KCN được ưu tiên xem xét. Trường hợp hợp KCN
có nhiều doanh nghiệp đăng ký đầu tư hạ tầng chì việc lựa chọn chủ đầu tư thực
hiện thông qua hình thức đấu giá. Việc đầu tư hạ tầng ngoài KCN phải đồng nhất
với việc xây dựng hạ tầng trong KCN. Nếu KCN không triển khai được do quy
hoạch không hợp lý thì phải kịp thời điều chỉnh hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng,
nếu chủ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thiếu năng lực thì xem xét thay đổi chủ đầu
tư. Xây dựng KCN gắn liền với quy hoạch khu đô thị lân cận.
+ Đối với các KCN đã xây dựng thì cần ngày càng hoàn thiện về chất lượng
cơ sở hạ tầng cũng như các dịch vụ trong và ngoài hàng rào KCN. Khuyến khích
mọi thành phần kinh tế tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng, bao gồm cả các nhà đầu tư
nước ngoài. Tạo điều kiện giảm chi phí kinh doanh cho các nhà đầu tư vào KCN,
trong đó bao gồm việc giảm chi phí thu hồi đất, đền bù giải toả.
+ Đối với vấn đề giao thông của KCN cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự
phát triển bền vững của KCN. Giao thông thuận lợi là yếu tố quan trọng giúp giảm
chi phí và thời gian vận chuyển. Đường xá không đủ, chất lượng đường thấp đẩy
chi phí vận tải lên cao là những mối quan ngại chính đối với các doanh nghiệp.
- Ngoài ra, công tác xúc tiến đầu tư của thành phố cũng sẽ góp phần không nhỏ
vào việc nâng cao tính hấp dẫn trong thu hút đầu tư vào KCN. Hoạt động xúc tiến
đầu tư vào KCN của chúng ta hiện nay còn mang tính chất tự phát và manh mún.
Thành phố cần tập trung hoạt động xúc tiến đầu tư với sự hợp tác của các cơ quan
xúc tiến đầu tư của nước ngoài. Đồng thời, việc tham gia hiệp hội các KCN và khu
chế xuất khu vực và thế giới cũng sẽ góp thêm cơ hội quảng bá cho các KCN của
Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung.
3.2.2 Nâng cao trình độ công nghệ sản xuất của các doanh nghiệp
Phát triển bền vững đòi hỏi làm ra nhiều hơn, tiêu phí tài nguyên ít hơn, tiêu
thụ năng lượng ít hơn và phát sinh chất thải ít hơn. Điều đó đòi hỏi sự hình thành
quá trình sản xuất và thiết bị mới, mở rộng vật liệu có khả năng tái chế và phát triển
các sản phẩm có khả năng tái sinh. Phát triển bền vững tập trung vào công nghệ
sạch để khống chế ô nhiễm đầu nguồn hơn là xử lý cuối đường ống.
- Cần khuyến khích cũng như có các biện pháp “bắt buộc” các doanh nghiệp
trong KCN phải áp dụng và cập nhập các công nghệ tiên tiến, hiện đại. Ví dụ như
đánh thuế cao, hoặc áp dụng mức lương công nhân cao, để “ép”các doanh nghiệp
không thể tận dụng nguồn lao động rẻ ở trong nước một cách bừa bãi, mà cần phải
sử dụng công nghệ hiện đại, máy móc trang thiết bị đổi mới tiên tiên tiến thì mới có
được doanh thu cao bù vào chi phí sản xuất. Nếu không đổi mới công nghệ thì sẽ
không thể tiếp tục sản xuất. Tăng cường công tác quản lý của BQL các KCN & CX
Hà Nội về vấn đề này. Hoặc, có thể đánh giá chất lượng dự án đầu tư bằng cách
đánh giá tỷ lệ vốn đầu tư trên đơn vị (ha) đất công nghiệp , tỷ lệ vốn đầu tư trên 1
công nhân, từ đó đưa ra các yêu cầu về tỷ lệ vốn đầu tư trên công nhân không được
thấp quá tiêu chuẩn cho phép. Không có đủ nguồn lực sản xuất thì bắt buộc các
doanh nghiệp phải đổi mới thiết bị máy móc để nâng cao công suất.
- Quá trình thẩm định dự án đầu tư cần thẩm định chặt chẽ trình độ công nghệ
dây chuyền sản xuất cũng như các thiết bị máy móc sản xuất của doanh nghiệp.
Nếu doanh nghiệp nhập máy móc đã qua sử dụng cần phải kiểm định chất lượng,
máy còn mới và chưa lạc hậu mới được phép đưa vào sản xuất.
- Hỗ trợ về mặt tài chính, vật chất hoặc nhân lực cho các doanh nghiệp có các
dự án đổi mới công nghệ. Hình thức cấp vốn thu hồi, cấp vốn theo đề tài cần được
tiếp tục duy trì.
- Thí điểm lập ngân hàng công nghệ với chức năng chủ yếu là hỗ trợ và thúc
đẩy nghiên cứu , ứng dụng khoa học công nghệ.
- Bồi dưỡng và phát triển đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ, công nhân lành
nghề về số lượng, chất lượng và cơ cấu đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài, áp
dụng các chính sách tài chính nhằm tạo lợi thế cho các doanh nghiệp và các đơn vị
nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới như giảm thuế, cung cấp thông tin, các dịch
vụ cần thiết, giúp đỡ chuyên gia và cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý…
Đưa tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất và
tăng cường năng lực cạnh tranh của các sản phẩm trên thị trường.
3.2.3 Về nguồn nhân lực.
Tuy được đánh giá cao hơn các địa phương khác về đội ngũ lao động, tuy
nhiên nguồn lao động của Hà Nội vẫn xảy ra tình trạng “thừa thầy thiếu thợ”, trình
độ của công nhân đa số là tốt nghiệp phổ thông, với các nghành công nghiệp có
hàm lượng công nghệ cao thì chất lượng lao động ở Hà Nội vẫn chưa đáp ứng được
. Một đội ngũ lao động lành nghề sẽ là nền tảng cho sự phát triển bền vững của các
KCN.
UBND Hà Nội cần có các biện pháp hỗ trợ, khuyến khích cho việc hình thành
các trường đào tạo nghề nhằm cung cấp lao động có tay nghề cao cho các KCN. Sự
mất cân đối giữa cung và cầu nguồn nhân lực đã và đang đặt ra hàng loạt vấn đề về
đào toạ, bồi dưỡng và nâng cao tay nghề cho người lao động trước khi tuyển chọn
vào các KCN.
Trước hết BQL các KCN&CX Hà Nội cần xác định rõ nhu cầu số lượng, cơ
cấu và trình độ đội ngũ lao động cần tuyển dụng từng năm và dự báo nhu cầu dài
hạn cho các KCN phù hợp với ngành nghề. Căn cứ vào nhu cầu đó,các ngành chức
năng và các địa phương sẽ tuyển chọn lao động để đào tạo theo số lượng, kết cấu và
trình độ tay nghề tương ứng tại các trung tâm huấn luyện tay nghề. Các trung tâm
này có thể được thành lập theo các chuyên ngành tuỳ nhu cầu phát triển các KCN.
Kinh phí cho việc xây dựng các trung tâm này được huy động từ các nguồn: nhà
nước, các KCN và người lao động, phân bố theo tỷ lệ hợp lý, bảo đảm hài hoà lợi
ích các bên.
Thực tế cho thấy, hầu hết các doanh nghiệp trong KCN của Hà Nội đều có
công nghệ tiên tiến, hiện đại, vì thế nhu cầu lao động có tay nghề cao là rất cấp
thiết. Việc hỗ trợ để hình thành các trung tâm đào tạo nghề tại Hà Nội phù hợp với
nhu cầu trên sẽ góp phần làm cho doanh nghiệp giảm đáng kể chi phí đào tạo lao
động và qua đó tăng khả năng thu hút đầu tư vào Hà Nội cũng như sự phát triển bền
vững về kinh tế của các KCN.
3.2.4 Về quy hoạch các KCN.
Nâng cao chất lượng qui hoạch KCN.
Thứ nhất, nâng cao chất lượng, hiệu quả và bảo đảm tính hệ thống trong quy
hoạch KCN. Theo kinh nghiệm của các nước Thái Lan, Trung Quốc trong phát
triển KCN, thì quy hoạch các KCN phải phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế -
xã hội, quy hoạch đất đai, quy hoạch điểm dân cư, thành phố, khu đô thị.
Thứ hai, lĩnh vực hoạt động của KCN cần được mở rộng. Mục đích ban đầu
của việc thành lập các KCN là để tận dụng lao động, điều kiện tự nhiên để thu hút
các nhà đầu tư trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp để lấp đầy KCN. Tuy nhiên, các
KCN giờ đây cần chuyển sang hoạt động theo mô hình mới. KCN không chỉ là nơi
dành riêng cho các hoạt động sản xuất công nghiệp mà cả các hoạt động thương
mại, dịch vụ logistic, các dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động trong KCN như ngân hàng,
bưu điện, vận chuyển, viễn thông cũng phải là một phần của KCN.
Thứ ba, đưa ra các biện pháp hỗ trợ cho việc chuyển đổi cơ cấu trong nội bộ
KCN theo hướng hiệu quả, bền vững và phù hợp với sự phát triển của khoa học
công nghệ. Theo đó, cơ cấu sản xuất công nghiệp trong các KCN Hà Nội cần:
- Chuyển từ KCN sản xuất sản phẩm sử dụng nhiều lao động, tài nguyên sang
KCN sử dụng nhiều vốn và công nghệ cao
- Chuyển các ngành sản xuất gây ô nhiễm môi trường sang các ngành công
nghiệp sạch.
- Chuyển từ KCN sản xuất đơn thuần sang KCN kết hợp sản xuất với nghiên
cứu khoa học, triển khai kỹ thuật công nghệ cao và các dịch vụ sản xuất. Với điều
kiện của một đô thị đông đúc, nguồn lực đất đai hạn hẹp, nguồn vốn và lực lượng
lao động qua đào tạo dồi dào, Thành phố cần xây dựng tiêu chí cụ thể thu hút các
dự án đầu tư trong KCN theo hướng chỉ thu hút các dự án có hàm lượng vốn cao,
trình độ tiên tiến và ít ô nhiễm. Từng bước dịch chuyển dần các ngành công nghiệp
không phù hợp ra ngoài thành phố.
Thứ tư, bảo đảm tính đồng bộ của các yếu tố cơ sở hạ tầng về kinh tế, xã hội
và môi trường. Mục đích chung của hướng này là nhằm bảo đảm cho sự phát triển
bền vững không những nội tại KCN mà cả những địa phương có KCN. Để thực
hiện được mục tiêu trên, sự phát triển các KCN phải được kết hợp chặt chẽ với các
yếu tố cần phát triển khác như hệ thống bảo vệ và chống ô nhiễm môi trường; Hệ
thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội: đường xá, điện, nước, nhà cửa, mạng lưới
thông tin viễn thông, y tế, giáo dục, phát triển KCN đi đôi với quy hoạch đồng bộ
mạng lưới thị tứ, khu vực thành thị với các điều kiện sinh hoạt hiện đại.
Thứ năm, việc xây dựng qui hoạch phải đi trước một bước so với yêu cầu thực
tiễn. Cần thiết phải nghiên cứu kỹ những bài học kinh nghiệm của các quốc gia đi
trước trong vấn đề phát triển KCN. Đồng thời cần phải tranh thủ ý kiến và sự tham
gia của các chuyên gia nước ngoài trong công tác xây dựng qui hoạch.
Quy hoạch là một vấn đề cần được xem xét kỹ lưỡng và khoa học. Tránh tình
trạng quy hoạch, rồi điều chỉnh quy hoạch, sửa đổi quy hoạch, quy hoạch thiếu
công khai đã gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp cũng như tạo điều kiện cho
một số quan chức tham nhũng hoặc lạm dụng thu lợi bất chính, gây mất lòng tin
của các doanh nghiệp cũng như nhân dân.
3.2.5 Về chính sách tăng cường nội địa hoá.
Các doanh nghiệp trong các KCN hiện nay đa phần sử dụng nguyên liệu nhập
ngoại mà chưa tận dụng được nguồn nguyên liệu trong nước. Mà nguồn nguyên
liệu trong nước vẫn có khả năng đáp ứng về nhu cầu chất lượng và số lượng.
Cần có các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng nguồn nguyên
liệu nội địa như: tăng thuế nhập khẩu nguyên vật liệu, tỷ lệ thành phẩm càng cao thì
đánh thuế càng cao, đồng thời có các chính sách giảm thuế khi sử dụng nguồn
nguyên liệu trong nước.
Đồng thời nên có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước vào các
KCN, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận các doanh
nghiệp nước ngoài, vừa học hỏi kinh nghiệm, công nghệ và tăng cường nội địa hoá,
phát huy nội lực. Hà Nội là thủ đô, là trung tâm kinh tế lớn, là nơi tập trung rất
nhiều các doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh thì thu hút các doanh nghiệp
trong nước vào các KCN là một việc cần thiết.
Theo thông tin thu thập được, thì hiện nay ở các KCN của Hà nội, các dịch vụ
hỗ trợ sản xuất như logistics không cần đòi hỏi trình độ khoa học công nghệ cao
nhưng vẫn là các dự án của nước ngoài, trong khi đó ta hoàn toàn có thể đầu tư các
dự án này. Logistics là một hoạt động thương mại do các thương nhân tổ chức thực
hiện một hoặc nhiều công đoạn bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho bãi, làm
thủ tục hải quan và các loại giấy tờ, tư vấn khách hàng, đóng gói, giao hàng hoặc
các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hóa để hưởng phí thù lao. Ở KCN Nội Bài
có công ty Nippo Kondo (Nhật). Nếu như ở Việt Nam, logistics còn là một ngành
mới mẻ thì trên thế giới đã là một dịch vụ hoạt động lâu năm với nhiều tập đoàn
hoạt động với quy mô toàn cầu như: Maersk Logistics, Mitsui OSK, APL...
Logistics là một hoạt động tổng hợp mang tính dây chuyền, hiệu quả của quá trình
này có tầm quan trọng quyết định đến tính cạnh tranh của ngành công nghiệp và
thương mại mỗi quốc gia. Đối với những nước phát triển như Nhật và Mỹ chi phí
logistics chiếm khoảng 10% GDP. Đối với những nước kém phát triển thì tỷ lệ này
có thể hơn 30%.
Với doanh số hàng tỷ USD, dịch vụ này rất hấp dẫn các nhà đầu tư và họ đang
đầu tư và kinh doanh sôi động tại Việt Nam. Sự phát triển dịch vụ logistics có ý
nghĩa đảm bảo cho việc vận hành sản xuất, kinh doanh các dịch vụ khác được đảm
bảo về thời gian và chất lượng. Logistics phát triển tốt sẽ mang lại khả năng tiết
giảm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ. Tuy nhiên, điều đáng nói là
nguồn lợi lớn từ dịch vụ này ngay trên sân nhà hiện không nằm trong tay các doanh
nghiệp Việt Nam mà đang chảy về túi các nhà đầu tư nước ngoài. Đây là điều rất
đáng tiếc, là chưa có một doanh nghiệp trong nước nào trong các KCN, mà tát cả
đều là các dự án đầu tư nước ngoài,vì ngành này chúng ta hoàn toàn có khả năng
đầu tư . Trong thời gian tới, Hà Nội cần khuyến khích và thu hút các doanh nghiệp
trong nước đầu tư vào lĩnh vực này.
3.2.6 Tăng cường quản lý nhà nước của BQL các KCN&CX Hà Nội
Nghị định Chính phủ số 29/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 03 năm 2008 quy
định về KCN, KCX và KKT đã tăng thêm quyền hạn và trách nhiệm quản lý của
Ban Quản lý các KCN & CX Hà Nội trong vai trò quản lý các doanh nghiệp. Để
phát triển các KCN bền vững về kinh tế thì vai trò quản lý của BQL là rất quan
trọng.
- Về thẩm định và cấp giấy phép đầu tư :Ngay từ lúc tiếp nhận đơn xin đầu tư
thì BQL cần thẩm định về khả năng vốn, công nghệ của doanh nghiệp. Doanh
nghiệp nào không đạt yêu cầu sẽ không được cấp phép đầu tư. Thực hiện cấp phép
đầu tư có chọn lọc. Tiến hành xử lý thủ tục hồ sơ nhanh chóng.
- Về quản lý doanh nghiệp : Phòng quản lý doanh nghiệp phối hợp với các với
các cơ quan hữu quan kiểm tra việc bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh trật tự và an
toàn lao động đối với các doanh nghiệp trong KCN và KCX, tháo gỡ các khó khăn
cho doanh nghiệp . Tham mưu đề xuất với các cơ quan chức năng nhà nước và
lãnh đạo BQL chính sách, chế độ nhằm khuyến khích sản xuất kinh doanh, phát
hiện những vấn đề cần sửa đổi,điều chỉnh giấy phép đầu tư . Phối hợp với Trung
tâm dịch vụ viêc làm thuộc BQL, đảm bảo cung ứng lao động có chất lượng cho
các doanh nghiệp trong KCN, KCX theo lụât pháp và chính sách của nhà nước Việt
Nam. Hướng dẫn và theo dõi việc thực hiện những quy định của BQL về quản lý
lao động tại các xí nghiệp trong các KCN.
- Tăng cường kiểm tra tình hình sản xuất trong KCN, về tình hình đời sống
người lao động, bảo vệ quyền lợi cho người lao động, tình hình sản xuất của các
doanh nghiệp, việc chấp hành quy chế KCN.
- Tăng cường vai trò của Đại diện ban quản lý tại các khu công nghiệp: Đôn đốc
kiểm tra xem xét tình hình sản xuất của các doanh nghiệp để nắm chắc tình hình,
phải thường xuyên theo dõi hoạt động của tất cả các KCN, những thắc mắc cần giải
quyết hay có vấn đề tồn tại gì trong KCN thì ban đại diện cần nắm rõ để báo cáo, có
phương hướng xử lý kịp thời.
- BQL cần phối hợp với các công ty xây dựng KCN có những chính sách thu
hút đầu tư và thống nhất tiêu chí lựa chọn các nhà đầu tư, cũng như phối hợp trong
việc quản lý hiệu quả phát triển các KCN.
3.2.7 Về công tác đền bù, giải phóng mở rộng các KCN
Cần đẩy nhanh việc đền bù, thu hồi đất. Qua khảo sát thực tế, đến nay chỉ mới
có KCN Thăng Long là đã hoàn thành cả 3 giai đoạn, Nội Bài cũng đang triển khai
giai đoạn 2. Còn các khu khác vẫn chỉ mới dậm chân tại giai đoạn 1, tất cả đều
vướng phải vấn đề giải phóng mặt bằng. Đây là một trong những lý do cơ bản khiến
cho việc phát triển các KCN rất chậm trễ. Tuy nhiên, có thể thấy việc phát triển các
KCN cũng bị giới hạn do diện tích đất cho phát triển công nghiệp của thành phố
cũng bị hạn chế, nên việc giải phóng mặt bằng chậm chễ cũng chỉ làm cho tình hình
thêm khó khăn. Nhiều KCN từ khi có quyết định thành lập Hội đồng đền bù giải
phóng mặt bằng đến khi hoàn thành thủ tục, lấy được đất phải kéo dài nhiều năm,
trong thời gian kéo dài đó có nhiều phát sinh nằm ngoài dự kiến làm tốn kém và
gây tâm lý ức chế cho nhà đầu tư. KCN Sài Ðồng B giai đoạn II là một thí dụ điển
hình: Sau khi lấp đầy KCN giai đoạn I, Công ty điện tử Hà Nội được thành phố cho
phép mở rộng giai đoạn II của KCN thêm 9 ha. Từ đó đến nay , việc giải phóng mặt
bằng cho giai đoạn II vẫn chưa hề có tiến triển. Hệ quả là hàng loạt nhà đầu tư nước
ngoài đăng ký đầu tư vào KCN sau nhiều năm không xác định được thời gian giao
đất, đã nản lòng và phải quay ra đầu tư vào các địa phương khác.
Hiện nay, trở ngại lớn nhất trong giải phóng mặt bằng là vấn đề bồi thường.
Công tác giải phóng mặt bằng gặp khó khăn do nhiều nguyên nhân như việc quy
hoạch, hướng dẫn, chỉ dẫn, tuyên truyền vận động chưa tốt, do vậy người dân
không hiểu rõ chế độ, chính sách của Nhà nước. Có nhiều nơi, tốc độ đô thị hóa
diễn ra nhanh, đẩy giá đất lên cao gấp nhiều lần so với giá đền bù. Điều tất yếu là
người dân sẽ không muốn trao trả đất trừ khi họ được đền bù với mức giá cao hơn
giá thị trường.
Để giải quyết vấn đề này, Hà Nội cần tập trung giải quyết các vấn đề sau:
- Thứ nhất, công bố công khai và phổ biến sớm qui hoạch đã được phê duyệt
bằng nhiều hình thức đến người dân ở khu vực bị thu hồi đất nhằm chuẩn bị tâm lý
cho người dân và giảm bớt những hoạt động lợi dụng sự hiểu biết về thông tin qui
hoạch để trục lợi thông qua mua bán, sang nhượng, xây dựng trên vùng đất được
qui hoạch dẫn đến gây bất ổn về tình hình giá đất, gây khó khăn và tốn kém cho
việc thu hồi và giải phóng mặt bằng cho xây dựng KCN.
- Thứ hai, chuẩn bị kỹ càng kế hoạch thu hồi đất và tái định cư cho người dân
mất đất, thông qua chính quyền địa phương các cấp để phổ biến cho dân. Kế hoạch
này phải có nhiều phương án để cho người dân có thể lựa chọn phương án phù hợp
với điều kiện riêng của họ (giao đất lấy tiền, đổi đất lấy nền nhà, góp đất lấy cổ
phần, v.v..). Các phương án cũng cần phải được phổ biến rộng rãi, chính xác và lấy
ý kiến đóng góp của người dân một cách cởi mở. Nếu có ý kiến phản hồi, cần phải
được nghiên cứu kỹ và chỉnh sửa kế hoạch cho phù hợp.
- Thứ ba, thành phố phải có phương án ổn định cuộc sống cho người dân sau
khi bị thu hồi đất. Tình trạng phổ biến ở một số địa phương là người dân sau khi bị
thu hồi đất phải mất rất nhiều thời gian để tổ chức lại cuộc sống trong khi lại ít nhận
được sự quan tâm của chính quyền địa phương. Thậm chí nhiều nơi, những người
bị thu hồi đất thấy bị thiệt thòi quá nhiều đã quay trở lại gây khó khăn cho hoạt
động của các nhà đầu tư. Để ổn định cuộc sống cho người dân mất đất, trước hết
chính quyền địa phương cần đi trước một bước trong việc đảm bảo chất lượng nhà
ở và cơ sở hạ tầng khu vực tái định cư. Cần tạo điều kiện cho những hộ dân có liên
quan tham gia giám sát việc xây dựng nhà tái định cư để đảm bảo rằng những gì họ
được hưởng là tương xứng với những lợi ích mà họ đã phải “hy sinh” vì sự phát
triển của KCN.
Ngoài ra, nông dân đóng góp đất canh tác cho xây dựng KCN có thể thay vì
được đền bù bằng tiền mặt họ sẽ được nhận cổ phần của công ty phát triển hạ tầng
KCN. Như vậy họ sẽ là cổ đông, tham gia trực tiếp vào hoạt động kinh doanh của
KCN và thay vì được nhận hoa màu từ sản xuất nông nghiệp họ sẽ được nhận tiền
lãi từ hoạt động kinh doanh hạ tầng của KCN. Người dân sẽ sẵn sàng bàn giao đất
để công ty hạ tầng có thể sớm đi vào hoạt động, mang lại lợi nhuận cho chính họ.
Giải pháp này sẽ mang tính hiện thực nhiều hơn vì chắc chắn sẽ nhận được sự đồng
tình của phần lớn người dân mất đất.
3.2.8 Các chính sách marketing và công tác xúc tiến đầu tư.
Đã có xây dựng các trang website cho từng KCN, song nội dung chưa có
nhiều, rất sơ sài. Cần phải giới thiệu quảng bá các KCN nhiều hơn, đưa thêm nhiều
thông tin hình ảnh về cơ sở hạ tầng, dịch vụ, các mặt hàng sản xuất trong KCN.
Xây dựng các chương trình marketing địa phương.
Cần phải khẳng định rằng, tuy Hà Nội đã có nhiều cố gắng trong công tác
truyền thông nhưng hầu hết các chương trình đều chưa mang lại hiệu quả đáng kể.
Họ có rất ít những thông tin về môi trường đầu tư từ chính các hoạt động xúc tiến
chủ động của Hà Nội. Thực tế, các nhà đầu tư luôn phải tự mình tìm kiếm thông tin
trong một môi trường thông tin không mở.
Trong kỷ nguyên của công nghệ thông tin, có rất nhiều phương pháp thu thập
thông tin về một địa điểm đầu tư nào đó và cũng có hàng trăm ngàn nguồn có thể
cung cấp thông tin cho nhà đầu tư. Một cuộc điều tra các doanh nghiệp đầu tư nước
ngoài đã chỉ ra có 4 nhóm nguồn tin được họ truy cập:
- Nhóm thứ nhất bao gồm những thông tin không phổ biến mà bạn hàng, các
nhà đầu tư khác, kinh nghiệm của chính nhà đầu tư cũng như từ các đại sứ quán
cung cấp. Dựa trên kinh nghiệm thực tế, những nguồn này được coi là những nguồn
tin đáng tin cậy nhất đối với các nhà đầu tư khi họ tìm kiếm thông tin về môi
trường Hà Nội.
- Nhóm thứ hai mà nhà đầu tư tìm kiếm thông tin là Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Đây là nguồn tin chính thức mà nhà đầu tư cho rằng có khả năng cung cấp những
thông tin chính xác nhất về chính sách thu hút đầu tư. Tuy nhiên, thông tin từ
nguồn này thường không đầy đủ hoặc rất chủ quan, chỉ thể hiện tư tưởng tích cực
nhưng trên thực tế thì nhà đầu tư còn nhiều việc phải làm.
- Nhóm thứ ba cung cấp thông tin bao gồm Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội, các
chiến lược thu hút FDI của Hà Nội và Việt Nam. Có 70% các nhà đầu tư trong
nghiên cứu này cho rằng, họ sử dụng nguồn tin này nhưng chất lượng thông tin
chưa thực sự cao, chỉ hơn mức trung bình mà thôi.
- Nhóm thứ tư cung cấp thông tin cho nhà đầu tư là Phòng Thương mại và công
nghiệp Việt Nam ( VCCI), trang chủ của các cơ quan Hà Nội, người Việt Nam và
các đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài. Các nhà đầu tư cũng thường truy cập vào
những nguồn tin trên nhưng họ đánh giá thấp chất lượng thông tin từ các nguồn này
bởi tính lạc hậu và không chính xác của chúng.
Các nhà đầu tư rất tin tưởng vào thông tin mà đối tác của họ cung cấp. Bên
cạnh đó, đại sứ quán của họ tại Việt Nam cũng được họ tham khảo ý kiến đánh giá
về môi trường đầu tư. Do đó, việc cung cấp thông tin cho đại sứ quán các nước tại
Việt Nam là điều mà Hà Nội nên làm để có thể tiếp cận các nhà đầu tư. Thực tế, sau
khi nhận được những thông tin tích cực, các nhà đầu tư thường tới tận nơi để kiểm
tra tình hình bằng đánh giá của chính họ.
Sở kế hoạch và Đầu tư Hà Nội, một đầu mối cung cấp thông tin về Hà Nội
cũng không được nhiều nhà đầu tư nhắc tới như một “nguồn cung cấp thông tin”
mà với họ, đây chỉ là nơi “cấp giấy phép và quản lý các dự án đầu tư” mà thôi.
Thực tế, Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội cũng không thể quản lý việc các dự án
được cấp phép đã đi vào sản xuất kinh doanh hay chưa và mức độ thành công của
các dự án này ra sao.
3.3 Một số kiến nghị hỗ trợ các KCN phát triển bền vững về mặt kinh tế
Sự phát triển các KCN bền vững về mặt kinh tế phải nằm trong mối liên hệ
phát triển bền vững về mặt xã hội và môi trường:
1. Xã hội
Cần phải hoàn thiện các chính sách an dân khi thu hồi đất:
- Thứ nhất, công bố công khai và phổ biến sớm qui hoạch đã được phê duyệt
bằng nhiều hình thức đến người dân ở khu vực bị thu hồi đất nhằm chuẩn bị tâm lý
cho người dân và giảm bớt những hoạt động lợi dụng sự hiểu biết về thông tin qui
hoạch để trục lợi thông qua mua bán, sang nhượng, xây dựng kiên cố trên vùng đất
được qui hoạch dẫn đến gây bất ổn về tình hình giá đất, gây khó khăn và tốn kém
cho việc thu hồi và giải phóng mặt bằng cho xây dựng KCN.
- Thực hiện minh bạch chính sách bồi thường, thống nhất giá cả bồi thường
trong một KCN không đổi theo thời gian, tránh tình trạng người dân kéo dài dây
dưa nhằm đòi nâng cao giá bồi thường khi giá đất thị trường ngày càng tăng cao.
- Hoàn thiện chính sách bồi thường theo hướng nhất quán giữa việc bồi thường
bằng đất và bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất, đảm bảo cho người dân tái
tạo được tư liệu sản xuất mới để ổn định cuộc sống lâu dài.
- Đưa việc bồi thường chuyển đổi nghề nghiệp là khoản chính thống chứ không
phải là hỗ trợ.
Nâng cao mức sống của người lao động về cả vật chất và tinh thần:
- Bình đẳng trong thu nhập,trong việc tiếp cận các dịch vụ. Tạo điều kiện cho
người lao động được tiếp cận với các dịch vụ cơ bản như giáo dục, y tế, giải trí như
sách báo, đài, tivi, internet, khu vui chơi giải trí.
- Đảm bảo cho người lao động có chỗ ăn, ở đầy đủ. về nhà ở, điện, nước đầy đủ,
giá cả hợp lý. Đảm bảo an ninh trật tự để người lao động yên tâm sống và làm việc.
Tạo điều kiện cho người lao động được trau dồi kiến thức và kỹ năng của mình
thông qua các chương trình đào tạo, qua sách báo và qua các phương tiện thông tin
đại chúng.
- Khuyến khích các công ty xây dựng hạ tầng xây dựng các khu nhà ở cho công
nhân, các công trình văn hoá. Vận động người lao động tích cực tham gia công tác
phòng chống tệ nạn xã hội, tội phạm, bảo vệ tài sản doanh nghiệp , bảo vệ an toàn
sản xuất và an ninh trật tự KCN.
- Tăng cường xây dựng các tổ chức công đoàn trong KCN.
- Xem xét hoàn thiện pháp luật lao động như thoả ước lao động tập thể, tiền
thưởng…
2. Môi trường
Chúng ta biết rằng phát triển sẽ làm biến đổi môi trường, vấn đề là phải làm
sao cho môi trường tuy biến đổi nhưng vẫn thực hiện đầy đủ được ba chức năng cơ
bản của nó là: tạo cho con người một không gian sống với phạm vi và chất lượng
tiện nghi cần thiết, cung cấp cho con người những tài nguyên cần thiết để sản xuất ,
sinh sống, nơi xử lý và chôn vùi các phế thải làm ô nhiễm môi trường, đó chính là
phát triển bền vững.
Cần kết hợp hài hoà các hoạt động nhằm duy trì nguyên trạng các trạng thái
địa lý và tự nhiên có ảnh hưởng đến đời sống con người. Cụ thể như:
- Việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên tái tạo trong phạm vi chịu tải của chúng
nhằm khôi phục được cả về số lượng và chất lượng, các dạng tài nguyên không tái
tạo phải được sử dụng tiết kiệm và hợp lý nhất như xăng, dầu. Môi trường tự nhiên
và môi trường xã hội không bị các hoạt động của con người làm ô nhiễm, suy thoái
và tổn hại. Sử dụng tiết kiệm nguồn điện và nguồn nước. Các nguồn phế thải từ các
doanh nghiệp và sinh hoạt của con người phải được xử lý, tái chế kịp thời, đặc biệt
là nguồn nước thải và khí thải. Nguồn nước thải cần được tái chế, còn khí thải cần
được khống chế không được vượt quá sự cho phép, và phải có hệ thống xử lý trước
khi thải ra môi trường. để đảm bảo không khí không bị ô nhiễm.
- Cần khẩn trương xây dựng hệ thống xử lý nước thải trong tất cả các KCN.
Trong các KCN của Hà Nội hiện nay thì chỉ mới có KCN Thăng Long là có khu xử
lý nước thải, hệ thống môi trường của KCN đạt tiêu chuẩn ISO 14001 về bảo vệ
môi trường . Còn các KCN khác vẫn chưa có hệ thống xử lý ô nhiễm môi trường
đạt tiêu chuẩn. Yêu cầu đặt ra bắt buộc là tất cả các KCN phải có các điều kiện đầy
đủ về hạ tầng xử lý nước thải và chất thải trước khi được cấp giấy phép đầu tư.
- Các doanh nghiệp trong KCN phải có hệ thống xử lý nước thải sơ bộ ngay tại
nhà máy trước khi thải ra đường nước thải chung.
- Doanh nghiệp nào gây ô nhiễm thì doanh nghiệp đó phải đền bù, mà mức xử
phạt các doanh nghiệp gây ô nhiễm phải thật nghiêm khắc. Nếu doanh nghiệp nào
gây ô nhiễm trong thời gian dài có thể rút giấy phép đầu tư, chấm dứt hoạt động sản
xuất của doanh nghiệp đó.
- Hà Nội phải kết hợp với các địa phương, các KCN và các doanh nghiệp đang
hoạt động trong các KCN tìm ra giải pháp thiết thực để khắc phục tình trạng ô
nhiễm môi trường ở các KCN. Cần kết hợp giữa việc rà soát các chế tài xử lý hành
vi gây ô nhiễm môi trường với việc hỗ trợ các đơn vị tổ chức có liên quan để chấm
dứt tình trạng ô nhiễm hiện tại, đặc biệt là tình trạng ô nhiễm nguồn nước và ô
nhiễm khí thải.
- Các công ty phát triển hạ tầng KCN cũng cần nâng cao trách nhiệm bảo vệ
môi trường. Hà Nội có thể khuyến khích việc xây dựng các nhà máy xử lý chất thải
bằng việc không thu tiền thuế, phí sử dụng đất đối với diện tích dùng cho mục đích
này, kể cả khu xử lý tập trung và các khu xử lý cục bộ trong các doanh nghiệp.
Đồng thời thành phố cũng nên có cơ chế hỗ trợ (lãi suất thấp, thưởng) và tạo điều
kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động trong các KCN sử dụng công nghệ
thân thiện với môi trường.
- Cần quy hoạch thành lập các KCN chuyên ngành, vì việc tập trung các doanh
nghiệp có cùng ngành nghề trong một KCN sẽ tạo điều kiện cho việc lựa chọn công
nghệ xử lý ô nhiễm môi trường phù hợp, giúp nâng cao hiệu quả trong công tác
phòng ngừa, và xử lý hiệu quả tình trạng ô nhiễm tại các khu vực trong và xung
quanh KCN. Ngược lại, nếu như trong cùng một KCN mà có nhiều doanh nghiệp
thuộc ngành nghề khác nhau thì công nghệ xử lý môi trường cũng đòi hỏi đa dạng,
tốn kém và khó quản lý
- Tăng cường trồng cây xanh trong các KCN. Vận động các doanh nghiệp và
người lao động có ý thức bảo vệ môi trường trong KCN.
3. Về vấn đề giao thông của KCN Nam Thăng Long.
Thành phố cần đẩy nhanh việc triển khai xây dựng con đường lớn nối KCN
Nam Thăng Long ra đường quốc lộ để vấn đề đi lại trong KCN thuận lợi hơn. Tạo
điều kiện thuận lợi để KCN thu hút các nhà đầu tư.
4. UBND Thành phố cần quan tâm hơn nữa đến đời sống của cán bộ BQL:
Lương cán bộ thấp, cơ sở hạ tầng BQL chật hẹp, các phòng ban có diện tích
nhỏ, mỗi phòng có diện tích chỉ từ 15-20m2, cơ sở vật chất chưa tương xứng với vai
trò vị thế của Ban. Nhanh chóng thực hiện việc di dời BQL về địa điểm mới.
KẾT LUẬN
Phát triển KCN theo hướng bền vững là yêu cầu cấp thiết của bất kỳ KCN
nào. Tuy còn một số tồn tại nhưng các KCN của Hà Nội đã chứng tỏ được vai trò
của các KCN của thủ đô khi thu hút được các dự án lớn, sản xuất các sản phẩm có
công nghệ cao, đóng góp quan trọng vào sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế, sự hình
thành các khu đô thị, giải quyết được rất nhiều việc làm và góp phần tăng thu ngân
sách. Trong thời gian tới, khi mà cả 5 KCN đã đi vào hoạt động, Sở kế hoạch đầu
tư Hà Nội, Ban quản lý các KCN&CX Hà Nội cùng với chính quyền các cấp quản
lý hiệu quả hơn các dự án đầu tư và sự hoạt động của các KCN, có những phương
hướng nhằm phát triển các KCN phát triển bền vững về tất cả các mặt.
Chuyên đề đã đánh giá cơ bản được sự phát triển bền vững về mặt kinh tế ,
một số tồn tại và đưa ra được một số giải pháp nhằm phát triển bền vững các KCN
trên địa bàn Hà Nội.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Kinh tế phát triển GS.TS.Vũ Thị Ngọc Phùng , NXB Lao động Xã
hội, 2005
2. PGS.TS Nguyễn Đức Khiển, Con người và vấn đề phát triển bền vững ở Việt
Nam, NXB Lao Động-Xã Hội.
3. Sở Thương mại Hà Nội, Báo cáo hoạt động thương mại Hà Nội năm 2007 và
nhiệm vụ năm 2008
4. BQL KCN và chế xuất Hà Nội (11/ 2005), Kỷ yếu Hội thảo khoa học 10 năm
xây dựng các KCN&CX Hà Nội (1995 – 2005)
5. Vũ Thành Hưởng: Diễn đàn Phát triển Việt Nam và Trường Đại học Kinh tế
Quốc dân, “Môi trường và chính sách kinh doanh của Hà Nội”
6. BQL KCN &CX Hà Nội: Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện nhiệm vụ năm
2007 và phương hướng nhiệm vụ năm 2008.
7. Nghị định Chính phủ số 29/2008/NĐ - CP ngày 14 tháng 03 năm 2008 quy
định về KCN, KCX và KKT.
8. UBND Thành phố Hà Nội: Danh mục dự án đầu tư vào Hà Nội giai đoạn
2006-2010.
9. BQL KCN và chế xuất Hà Nội, VD HIPZA2007 “Hà Nội-Địa chỉ vàng cho các
nhà đầu tư”
10. Trang Web sở kế hoạch đầu tư Hà Nội. Địa chỉ:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4_8046.pdf