Luận văn Một số giải pháp phát triển thị trƣờng bảo hiểm Việt Nam nhằm đáp ứng các cam kết về dịch vụ bảo hiểm trong hiệp định thƣơng mại Việt Nam-Hoa Kỳ

Tin học hóa tất cả các khâu từ đánh giá rủi ro, khai thác, cấp đơn, quả n lí hợp đồng, đến các khâu thống kê tổn thất, thanh toán bồi thường cho khách hàng. Cần xây dựng chương trình ứng dụng công nghệ thông tin trong tất cả các khâu, trong đó tập trung phát triển hệ thống phần mềm thống kê tính phí, trích lập dự phòng nghiệp vụ, hệ thống truyền dữ liệu báo cáo kinh doanh từ công ty đến chi nhánh và ngược lại, đảm bảo cập nhật thông tin trong toàn hệ thống, xử lí kịp thời các diễn biến của thị trường. Xây dựng hệ thống giao dịch trên mạng, lập địa chỉ Websites, ứng dụng hệ thống tin học quản lý trong nội bộ doanh nghiệp. Việc triển khai hệ thống công nghệ thông tin hiện đại là rất quan trọng đối với việc duy trì vị thế của doanh nghiệp bảo hiểm hiện nay. Tuy nhiên chi phí đầu tư quá lớn, dường như còn quá xa so với khả năng tài chính của các doanh nghiệp bảo hiể m có qui mô vừa và nhỏ. Vì vậy cần kiến nghị Nhà nước có chính sách cụ thể để hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước triển khai áp dụng công nghệ thông tin tiên tiến vào thực tiễn kinh doanh của mình.

pdf113 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2286 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp phát triển thị trƣờng bảo hiểm Việt Nam nhằm đáp ứng các cam kết về dịch vụ bảo hiểm trong hiệp định thƣơng mại Việt Nam-Hoa Kỳ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dịch vụ tái bảo hiểm nhân thọ cũng như phi nhân thọ dưới dạng chi nhánh công ty, công ty liên doanh hay là công ty tự doanh. Sẽ không có giới hạn nào về mặt địa lý cũng như số lượng đối với việc cấp giấy phép cho loại hình dịch vụ bảo hiểm này. - Cấp giấy phép kinh doanh : Ngay sau khi gia nhập WTO, Trung quốc sẽ cam kết bãi bỏ các hạn chế đối với số lượng giấy phép cung cấp cho các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài. Các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài sẽ phải thoả mãn các điều kiện sau đây trước khi được cấp giấy phép hoạt động trên thị trường Trung quốc : phải có lịch sử hoạt động hơn 30 năm với tư cách là thành viên của WTO, mở văn phòng đại diện ở Trung quốc trong vòng 2 năm liên tiếp và có ít nhất là 5 tỷ USD tổng giá trị tài sản vào năm trước khi nộp đơn xin kinh doanh ở thị trường bảo hiểm Trung quốc. 71 - Bảo hiểm thƣơng mại ở qui mô lớn : Bảo hiểm thương mại trên qui mô lớn là nhằm để chỉ việc cung cấp các dịch vụ bảo hiểm cho các doanh nghiệp thương mại và công nghiệp lớn. Tiêu chuẩn của các dịch vụ “lớn” là : tổng mức phí bảo hiểm hàng năm mà các doanh nghiệp này phải trả khi Trung quốc gia nhập WTO là trên 800.000 NDT, với tổng mức đầu tư của các doanh nghiệp này là trên 200 triệu NDT. Một năm sau khi gia nhập WTO, tổng mức phí bảo hiểm hàng năm mà các doanh nghiệp này phải trả là trên 600.000 NDT, với tổng mức đầu tư của các doanh nghiệp này là trên 180 triệu NDT. 2 năm sau khi gia nhập, tổng mức phí bảo hiểm hàng năm mà các doanh nghiệp này phải trả là trên 400.000 NDT, với tổng mức đầu tư của các doanh nghiệp này là trên 150 triệu NDT. - Lĩnh vực pháp lý của bảo hiểm : Trung quốc cam kết mức 20% tái bảo hiểm bắt buộc mà các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài phải nộp cho Công ty tái bảo hiểm quốc gia Trung quốc sẽ không thay đổi ngay sau khi nước này gia nhập WTO. Một năm sau khi gia nhập, mức tái bảo hiểm bắt buộc sẽ phải giảm xuống 15%, 10% sau 2 năm, 5% sau 3 năm và cuối cùng là bãi bỏ hoàn toàn sau 4 năm. Tuy nhiên các công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài sẽ không được phép tiến hành bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe, phương tiện giao thông công cộng, vận chuyển hành khách … đối với người thứ ba, cũng như không được phép tiến hành các dịch vụ pháp lí về bảo hiểm khác. - Đối với dịch vụ môi giới bảo hiểm thông thƣờng : Các hạn chế mang tính địa lý đối với việc mở rộng hoạt động các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài cũng được áp dụng cho các công ty môi giới bảo hiểm. Có nghĩa là các công ty môi giới bảo hiểm nước ngoài trước tiên sẽ được phép hoạt động ở Thượng hải, Thâm quyến, Quảng châu, Đại liên, Foshan ngay sau khi Trung quốc gia nhập WTO, sau 2 năm các công ty này sẽ được phép hoạt 72 động ở 10 thành phố nữa và sẽ là ở tất cả các thành phố sau 3 năm gia nhập WTO. Trong khuôn khổ các cam kết WTO, EU, và Mỹ, Uỷ ban quản lý bảo hiểm Trung quốc (CIRC) đã vạch ra những bước đi cụ thể để thực hiện tái cơ cấu lại ngành công nghiệp bảo hiểm trong nước nhằm làm tăng khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp bảo hiểm nội địa trong những năm tới, bao gồm : + Thiết lập thêm các công ty bảo hiểm trong nước và cho phép các công ty bảo hiểm nội địa hiện tại được mở rộng địa bàn hoạt động của mình sang nhiều thành phố khác ; + Thành lập các liên minh giữa các công ty bảo hiểm và các ngân hàng thương mại trong nước, bắt đầu với công ty bảo hiểm lớn nhất nước, Công ty bảo hiểm tài sản Trung quốc (CPIC) và ngân hàng thương mại lớn nhất Trung quốc, Ngân hàng thương mại Trung quốc, để cung cấp các dịch vụ của mình cho các khách hàng + Tổ chức các khóa đào tạo nhằm nâng cao năng lực, giúp các doanh nghiệp bảo hiểm của Trung quốc cạnh tranh được với các đối tác nước ngoài, cung cấp thêm nguồn nhân lực trình độ cao cho ngành bảo hiểm và thuê các chuyên gia bảo hiểm nước ngoài đóng vai trò tư vấn cho các công ty bảo hiểm trong nước; tăng tỷ trọng phần nắm giữ của các công ty bảo hiểm trong các quỹ đầu tư cổ phiếu … + Xiết chặt hơn nữa việc thực thi các khung pháp lý trong lĩnh vực bảo hiểm đối với các doanh nghiệp bảo hiểm trong và nước ngoài nhằm củng cố một môi trường cạnh tranh bình đẳng và minh bạch hơn trên thị trường bảo hiểm của Trung quốc. 73 Từ kinh nghiệm hội nhập kinh tế của Trung quốc, có thể rút ra những bài học kinh nghiệm quí báu đối với Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế của thị trường bảo hiểm như sau : Một là, cần nhận thức được hội nhập và mở cửa thị trường bảo hiểm là một yêu cầu tất yếu, có mối quan hệ mật thiết hữu cơ với mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế của mỗi nước, tuy nhiên quá trình mở cửa phải tiến hành từng bước. Hai là, quá trình hội nhập thị trường dịch vụ tài chính, thị trường bảo hiểm phải phù hợp với điều kiện cụ thể của từng nước, đồng thời lại phải phù hợp với các cam kết và thông lệ quốc tế. Ba là, các chính sách và công cụ tài chính mà mỗi quốc gia sử dụng trong quá trình mở cửa và hội nhập thị trường bảo hiểm quốc tế cũng rất phong phú và đa dạng, tuỳ thuộc vào chính sách mở cửa kinh tế của từng nước. Những chính sách và công cụ phổ biến thường được các nước sử dụng là : những ràng buộc pháp lí về vốn điều lệ ; năng lực thanh toán ; tỷ lệ trích lập quĩ dự phòng bắt buộc ; các qui định về tỷ lệ tái bảo hiểm bắt buộc ; các qui định về đầu tư … Những chính sách và công cụ này ngoài mục đích bảo hộ hợp pháp còn tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp trong nước thích nghi dần với môi trường cạnh tranh mới trong quá trình hội nhập. 3.3 CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM Thực tiến mở cửa và hội nhập thị trường bảo hiểm của Việt Nam cho đến nay đã cho thấy chiến lược mở cửa thị trường bảo hiểm Việt Nam trong những năm qua là đúng hướng và đã đem lại những hiệu quả rõ nét, thể hiện ở sự tăng trưởng của thị trường bảo hiểm trong nước. 74 Để thực hiện được các mục tiêu và chỉ tiêu phát triển được đề ra trong Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam giai đoạn 2030-2010 đã được Thủ tướng chính phủ phê duyệt, trên cơ sở nghiên cứu thực trạng của thị trường bảo hiểm Việt Nam, đánh giá tình hình thực hiện cam kết về dịch vụ bảo hiểm, đánh giá tác động của việc thực hiện các cam kết về dịch vụ bảo hiểm trong Hiệp định BTA, tác giả xin đưa ra một số nhóm giải pháp chủ yếu sau : 3.3.1 Nhóm giải pháp về phía cơ quan quản lý Nhà nƣớc đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm Trên cơ sở phân tích những điểm bất cập trong công tác quản lí nhà nước về lĩnh vực bảo hiểm, đặc biệc trong việc giám sát tài chính và hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm ở những phần trên, cơ quan quản lí bảo hiểm cần thực hiện những giải pháp sau : 3.3.1.1 Tiếp tục củng cố kiện toàn tổ chức, bộ máy cơ quan quản lí nhà nước về bảo hiểm Theo qui định của Luật kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn thi hành thì Bộ Tài chính là cơ quan quản lí nhà nước về kinh doanh bảo hiểm, thực hiện các chức năng quản lý nhà nước, có thể khái quát là : ban hành chính sách chế độ, kiểm tra giám sát thận trọng, thanh tra và xử lí vi phạm. Chức năng quản lí của Bộ Tài chính được tiếp tục củng cố và khẳng định bằng việc thành lập Phòng quản lí bảo hiểm độc lập nằm trong Bộ Tài chính vào giữa năm 2003, thực hiện chức năng vừa tham mưu giúp Bộ xây dựng cơ chế, chính sách, vừa thực hiện chức năng kiểm tra giám sát hoạt động tài chính và hoạt động nghiệp vụ của các doanh nghiệp bảo hiểm, môi giới bảo hiểm. Tuy nhiên để thực hiện được mục tiêu chiến lược và các mục tiêu cụ thể từ nay đến năm 2010 đã được đề ra trong Chiến lược phát triển thị trường 75 bảo hiểm Việt Nam từ năm 2003-2010, cần thiết tiếp tục củng cố lại cơ quan quản lí nhà nước về kinh doanh bảo hiểm để tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lí phù hợp với qui mô phát triển của thị trường theo hướng sau : - Bảo đảm tính hoạt động độc lập, không chịu trách nhiệm đối với bất kỳ một đơn vị kinh doanh bảo hiểm cụ thể nào. Đảm bảo tính công bằng trong những quyết định của đơn vị quản lí và có đủ thẩm quyền cần thiết để thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình. - Quản lí nhà nước theo luật, không can thiệp trực tiếp vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. - Có qui trình quản lí, kiểm tra, giám sát và xử lí vi phạm trong lĩnh vục kinh doanh bảo hiểm rõ ràng, minh bạch và nhất quán để kịp thời đối phó với các diễn biến của thị trường, xử lí sớm những hoạt động bất thường của các doanh nghiệp bảo hiểm nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm. 3.3.1.2 Đào tạo và nâng cao trình độ cho các cán bộ quản lí nhà nước về kinh doanh bảo hiểm Nguồn nhân lực có chất lượng cao để đáp ứng yêu cầu hội nhập trong lĩnh vực bảo hiểm chưa bao giờ trở nên cấp bách như hiện nay. Thực tế cho thấy trình độ chuyên môn nghiệp vụ của các cán bộ quản lí nhà nước còn nhiều bất cập cho nên đã hạn chế rất nhiều trong việc theo dõi, giám sát hoạt động một thị trường bảo hiểm, đặc biệt đang trong giai đoạn phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng như hiện nay. Do nhiều cam kết trong yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và cam kết trong hiệp định BTA nói riêng còn rất mới đối với chúng ta nên cấp thiết phải thực hiện các biện pháp sau : - Nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ về hoạt động kinh doanh bảo hiểm, chú trọng đến bồi dưỡng các kiến thức về đánh giá rủi ro, định phí, trích lập dự phòng nghiệp vụ … ; Bồi dưỡng các kiến thức về luật pháp quốc 76 tế, về quản lí đầu tư, kỹ năng đàm phán quốc tế, ngoại ngữ, tin học, các kiến thức về hội nhập, thông qua các hình thức đào tạo như dài hạn, ngắn hạn trong và ngoài nước ; tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ định kỳ ; tổ chức và tham dự các cuộc hội thảo, nghiên cứu, khảo sát trong và ngoài nước và tự nghiên cứu. - Xây dựng qui hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công chức về trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, quản lý nhà nước cho phù hợp với từng loại, từng cấp phù hợp với các yêu cầu về chức danh tiêu chuẩn áp dụng đối với cán bộ quản lí nhà nước về kinh doanh bảo hiểm. 3.3.1.3 Đổi mới phương thức quản lí nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm theo các nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế Thị trường bảo hiểm là một lĩnh vực hết sức nhạy cảm. Việc quản lý thị trường này vừa đòi hỏi phải quản lý hết sức chặt chẽ, vừa phải xóa bỏ dần các rào cản tiếp cận thị trường và phân biệt đối xử đối với các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài và doanh nghiệp cổ phần, nhưng cũng vừa phải tăng cường các yêu cầu về chuẩn mực đảm bảo được yêu cầu cạnh tranh bình đẳng trên thị trường cũng như quyền lợi của các khách hàng tham gia thị trường bảo hiểm. Theo các cam kết trong Hiệp định BTA, việc nới lỏng các qui chế, đặc biệt là các qui định hành chính sẽ khó tránh khỏi. Vì vậy, trong thời gian tới, Bộ Tài chính cần nghiên cứu mức độ nởi lỏng dần phương thức quản lý của mình nhằm tăng cường quyền chủ động và tính tự chịu trách nhiệm của bản thân các doanh nghiệp bảo hiểm về các vấn đề liên quan đến nội dung các báo cáo, kết quả hoạt động và trong việc thực hiện các qui định của pháp luật. Hạn chế sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Cơ chế kiểm soát đối với doanh nghiệp bảo hiểm cần được chuyển đổi theo hướng di chuyển từ kiểm soát thâm nhập và kiểm soát hoạt động đi đến kiểm 77 soát tài chính của các công ty bảo hiểm. Các thủ tục hành chính trong các khâu cấp giấy phép, thẩm định hồ sơ phê chuẩn, đăng ký sản phẩm, các thủ tục khác như thay đổi vốn, mở rộng nội dung và phạm vi hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm … cần được đơn giản hoá và công khai hoá. Tuy nhiên Bộ Tài chính vẫn tiếp tục duy trì và nâng cao hoạt động quản lý của mình theo nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế, phù hợp với hoàn cảnh thực tế của Việt Nam trong các mặt như xem xét cấp giấy phép hoạt động kinh doanh bảo hiểm mới, xem xét phê chuẩn những thay đổi trong quá trình hoạt động như thay đổi chủ đầu tư, chia tách sát nhập doanh nghiệp …, giám sát trích lập dự phòng nghiệp vụ, biên khả năng thanh toán đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp, giám sát việc sử dụng các nguồn vốn chủ sở hữu, quản lý hoạt động đầu tư của doanh nghiệp, đánh giá các chỉ tiêu kinh tế tài chính của doanh nghiệp thường xuyên, thực hiện thanh kiểm tra định kỳ… Bên cạnh đó Bộ Tài chính cần nhanh chóng xây dựng cơ chế kỷ luật thị trường để đảm bảo thị trường phát triển an toàn, lành mạnh và ổn định. Theo đó, những công ty bảo hiểm nào vi phạm các nguyên tắc, chuẩn mực của thị trường, các qui định của pháp luật sẽ bị trừng phạt nặng. Cùng với xu thế chung của thị trường tàI chính quốc tế, việc hợp tác phát triển kinh doanh các bên cùng có lợi giữa các doanh nghiệp bảo hiểm, ngân hàng thường mại và các công ty tàI chính sẽ ngày càng phát triển theo hướng cung cấp cho khách hàng các dịch vụ trọn gói và hoàn hảo. Do vậy ranh giới giữa các ngành trong các lĩnh vực tài chính ngày càng mờ dần, đòi hỏi cơ quan quản lí thị trường bảo hiểm phải có những thay đổi và thích ứng kịp thời, một mặt vừa để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bảo hiểm phát triển mạnh mẽ nhờ hình thức hợp tác linh hoạt, mặt khác cũng có được một cơ chế pháp lý đảm bảo sự tuân thủ các qui định về nghiệp vụ của các doanh nghiệp bảo hiểm và bảo đảm 78 được quyền lợi của khách hàng trước những sản phẩm tài chính ngày càng phức tạp. 3.3.1.4 Tuyên truyền về Hiệp định BTA và phổ biến lộ trình thực hiện các cam kết của Việt Nam về mở cửa thị trường bảo hiểm cho các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam Việc phổ biến các cam kết trong Hiệp định BTA và lộ trình thực hiện những cam kết đó của Việt Nam cho các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam là rất cần thiết. Mặc dù trong mấy năm qua công tác tuyên truyền qua phương tiện thông tin đại chúng đã phần nào đưa thông tin tới các doanh nghiệp nhưng mới hạn chế ở mức cung cấp những thông tin chung chung, tổng quát ; đối tượng nhận thông tin cũng hạn chế ở những cán bộ chuyên về hợp tác quốc tế của cấp Bộ. Vì vậy cần phải có một chương trình phổ biến sao cho các doanh nghiệp hiểu sâu về các cam kết trong Hiệp định, nhận thức rõ được những cơ hội và thách thức khi thực thi Hiệp định , ý thức được tầm quan trọng của cam kết trong Hiệp định và lộ trình thực hiện các cam kết đó sẽ giúp các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam xây dựng chương trình hành động cụ thể, đặc biệt chuẩn bị tốt chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh của mình và phát triển thị trường dài hạn, để đối đầu với thách thức và tận dụng cơ hội để tồn tại và phát triển. 3.3.1.5 Nâng cao vai trò của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam Hiệp hội bảo hiểm chính là chiếc cầu nối và đại diện cho doanh nghiệp bảo hiểm trước cơ quản quản lý nhà nước và công chúng. Nâng cao vai trò tự quản của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam chính là biện pháp tốt nhất giúp các doanh nghiệp bảo hiểm giảm tình trạng cạnh tranh không lành mạnh như hạ phí bừa bãi, tăng hoa hồng tranh giành khách hàng. Trong khi các khe hở để “lách luật” là còn khá lớn, nếu tình trạng nói trên tiếp tục kéo dài sẽ ảnh hưởng 79 tiêu cực đến sự phát triển lành mạnh của thị trường bảo hiểm Việt Nam, thì việc phát triển hệ thống tự quản bên cạnh hệ thống quản lí của Nhà nước là rất cần thiết. Tuy nhiên sau hơn 4 năm chính thức đi vào hoạt động, vai trò của Hiệp hội phần nào vẫn mới chỉ ở mức độ hạn chế. Thông qua Hiệp hội, đã có lúc các doanh nghiệp đạt được những thoả thuận về chia xẻ thị trường và khách hàng. Tuy nhiên tình trạng không tôn trọng các cam kết trong Hiệp hội vẫn thường xảy ra và điều này làm cho liên kết giữa các doanh nghiệp bảo hiểm lại càng trở nên yếu ớt. Sở dĩ vai trò Hiệp hội bảo hiểm còn hạn chế là vì nguyên tắc cơ bản của Hiệp hội là được thành lập và tham gia trên cơ sở tự nguyện, việc thành lập theo cơ chế hành chính đã phần nào làm giảm vai trò độc lập của Hiệp hội. Ngoài ra các qui chế kiểm soát của Hiệp hội không có đủ hiệu lực thi hành dẫn đến tình trạng vượt rào sau khi có cam kết. Vì vậy trong thời gian tới, với sự góp mặt của nhiều công ty bảo hiểm lớn trên thế giới, đặc biệt là của các công ty bảo hiểm Mỹ, cần phải thực hiện đồng bộ những giải pháp sau để có thể nâng cao vai trò tự quản của Hiệp hội bảo hiểm Việt nam : - Nghiên cứu xây dựng cơ chế phối hợp và cơ chế kiểm tra theo phương thức tự quản trong việc thực hiện các thoả thuận giữa các hội viên và có báo cáo cơ quan quản lí nhà nước về kinh doanh bảo hiểm kịp thời xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về kinh doanh bảo hiểm cũng như việc không tuân thủ các qui chế hợp tác. - Mở rộng phạm vi thoả thuận hợp tác giữa các doanh nghiệp bảo hiểm trên nhiều lĩnh vực thiết yếu như thành lập hệ thống thông tin toàn thị trường làm cơ sở để đánh giá rủi ro, tính phí bảo hiểm ; hệ thống phân tích rủi ro và đề phòng hạn chế tổn thất ; hợp tác kinh doanh, đồng bảo hiểm, tái bảo hiểm, trợ giúp kỹ thuật. 80 - Củng cố tổ chức bộ máy lãnh đạo và ban chuyên trách của Hiệp hội bao gồm các trưởng ban nghiệp vụ phân tích dự báo, đề phòng và hạn chế tổn thất. Tổng thư kí Hiệp hội bảo đảm có đủ năng lực, trình độ chuyên môn làm vịêc chuyên trách. Tạo động lực nghiên cứu và cống hiến cho ngành bảo hiểm cho các cán bộ Hiệp hội bằng việc xây dựng chế độ tiền lương tiền thưởng thích đáng. - Xem xét, sửa đổi, bổ sung Điều lệ Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam theo hướng khuyến khích các doanh nghiệp bảo hiểm tham gia Hiệp hội. Kiến nghị Nhà nước cho phép kết nạp hội viên có yếu tố nước ngoài làm hội viên chính thức của Hiệp hội. - Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực cho toàn ngành để chấm dứt tình trạng chảy máu chất xám sang các công ty bảo hiểm nước ngoài, gây nên tình trạng xáo động trên thị trường và bất ổn trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm, bằng việc thành lập trung tâm đào tạo bảo hiểm cho toàn ngành ; phối hợp với doanh nghiệp và các cơ quan nghiên cúu giảng dạy và nâng cao kiến thức chuyên môn cơ bản và thực tế cho cán bộ bảo hiểm. 3.3.2 Nhóm giải pháp về hệ thống pháp lý điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm 3.3.2.1 Hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm Nghị định 100/CP ra đời đã hình thành cơ sở pháp lí ban đầu để thực thi các hoạt động quản lí bảo hiểm. Luật kinh doanh bảo hiểm ra đời năm 2000 và các nghị định, thông tư hướng dẫn thực hiện Luật kinh doanh bảo hiểm tạo nên hệ thống khung pháp lí căn bản cho mọi hoạt động thương mại dịch vụ bảo hiểm. Bộ Tài chính cũng đã bổ sung, sửa đổi và xây dựng mới các văn bản hướng dẫn dưới luật, phục vụ cho công tác quản lí và tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm của các doanh nghiệp. Tuy nhiên trong quá trình hoạt động kinh doanh bảo hiểm và tiến trình mở 81 cửa theo Hiệp định BTA đã nảy sinh nhiều vấn đề chưa được hoàn chỉnh hay thể chế hoá cho phù hợp với các qui định quốc tế, đặc biệt là thiếu tính minh bạch, không thống nhất và thiếu tính ổn định. Vì vậy Bộ Tài chính cần nghiên cứu bổ sung và điều chỉnh các văn bản pháp luật hiện hành sao cho phù hợp với với qui định trong Hiệp định. - Để hoàn thiện môi trường pháp lí cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm, cần phải có Luật cạnh tranh. Dự thảo Luật cạnh tranh đã được soạn thảo lần thứ 9, đã trình ra Quốc hội năm 2003 và sẽ có hiệu lực từ 1/7/2005. Chừng nào Luật cạnh tranh chưa có hiệu lực thì chừng đó môi trường cạnh tranh lành mạnh sẽ chưa thể phát triển được. - Sửa đổi, bổ sung cơ chế chính sách theo hướng nâng cao tính tự chủ của doanh nghiệp, giảm sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm để nâng cao hiệu quả và phát triển thị trường bảo hiểm, thúc đẩy hợp tác và cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp bảo hiểm. Việc bảo hộ doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước cần được thực hiện có điều kiện và phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. - Hoàn chỉnh cơ chế quản lý giám sát bằng cách nhanh chóng xây dựng hệ thống chỉ tiêu cảnh báo sớm. Hoàn chỉnh các qui định hoạch định chính sách và cơ chế kiểm tra giám sát, chuẩn hoá các qui trình nghiệp vụ, đăng ký phê chuẩn sản phẩm, cấp – thu hồi giấy phép. Giảm thiểu các thủ tục hành chính trong công tác quản lý, chuyên môn, nghiệp vụ. Tăng cường phân cấp, nâng cao tính chủ động, trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị, của từng công chức trong cơ quan quản lý Nhà nước về kinh doanh bảo hiểm. - Tiếp tục bổ sung điều chỉnh văn bản hướng dẫn thực hiện các qui định về dịch vụ bảo hiểm trong Hiệp định BTA, cụ thể : *Về tiếp cận thị trường : 82 + Hiệp định qui định sau 3 năm Hiệp định có hiệu lực được phép thành lập liên doanh với đối tác Việt Nam được phép kinh doanh bảo hiểm, phần góp vốn của phía Mỹ không vượt quá 50% vốn pháp định của liên doanh, vì vậy cần có các qui định cụ thể trong luật quốc gia về việc thành lập liên doanh này để các công ty bảo hiểm trong nước và phía Mỹ thực hiện. + Hiệp định qui định việc thành lập chi nhánh phụ thuộc vào tiến trình xây dựng Luật kinh doanh bảo hiểm. Nay Luật kinh doanh bảo hiểm đã được ban hành và có hiệu lực từ 1/4/2001, trong đó có qui định ở điểm 2 điều 62 về thẩm quyền cấp giấy phép thành lập và hoạt động: “Việc cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho doanh nghiệp bảo hiểm phải phù hợp với qui hoạch, kế hoạch định hướng phát triển thị trường bảo hiểm, thị trường tài chính của Việt Nam “. Qui định này trong luật là một qui định mang tính chung chung và áp dụng cho tất cả các hình thức đầu tư trong lĩnh vực bảo hiểm. Bởi vậy, ta cần ban hành các văn bản pháp lí cụ thể hơn, nêu rõ như thế nào là phù hợp với qui hoạch, kế hoạch định hướng, phát triển thị trường bảo hiểm, thị trường tài chính của ta. Đồng thời, để phù hợp với nguyên tắc minh bạch hoá, chúng ta cần công khai hoá, chi tiết hoá cho phía Mỹ về qui hoạch, kế hoạch phát triển thị trường bảo hiểm, thị trường tài chính của ta. Chúng ta cần phải nêu ra các tiêu chí cụ thể về số lượng doanh nghiệp bảo hiểm cần thiết cho thị trường cùng các tiêu chí mang tính định hướng khác. + Hiệp định qui định các công ty cung cấp dịch có vốn đầu tư Hoa Kỳ không được kinh doanh các dịch vụ đại lí bảo hiểm, nhưng trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm, các công ty hay tổ chức bảo hiểm có vốn đầu tư của Mỹ vẫn phải sử dụng tới đại lí. Do vậy các tổ chức / công ty này vẫn cần phải biết đến các văn bản pháp lí điều chỉnh hoạt động đại lí bảo hiểm. Theo Luật kinh doanh bảo hiểm thì người đại lí bảo hiểm có đủ điều kiện là người có chứng chỉ đào tạo đại lí bảo hiểm do doanh nghiệp bảo hiểm hoặc Hiệp hội bảo hiểm 83 Việt Nam cấp. Nhưng hiện nay chúng ta vẫn chưa có văn bản nào qui định cụ thể đạt điều kiện như thế nào thì mới được cấp chứng chỉ đào tạo, điều kiện được phép đào tạo và đào tạo như thế nào. Vì vậy việc ban hành qui định về việc này là rất cần thiết. + Việc hạn chế không cho phép các công ty cung cấp dịch vụ có vốn đầu tư Hoa Kỳ kinh doanh các dịch vụ bảo hiểm bắt buộc, cần ban hành qui định phù hợp với hạn chế này và sửa đổi lại theo nội dung bãi bỏ hạn chế này đối với liên doanh là 3 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực và đối với công ty 100% vốn Hoa Kỳ là 6 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực. + Qui định tỷ lệ 20% tái bảo hiểm bắt buộc hiện hành sẽ được bãi bỏ sau 5 năm Hiệp định BTA có hiệu lực, tức là đến cuối năm 2006 cam kết này sẽ chính thức có hiệu lực. Vì vậy Bộ Tài chính cần có văn bản hướng dẫn lại về sự thay đổi này trong qui định tái bảo hiểm bắt buộc vào năm 2006 để các doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện. *Về đối xử quốc gia : + Theo Hiệp định, loại hình bảo hiểm bắt buộc mà các công ty Hoa Kỳ không được kinh doanh là bảo hiểm trách nhiệm chủ xe cơ giới, bảo hiểm xây dựng và lắp đặt, bảo hiểm dầu khí và các công trình dễ gây nguy hiểm đến an ninh cộng đồng và môi trường. Trong khi đó theo Luật kinh doanh bảo hiểm, các loại hình bảo hiểm bắt buộc là loại bảo hiểm do pháp luật qui định về điều kiện bảo hiểm, mức phí bảo hiểm, số tiền bảo hiểm tối thiểu mà tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ thực hiện bao gồm : bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của người vận chuyển hàng không đối với hành khách , bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với hoạt động tư vấn pháp luật , bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của doanh nghiệp môi giới bảo hiểm , bảo hiểm cháy nổ. Tuy nhiên trong thực tế, nếu chiểu theo định nghĩa về bảo hiểm bắt buộc thì mới 84 chỉ có bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới là có đầy đủ các qui định điều chỉnh để các doanh nghiệp áp dụng. Vì vậy để tránh sự mâu thuẫn giữa các luật , quy định và Hiệp định, ta cần sớm ban hành văn bản pháp lí để sửa đổi, bổ sung luật cho phù hợp với nội dung Hiệp định. + Về dịch vụ mở cửa, đối với dịch vụ tái bảo hiểm, hiện nay ta đã có một số qui định về tái bảo hiểm bắt buộc, tái bảo hiểm chỉ định, tái bảo hiểm theo hợp đồng cố định nhưng các văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động này thì chưa có. Vì tái bảo hiểm là bảo hiểm cho các doanh nghiệp bảo hiểm, một hoạt động hết sức quan trọng và có tính chất sống còn đối với mỗi doanh nghiệp bảo hiểm nên cần hoàn thiện các qui định sau: điều kiện nhận tái bảo hiểm chủ yếu là hình thức tài chính của các công ty nhận tái bảo hiểm nhằm tránh sự đổ vỡ của các công ty bảo hiểm ; nội dung của một hợp đồng tái bảo hiểm ; luật điều chỉnh đối với hợp đồng tái bảo hiểm đã có qui đinh tỷ lệ tái bảo hiểm chỉ định tối đa 60% nhưng trong Hiệp định lại không được nêu ra nên để tránh lợi dụng nhằm tăng tỷ lệ nhận tái bảo hiểm ta cần qui định cụ thể giữa tái bảo hiểm chỉ định và tái bảo hiểm tạm thời. + Về các loại hình bảo hiểm, hiện nay trên thị trường có rất nhiều sản phẩm bảo hiểm đang được áp dụng nhưng chưa có văn bản nào điều chỉnh. Vì vậy cần ban hành qui định danh mục chi tiết các sản phẩm bảo hiểm được phép kinh doanh để đưa hoạt động kinh doanh bảo hiểm vào trật tự thống nhất. + Cần sớm loại bỏ những văn bản, công văn nội bộ hỗ trợ cho việc ép buộc mua bảo hiểm tại các công ty bảo hiểm trong nước, công ty bảo hiểm chuyên ngành và cả những văn bản pháp lý mang nội dung chung chung như ưu tiên mua bảo hiểm tại các công ty bảo hiểm được chỉ định . + Cần rà soát lại để loại bỏ những văn bản pháp luật không còn phù hợp, những văn bản dưới luật mâu thuẫn với Luật kinh doanh bảo hiểm và 85 mẫu thuẫn với các cam kết trong Hiệp định và các cam kết quốc tế khác mà Việt Nam đã và sẽ ký kết. 3.3.2.2 Xây dựng hệ thống chỉ tiêu hoàn chỉnh, thực hiện các nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế trong quản lý giám sát tài chính Những qui định hiện hành trên các văn bản pháp lý về khả năng thanh toán, dự phòng nghiệp vụ còn nhiều bất cập và chưa hoàn chỉnh, chưa phản ánh đúng bản chất của các chỉ tiêu tài chính; từ đó làm cho công tác giám sát thông qua các chỉ tiêu tài chính không phản ánh đúng thực trạng tài chính cũng như mức độ an toàn lẽ ra phải có của các công ty bảo hiểm. Cho nên cần phải hoàn chỉnh hệ thống các chỉ tiêu tài chính và cách xác định của các chỉ tiêu này để đảm bảo cho công tác giám sát tài chính của cơ quan quản lý nhà nước được chặt chẽ; từ đó có cơ sở can thiệp kịp thời khi doanh nghiệp có những nguy cơ mất khả năng thanh toán, đảm bảo cho thị trường bảo hiểm phát triển ổn định và bền vững. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, thị trường bảo hiểm trong nước còn có sự tham gia của các công ty bảo hiểm nước ngoài và chịu sự tác động lẫn nhau giữa các thị trường bảo hiểm của các nước. Vì vậy bộ máy và hệ thống giám sát tài chính đối với các công ty bảo hiểm phải phù hợp với yêu cầu và thực tiễn kinh doanh bảo hiểm của nước ta và các nguyên tắc chuẩn mực quốc tế, đảm bảo cho ngành bảo hiểm Việt Nam hoạt động an toàn đồng thời đảm bảo cho các chủ thể tham gia thị trường phát triển tối đa khả năng của mình. 3.3.2.3 Công khai, minh bạch hoá chính sách Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ qui định các bên phải công khai hoá luật, qui định và thủ tục hành chính liên quan đến bất kỳ vấn đề nào được qui định trong Hiệp định. Ví dụ Hiệp định qui định chi tiết về việc thực hiện nguyên tắc công khai và quyền khiếu kiện như công bố định kỳ và kịp 86 thời tất cả các vấn đề liên quan tới luật, qui định và thủ tục hành chính liên quan đến mọi vấn đề trong Hiệp định; công bố sớm đủ thời gian để làm quen với chúng trước khi thực hiện; có đủ thông tin về ngày có hiệu lực, các sản phẩm và dịch vụ bị tác động, về cơ quan xét duyệt hoặc phải tham vấn, địa chỉ của các cơ quan đó; tạo điều kiện cho các bên có cơ hội đóng góp ý kiến trong quá trình xây dựng văn bản đó ... Vì vậy các cơ quan quản lý nhà nước cần tuân thủ các yêu cầu về đảm bảo minh bạch, công khai các chính sách. Theo đó phải công bố kịp thời và định kỳ các luật, qui định, thủ tục hành chính. Việc công bố phải làm sao cho các nơi có thể làm quen với các qui định trước khi chúng có hiệu lực theo đúng cam kết. 3.3.3 Nhóm giải pháp về phía các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm 3.3.3.1 Xây dựng chiến lược phát triển doanh nghiệp phù hợp với lộ trình cam kết Trên cơ sở Chiến lược phát triển tổng thể ngành bảo hiểm Việt Nam giai đoạn 2003-2010 và lộ trình thực hiện cam kết về dịch vụ bảo hiểm của Việt Nam trong Hiệp định BTA, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam nên xây dựng chiến lược phát triển dài hạn của riêng mình. Chiến lược phát triển của các doanh nghiệp cần đề cập đến những mục tiêu như mở rộng thị phần, sản phẩm bảo hiểm, đào tạo nguồn nhân lực, quảng bá và xây dựng hình ảnh doanh nghiệp, đầu tư vốn ... 3.3.3.2 Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm Đây là một trong những biện pháp quan trọng để đẩy mạnh hiệu quả và thị phần bảo hiểm, đóng vai trò quyết định đối với việc thực hiện mục tiêu kế hoạch đề ra của mỗi doanh nghiệp. Để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, doanh nghiệp bảo hiểm cần làm những việc sau đây : *Hiện đại hóa công nghệ thông tin, trình độ quản lí 87 Tin học hóa tất cả các khâu từ đánh giá rủi ro, khai thác, cấp đơn, quản lí hợp đồng, đến các khâu thống kê tổn thất, thanh toán bồi thường cho khách hàng. Cần xây dựng chương trình ứng dụng công nghệ thông tin trong tất cả các khâu, trong đó tập trung phát triển hệ thống phần mềm thống kê tính phí, trích lập dự phòng nghiệp vụ, hệ thống truyền dữ liệu báo cáo kinh doanh từ công ty đến chi nhánh và ngược lại, đảm bảo cập nhật thông tin trong toàn hệ thống, xử lí kịp thời các diễn biến của thị trường. Xây dựng hệ thống giao dịch trên mạng, lập địa chỉ Websites, ứng dụng hệ thống tin học quản lý trong nội bộ doanh nghiệp. Việc triển khai hệ thống công nghệ thông tin hiện đại là rất quan trọng đối với việc duy trì vị thế của doanh nghiệp bảo hiểm hiện nay. Tuy nhiên chi phí đầu tư quá lớn, dường như còn quá xa so với khả năng tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm có qui mô vừa và nhỏ. Vì vậy cần kiến nghị Nhà nước có chính sách cụ thể để hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước triển khai áp dụng công nghệ thông tin tiên tiến vào thực tiễn kinh doanh của mình. *Phát triển nguồn nhân lực, nâng cao trình độ cán bộ nghiệp vụ. Yếu tố con người luôn là một vấn đề quan trọng và quyết định sự sống còn của mỗi doanh nghiệp. Doanh nghiệp có phát triển được thì cũng phải có những cán bộ đủ năng lực, trình độ tương xứng. Chính vì vậy các công ty bảo hiểm cần tổ chức đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ kinh doanh và phục vụ kinh doanh, có kế hoạch bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ trong đó tập trung vào các mặt khai thác, bồi thường, đánh giá rủi ro. Đối với từng đối tượng cần có chương trình đào tạo bồi dưỡng riêng thích hợp. Doanh nghiệp cần có chiến lược tuyển dụng cán bộ công khai, phù hợp với những tiêu chí cụ thể để đáp ứng được công việc như trình độ ngoại ngữ, tin học văn phòng, kỹ năng giao tiếp, chuyên ngành đào tạo đại học đúng 88 chuyên môn ... đảm bảo những người được tuyển dụng là những người có đủ năng lực chuyên môn làm việc. Ngoài ra để giữ được những cán bộ có kinh nghiệm, trình độ gắn bó với công ty, doanh nghiệp cần nghiên cứu đưa ra chế độ lương thưởng phù hợp, tạo động lực cho cán bộ yên tâm làm việc và cống hiến cho sự phát triển của công ty. Doanh nghiệp còn cần có qui định rõ ràng về chế độ bổ nhiệm, bãi miễn chức vụ hoặc phân cấp, phân trách nhiệm đối với cán bộ quản lý, tạo một môi trường làm việc năng động và lành mạnh để cùng phát triển. *Nâng cao năng lực nhận tái bảo hiểm Tái bảo hiểm chính là bảo hiểm cho công ty bảo hiểm, quyết định sự sống còn của một doanh nghiệp bảo hiểm. Vì vậy hàng năm các doanh nghiệp phải xây dựng phương án tái tổng thể và đối với từng nghiệp vụ bảo hiểm có tái bảo hiểm, trong đó chú trọng đến năng lực tài chính và uy tín của công ty nhận tái bảo hiểm quốc tế. Đồng thời các doanh nghiệp bảo hiểm cũng phải nâng cao khả năng tài chính và đánh giá về mặt kỹ thuật để có thể cải thiện khả năng giữ lại và khả năng nhận tái của mình. *Đa dạng hóa sản phẩm bảo hiểm Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, đặc biệt là quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng của nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế thế giới, nhu cầu bảo hiểm với qui mô và mức độ phức tạp ngày càng lớn hơn. Bên cạnh đó là sự tăng lên mức sống của người dân, nhu cầu bảo hiểm đối với các tài sản có giá trị cao vì thế cũng không ngừng tăng lên. Chính vì vậy các công ty bảo hiểm cần nhanh nhậy trong việc nắm bắt nhu cầu của thị trường, đưa ra những sản phẩm hấp dẫn hơn, quyền lợi bảo hiểm được bổ sung, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế và mức sống của dân cư. 89 Nước ta là nước phải thường xuyên gánh chịu thiên tai, bão lụt, hạn hán, đặc biệt có một bộ phận lớn dân cư ở vùng sâu vùng xa nên việc chú trọng phát triển những sản phẩm phù hợp với đối tượng này cũng là một hướng đi của doanh nghiệp bảo hiểm trong mở rộng thị phần, nâng cao doanh thu, đồng thời cũng phù hợp với mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước ta. Tuy nhiên hiện nay có tình trạng các doanh nghiệp bảo hiểm không mặn mà với những loại hình bảo hiểm này, do đó đối với chiến lược phát triển sản phẩm của mỗi doanh nghiệp, kiến nghị Nhà nước cần có chính sách, cơ chế tài chính cụ thể để khuyến khích các doanh nghiệp bảo hiểm bổ sung sản phẩm mới, mở rộng địa bàn hoạt động. *Nâng cao chất lượng dịch vụ sau bán hàng Mua bảo hiểm tức là mua cam kết của người bảo hiểm sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm thiệt hại mà họ phải gánh chịu do những rủi ro được bảo hiểm gây nên. Chất lượng bồi thường và các dịch vụ hỗ trợ sau khi bán bảo hiểm sẽ là câu trả lời xác đáng nhất về dịch vụ bảo hiểm mà chúng ta cung cấp. Đó cũng là một trong các yếu tố mà khách hàng quan tâm nhất khi lựa chọn doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bảo hiểm . Vì vậy để thực hiện tốt nâng cao chất lượng dịch vụ sau bán hàng, câc doanh nghiệp bảo hiểm cần thực hiện một số công việc như : tổ chức giám định nhanh chóng để xác đinh mức độ và nguyên nhân tổn thất ngay sau khi nhận được thông báo của khách hàng tại bất cứ thời gian nào, địa điểm nào ; tiến hành bồi thường nhanh, chính xác, thỏa đáng, giúp khách hàng nhanh chóng khắc phục khó khăn, ổn định sản xuất kinh doanh ; trưng cầu ý kiến khách hàng sau mỗi lần giải quyết bồi thường để đánh giá lại công tác bồi thường và đề xuất cải tiến chất lượng phục vụ tốt hơn ... *Chủ động mở rộng phạm vi hoạt động ra thị trường quốc tế 90 Khi thị trường bảo hiểm trong nước chịu sự cạnh tranh quá lớn và ngày càng thu hẹp thì biện pháp mở rộng họat động, tìm thêm nguồn khách hàng mới ở thị trường nước ngoài thông qua hoạt động bảo hiểm gốc và tái bảo hiểm là rất cần thiết. Đây là hướng đi đúng và tất yếu trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa bảo hiểm. Đối với bảo hiểm gốc, mở rộng bảo hiểm ra thị trường quốc tế thường đi kèm với hoạt động đầu tư và xuất khẩu ra nước ngoài, nhưng hoạt động đầu tư của nước ta vẫn còn hạn chế, vì vậy trước mắt có thể thông qua hoạt động của Hiệp hội bảo hiểm hoặc các công ty tư vấn để tìm hiểu thêm về thị trường bảo hiểm nước ngoài, bước đầu có thể thành lập văn phòng đại diện làm đầu mối giao dịch, tìm hiểu môi trường luật pháp và kinh doanh ở nước đó. Khi điều kiện thuận lợi, cần xúc tiến tìm đối tác liên doanh để thành lập chi nhánh. Đối với tái bảo hiểm, điều quan trọng là sự tin cậy trong kinh doanh của công ty nhượng tái. Do vậy, khi nhận tái bảo hiểm từ thị trường bảo hiểm nước ngoài, các doanh nghiệp nên cân nhắc nhận tái từ những công ty có uy tín và kinh nghiệm trên thị trường quốc tế hoặc tham khảo thông tin từ Vinare trước khi nhận tái. 3.3.3.3 Phát triển các kênh phân phối bán hàng. Sản phẩm bảo hiểm được phân phối trên thị trường qua các kênh : doanh nghiệp bảo hiểm trực tiếp phân phối sản phẩm (khai thác trực tiếp), thông qua trung gian bảo hiểm là môi giới bảo hiểm và đại lí bảo hiểm và qua mạng internet. Thực tế cho thấy chính những kênh phân phối bảo hiểm đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng doanh thu bảo hiểm. Vì vậy các doanh nghiệp bảo hiểm cần làm những việc sau : *Mở rộng quan hệ với các công ty môi giới bảo hiểm Trên thế giới hiện nay, môi giới bảo hiểm thu xếp đến 90% tổng lượng giao dịch bảo hiểm phi nhân thọ. Xu hướng ngày càng có nhiều công ty thích 91 sử dụng môi giới bảo hiểm trong tư vấn bảo hiểm, đánh giá rủi ro cần bảo hiểm, lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm, mức phí hợp lý, hỗ trợ giải quyết và thương lượng bồi thường, do đó các doanh nghiệp bảo hiểm nên mở rộng và thắt chặt quan hệ với các công ty môi giới đang họat động tại Việt Nam, giúp các doanh nghiệp bảo hiểm và cả khách hàng tiếp kiệm thời gian và chi phí giao dịch. Tuy nhiên sử dụng môi giới cũng có bất lợi là vì môi giới đại diện cho quyền lợi của người được bảo hiểm nên nhiều khi đã đưa ra những yêu cầu bất lợi cho bảo hiểm như mở rộng điều khoản trái tập quán, mức phí quá thấp không đủ bù đắp chi quản lý ... Vì vậy khi mở rộng phân phối sản phẩm qua môi giới, các doanh nghiệp bảo hiểm cần đánh giá rủi ro hết sức thận trọng, phải đánh giá tổng thể các dịch vụ tốt và dịch vụ xấu mà môi giới mang lại, có biện pháp quản lí rủi ro, đề phòng hạn chế tổn thất một cách thích hợp. *Phát triển và nâng cao chất lượng đại lý bảo hiểm. Đại lý bảo hiểm được xem như “đội quân ngầm” của công ty bảo hiểm, có thể luồn lách vào các địa bàn, có thể tiếp cận khách hàng và tận tình phục vụ khách hàng bất cứ thời gian nào và đi sâu đi sát nhu cầu thiết thực nhất của khách hàng, mà chi phí mà công ty bảo hiểm cho đội ngũ này lại ít hơn cho môi giới. Vì vậy có kế hoạch phát triển và nâng cao chất lượng đại lý bảo hiểm là hướng đi rất quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp bảo hiểm, đặc biệt là doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ. Kế hoạch này có thể gồm những hướng đi sau : - Xúc tiến khai thác qua các tổ chức tài chính như Ngân hàng, Quỹ tín dụng. - Xúc tiến khai thác qua các Hiệp hội ngành hàng. Hiện nay nước ta có hơn 80 hiệp hội ngành hàng như Hiệp hội nhựa VN, Hiệp hội da giầy, Hiệp hội thủy hải sản, Hiệp hội các nhà vận tải và giao nhận ... Mặc dù vai trò của các hiệp hội đối với họat động của các doanh nghiệp chưa lớn, tuy nhiên tiếng 92 nói của hiệp hội vẫn được các doanh nghiệp lưu tâm hơn và hình ảnh của doanh nghiệp bảo hiểm qua hiệp hội cũng có hiệu quả hơn nhiều. - Tăng cường tuyển dụng đại lý bảo hiểm là những sinh viên, đặc biệt là sinh viên mới ra trường của các trường đại học kinh tế có chuyên ngành bảo hiểm và thương mại quốc tế, muốn có cơ hội việc làm lần đầu. Đây là đội ngũ trẻ, năng động, có trình độ, có hoài bão và chí tiến thủ, rất phù hợp với yêu cầu làm đại lý bảo hiểm. - Nâng cao chất luợng đại lý thông qua các chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ đại lý định kỳ, phổ cập kinh nghiệm khai thác và phổ biến tình hình thị trường cho đại lý. - Có chế độ hoa hồng và chi phí hỗ trợ đại lý hợp lý để khuyến khích đội ngũ đại lí bảo hiểm đông đảo gia nhập thị trường. *Phát triển thương mại điện tử Trong lĩnh vực bảo hiểm, khái niệm thương mại điện tử còn xa vời và khá mơ hồ đối với nhiều người, tuy nhiên thực chất là bán bảo hiểm qua mạng. Trong thương mại hàng hóa, tìm hiểu hàng hóa, tìm hiểu đối tác và ký kết hợp đồng mua bán thực hiện qua mạng đã trở nên phổ biến. Vì vậy phát triển bán bảo hiểm qua mạng là một kênh phân phối chính rất đáng để các doanh nghiệp quan tâm đầu tư. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, bán bảo hiểm qua mạng rất thích hợp với những doanh nghiệp hoặc doanh nhân có điều kiện tiếp cận internet, giảm chi phí giao dịch đồng thời giúp các công ty bảo hiểm gia tăng tốc độ giao dịch và dễ dàng mở rộng phạm vi họat động. Tuy nhiên với điều kiện nước ta hiện nay thì việc phát triển bán bảo hiểm qua mạng ch- ưa thể phát triển mạnh thay thế kiểu khai thác truyền thống. Vì vậy trong thời gian trước mắt, các công ty bảo hiểm nên quảng bá sản phẩm bảo hiểm cùng 93 các điều kiện điều khoản trên mạng, hỏi đáp trên mạng để khách hàng có điều kiện tiếp cận với các sản phẩm và công ty được nhanh chóng thuận lợi hơn. 3.3.4 Các giải pháp khác 3.3.4.1 Nâng cao hiệu quả đầu tư vốn của các doanh nghiệp bảo hiểm Do đặc thù của doanh nghiệp bảo hiểm là tổ chức tài chính trung gian trong nền kinh tế nên phương thức huy động vốn và đầu tư vốn của các doanh nghiệp bảo hiểm khác với các loại hình doanh nghiệp khác. Để nâng cao hiệu quả đầu tư vốn của các doanh nghiệp bảo hiểm, cần chú ý thực hiện các biện pháp sau : - Tăng vốn phát triển đối với các loại hình doanh nghiệp. Theo kinh nghiệm của các nước có ngành bảo hiểm phát triển, để thị trường bảo hiểm phát triển an toàn, hiệu quả thì thị trường bảo hiểm nói chung và các doanh nghiệp bảo hiểm nói riêng phải có số vốn cao hơn số vốn tối thiểu gọi là vốn phát triển. Mỗi loại hình doanh nghiệp áp dụng phương pháp tăng vốn đầu tư khác nhau : + Đối với doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước, sau khi sắp xếp, kiện toàn tổ chức, doanh nghiệp tự bổ sung vốn từ nguồn vốn tự có ; Nhà nước cần có kế hoạch cấp bổ sung vốn cho các doanh nghiệp bảo hiểm. + Đối với doanh nghiệp cổ phần phát hành thêm cổ phiếu để bù đắp phần thiếu hụt. + Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, yêu cầu chủ sở hữu doanh nghiệp có kế hoạch đóng góp thêm vốn. - Khuyến khích các doanh nghiệp bảo hiểm thành lập quĩ đầu tư, quỹ tín thác và công ty quản lí vốn đầu tư để nâng cao vai trò, trách nhiệm của công tác đầu tư. - Nâng cao tính chuyên nghiệp trong đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm bằng các biện pháp như nâng cao trình độ cán bộ chuyên nghiệp am 94 hiểu về tài chính và đầu tư tài chính ; đa dạng hoá hình thức đầu tư ; áp dụng công nghệ khoa học đặc biệt công nghệ thông tin vào lĩnh vực đầu tư. - Thực hiện ưu đãi thuế thu nhập từ hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm. 3.3.4.2 Đẩy mạnh tuyên truyền quảng cáo Tăng cường công tác quảng cáo tuyên truyền để nâng cao nhận thức về hoạt động bảo hiểm, thị trường bảo hiểm cho mọi đối tượng trong xã hội. Điều này cần thực hiện cả từ phía Nhà nước, cơ quan quản lí bảo hiểm, Hiệp hội bảo hiểm và các doanh nghiệp bảo hiểm. Tuyên truyền quảng cáo là hiệu pháp marketing quan trọng. Vì vậy trong Chiến lược phát triển bảo hiểm của mỗi doanh nghiệp cần đưa tuyên truyền quảng cáo thành một trong những giải pháp chiến lược chung. 3.3.4.3 Đào tạo cán bộ bảo hiểm cho toàn thị trường Hiện nay trên thị trường bảo hiểm Việt Nam chỉ có duy nhất Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam là có một trung tâm chuyên đào tạo và nâng cao nghiệp vụ bảo hiểm cho cán bộ Bảo Việt. Do đó Bộ tài chính cần nhanh chóng nghiên cứu và triển khai thành lập một Trung tâm đào tạo chung cho toàn thị trường bảo hiểm để hỗ trợ nguồn lực cho các doanh nghiệp bảo hiểm. 3.4 KIẾN NGHỊ 3.4.1 Đào tạo chuyên gia tính phí bảo hiểm Việc đánh giá chính xác rủi ro nhận bảo hiểm, đồng thời đưa ra một mức phí phản ánh được rủi ro đó và được thị trường chấp nhận là yếu tố quan trọng quyết định sự sống còn của doanh nghiệp bảo hiểm, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ. Tất cả những công việc này đều do các chuyên gia tính phí bảo hiểm đảm nhận. Một số doanh nghiệp bảo hiểm cũng đã cử cán bộ đào tạo tính phí, tuy nhiên những chuyên gia tính phí bảo hiểm 95 chuyên nghiệp được đào tạo bài bản và có kinh nghiệm lâu năm thì ở Việt nam chưa có. Vì vậy việc đào tạo chuyên gia tính phí bảo hiểm ở các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước cần được quan tâm hơn nữa trong chiến lược phát triển của mỗi doanh nghiệp. 3.4.2 Phát triển mô hình liên kết các tập đoàn doanh nghiệp bảo hiểm lớn trên thế giới với các doanh nghiệp bảo hiểm trong nƣớc thông qua quan hệ cổ đông Như đã phân tích ở những phần trên, so với các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài, các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước còn thua kém nhiều về kinh nghiệm quản lí, vốn, kỹ thuật nghiệp vụ … Việc liên doanh liên kết với các công ty bảo hiểm nước ngoài sẽ là cơ hội tốt để các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước học tập những kinh nghiệm này. Chính vì vậy việc phát triển mô hình liên kết các tập đoàn bảo hiểm lớn với các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước thông qua quan hệ cổ đông trong thời gian tới cần phát triển hơn nữa. 3.4.3 Thuê Tổng giám đốc nƣớc ngoài quản lý và kinh doanh Hình thức thuê Tổng giám đốc nước ngoài quản lí và kinh doanh không phải là vấn đề mới mẻ ở Việt Nam, tuy nhiên trong lĩnh vực bảo hiểm thì cho đến nay chưa hề có. Thuê Tổng giám đốc nước ngoài để tạo nên một phong cách quản lí và kinh doanh mới trong các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước, sẽ là một hướng đi mới trong phát triển của các doanh nghiệp bảo hiểm trong thời gian tới. 96 KẾT LUẬN Sau 17 năm kể từ khi thực hiện Lệnh cấm vận, từ tháng 12/1992, Chính phủ Hoa Kỳ đã từng bước điều chỉnh quan hệ với Việt Nam. Xuất phát từ mục tiêu thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước, hàng loạt các tiến bộ song phương đã đạt được mà đỉnh cao của nó là Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ được ký kết thông qua và chính thức có hiệu lực kể từ ngày 10/12/2001. Phạm vi điều chỉnh của Hiệp định này được dàn trải trên nhiều lĩnh vực, trong đó việc mở rộng thị trường dịch vụ tài chính bao gồm thị trường bảo hiểm là một nội dung quan trọng của Hiệp định này. Là một ngành dịch vụ tài chính linh hoạt và được đánh giá là rất “nhạy cảm” trước những thay đổi của môi trường kinh doanh, quyết định hội nhập và mở cửa thị trường bảo hiểm Việt Nam theo cam kết trong Hiệp định BTA đã tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách thức cho toàn thị trường và cho mỗi doanh nghiệp bảo hiểm trong nước, đòi hỏi các doanh nghiệp và cả các nhà quản lý bảo hiểm phải cố gắng tìm được lối đi phù hợp để vươn lên khẳng định mình. Mặc dù đã có nhiều thay đổi tích cực trong chính sách về dịch vụ bảo hiểm, Việt Nam vẫn còn phải tiếp tục nghiên cứu sửa đổi bổ sung một số chính sách cho phù hợp với các cam kết trong Hiệp định theo hướng mở cửa, tạo ra một sân chơi bình đẳng và an toàn cho tất cả các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước và Hoa Kỳ. Về cơ bản, luận văn đã phân tích và chỉ ra những vấn đề sau : 1. Các cam kết về bảo hiểm trong Hiệp định BTA cũng giống như các cam kết về bảo hiểm của GATS. Vì vậy thực hiện các cam kết trong Hiệp 97 định BTA là điều kiện để Việt Nam làm quen với các qui định khi gia nhập WTO trong thời gian tới. 2. Từ khi ký kết Hiệp định BTA, với sự tham gia của nhiều doanh nghiệp bảo hiểm có vốn nước ngoài và Hoa Kỳ, thị trường bảo hiểm Việt Nam càng trở nên sôi động với nhiều thách thức đặt ra cho các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam. 3. Về tình hình thực thi các cam kết trong lĩnh vực dịch vụ bảo hiểm, Chính phủ Việt Nam đã có nhiều chính sách đúng đắn thể hiện quan điểm tích cực trong phát triển thị trường bảo hiểm theo hướng mở cửa. Tuy nhiên vẫn cần phải có những qui định hướng dẫn cụ thể để không chậm chễ trong việc triển khai các chính sách và định hướng đã đề ra. 4. Những tác động của cam kết về dịch vụ bảo hiểm trong Hiệp định BTA đối với sự phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam thể hiện ở cả hai mặt: cơ hội và thách thức. Qua đó, đòi hỏi sự nỗ lực không nhỏ từ phía cơ quan quản lý và các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước để tiếp tục hoàn thiện và nâng cao năng lực cạnh tranh của mình nhằm đáp ứng được những cam kết trong Hiệp định cũng như vận dụng tối đa lợi ích mà Hiệp định mang lại để phát triển. 5. Trên cơ sở các phân tích nói trên cùng với tìm hiểu kinh nghiệm của Trung Quốc trong mở cửa thị trường bảo hiểm, tác giả đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp và kiến nghị đối với cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm, đối với hệ thống pháp lý về bảo hiểm, đồng thời đưa một số giải pháp đối với các doanh nghiệp bảo hiểm để có thể đứng vững và phát triển. Các giải pháp nhằm thực thi thành công các cam kết phải được thực hiện đồng bộ cả ở tầm vi mô cũng như vi mô, theo đó các nhà quản lí hoạt động bảo hiểm phải theo sát tình hình để kịp thời điều chỉnh và bổ sung chính sách cho phù hợp với diễn biến và thay đổi của thị trường; các doanh nghiệp bảo hiểm phải không 98 ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh, áp dụng công nghệ mới trong khai thác và quản lý, đào tạo nguồn nhân lực … Có như vậy thì bảo hiểm Việt Nam mới có thể phát triển lành mạnh và vững chắc trong xu thế phát triển chung của đất nước, phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế và hoà nhập với thị truờng bảo hiểm thế giới. Hy vọng những phân tích và đánh giá từ nghiên cứu này sẽ giúp ích cho các nhà hoạch định chính sách và các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam trên con đường hội nhập vào nền kinh tế thế giới.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf3045_5165.pdf
Luận văn liên quan