Kinh tế nhà nước có vai trò quyết định trong việc giữ vứng định hướng XHCN,
ổn định và phát triển kinh tế, chính trị xã hội của đất nước. Thành phần kinh tế Nhà
nướ ( DNNN ) phải không ngừng được đổi mới, phát triển và nâng cao vai trò chủ đạo,
nâng cao hiệu quả, giữ vị then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng
để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lược lượng nòng cốt trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
44 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2268 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước - Cụ thể là các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế quốc dân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dân
tộc, giữ vững an ninh quốc gia, bản sắc vănhoá dân tộc, bảo vệ môi trường". Thực vậy,
sau hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới mở cửa và hội nhập quốc tế, Việt Nam
đã đạt được những cải thiện đáng kể trong quan hệ thương mại quốc tế nỏi riêng, hợp
tác kinh tế quốc tế nói chung. Với việc mỹ tuyên bố xoá bỏ cấm vận đầu năm 1993,
Việt Nam được kết nạp vào ASEAN năm 1995 đồng thời ký CEPT gia nhập khu vực
mậu dịch tự do ASEAN ( AFTA) Việt nam trở thành thành viên của APEC năm 1997
và đặc biệt ngày 13/7/2000 vừa qua, tại Oasinhtơn, Hiệp định thương mại Việt Mỹ đã
được ký kết bở bộ trưởng Thương Mại Việt Nam và Đại diện Thương mại của Tổng
thống mỹ.
Tổng kết thực tiễn cho thấy các nước có tốc độ phát triển cao trong nhiều năm
và có sự tích luỹ hiệu quả về công nghệ thì đều có thị trường xuấ khẩu sang Mỹ khá
lớn, chiếm tới trên 20% tổng kim ngạch xuất khẩu, của Việt Nam hiện mới là 4,3%.3
Việc Việt Nam đã kỹ hiệp định Thương mại Việt - Mỹ và hưởng quy chế tối huệ quốc
có ý nghĩa tiêu đề quan trọng việc thúc đẩy xuất khẩu và thu hút đầu tư hướng vào
xuất khẩu. Liệu các DNNN Việt Nam, đặc biệt là các Tổng công ty có phá vỡ được tư
tưởng hiện tại là chỉ nhằm ổn định sản xuất lấy mục tiêu đáp ứng nhu cầu sản phẩm
thay thế nhập khẩu trước mắt để chuyển sang lấy cạnh tranh quốc tế làm chuẩn mực
cho sự phát triển hướng vào xuất khẩu.
Trong một nền kinh tế thế giới toàn cầu hoá thì việc một quốc gia có hội nhập
vào nền kinh tế thế giới hay không và hội nhập đến mức độ nào sẽ cơ bản phụ thuộc
vào khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp sở tại. Nhìn vào nền kinh tế Việt Nam
có thể thấy rất rõ, dù chỉ chiếm chưa tới 20% tổng số 35.000 doanh nghiệp của cả
nước, các DNNN vẫn nắm giữ hầu hết các nguồn lực cơ bản của xã hội và giữ vai trò
3 Tạp chí Tài chính tháng 8/2000 trang 27
đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế. Tuy nhiên chưa nói gì đến các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh, khả năng cạnh tranh của bản thân các DNNN còn yếu về nhiều mặt
như: vốn kinh doanh, trình độ máy móc thiết bị công nghệ, năng lực đội ngũ cán bộ,
cơ cấu bộ máy tổ chức sản xuất.
Toàn cầu hoá đồng nghĩa với nhiều nguy cơ, thách thức đối với doanh nghiệp
đặc biệt là DNNN cũng như đối với toàn bộ nền kinh tế. Việt Nam đi sau rất nhiều
nước và khoảng cách này lại đang ngày càng doãng ra. Chiến lược đuổi vượt của nền
kinh tế Việt Nam trông đợi vào khả năng cạnh tranh và hội nhập của các DNNN nội
địa. Ta thấy sức cạnh tranh của các Tổng công ty có vai trò quyết định đối với khả
năng cạnh tranh của cả nền kinh tế. Việt Nam chỉ có thể hội nhập nhanh và hội nhập
hiệu quả nếu các tổng công ty thực sự trở thành các tập đoàn kinh tế vững mạnh, có
mối quan hệ liên kết bên trong theo chiều dọc bền vững và có mối quan hệ chặt chẽ
với các loại hình doanh nghiệp khác. các doanh nghiệp thành viên trong một chừng
mực nào đó phải cạnh tranh với nhau, nâng khả năng cạnh tranh của cả Tổng công ty
để cả Tổng công ty có đủ sức mạnh cạnh tranh trong một nền kinh tế hội nhập với các
công ty quốc tế vốn đang rất hùng mạnh.
Không còn cách nào khác các doanh nghiệp nhà nước phải tiến hành cải cách,
đổi mới triệt để nâng cao hiệu quả sức cạnh tranh để từ đó hội nhập với nền kinh tế thế
giới mở ra tiềm năng phát triển của kinh tế Việt Nam.
III- nghiên cứu đánh giá quá trình đổi mới cải cách của thế giới làm bài học cho
vấn đề nâng cao vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước (doanh nghiệp
nhà nước) ở nước ta.
III.1 Việc đổi mới, cải cách DNNN ở các nước XHCN mà Trung Quốc là đại diện
tiêu biểu
III.1.1 Doanh nghiệp Nhà nước Trung Quốc từ 1949-1996
ở Trung Quốc, khi mới xây dựng nước Trung Hoa mới 1949 Chính phủ không
chỉ tiếp quản 913 xí nghiệp các loại cuả các nước đế quốc, mà còn tịch thu của chính
phủ cũ và của tư sản mại bản 2858 xí nghiệp công nghiệp, 2446 ngân hàng, 10 công ty
thương mại lớn. Trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, Trung Quốc đã tập trung nhân
lực, vật lực, tài lực xây dựng 156 công trình loại lớn như gang thép, than, điện lực, cơ
khí, dầu mỏ, hoá chất.... mở ra một chương trình mới trong việc phát triển khu vực
kinh tế nhà nước. Thực vậy, sau kế hoạch 5 năm lần I công cuộc cải tạo XHCN ở
Trung Quốc đã củng cố cơ sở chế độ công hữu, hìnht hành các ngành kinh tế chủ yếu
của nền kinh tế quốc dân do doanh nghiệp Nhà nướ đóng vai trò chủ đạo. Cùng với
việc kinh tế quốc dân (DNNN) chiếm vị trí chủ đạo, nền kinh tế kế hoạch hoá, căn bản
đã hình thành thay thế kinh tế hàng hoá sự điều phối theo kế hoạch trực tiếp của nhà
nươcs dần thay thế sự trao đổi theo cơ chế thị trường.
Cùng với thời gian, các khuyết tật của cơ chế kế hoạch hoá tập trung ngày càng
bộc lộ rõ nét và càng thể hiện tính không thực hiện. Năm 1978 Trung quốc thực hiện
công cuộc cải cách mở cưa đề ra xây dựng thể chế thị trường XHCN nhằm khắc phục
những khuyết tật của thể chế kinh tế kế hoạch hoá trước đây đặt cải cách DNNN là
khâu trọng tâm trong cải cách thể chế của cả nền kinh tế. Công cuộc cải cách DNNN
tính đến nay đã gần 20 năm bao gồm các giai đoạn:
- Từ 1978 đến năm 1983. Trọng tâm là mở rộng quyền tự chủ kinh doanh cho
các DNNN, điều chỉnh quan hệ phân phối giữa Nhà nước và doanh nghiệp.
- Từ năm 1983 đến năm 1987: trong giai đoạn này, thực hiện thí điểm biệm
pháp " thuế thay lợi nhuận" để điều chỉnh lợi ích giữa xí nghiệp và nhà nước.
- Từ năm 1987 đến năm 1992: thực hiện phổ biến chế độ khoán trách nhiệm
kinh doanh với nhiều hình thức
- Từ năm 1992 đến năm 1996: trọng điểm của giai đoạn này là chuyển đổi cơ
chế kinh doanh của DNNN, không phải chỉ là điều chỉnh quyền hạn và lợi ích giữa nhà
nước và doanh nghiệp trong thể chế quyền hạn và lợi ích giữa nhà nước và doanh
nghiệp trong thể chế cũ mà hình thành thể chế mới trong đó DNNN là người sản xuất
và kinh doanh hàng hoá độc lập.
Qua gần 20 năm thực hiện cải cách, hệ thống DNNN Trung Quốc đã có những
biến đổi to lớn. Thể chế kinh doanh đổi mới mạnh mẽ. Hàng loạt xí nghiệp đã lớn
mạnh và đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
III.1.2. Chính sách cải cách DNNN mới nhất của Trung Quốc do thủ tướng Chu
Dung Cơ đề xuất (1998 - 2000)
Tính đến cuối 1997, diện các DNNN làm ăn thua lỗ lên tới 45%. Hàng loạt các
doanh nghiệp đứng trước nguy cơ đóng cửa. Trong thời gian đó. Khủng hoảng khu vực
lại lan rộng và gây ảnh hưởng mạnh mẽ tới hoạt động xuất khẩu và hoạt động sản xuất
kinh doanh của các DNNN áp lực hội nhập quốc tế ngày càng gay gắt, đẩy các doanh
nghiệp tới trước sự lựa chọn hoặc là phải cải cách triệt để, hoặc là bị phá sản, giải thể.
Trong bối cảnh đó, thủ tướng Chu Dung Cơ đã chọn con đường cải cách triệt để
DNNN với mục tiêu đưa ra là: trong vòng 3 năm (1998 - 2000) đưa các DNNN cơ bản
thoát khoải khó khăn, tiến tới xây dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại. Các giải pháp
cơ bản:
* Phân loại và cơ cấu lại các DNNN
Để có những giải pháp cải cách hợp lý, 380.000 DNNN ở Trung quốc được
chia thành 3 loại: loại I gồm hơn 1000 DNNN lớn thuộc các ngành then chốt như:
quốc phòng, giao thông vận tải thông tin viễn thông.... loại II gồm 13.000 DNNN vừa,
loại III gồm hơn 300.000 DNNN nhỏ. Đối với từng loại DNNN mà Trung Quốc có
những giải pháp xử lý khác nhau.
- Đối với các DNNN lớn: trong số 1000 DNNN lớn. Trung quốc chỉ nắm 512
doanh nghiệp then chốt các doanh nghiệp còn lại sẽ áp dụng chế độ công ty cổ phần
trong đó nhà nước nắm cổ phần khống chế (51%). Hiện nay ở Trung Quốc có 3 mô
hình công ty nhà nước nắm giữ cổ phần khống chế.
+Mô hình thứ nhất: Công ty cổ phần do Nhà nướ nắm cổ phần khống chế đơn
thuần. Theo môhình này, Nhà nước chỉ đầu tư cổ phần mà không tham gia vào hoạt
động sản xuất kinh doanh.
+ Mô hình thứ hai: Cong ty cổ phần do Nhà nước nắm cổ phần khống chế hỗn
hợp. Theo mô hình này Nhà nước vừa đầu tư cổ phần trực tiếp tham gia hoạt động sản
xuất, kinh doanh.
+ Mô hình thứ ba: Công ty cổ phần do Nhà nước nắm cổ phần khống chế mang
tính chiến lược, Nhà nước có quyền về nhân sự, quyền đưa ra quyết sách đầu tư.
- Đối với các DNNN vừa và nhỏ: thực tế cho thấy bên cạnh bán giải thể, cho
phá sản.... cổ phần hoá và sát nhập là 2 biện pháp được áp dụng chủ yếu để cơ cấu lại
chế độ sở hữu của các DNNN vừa và nhỏ. Hiện nay Trung quốc cho phép bán cổ phần
cho các nhà đầu tư nước ngoài với mức khống chế 30% - 50% cổ phần của công ty và
với chính sách 3 đồng " đồng loại, đồng giá, đồng lợi ích". Nghĩa là cổ phiếu bán ra
cho các nhà đầu tư nước ngoài và trong nước cùng một giá.
* Xử lý mối quan hệ giữa doanh nghiệp và ngân hàng
Trước 1998 có tới 70% DNNN ở Trung Quốc là con nợ của ngân hàng với số
nợ 500 tỷ NDT (Tạp chí Tài chính 8/2000) một trong những giải pháp được áp dụng là
chuyển nợ thành cổ phần thông qua việc thành lập các công ty quản lý tài sản.
Sử lý thất nghiệp.
Nhìn chung, mặc dù có những tiến triển khả quan, song xét tổng thể các DNNN
Trung quốc vẫn chưa thoát được khó khăn: hiệu quả kinh tế chưa cao, các khoản nợ
tuy đã được giải quyết song mới mang tính thí điểm thất nghiệp cao. Chương trình cải
cách của thủ tướng Chu Dung Cơ sẽ phải tiếp tục đối phó với việc Trung quốc gia
nhập WTO. Để có đủ sức cạnh tranh và hội nhập, các DNNN Trung quốc phải vượt cả
một chựng đường dài đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa DNNN - ngân
hàng - chính phủ Trung quốc.
III.2. Việc đổi mới cải cách DNNN ở các nước TBCN
III.2.1. Chuyển đổi các DNNN - quản lý sự thay đổi triệt để tính chất trong môi
trường phi điều tiết ở Auslralia và Newzeland:
III.2.1.1. New zreland
DNNN ở New zraland được cải cách theo 2 hướng: Công ty hoá tư nhân hoá,
Qua hơn 10 năm thực hiện, chương trình cải cách thu đượckết quả tốt, kinh tế tăng
trưởng nhanh đời sống cao,.... Hiện nay New zraland còn 16 DNNN. Giá trị sản xuất
bằng 5% GDP. Tất cả DN này đều đã được công ty hoá. Còn đối với hầu hết các
DNNN thực hiện tư nhân hoá thì Nhà nước không còn cổ phần trong doanh nghiệp.
Hoạt động DNNN của New zreland được điều chỉnh bởi luật DNNN luật công
ty, hợp đồng định hướng kinh doanh hàng năm. bản hợp đồng nên tóm tắt kế hoạch
kinh doanh của doanh nghiệp, đây là căn cứ quan trọng nhất để giám sát hoạt động của
DNNN.
DNNN được quyền tự chủ các doanh nghiệp tư nhân, nhà nước không can thiệp
vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài thuế doanh nghiệp phải nộp cổ tức
cho Nhà nước.
III.2.1.2. Australia
DNNN của Australia gồm 2 loại: loại do liên bang quản lý và loại do bang quản
lý. Số lượng DNNN của Australia không nhiều liên Bang có 13 doanh nghiệp, ở các
bang Newsorth Waler và Victoria mỗi bang rất nhiều. DNNN ở đây được gọi là doanh
nghiệp thương mại, hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận. Những đơn vị nhà nước hoạt
động không tạo ra lợi nhuận thì không được gọi là DNNN được điều chỉnh bởi luật
công ty, luật thương mại. Luật cạnh tranh chống độc quyền, một số bang có luật
DNNN các DNNN ở Australia đều được công ty hoá.
Sau khi thực hiện công ty hoá. DNNN hoạt động bình đẳng như các doanh
nghiệp tư nhân. Doanh nghiệp chỉ thực hiện chức năng kinh doanh. Các chức năng xã
hội trả lại cho Nhà nước. Nếu Nhà nước yêu cầu các DNNN thực hiện chức năng xã
hội hay một số dự án không thu được lợi nhuận thì Nhà nước phải thanh toán tiền. Một
số DNNN hoạt động trong lĩnh vực độc quyền, điện, đường sắt... chịu sự quản lý giá
của Nhà nước để đảm bảo hài hoà quyền lợi của cộng đồng với quyền lợi của DNNN
và nhà nước.
III.2.1.3. Những nhận xét đánh giá chung
Nghiên cứu phương thức quản lý DNNN của Australia và Newzraland chúng ta
rút ra một số kinh nghiệm sau:
- Phải tách phải tách chức năng quản lý Nhà nước, chủ sở hữu Nhà nước với
chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp.
- Chủ sở hữu cần được xác định rõ không phân tán, mơ hồ
-Tuy nhiên do điều kiện về chính trị kinh tế xã hội của Australia và Newzraland
khác so với Việt Nam ta do vậy chúng ta chỉ nên áp dụng những tinh hoa trong việc
chuyển đổi DNNN đó mà thôi. Trong cuốn " chuyển đổi các doanh nghiệp Nhà nước -
quản lý sự thay đổi triệt để tổ chức trong môi trường phi điều tiết" nói về sự chuyển
đổi DNNN ở Newzraland và Australia, Bary Spiwr rút ra kết luận: " cuối cùng để tăng
hiệu quả của DNNN chỉ bằng một cách duy nhất, cuối cùng tư nhân hoá..."
III.2.2. Chuyển đổi chế độ sang nền kinh tế thị trường tự do và tư nhân hoá toàn bộ
hệ thống DNNN của Liên Xô và Đông Âu:
Mô hình CNXH trước đây ở Liên Xô và một số nước Tây Âu được xây dựng
trên cơ sở chiếm hữu hoá TLSX và điều hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Mô
hình này đã có những tác dụng tích cực to lớn. Mười năm trước chiến tranh thế giới
thứ II cứ 5 năm thu nhập quốc dân của Liên Xô lại tăng gấp đôi. Điều đó đã đưa Liên
Xô từ một quốc gia với nền kinh tế lạc hậu trở thành một cường quốc trên thế giới. Chỉ
sau hơn 30 năm sau ngày thành lập hệ thống kinh tế quốc doanh đã trở thành trụ cột
nền kinh tế chiếm từ 80-100% thu nhập quốc doanh.
Tuy nhiên cùng thời gian, mô hình cơ chế tập trung càng tỏ ra yếu kém. ở Liên
Xô - Đông Âu nền kinh tế ngày càng lâm vào khủng hoảng nguy kịch. Trước thực tế
đó, cuối 50 đầu 60, Liên Xô và các nước CNXH bắt đầu cải cách doanh nghiệp. Đầu
những năm 90 chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Cùng với việc chuyển thể
chế xã hội sang kinh tế thị trường, việc chuyển DNNN trong các nước này được thực
hiện triệt để theo hướng tư nhân hoá.
Mới đây ở Nga, chương trình tư nhân hoá DNNN tới 70 DN lớn vẫn chưa tiến
triển được bao nhiêu. Trong năm 1999. Nga đã tự nhận hoá được 2,5% Caz prom, 25%
Svyanzinvest - và 9% luikoil (tạp chí tài chính8/2000).
Chương trình tư nhân hoá DNNN ở đông âu sau một thời gian sôi động lại lắng
xuống do việc chuyển quyền kiểm soát doanh nghiệp từ nhà nước sang tư nhân diễn ra
hết sức chậm chạm. Trước tình hình này, chính phủ các nước Đông âu đã đưa ra một
loạt biện pháp đẩy nhanh quá trình tư nhân hoá: Thông qua luật tư nhân hoá, phát động
các chương trình tư nhân hoá rộng rãi.
Tuy nhiên ở Đông Âu, trong khi tư nhân hoá các DNNN nhỏ mang lại kết quả
thì kết quả tư nhân hoá các DNNN lớn lại gây thất vọng cả về năng lượng và mặt chất.
III.2.3. ở một số nước khác
Chương trình chuyển đổi sở hữu DNNN cho kinh tế tư nhân trên thế giới diễn
ra mạnh mẽ sôi động ngay từ đầu thập kỷ 80 và bắt đầu từ Anh, sau đó lan rộng ra hầu
hết các nước công nghiệp phát triển và đang phát triển. Chỉ tính từ tháng 10/1979 đến
năm 1988, chính phủ Anh đã bán ra22, 25 tỷ USD cổ phần Nhà nước trong các ngành
hàng không, bưu chính viễn thông, gang thép khí than, đng tàu và do các DNNN cung
cấp gia.... tỷ trọng tổng giá trị sản phẩm do DNNN cung cấp từ 11% năm 1979 xuống
còn 6,5% năm 1998.
Tiếp đó đến pháp và Mỹ từ năm 1986 đến năm 1991, chính phủ Pháp đã bán 66
doanh nghiệp và ngân hàng cho tư nhân với tổng tài sản giá trị 275 tỷ France còn chính
phủ Mỹ đã bán 52 tỷ USD tài sản Nhà nước bao gồm tài sản của các ngành điện lực,
sản xuất thiết bị dầu mỏ, thám không và một số bất động sản và cơ sở dịch vụ thuộc
chính phủ liên bang.
Cùng thời điểm đó, chính phủ của các nước Mỹ La tinh và vùng Caribê đã thực
hiện cổ phần hoá và tư nhân hoá hơn 2000 DNNN gồm các ngân hàng hải cảng, xa lộ
các công tri tiện ích công cộng và công ty bảo hiểm. Trong đó Chi lê và Mê hi cô là
những nước dẫu đầu sau đó đến Australia. Chi lê chuyển đổi sở hữu của mình (DNNN
) cho hơn 90% DNNN cho hơn 500 DNNN từ 1970 - 1888. ở Mê hi cô, từ 1983 đến
năm 1988 có khoảng 90% số DNNN đã chuyển đổi sở hữu Australia bắt đầu chương
trình cải cách DNNN từ năm 1989 bằng việc tổ chức lại và tư nhân hoá, giải thể
DNNN cả trong lĩnh vực dân sự lẫn quốc phòng. Nhà nước đã bán toàn bộ hoặc một
phần DNNN trong các ngành viễn thông dầu khí, đường sắt,.... với mục tiêu tăng
cường sự tham gia của khu vực tư nhân, giảm trợ cấp ngân sách nhà nước cho DNNN.
Mỗi quốc gia khi tiến hành cổ phần hoá đều đặt ra những tham vọng riêng co
mục tiêu phát triển kinh tế - chính trị vì vậy kết quả thu được ở mỗi quốc gia có những
thành công và tiêu hình thức và đều phải có sự trợ giúp của chính phủ để đẩy nhanh
tiến trình chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp, đặc biệt là hệ thống cơ chế chính sách về
tài chính đã áp dụng khi tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp này.
IV. Giải pháp nâng cao vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước ở nước
ta hiện nay
Kinh tế Nhà nước ở nước ta là một lực lượng rất quan trọng đã được xây dựng
và phát triển trong nhiều năm qua. Các doanh nghiệp nhà nước trong các ngành kinh tế
đóng một vai trò hết sức to lớn trong sự nghiệp kháng chiến chống pháp, Mỹ và xây
dựng hoà bình trên phạm vi cả nước.
Tuy nhiên hiện nay cũng đang có nhiều vấn đề đặt ra đòi hỏi phải được giải
quyết mà các phương pháp phổ biến trước đây đã không thể xử lý một cách có hiệu
quả và cơ bản. Đảng và nhà nước đã quyết tâm thực hiện sự nghiệp đổi mới, chuyển
sang phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước. Đổi mới mạnh mẽ, sâu sắc khuvực kinh tế quốc doanh mà
trọng tâm là cải tổ các DNNN là yêu cầu chiến lược và cấp bách của nước ta hiện nay
và trong những năm tới.
Do đó để nâng cao hiệu quả hoạt động nhằm phát huy và ngày càng nâng cao
vai trò chủ đạo của DNNN trong quá trình phát triển kinh tế nhiều thành phần theo
định hướng XHCN, cần phải thực hiện một số giải pháp chủ yếu saud đây:
IV.1. Định hướng sắp xếp, phát triển doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh
doanh và hoạt động công ích
IV.1.1. Đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
Nhà nước giữ 100% vốn đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong
lĩnh vực độc quyền nhà nước, bao gồm: vật liệu hoá chất độc, chất phóng xạ, hệ thống
truyền tải điện quốc gia, mạng trục thông tin quốc gia và quốc tế, sản xuất thuốc là
điều.
Nhà nước giữ cổ phần chi phối hoặc giữ 100% vốn đối với DNNN hoạt động
kinh doanh trong các ngành và lĩnh vực: bán buôn lương thực, bán buôn, xăng dầu,
công nghiệp xây dựng sản xuất hoá chất cơ bản, vận tài hàng không, bảo hiểm.... Nhà
nước giữ cổ phần đặc biệt trong một số trường hợp cần thiết. Chuyển các doanh nghiệp
mà Nhà nước giữ 100% vốn sang hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên - một chủ sở hữu - nhà nước hoặc công ty cổ phần gồm các cổ đông là các
DNNN. Dựa vào các căn cứ trên đây tiến hành rà soát. Phê duyệt, phân loại cụ thể các
DNNN hiện có để triển khai thực hiện và từng thời kỳ xem xét điều chỉnh định hướng
phân loại doanh nghiệp cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Việc thành lập mới DNNN hoạt động kinh doanh chủ yếu sẽ được thực hiện
dưới hình thức công ty cổ phần. Chỉ thành lập mới doanh nghiệp 100% vốn nhà nước
đổi với những ngành, lĩnh vực mà Nhà nước cần giữ độc quyền, hoặc các thành phần
kinh tế khác không muốn hay không có khả năng tham gia.
IV.1.2. Đối với doanh nghiệp hoạt động công ích
Nhà nước giữ 100% vốn đối với các doanh nghiệp công ích hoạt động trong các
lĩnh vực tin bạc và chứng chỉ có giá, điều hành bay, bảo đảm hàng hải, kiểm soát và
phân phối tần số vô tuyết điện. Sửa chữa, sản xuất vũ khí.....
Nhà nước giữ 100% vốn hoặc cổ phần chi phối đối với những doanh nghiệp
công ích đang hoạt động trong các lĩnh vực như: kiểm định kỹ thuật xe cơ giới lớn,
xuất bản sách giáo khoa, sách báo chính trị, phin tài liệu, thời sự...trong từng thời kỳ,
xem xét điều chỉnh định hướng phân loại doanh nghiệp, hoạt động công ích hiện có,
căn cứ vào định hướng trên đây rà soát. phê duyệt phân loại cụ thể để triển khai thực
hiện. Những doanh nghiệp công ích đang hoạt động không thuộc dạng nêu trên sẽ
được sắp xếp lại. Việc thành lập mới DNNN hoạt động công ích phải được xem xét
chặt chẽ, đúng định hướng có yêu cầu và có đủ điều kiện cần thiết. Khuyến khích nhân
dân và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế sản xuất những sản phẩm, dịch vụ
công ích mà xã hội cần và pháp luật không cấm.
IV.2. Sửa đổi, bổ sung cơ chế chính sách
IV.2.1. Đối với doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh
Doanh nghiệp tự chủ quyết định kinh doanh theo quan hệ cung cầu trên thị
trường phù hợp với mục tiêu thành lâpj và điều lệ hoạt động, xoá bỏ bao cấp với các
doanh nghiệp. Thực hiện chính sách ưu đãi đối với các ngành, vùng, các sản phẩm và
dịch vụ cần ưu tiên hoặc khuyến khích phát triển, không phân biệt thành phần kinh tế.
Ban hành luật cạnh tranh để bảo vệ và khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phầnkinh tế cạnh tranh, hợp tác bình đẳng trong khôn khổ pháp luật. Đối với
DNNN hoạt động trong lĩnh vực độc quyền cần có quy định kiểm soát giá và điều tiết
lợi nhuận,.
Nhà nước ban hành tiêu chí đánh hiệu quả và cơ chế giám sát DNNN. Đổi mới
chế độ kế toán, kiểm toán, chế độ báo cáo, thông tin, thực hiện công khai hoạt động
kinh doanh và tài chính doanh nghiệp.
Về vốn, doanh nghiệp được tiếp cận và thu hút các nguồn vốn trên thị trường để
phát triển kinhdoanh được chủ động xử lý các tài sản dư thừa vật tư hàng hoá ứ đọng.
Nhà nước có cơ chế để trong 5 năm 2001 - 2005 có bản tạo dự vốn điều lệ cho doanh
nghiệp. Không thu hút thuê sử dụng vốn ngân sách, chuyển hình thức cấp vốn sang
"đầu tư vốn" nghiên cứu ban hành luật sử dụng vốn nhà đầu tư vào kinh doanh
Về đầu tư tăng thêm quyền và trách nhiệm của DNNN trong quyết định đầu tư
trên cơ sở chiến lược, quy hoạch phát triển được phê duyệt.
Về đổi mới hiện đạihoá công nghệ: doanh nghiệp được áp dụng chế độ ưu đãi
đối với người có đóng góp vào đổi mới công nghệ mang lại hiệu quả thiết thực cho
doanh nghiệp, chi phí này được hạch toán vào giá thành sản phẩm. Nhà nước có chính
sách khuyến khích, hỗ trợ, doanh nghiệp đầu tư đổi mới việc trả lương, tiền thưởng.
Về lao động tiền lượng doanh nghiệp quyết định việc tuyển chọn lao động và
chịu trách nhiệm giải quyết chế độ đối với người lao động, được tự chủ trong việc trả
lương, tiền thưởng.
Về cán bộ quản lý doanh nghiệp: cơ quan nhà nước và tổ chức có thẩm quyền
ra quyết định bổ nhiệm chủ chốt của doanh nghiệp.
Về thanh tra, kiểm tra... hàng năm doanh nghiệp phải được kiểm toán kết quả
kiểm toán và căn cứ pháp lý về tình hình tài chính của DNNN.
IV.2.2. Đối với doanh nghiệp hoạt động công ích
Căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ mà Nhà nước quyết định quy mô tổ chức, chính
sách tài chính đối với doanh nghiệp công ích. Chuyển từ cấp vốn, giao nhiệm vụ sang
cơ chế đặt hàng hoặc đấu thầu thực hiện sản phẩm, dịch vụ công ích. Nhà nước có
chính sách ưu đãi đối với các sản phẩm, dịch vụ công ích. Doanh nghiệp công ích cũng
phải thực hiện hạch toán.
IV.2.3. Giải quyết lao động dôi dư và nợ không thanh toán được.
Bổ sung sơ chế chính sách đối với lao động dôi dư trong sắp xếp, cơ cấu lại
DNNN. DNNN phải rà soát và xây dựng đúng định mức để xác định số lượng lao
động cần thiết. Lao động dôi dư được doanh nghiệp tạo điều kiện đào tạo lại hoặc nghỉ
việc hưởng nguyên lương trong một thời gian để tìm việc. Bổ sung, sửa đổi một số
chính sách cụ thể đối với người lao động dôi dư có nguyện vọng nghỉ hưu trước tuổi.
Sửa đổi bổ sung Bộ luật lao động cho phép áp dụng chế độ mất việc đối với số lao
động dôi dư tại thời điểm giao bán, khoán kinh doanh và cho thuê DNNN.
Chính phủ quy định biện pháp giải quyết dứt điểm các khoản nợ không có khả
năng thanh toán của doanh nghiệp đối với ngân sách nhà nước và ngân hàng, đồng thời
giải pháp để ngăn ngừa sự tái phát, thành lập công ty mua bán nợ và tìa sản của DNNN
để sử lý nợ và tài sản không cần dùng, tạo điều kiện lành mạnh hoá tài chính doanh
nghiệp.
IV.3. Đổi mới nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổng công ty nhà nước hình
thành một số tập đoàn kinh tế mạnh
IV.3.1. Đổi mới nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổng công ty nhà nước.
Tổng công ty phải có vốn điều lệ đủ lớn, có thể huy động vốn từ nhiều nguồn,
trong đó vốn nhà nước là chủ yếu, thực hiện kinh doanh đa ngành có ngành chính
chuyên sâu, có liên kết giữa các đơn vị thành viên về sản xuất, tài chính, thị trường...
có trình độ công nghệ và quản lý tiêu kiến năng suất lao động cao, chất lượng sản
phẩm tốt. Có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Hoàn thành
việc sắp xếp các tổng công ty nhà nước hiện có nhằm tập hợp trung hơn nữa nguồn lực
để chi phối được những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, làm lực lượng chủ
lực trong việc bảo đảm các cân đối lớn và ổn định kinh tế vĩ mô, cung ứng những sản
phẩm trọng yếu cho nền kinh tế quốc dân và xuất khẩu, đóng góp lớn cho ngân sách
làm nòng cốt cho thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chủ động hội nhập kinh tế có hiệu
quả. Trong từng thời kỳ, theo yêu cầu phát triển của nền kinh tế cần có sự điều chỉnh
phù hợp. Những tổng công ty đang hoạt động không đủ các yêu cầu trên sẽ sắp xếp lại:
Cùng với tiền trìnhg đổi mới chung của đất nước, trong những năm 1994 - 1995
một loạt các tổng công ty mạnhđã thành lập theo quyết định 91/TTg của thủ tướng
chính phủ. Đây là hệ thống tổng công ty có tiềm lực nhất hiện nay. Tuy nhiên bên cạnh
những ưu điểm to lớn thì mô hình này xuất hiện một số nhược điểm quan trọng.
Một là, tổng công ty 91 hiện nay có khả năng tích tụ và tập trung vốn cao độ
các thành viên muốn giữ hầu hết số lợi nhuận thu được sau khi nộp thuế, tổng công ty
lại muốn tập trung đố lợi nhuận đó tuy nhiên cơ chế hiện hành chưa đủ cơ sở pháp lý
rõ ràng để tổng công ty thực hiện quyền tập trung tích luỹ của mình.
Hai là,cơ chế hoạt động của tổng công ty 91 vẫn chưa phát huy hết quyền tự
chủ của doanh nghiệp thành viên. Theo cơ chế hiện hành, kế hoạch sản xuất kinh
doanh của các đơn vị thành viên phải được hội đồng quản trị tổng công ty phê duyệt,
mọi hoạt động như mua sắm dây truyền sản xuất thanh lý tài sản vật tư... cũng đều
phải có ý kiến phê duyệt của hội đồng quản trị tổng công ty.
Để khắc phục hai nhược điểm trên hiện nay và để nâng cao hiệu quả hoạt động
của tổng công ty cần sắp xếp lại theo mô hình công ty mẹ - công ty con. Lâu nay nhà
nước giao vốn cho tổng công ty, sau đó tổng công ty lại giao vốn cho các đơn vị thành
viên, giám đốc cong ty hay hội đồng quản trị, từ đó mà cách hiểu về ai là người quyết
định phương án sử dụng lợi nhuận cũng không rõ ràng. Tới đây khi chuyển sang mô
hình công ty mẹ - công ty con, việc giao vốn phải được quy định lại rõ ràng, cụ thể
hơn.
Chuyển đổi mô hình các tổng công ty 91 sang mô hình công ty mẹ - công ty con
có nhiều ưu điểm: thứ nhất, sự chỉ đạo chi phối của công ty cổ đông, hoạt động theo cơ
chế công ty trách nhiệm hữu hạn mới thành viên hoặc công ty cổ phần chuyển từ chủ
kinh doanh của các công ty thành viên sẽ được tăng cường, khắc phục một trước quan
trọng cái gọi là sự can thiệp quá sâu của tổng công ty đối với đơn vị thành viên hiện
nay. ưu điểm nổi bật thứ hai phải kể đến đó là khi công ty mẹ góp vốn vào công ty con
thì đương nhiên số tiền rời của công ty con sau mỗi năm hoạt động phải chia về cho
công ty mẹ tương ứng với số vôns mà công ty mẹ đã góp, như vậy quá trình tích tụ và
tập trung vốn sẽ được thực hiện tốt hơn, nhanh hơn khắc phục tình trạng phân tán vốn
như hiện nay.
Hiệu quả của việc chuyển đổi mô hình của tổng công ty 91 sang mô hình công
ty mẹ - công ty con là rất rõ ràng vì vậy việc chuyển đổi này là rất cần thiết và cần
được thực hiện khẩn trương.
IV.3.2. Hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh
Hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước
có sự tham gia của các thành phần kinh tế, kinh doanh ngành, trong đó có ngành kinh
doanh chính, chuyên môn hoá cao và giữa vai trò chi phối lớn trong nền kinh tế quốc
dân, có quy mô rất lớn về vốn hoạt động cả trong và ngoài nước, có trình độ công nghệ
cao và quản lý hiện đại có sự gắn kết trực tiếp, chặt chẽ giữa khoa học công nghệ, đào
tạo nghiên cứu triển khai với sản xuất kinh doanh. Thí điểm hìnht hành tập đoàn kinh
tế trong một số lĩnh vực có điều kiện, có thế mạnh, có khả năng phát triển để cạnh
tranh và hội nhập kinh tế có hiệu quả như: dầu khí, viễn thông, điện lực, xây dựng....
IV.4. Đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước:
Cổ phần hoá DNNN là quá trình chuyển đổi sở hữu tài sản của nhà nước tại các
DNNN sang các cổ đông sở hữu trong đó nhà nước có cổ phần chi phối, cổ phần đặc
biệt, cổ phần ở mức thấp hoặc nhà nước không giữ cổ phần.
Việc cổ phần hoá DNNN nhằm thực hiện các mục tiêu cụ thể:
- Huy động nguồn vốn trong và ngoài nước, củng cố mở rộng,hiện đại hoá
DNNN hiện có, khắc phục mâu thuẫn ở nhiều DNNN hiện nay đang có nhiều cơ hội
đứng vững và phát triển trong thị trường cạnh tranh, nhưng đang thiếu vốn nghiêm
trọng nếu chỉ trông vào vốn ngân sách.
- Xoá bỏ tình trạng " vô chủ" hiện nay ở các DNNN trên cơ sở đó cải thiện căn
bản cơ chế chính sách và năng lực quản lý của doanh nghiệp và nhà nức đối với doanh
nghiệp thông qua chuyển đổi DNNN thành công ty cổ phần.
- Tăng nguồn lực do thu hút người lao động trong doanh nghiệp và công chúng
tham gia góp phần đầu tư, tăng quyền làm chủ dân chủ hoá quản lý, sâu sát đối với
doanh nghiệp, tạo thế bền vững.
- Chuyển DNNN thành công ty cổ phần cũng là chuyển doanh nghiệp hoạt động
theo luật doanh nghiệp nhà nước thích ứng với các chế thị trường trong giai đoạn phát
triển cao của cơ chế này.
Đối tượng cổ phần hoá những DNNN hiện có mà nhà nước không cần giữ
100% vốn không phụ thuộc vào thực trạng kết quả sản xuất kinh doanh.
Hình thức cổ phần hoá bao gồm: giữ nguyên giá doanh nghiệp, phát hành cổ
phiếu để thu hút thêm vốn, bán một phần giá trị hiện có của doanh nghiệp, chuyển toàn
bộ doanh nghiệp thành công ty cổ phần. Trường hợp cổ phần hoá đơn vị phụ thuộc của
doanh nghiệp thì không gây khó khăn hoặc làm ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh
doanh các bộ phận còn lại của doanh nghiệp.
Hiện nay. Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp trung ương đã xây dựng được lịch
trình đổi mới, sắp xếp DNNN nói chung được đạt ở vị trí trung tâm. Trong 3 năm 2001
- 2003 dự kiến sẽ cồ phần hoá, đa dạng hoá sở hữu khoảng 150 DNNN, chiếm 65%
trong tổng số gần 2200 DNNN thuộc diện sắp xếp của thời kỳ này. Ba năm tiếp theo
2004 - 2006 dự kiến sẽ cổ phần hoá, giao bán khoán, cho thuê hơn 910 DNNN cùng
với các hình thức khác trong khoảng 6 năm từ 2001 - 2006 sẽ sắp xếp khoảng 33000
DNNN
Để thực hiện thành công cổ phần hoá DNNN trong giai đoạn hiện nay cần chú ý
tới các vấn đề sau:
Thứ nhất là phân hoá, lựa chọn doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá trong các
DNNN, cần xác định rõ doanh nghiệp chuyển đổi sở hữu cổ phần hoá. Trong DNNN
thực hiện cổ phần hoá cần phải định rõ doanh nghiệp đối tượng nhà nước nắm giữ cổ
phần chi phối, cổ phần đặc biệt doanh nghiệp thuộc đối tượng nhà nước chỉ cần sở hữu
một phần vốn, doanh nghiệp thuộc đối tượng, nhà nước không cần thiết nắm giữ cổ
phần. Các kế hoạch đó cần có sự tham khảo và phối hợp với kế hoạch sắp xếp, chuyển
đổi của các địa phương nhằm đảm bảo kế hoạch phát triển kinh tế vùng, lãnh thổ. Mặt
khác kế hoạch cổ phần hoá DNNN phải được chính phủ xem xét, phê duyệt chuẩn đảm
bảo phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế của cả nước.
Thứ hai là vấn đề định giá DNNN thuộc diện cổ phần hoá cần phải xây dựng
nhiều phương pháp định giá DNNN làm cho công tác định giá linh hoạt hơn và khách
quan hơn. Thật vậy, việc định giá chỉ theo một phương pháp mặc dù tạo nên một sự
thống nhất ít mang lại các cơ hội lựa chọn phù hợp với đặc điểm riêng của mỗi
doanhnghiệp. Khi định giá các doanh nghiệp sẽ lấy một phương pháp chuẩn, đồng thời
sử dụng thêm một số phương pháp khác để kiểm tra xem việc đánh giá đã hợp lý chưa,
mức độ chênh lệnh là bao nhiêu. Thậm trí trên tiến mạnh hơn tới phương pháp đấu
thầu phần lớn các doanh nghiệp cổ phần hoá hiện nay không chỉ tiêu chuẩn niêm yết
trên thị trường chứng khoán, trong khi đó chương trình cổ phần hoá thời gian tới sẽ
được tiến hành rộng rãi với sự tham gia của nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cơ chế
định giá phức tạp như hiện nay sẽ gây tốn kém chi phí và mất nhiều thời gian làm
chậm tiến trình cổ phần hoá.
Thứ ba là chính sách đối với đối tượng có quyền mua cổ phần: quyền được mua
cổ phần lần đầu bao gồm tất cả các pháp nhân hoạt động theo luật pháp Việt Nam,
công dân Việt Nam, Việt kiểu và người nước ngoài định cư ở Việt Nam. Trong thời
gian tới nền nới rộng mức khống chế tỷ lệ cổ phần hoá cho các nhà đầu tư, tiến tới bỏ
qy định khống chế tỷ lệ mua cổ phần trong doanh nghiệp cổ phần hoá đối với cán bộ
lãnh đạo doanh nghiệp, các cá nhân pháp nhân ngoài doanh nghiệp, các nhà đầu tư và
mức mua cổ phần ưu đãi của cán bộ quản lý doanh nghiệp tạo điều kiện cho quá trình
cổ phần hoá, đồng thời tăng niềm tin cho các cổ đông trong và ngoài doanh nghiệp.
Việc loại bỏ mức khống chế mua cồ phần sẽ thu hút được nhiều cổ đông có tiềm lực
tài chính và kinh nghiệm quản lý để tạo đà tiến cho doanh nghiệp với hiệu quả quy mô
phát triển nhanh.
Thứ tư là chính sách đối với người lao động trong doanh nghiệp là đối tượng cổ
phần hoá. Ngoài quyền mua cổ phần phổ thông như một công dân, ngơì doanh động
DNNN cổ phần hoá còn được mua cổ phần với giá ưu đãi tuỳ thuộc vào vốn tự tích luỹ
của doanh nghiệp được tiếp tục tham gia bảo hiểm xã hội, y tế theo chế độ hiện hành,
được đào tạo nghề theo yêu cầu đổi mới công nghệ, tổ chức lại lao động trong công ty
cổ phần; được hưởng các chế độ trợ cấp nếu thuộc diện dôi dư tổ chức lại lao động sau
12 tháng hoạt động của công ty cổ phần..... thực hiện những biện pháp trên nhằm tạo
ra động lực cổ phần hoá, đảm bảo các mục tiêu cổ phần hoá, đặc biệt là đảm bảo cho
người lao động trong DNNN tham gia làm chủ sở hữu công ty cổ phần hoá.
Thứ năm là, nhà nước ban hành cơ chế chính sách phù hợp đối với DNNN đã
chuyển sang công ty cổ phần. Sửa đổi chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp cổ phần
hoá theo hướng ưu đãi hơn đối với những doanh nghiệp có khó khăn nói riêng và của
toàn hệ thống doanh nghiệp cổ phần hoá nói chung. Ngoài ra nhà nước có thể đầu tư
vốn thành lập mới các công ty cổ phần.
Trên thế giới cũng đã diễn ra nhiều quá trình cổ phần hoá, đó là bài học lớn đối
với cổ phần ở nước ta. Tuy nhiên quá trình cổ phần hoá ở Việt Nam có những điều
khác biệt rất lớn: thứ nhất, các DNNN của các nước khác ra đời và hoạt động trong cơ
chế thị trường, còn các DNNN Việt Nam hầu hết ra đời và hoạt động theo cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp. Do vậy khi chuyển sang công ty cổ phần rất khó khăn, khó
khăn hơn nhiều so với thành lập công ty mới, thứ hai, nguồn vốn của các DNNN ở các
nước có sự tham gia của nhiều chử sở hữu chứ không phải 100% vốn là cuả Nhà nước
như ở Việt Nam. Nói khác đi là ở các nước người ta đã công ty hoá rồi, thứ ba các
DNNN ở Việt Nam trong thời gian dài hoạt động cốt để giao, nộp, không có cạnh
tranh, nên đổi mới thiết bị chậm, nay chuyển sang cơ chế thị trường khó trụ nổi, thứ tư
số lượng các DNNN ở nước khác ít chỉ chiếm 1 -10% và chỉ nằm trong các khu vực
kinh tế quan trọng, ngược lại sốlượng DNNN ở nước ta rất nhiều, có mặt trong tất cả
các lĩnh vực nhưng trình độ công nghệ lạc hậu, hiệu quả sinh lời thấp, thứ năm ở các
nước các DNNN hay các doanh nghiệp tư nhân đều cùng hoạt động trong một môi
trường pháp lý kinh doanh chung, không có sự phân biệt các thành phần kinh tế, còn ở
Việt Nam tuy luật doanh nghiệp nhà nước đã ra đời xoá bỏ sự khác biệt, phân biệt giữa
DNNN và doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác nhưng thực tế vẫn có nhiều sự
bất công nhiều lúc phi lý nên khi cổ phần hoá gặp nhiều bỡ ngỡ. Thứ sáu sơ với nhiều
nước thì dân ta chưa có truyền thống đầu tư kinh doanh.
Việc triển khai cổ phần hoá DNNN trong thời gian qua tuy có những kết quả
khả quan nhưng vẫn tồn tại những bất cập đòi hỏi có những giải pháp tổng thể để xử
lý. Chính vì vậy các cơ quan hữu quan cần phải phối hợp một cách nhịp nhàng hơn
nữa để góp phần đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá các DNNN giai đoạn tiếp theo.
IV.5. Thực hiện giao bán, khoán kinh doanh, cho thuê, sáp nhập, giải thể phá sản
doanh nghiệp nhà nước.
"Đối với doanh nghiệp quy mô nhỏ có vốn Nhà nước dưới 5 tỷ đồng, Nhà nước
không cần nắm giữ và không cổ phần hoá được, trong thực tế của từng DNNN, cơ
quan nhà nước có thẩm quyền quyết định một trong các hình thức: giao bán, khoán
kinh doanh, cho thuê. Khuyến khích DNNN đã gia, bán được chuyển thành những
công ty cổ phần của người lao động sáp nhập, giải thể phá sản những DNNN hoạt
động không hiệu quả, nhưng không thực hiện được các hình thức nói trên".
(Nghị quyết hội nghị lần thứ ba ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX)
IV.5.1. Giải pháp sáp nhập của DNNN
Sáp nhập DNNN có thể diễn ra theo phương án: một doanh nghiệp tương đối
bền vững về khả năng cạnh tranh đang có triển vọng phát triển thị trường, có thể thiếu
lao động, thiếu vốn, thiếu mặt bằng, cần có thể đứng ra làm nòng cốt, trên cơ sở đó
tiến hành sáp nhập các doanh nghiệp nhỏ hơn, yếu hơ thành một DNNN cỡ vừa hoặc
một số sẽ là tương đối lớn.
Việc lập phương án sáp nhập phải đi theo hướng nâng cao sức cạnh tranh từ đó
có phương án sắp xếp lại lao động sau sáp nhập, cần có nguồn tài chính để hình thành
quỹ tổ chức lại DNNN và quy mô cổ phần hoá để hỗ trợ đào tạo lại nghề hay trợ cấp
người lao động. Quy mô DNNN sau sáp nhập cần đạt cỡ vừa và cỡ tương đối lớn,
không duy trì DNNN quá nhỏ, yếu. DNNN được đưa vào phương án sáp nhập trước
hết phải là DNNN trong thời gian tương đối dài còn cần duy trì doanh nghiệp do nhà
nước đầu tư và sở hữu 100% vốn điều lệ, chưa có điều kiện quản lý hoặc cho thê
doanh nghiệp, chưa là đối tượng cổ phần hoá DNNN.
Hiện nay, có trường hợp sáp nhập DNNN chỉ đơn thuần là " cơ học" là phép
cộng các DNNN mà ít có tác dụng về đổi mới cơ chế quản lý hay chỉ đổi mới quản lý
mà để nguyên tổ chức manh mún, phân tán. Đó là những trợ ngại cần được khắc phục.
IV.5.2. Giải pháp giải thể và phá sản doanh nghiệp Nhà nước
Trước đây, Nhà nước đã áp dụng trên quy mô khá lớn giải thể doanh nghiệp
nhà nước. Hình thức giải thể chủ yếu là quy định tiêu chuẩn mới để đăng ký lại
DNNN, doanh nghiệp nào không đáp ứng những tiêu chuẩn đó, không có điều kiện sáp
nhập với doanh nghiệp khác để thành lập DNNN mới, đáp ứng các tiêu chuẩn giải thể
thì phải làm thủ tục giải thể. Có thể thấy được rằng chúng ta đang ở vào tình thế thực
sự có nhu cầu xử lý một số lượng không nhỏ DNNN quá yếu kém, đang ở giai đoạn
trên phá sản bằng giải pháp giải thể các doanh nghiệp này. Đồng thời, sau hơn 5 năm
ban hành luật phá sản cũng cần được hướng dẫn đầy đủ hơn bằng các văn bản dưới
luật để thực thi luật này cho các doanh nghiệp trong đó có DNNN.
Khi thực hiện giải thể doanh nghiệp hiện nay gặp nhiều vướng mắc về trách
nhiệm và quyền hạn của đại diện chủ sở hữu trong việc thanh toán các khoản nợ phải
trả, phải đòi thanh lý tài sản và hình thành nguồn tài chính đảm bảo sự hỗ trợ thoả
đáng cho lực lượng lao động làm việc trong DNNN bị giải thể. Những quy định về
những vấn đề trên cần được thể hiện bằng văn bản dưới luật do chính phủ ban hành.
Còn đối với việc phá sản các DNNN mặc dù số lượng DNNN làm ăn thua lỗ cần tuyên
bố phá sản lớn nhưng lượng DNNN thực hiện được không đáng là bao.
Một vấn đề khác đặt ra là: về hình thức giải thể doanh nghiệp giống phá sản
doanh nghiệp ở chỗ sau khi giải thể hoặc phá sanr doanh nghiệp đều mất tư cách pháp
nhân, đều phải thanh lý tài sản để thanh toán cho các chủ nợ. Tuy nhiên, về bản chất
giải thể và phá sản toàn khác nhau. Giải thể doanh nghiệp là ý muốn chủ quan của chủ
sở hữu doanh nghiệp. Phá sản doanh nghiệp là hiện tượng khách quan do toà án tuyên
bố. Bản chất kinh tế của phá sản và giải thể cũng khác nhau. Giải thể doanh nghiệp
hoặc là do không cần thiết duy trì sự tồn tại của doanh nghiệp mặc dù nó vẫn kinh
doanh có hiệu quả do kinh doanh thua lỗ hoặc không hoàn thành nhiệm vụ đến mức
mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Ngược lại phá sản có nghĩa là doanh nghiệp đó
đã mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Chính sự khác nhau này quyết định sự khác
nhau trong nguyên tác sử lý tài chính khi thực hiện giải thể hay phá sản doanh nghiệp.
Tuy nhiên theo chế độ hiện hành, nguyên tắc xử lý khi giải thể doanh nghiệp cũng
giống như là trường hợp phá sản doanh nghiệp. Điều đó là không đúng đặc biệt là vấn
đề trình tự thanh toán các khoản nợ việc quy định các hành vi bị coi là không có hiệu
lực....
IV.5.3. Giải pháp khoán kinh doanh và cho thuê doanh nghiệp nhà nước.
Khoán kinh doanh là hình thức cải tiến quản lý nội bộ doanh nghiệp được áp
dụng khá sớm trong nền kinh tế nước ta. Khoán kinh doanh được xem như là một giải
pháp lớn để sắp xếp lại và đổi mới cơ chế quản lý DNNN, có nội dung như sau: khoán
toàn bộ hoạt động của cả một DNNN, người nhận khoán là giám đốc doanh nghiệp
đang điều hành doanh nghiệp có đủ năng lực, chỉ tiêu khoán quan trọng nhất là hiệu
quả kinh tế sau khi khoán doanh nghiệp vẫn hoạt động theo luật doanh nghiệp nhà
nước.
Theo nghị định 103/NĐ - CP khoản kinh doanh là một phương thức quản lý
DNNN. Tức là sở hữu doanh nghiệp vẫn là nhà nước, cơ chế quản lý doanh nghiệp
cũng giống như DNNN. Có khác chăng là Nhà nước khoán cho doanh nghiệp một số
chỉ tiêu nào đó để doanh nghiệp chủ động tích cực trong hoạt động kinh doanh, trong
công tác quản lý. Vì vậy, quy định khoán doanh nghiệp cho các pháp nhân cá nhân cần
được nghiên cứu kỹ vì khi đó quyền của họ đối với bộ máy quản lý, người lao động và
quyền trong công tác quản lý tài chính của doanh nghiệp bị ràng buộc theo cơ chế
DNNN.
Tuy khoán toàn bộ hoạt động kinh doanh cho giám đốc nhưng nó chưa khác với
cho thuê doanh nghiệp.
- Cho thuê cần đấu thầu, các cá nhân và tập thể hội đủ một số tiêu chuẩn dự
thầu đều được tham gia đấu thầu, tính phương án kinh doanh do hội đồng xét thầu thuê
DNNN quyết định.
- Thời gian thuê phải dài hơn, có thể 5 - 10 năm hoặc đến 15 năm để người
trúng thầu thuê có điều kiện đầu tư, cải tạo công nghệ, thu hồi vốn đầu tư, nhưng
không khai thác hết sức DNNN khi hết hạn được thuê.
- Yêu cầu bảo toàn phát triển vốn không quá kiểm toán đánh giá tài sảnvà đưa
ra chỉ tiêu phát triển trung và dài hạn đối với công nghệ. Người trúng thầu có đủ thẩm
quyền cải tạo công nghệ trên cơ sở hợp đồng thuê đượcđánh giáđầyđủ và khách quan
việc thực hiện cam kết của hợp đồng có thể định kỳ đánh giá.
- DNNN cho thuê có thể không hoạt động theo luật doanh nghiệp nhà nước mà
theo luật công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần trong thời gian hạn thuê.
Giữa khoán kinh doanh và thuê DNNN có những điểm giống nhau trong việc
kích thích vật chất, khơi dậy động lực lao động sản xuất trực tiếp và lao động quản lý
của quần chúng, của chuyên gia...
IV.5.4. Giải pháp bán Doanh nghiệp nhà nước cho tập thể người lao động pháp
nhân và thể nhân ngoài doanh nghiệp
Đây cũng là giải pháp áp dụng cho loại DNNN nhỏ có vốn sở hữu nhà nước
dưới 1 tỷ đồng với giả định là tình hình tài chính lành mạnh, không đặt ra vấn đề thua
lỗ hoặc mức độ doanh lợi, cũng không nói đến tính cạnh tranh của sản phẩm và công
nghệ của số DNNN này. Do đó tiêu chí vốn Nhà nước sở hữu dưới 1 tỷ đồng đã quá
đơn giản hoá vấn đề phương thức bán toàn bộ doanh nghiệp, mặc dù có thể tách vấn đề
giá trị mặt bằng doanh nghiệp đang sử dụng ra khỏi vốn này. Cần nhấn mạnh tiêu chí
xếp DNNN vào diện bán là khả năng cạnh tranh kém, thua lỗ kéo dài không còn khả
năng cứu vãn, cần đầu tư vốn lớn mới có thể vực dậy hoặc chuyển hướng kinh doanh
doanh nghiệp và nhà nước chưa tìm được lối ra. Xử lý doanh nghiệp này bằng luật phá
sản bất lợi cho Nhà nước và người lao động hơn là bán doanh nghiệp qua đấu thầu đấu
giá. Với những DNNN như vậy thì không hạn chế bởi giới hạn vốn dưới 1 tỷ. Cần ưu
tiên bán cho tập thể cán bộ công nhân.
IV.5.5. Giao doanh nghiệp nhà nước cho tập thể người lao động tại doanh nghiệp
Thực chất là Nhà nước cho những người lao động trong doanh nghiệp số vốn
nhà nước tại doanh nghiệp này. Doanh nghiệp sau khi giao thuộc sở hữu của người lao
động, hoạt động theo luật doanh nghiệp hoặc luật hợp tác xã là do người lao động
quyết định. Vì giao không thu tiền nên việc định giá lại doanh nghiệp toàn bộ không
cần thiết. Nếu doanh nghiệp thấy cần, họ sẽ định giá lại sau khi nhận giao, phương án
sản xuất kinh doanh cũng là công việc của những chủ nhân mới của doanh nghiệp
quyết định theo quy định của Luật doanh nghiệp và luật hợp tác xã, cho nên việc bắt
buộc phải lập và trình phương án sản xuất kinh doanh trước khi giao cũng là không
cần thiết. Việc kiểm kê xác định lại giá trị doanh nghiệp lập phương án sản xuất trước
khi giao chỉ làm kéo dài thời gian, tốn thêm chi phí ảnh hưởng đến quyền lợi của
người lao động.
Vì vậy, đối với giao doanh nghiệp cho tập thể người lao động trong doanh
nghiệp, chỉ cần quy định điều kiện giao là tập thể lao động đồng ý nhận để tiếp tục sản
xuất, kinh daonh trong thời gian ít nhất là ba năm và bảo đảm việc làm cho toàn bộ lao
động hiện có. Căn cứ để giao là số liệu trên sổ sách kế toán và thực tế kiểm kê.
IV.6. Xác định rõ chức năng quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp Nhà nước.
Nhà nước xây dựng hoàn thiện khung pháp lý là và ban hành chính sách, cơ chế
quản lý đối với doanh nghiệp, nhà nước xây dựng quy hoạch và đào tạo đội ngũ cán bộ
chủ chốt cho DNNN, nhà nước tiến hành thanh tra kiểm tra việc chấp hành pháp luật,
chế độ quy định của nhà nước tại doanh nghiệp.
Kiên quyết chấm dứt tình trạng cơ quan hành chính nhà nước can thiệp trực tiếp
cụ thể vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Phải phân định quyền
quản lý hành chính về kinh tế của nhà nước và quyền quản lý sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
Cơ quan quản lý nhà nướ căn cứ vào pháp luật và yêu cầu quản lý mà ban hành
đồng bộ hệ thống văn bản pháp quy để thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với
doanh nghiệp.
IV.7. Phân định rõ quyền của cơ quan nhà nước thực hiện chức năng chủ sở hữu
đối với doanh nghiệp nhà nước
Cơ quan nhà nước với tư cách chủ sở hữu có quyền thành lập sáp nhập, chia
tách, giải thể, chuyển đổi sở hữu, ban hành điều lệ thưởng, kỷ luật các chức năng quản
lý chủ chốt, quyết định mục tiêu nhiệm vụ, chiến lược phát triển và kế hoạch trung dài
hạn của doanh nghiệp, phê duyệt các dự án đầu tư quy định nguyên tắc phân phối lợi
nhuận sau thuế, chính phủ thống nhất quản lý và tổ chức quyền của chủ sở hữu đối với
doanh nghiệp.
IV.8. Đào tạo và sử dụng hợp lý cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước
Nhà nước phải tiến hành đào tạo và sử dụng có hiệu quả độ ngũ cán bộ quản lý
DNNN trước hết là đội ngũ cán boọ chủ chốt tại doanh nghiệp trong cơ chế thị trường,
thực hiện được mục tiêu kế hoạch kinh doanh trong cơ chế thị trường, thực hiện được
mục tiêu kế hoạch sản xuất kinh doanh chăm lo cho đời sống người lao động và có lợi
nhuận phải coi giám đốc là một nghề để có chương trình bồi dưỡng đào tạo cho phù
hợp; cơ chế đãi ngộ thích hợp, để động viên khuyến khích, đồng thời cũng có các chế
tài chặt chẽ để xử lý những cán bộ quản lý doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả,
tham ô, tiêu cực.
Bên cạnh đó nhà nước cũng phải quan tâm đến đào tạo bồi dưỡng cho đội ngũ
cán bộ quản lý nhà nước đại diện cho chủ sở hữu quản lý doanh nghiệp để đảm bảo
thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ của mình và có đủ năng lực trình độ để quản lý
doanh nghiệp.
Kết luận
Kinh tế nhà nước có vai trò quyết định trong việc giữ vứng định hướng XHCN,
ổn định và phát triển kinh tế, chính trị xã hội của đất nước. Thành phần kinh tế Nhà
nướ ( DNNN ) phải không ngừng được đổi mới, phát triển và nâng cao vai trò chủ đạo,
nâng cao hiệu quả, giữ vị then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng
để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lược lượng nòng cốt trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Việc phân tích đánh giá những kết quả đạt được cũng như những tồn tại yếu
kém của DNNN nói riêng, kinh tế nhà nước nói chung trong thời gian qua. Tìm được
những nguyên nhân, xác định thách thức trong thời kỳ mới để từ đó có các giải pháp
cụ thể, không ngừng nâng cao hiệu quả, vị trí vai trò của thành phần kinh tế nhà nước
trong giai đoạn hiện nay. Đó là vấn đề nhạy cảm có liên quan đến sự ổn định và phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, chúng ta tin tưởng rằng công
cuộc đổi mới đất nước sẽ thành công, nền kinh tế của đất nước ta sẽ không ngừng ổn
định và phát triển. Thành phần kinh tế nhà nước sẽ ngày càng giữ vị trí xứng đáng và
có vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân: mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội
công bằng dân chủ văn minh mà Đảng ta đã vạch ra sẽ trở thành hiện thực trên đất
nước Việt Nam ta.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình kinh tế học chính trị - Mac Lê nin
NXB Chính trị Quốc gia1999
2. Kinh tế quốc doanh trong nền kinh tế thị trường
NXB Sự thật 1992
3. Các quy định mới về Doanh nghiệp Nhà nước
NXB Chính trị Quốc gia 1996
4. Chế độ mới về tài chính và cổ phần hoá Doanh nghiệph Nhà nước
NXB Tài chính 11 - 1996
5. Đổi mới tăng cường thành phần kinh tế nhà nước lý luận, chính sách, giải
pháp
GSTS. Vũ Đình Bách NXB Chính trị Quốc gia 2001
6. Cải cách Doanh nghiệp Nhà nước
NXB Chính trị Quốc gia1994
7. Tài liệu học tập lý luận chính trị phổ thông
Ban tư tưởng văn hoá Trung ương
NXB Chính trị quốc gia 1999
8. Chuyển đổi các doanh nghiệp nhà nước - Quản lý sự thay đổi Luật để trong
môi trường phi điều tiết
Barey Spicer - David Emanel - Michach Powell
Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương
Trung tâm thông tin tư liệu 1998
9. Doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường
Trung tâm thông tin tư liệu
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh 5 -1994
10. Văn kiện Đại hội Đảng VIII, IX
11. Các số " Tạp chí cộng sản năm 2001"
12. Các số Tạp chí Tài chính năm 1999, 2000, 2001
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Nâng cao vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước - cụ thể là các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế quốc dân.pdf