Đã xác định được một số giá trị sử dụng trực tiếp về kinh tế của quần thể
thực vật ngập mặn trong các hệ sinh thái RNM ven biển Hải Phòng như: làm thực
phẩm trong đời sống; dược liệu trong y học; cho tinh dầu; lấy gỗ và các sản phẩm
làm nhiên liệu đốt; làm cảnh và cho bóng mát; có giá trị rất lớn và là một trong
những nguồn thu nhập chính của người dân khu vực xung quanh. Các giá trị sử
dụng gián tiếp cũng được đề cập tới như: tích trữ và cung cấp nước, tích trữ cacbon,
các giá trị về du lịch sinh thái,
- Đã xác định được vai trò cũng như ý nghĩa sinh thái và bảo vệ môi trường
của quần thể thực vật ngập mặn ven biển Hải Phòng như: cung cấp thức ăn cho các
loài động vật, đặc biệt cho cácloài thủy sản; là nơi cư trú, nuôi dưỡng các loài động
vật, các loài thủy sản; góp phần duy trì bền vững năng suất thủy sản ven bờ, là nơi
cư trú nhiều loài động vật trên cạn; điều hòa khí hậu trong vùng, làm khí hậu dịu
mát hơn, giảm nhiệt độ tối đa và biên độ nhiệt, giúp hạn chế sự bốc hơi nước vùng
đất RNM, giữ ổn định độ mặn lớp đất mặt, hạn chế sự xâm nhập mặn vào đất liền;
có khả năng chắn sóng chắn bão vững chắc bảo vệ cư dân vùng ven biển, hạn chế
tác hại của gió bão; có tác dụng hạn chế xói lở và các quá trình xâm thực bờ biển.
103 trang |
Chia sẻ: ngoctoan84 | Lượt xem: 1232 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu tính đa dạng thực vật trong các hệ sinh thái rừng ngập mặn ven biển thành phố Hải Phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t sử dụng sẽ nhiều hơn số loài (115
lượt).
Số lượt loài cây làm thuốc (THU) với 62 lượt (53,91%), chiếm nhiều nhất;
tiếp theo là cây ăn được (AND) có 15 lượt (13,04%) và cây cho gỗ (LGO) có 14
lượt (12,17%); cây làm cảnh (CAN) có 11 lượt (9,57%); cây có các công dụng khác
như làm nhiên liệu đốt, cải tạo đất. (CDK) có 5 lượt (4,35%); cuối cùng cây cho
tinh dầu (CTD) và cây làm thức ăn gia súc (AGS) cùng có 4 lượt (3,48%), (theo dõi
bảng 7 phụ lục 1).
Hình 3.9. Biểu đồ tỷ lệ % lượt các nhóm giá trị sử dụng của các loài thực vật
ở RNM ven biển Hải Phòng
53.91
13.04 12.17
3.48
9.57
3.48 4.35
0
10
20
30
40
50
60
THU AND LGO CTD CAN AGS CDK
Giá trị sử dụng và bảo tồn
63
* Loài quí hiếm có giá trị bảo tồn trong hệ thực vật
Ở khu vực RNM ven biển Hải Phòng chỉ có 1 loài duy nhất (0,94%) quý
hiếm, bị đe dọa, có giá trị bảo tồn là loài Cỏ ngạn (Scirpus kimsonnensis N.K. Khoi)
vừa là loài đặc hữu Việt Nam có ở vùng ven biển nước mặn, vừa là loài có tên trong
Sách Đỏ Việt Nam (2007) vì có nguy cơ bị đe dọa tuyệt chủng, được xếp ở phân
hạng nguy cấp (EN) B1+2a,b,c,d. Đây là loài có giá trị làm thức ăn gia súc.
3.2. Vai trò và giá trị của tính đa dạng thực vật trong các hệ sinh thái
rừng ngập mặn ven biển thành phố Hải Phòng
3.2.1. Giá trị kinh tế của các loài cây ngập mặn và các quần thể thực vật
ngập mặn TP. Hải Phòng
Dựa theo kết quả nghiên cứu của Adger (1996) dể xác định sơ đồlượng giá
tổng giá trị kinh tế của hệ sinh thái rừng ngập mặn, luận văn đã xác định được sơ đồ
tổng giá trị kinh tế (TEV) của khu vực RNM ven biển Hải Phòng bao gồm giá trị sử
dụng trực tiếp, gián tiếp được thể hiện chi tiết như sau:
3.2.1.1. Giá trị sử dụng trực tiếp
a.Giá trị về cây thuốc và thực phẩm ăn được
Rừng ngập mặn cũng cung cấp nhiều cây thuốc dân gian để trịmột sốbệnh
thông thường như viêm ruột, đau bụng, viêm họng bị loét, chữa trị vết thương bị hở
miệng, cầm máuSởdĩ trong rừng ngập mặn có thể chữa được một số bệnh kể trên
là do trong vỏ cây, rễ và lá của một số loài thực vật ngập mặn như cây Giá
(Excoecaria agallocha Lour.), Quao nước (Dolichandrone spathacea L.f. Schum.),
Ô rô (Acanthus ilicifolius Linn.), Ráng (Acrostichum aureum L.), Cóc kèn (Deris
trifoliata Lour.)...cóchứa chất tanin, đây là chất có khả năng kháng khuẩn cao.
Những loài cây thuốc chữa bệnh hay bổ dưỡng cho con người (THU) có mặt
ở hầu hết các họ thực vật, nhiều nhất là nằm trong các họ như: Cúc (Asteraceae) 14
loài, Bông (Malvaceae) 5 loài, Cỏ roi ngựa (Verbenaceae) 9 loài, Hòa thảo
(Poaceae) 11 loài.
64
Ngoài ra đây cũng là nơi cung cấp nguồn thực phẩm khá dồi dào phong phú
với các loại rau củ quả có thể ăn trực tiếp hoặc thông qua chế biến như các loài có ở
các họ như: Cúc (Asteraceae) 5 loài, Rau dền (Amaranthaceae) 3 loài, Rau muối
(Chenopodiaceae) 2 loài, Nho (Vitaceae) 1loài.
Kết quả điều tra thu được có 15 hộtrên tổng số 20 hộđiều tra ở khu vực ven
biển huyện Tiên Lãng có sử dụng thực vật ngập mặn để điều trị bệnh, chủ yếu khai
thác các cây thuộc họ Cúc, Hòa thảo, ô rô, cây giá, chiếm 75%, và ước tính chi phí
khi điều trị các bệnh này bằng thuốc tây trung bình mỗi hộ phải chi trả 300.000
đồng/năm.
Vậy trong 20 hộ có 75% khai thác dược liệu, nên trong tổng số 60 hộ trên
toàn bộ khu vực RNM ven biển Hải Phòng thì có thể tính tương ứng 45 hộ tham gia
khai thác cây thuốc. Doanh thu thu được từ cung cấp dược liệu của khu vực RNM
ven biển Hải Phòng tạm tính trung bình hàng năm là:
45 hộ × 900.000 đồng/năm/hộ = 40.500.000 đồng/năm.
b. Giá trị lấy gỗ và các công dụng khác
Trước đây người dân xung quanh các khu vực RNM thường vào khai thác và
chặt phá các cây thực vật ngập mặn thân gỗ để làm củi đốt.Tuy nhiên trong những
năm trở lại đây, công tác bảo vệ rừng ngập mặn đã được sự quan tâm và quản lý của
chính quyền địa phương cùng với người dân nên hầu như việc chặt phá và khai thác
cây làm củi đốt được hạn chế.
Những loài cây cho gỗ xây dựng, đóng đồ đạc như trong Đước
(Rhizophoraceae) 4 loài, Vẹt dù, Trang,
Những loài cây có thể khai thác làm củi đốt hay một số công dụng khác
(giấy, cải tạo đất, ) có ở các họ như: họ Đậu (Fabaceae) 2 loài, Cỏ roi ngựa
(Verbenaceae) 2 loài (Sonneratiaceae) 3 loài, Hòa thảo (Poaceae) 3loài,
Những loài cây cho tinh dầu (CTD) có trong các họ như Cúc (Asteraceae) 7
loài, Cỏ roi ngựa (Verbenaceae) 4 loài, Cói (Cyperaceae) 2 loài,
65
Tuy nhiên, kết quả điều tra 15 hộ ở xã Phù Long huyện Cát Hải trên tổng số
60 hộ trên toàn bộ khu vực nghiên cứu thì có 4 hộ vào RNM khai thác gỗ, củi,
chiếm tỷ lệ 26,67%.Hay có thể tạm tính tương ứng trên toàn khu vực nghiên cứu là
16 hộ.
Theo kết quả ghi nhận được từ Ủy ban nhân dân xã Phù Long và ông
Nguyễn Văn Giàu – Ban Quản lý VQG Cát Bà, có khoảng 9 hộ vào khai thác củi tại
khu vực rìa ngoài VQG Cát Bà, chủ yếu các hộ này không chặt phá mà chỉ lượm
nhặt những cành cây gãy, và những cây đã chết nên được phép vào khai thác.
Ước tính doanh thu của một hộ vào tham gia khai thác củi Ở VQG Cát Bà
nói riêng và trên toàn thể khu vực nghiên cứu nói chung, trung bình là
2.960.000đồng/năm.Vậy giá trị củi đốt và các công dụng khác mà VQG Cát Bà
mang lại cho người dân khi vào khai thác hàng năm lên đến26.640.000 đồng/năm.
c. Giá trị làm cảnh
Hệ sinh thái rừng ngập mặn ven biển Hải Phòng ngoài cung cấp củi đốt,
dược liệu còn cung cấp cây cảnh. Kết quá điều tra thu được có 7 hộ trên 20 hộ khai
thác cây cảnh tại xã Phù Long huyện Cát Hải, ước tính giá trị cây cảnh mang về
trung bình mỗi hộ là 8.750.000 đồng/năm/hộ.
Những loài cây làm cảnh, cho bóng mát như trong các họ Náng
(Amaryllidaceae) 1 loài, Ráng thư dực (Thelypteridaceae) 1 loài, Bòng bong
(Schizaeaceae) 1 loài,
Tổng giá trị về cây cảnh của rừng ngập mặn Hải Phòng được khai thác trong
20 hộ thuộc khu vực xã Phù Long là: 61.250.000 đồng.
3.2.1.2. Giá trị sử dụng gián tiếp
Trong giá trị sử dụng gián tiếp của rừng ngập mặn ven biển Hải Phòng, có
giá trị điều hòa vi khí hậu, chắn sóng gió bão, giá trị hấp thụ bụi... Với những giá trị
này do trong thời gian ngắn, yêu cầu kỹ thuật phân tích và đánh giá phức tạp nên
luận văn chưa đánh giá được. Học viên chỉ mới xác định được giá trị về tích lũy
cacbon, du lịch sinh thái trên tinh thần tham khảo và ước tính.
66
a. Giá trị tích lũy cacbon
Để đánh giá về giá trị tích lũy cacbon, luận văn đã sử dụng kết quả nghiên
cứu về tổng cacbon tích lũy (tấn/ha/năm) hàng năm của rừng ngập mặn ven biển
thành phố Hải Phòng của Vũ Mạnh Hùng và các cộng sựnăm 2015.
Bảng 3.16. Tích luỹ cacbon hàng năm của RNM ven biển TP. Hải Phòng
Tên loài
Sinh khối trên
(tấn/ha)
Sinh khối dưới
(tấn/ha)
Tổng lượng Cacbon tích
lũy hàng năm
(tấn/ha/năm)
Đước vòi (Rhizophora
stylosa)
4,03 ± 0,31 2,38 ± 0,16 2,69 ± 0,19
Trang (Kandelia
Candel)
10,38 ± 0,55 5,63 ± 0,26 6,72 ±0,34
Bần chua (Sonneratia
caseolaris)
294,43 ± 24,67 114,16 ± 8,9 171,61 ± 14,1
Ghi chú: Giá trị trong bảng = giá trị trung bình ± SE với p < 0,05.
Nguồn Vũ Mạnh Hùng và cs, 2015
Tổng sinh khối cây được xác định bằng công thức: B = Wtop + WR. Trong đó:
Wtop là sinh khối trên mặt đất; WR là sinh khối dưới mặt đất.Tổng số sinh khối của
cây sẽ được chuyển đổi thành sinh khối cacbon trên cây với hằng số 0,42, điều đó
có nghĩa là tỉ lệ trung bình là lượng cacbon chiếm 42% tổng sinh khối cây [35].
Ta chỉ xét ởkhu vực rừng ngập mặn tự nhiên thì trong các loại cây ngập mặn
tại Hải Phòng, loài Đước vòi (Rhizophora stylosa)có thể coilà các loài chiếm ưu thế
hơn cả. Tạm tính theo bảng 3.16 ta có thể dùng tổng cacbon tích lũy (tấn/ha/năm)
của loài này để ước tính giá trị tích lũy cacbon của rừng ngập mặn tự nhiên ven biền
Hải Phòng (411 ha). Và để cắt giảm một đơn vị cacbon, cần tiêu phí 15,67 USD/1
tấn cacbon [35].
Giá trị tích lũy cacbon của rừng ngập mặn tự nhiên tại Hải Phòng tạm tính
với loài Đước vòi (Rhizophora stylosa)là: 2,69 tấn/ha/năm × 411 ha × 15,67 USD/1
tấn Cacbon = 17.324,59 USD. Chuyển đổi 1 USD = 22.875 đồng (tháng 6/2018), ta
thu được là 396.300.118 đồng.
67
b. Giá trị về du lịch sinh thái
Để xác định được giá trị du lịch của rừng ngập mặn ven biển Hải Phòng, theo
số liệu ghi nhận được từcán bộ địa phương và người dân một số khu vực, trung
bình có khoảng 300 người/tuần, thời gian để có thể tham quan du lịch là trong vòng
4 tháng từ tháng 4 tới tháng 7. Với mức giá của mỗi lượt khách phải chi trả là
200.000 đồng/lần.
Vậy ước tính giá trị về du lịch sinh thái rừng ngập mặn ven biển Hải
Phòngthu được là: 960.000.000 đồng/năm.
3.2.2. Ý nghĩa sinh thái, bảo vệ môi trường của các quần thể cây ngập mặn
trong vùng
Giống như hệ sinh thái các vùng ven biển nước ta, thực vật ngập mặn ở khu
vực ven biển Hải Phòng có tác dụng cùng tham gia vào hệ sinh thái rừng mưa nhiệt
đới, góp phần làm điều hoà khí hậu, tham gia kiến tạo, bảo vệ đất ven bờ, chống xói
mòn, hạn chế ảnh hưởng xấu của bão, góp phần bảo vệ tính mạng và tài sản của con
người. Do đặc thù của bộ rễ mà cây ngập mặn có thể góp phần tích cực vào quá
trình lấn biển, ém phèn nhờ khả năng giữ lại các trầm tích, phù sa. Khi chết đi, cây
ngập mặn có thể là nguồn thức ăn hữu cơ quan trọng cho các loài thuỷ sản. Rừng
ngập mặn là nơi cư trú, sinh trưởng và phát triển của nhiều loài hải sản có giá trị
kinh tế cao như cá, tôm, cua, các loài nhuyễn thể hai mảnh, chim di cư, bán di cư
Và cuối cùng, không thể không nhắc tới một tác dụng nữa, đó là rừng ngập mặn còn
góp phần làm sạch môi trường do có thể làm giảm hàm lượng kim loại nặng có
trong nước thải nội địa đổ ra vùng cửa sông, ven biển, đồng thời giữ gìn sự cân
bằng sinh thái tự nhiên cho những vùng đất bị ngập nước. Nhất là với ven bờ Vịnh
Lan Hạ, quá trình khai thác than đã rửa trôi rất nhiều kim loại, a xit, hoá chất độc
hại ra vịnh.
68
3.2.2.1. Rừng ngập mặn là nơi lưu trữ, cung cấp nguồn tài nguyên động thực
vật
a. Rừng ngập mặn là nơi cung cấp thức ăn cho các loài động vật, đặc biệt cho
các loài thủy sản
Hình 3.10. Vật rụng của RNM là thức ăn của các loài thủy sản
Vật rụng (lá, cành, chồi, hoa, quả) của cây RNM được các vi sinh vật phân
hủy thành mùn bã hữu cơ là nguồn thức ăn cho các loài thủy sản. Trong quá trình
phân hủy, lượng đạm trên các mẫu lá tăng 2 - 3 lần so với ban đầu (Kaushik và
Hynes, 1971).Rừng ngập mặn ven biển Hải Phòng cung cấp một lượng rơi khoảng
9,75 tấn/ha/năm; trong đó lượng rơi của lá chiếm 79,71% (Nguyễn Hoàng Trí,
1986).
b. Rừng ngập mặn là nơi cư trú, nuôi dưỡng các loài động vật, các loài thủy
sản
RNM không những là nguồn cung cấp thức ăn mà còn là nơi cư trú, nuôi
dưỡng con non của nhiều loài thủy sản có giá trị, đặc biệt là các loài tôm sú, tôm
biển xuất khẩu.
69
Trong vòng đời của một số lớn các loài cá, tôm, cua có một hoặc nhiều
giai đoạn bắt buộc phải sống trong các vùng nước nông, cửa sông có RNM.
Loài tôm thẻ (Penaeus merguiensis) có tập tính đẻ ở biển, cách xa bờ chừng
12km (Ong và cs., 1980), do tác động của dòng nước và thay đổi của nước triều,
sau khi trứng thụ tinh, ấu trùng chuyển vào vùng nước ven bờ, bơi dần vào cửa
sông theo nước triều lên, thường tìm những vùng nước nông có giá bám như bụi cỏ,
rễ cây, sau đó đi sâu vào kênh rạch RNM. Chúng sinh trưởng và phát triển ở đó
cho tới khi thành thục, thường từ 3 – 4 tháng.Ở giai đoạn trưởng thành thì chúng lại
bắt đầu di cư ra biển để đẻ. RNM ở đây vừa là nơi bảo vệ vừa là nơi nuôi dưỡng con
non.
Cá Đối (Mugil cephalus) cũng có tập tính đẻ ngoài biển, sau đó con non
theo nước triều đi vào kênh rạch RNM, thức ăn chủ yếu là mùn bã hữu cơ phân hủy
từ cây RNM. Người ta thường gặp từng đàn cá Đối, có khi với số lượng rất lớn
trong các kênh rạch RNM.
c. Rừng ngập mặn góp phần duy trì bền vững năng suất thủy sản ven bờ
Hệ sinh thái RNM được coi là hệ sinh thái có năng suất sinh học rất cao, đặc
biệt là nguồn lợi thủy sản. Ước tính trên mỗi hecta RNM năng suất hàng năm là
91kg thủy sản (Snedaker, 1975).
RNM bảo vệ rất có hiệu quả các đầm nuôi tôm, cua. Tháng 8 năm 1996, khi
cơn bão số 2 đổ bộ vào Thái Bình, các đầm tôm, đầm cua của Thụy Hải, Thụy Xuân
vàThụy Trường được bảo vệ tốt nhờ có RNM, trong lúc hầu hết các đầm ở Nam
Phú, Nam Thịnh, Nam Hưng thuộc huyện Tiền Hải đều bị sạt lở bờ, có một số đầm
vỡ bờ và người nuôi tôm mất hết vốn do RNM bị phá, Nghiên cứu của Mazda và
cộng sự (1997) ở xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình chỉ rõ vai trò của
RNM làm giảm độ cao của sóng biển, bảo vệ các bờ đầm nuôi thủy sản. Với dải
rừng Trang (Kandelia obvata) trồng 6 năm tuổi rộng 1,5km đã giảm độ cao của
sóng biển từ 1m xuống còn 0,05m khi vào bờ đầm nuôi Cua và bờ đầm nguyên
vẹn; trái lại nơi không có RNM sóng biển vào đến bờ cao 0,75m và bờ đầm xói lở.
70
Hình 3.11. RNM bảo vệ các đầm nuôi thủy sản
(Nguồn: Mazda và cộng sự, 1994)
d. Rừng ngập mặn là nơi cư trú của nhiều loài động vật trên cạn
RNM cũng là nơi lưu trú nhiều loài động vật quý hiếm như: Cá sấu nước lợ,
các loài chim nước, Khỉ đuôi dài RNM còn là nơi dừng chân của nhiều loài chim
di cư từ phương Bắc, tạo nên những sân chim có nhiều loài quý hiếm như: Cò mỏ
thìa, Bồ nông, Giang sen...
3.2.2.2. Rừng ngập mặn có vai trò sinh thái - môi trường vô cùng to lớn
a. Rừng ngập mặn và thực vật ngập mặn là lá phổi xanh
RNM điều hòa khí hậu trong vùng, làm khí hậu dịu mát hơn, giảm nhiệt độ
tối đa và biên độ nhiệt, giúp hạn chế sự bốc hơi nước vùng đất RNM, giữ ổn định
độ mặn lớp đất mặt, hạn chế sự xâm nhập mặn vào đất liền. RNM hấp thụ CO2, thải
ra O2 làm không khí trong lành, giảm hiệu ứng nhà kính. Rừng ngập mặn 1 năm
tuổi có thể hấp thụ 8 tấn CO2/héc ta/năm và khả năng hấp thụ của khí CO2 tăng
theo độ tuổi của cây rừng (Nguyễn Thị Hồng Hạnh, 2010).
b. Rừng ngập mặn và quần thể cây ngập mặn là quả thận xanh
71
Các dòng chảy từ nội địa - nơi có những khu công nghiệp, khu dân cư đông
đúc - mang theo nhiều chất thải trong sinh hoạt, y tế, công nghiệp, nông nghiệp
cùng với các hóa chất dư thừa khi qua vùng RNM ven biển được hệ rễ cây ngập
mặn có rất nhiều vi sinh vật phân hủy, biến chúng thành thức ăn cho hệ sinh vật ở
đây, làm trong sạch nước biển. Chính vì thế người ta đã ví RNM là quả thận khổng
lồ lọc các chất thải cho môi trường vùng ven biển.
c. Rừng ngập mặn là bức tường xanh vững chắc
Các hoạt động của con người trong sản xuất công nghiệp, trong giao thông
vận tải, do phá rừng đã làm cho lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính trong khí
quyển ngày càng tăng cao, làm biến đổi khí hậu. Trước thời kì cách mạng công
nghiệp năm 1750, lượng CO2 ổn định ở mức 0,028% nhưng hiện nay lượng CO2 đã
lên đến 0,0386% làm cho nhiệt độ Trái Đất ấm dần lên. Từ năm 1870 - 2004, mực
nước biển đã tăng 19,5cm; với tốc độ tăng đặc biệt nhanh trong vòng 50 năm gần
đây. Ủy ban liên Chính phủ về Biến đổi Khí hậu (The Intergovernmental Panel on
Climate Change (IPCC)) của Liên Hợp Quốc đã cảnh báo mực nước biển trên toàn
cầu đang tăng nhanh và có thể tăng thêm 34cm trong thế kỉ này. Theo báo cáo của
Bộ Tài nguyên - Môi trường ngày 20-8- 2009, 50 năm qua, nhiệt độ trung bình ở
Việt Nam đã tăng khoảng 0,5 - 0,70C, mực nước biển đã dâng khoảng 20cm.
Biến đổi khí hậu làm tăng cường độ, tần số bão và lũ lụt. Mỗi năm trung bình
có khoảng 6 cơn bão đổ bộ vào vùng biển Việt Nam. Trong giai đoạn gần đây với
sự biến đổi của khí hậu nói chung và trong hoạt động của bão nói riêng cho thấy
bão và áp thấp nhiệt đới xuất hiện trong khu vực Việt Nam có xu thế tăng lên và
dịch chuyển dần từ Bắc vào Nam theo thời gian và gây ra nhiều tác hại.
Khi những cơn bão lớn đổ bộ vào nước ta, nơi nào RNM được trồng và bảo
vệ tốt thì các đê biển vùng đó vẫn vững vàng trước sóng to gió lớn, dù là đê biển
được đắp từ đất nện; trong khi những tuyến đê biển được xây dựng kiên cố bằng bê
tông hoặc kè đá nhưng RNM bị chặt phá để chuyển sang nuôi tôm như ở Cát Hải
(Hải Phòng) thì vẫn bị phá tan vỡ.
72
d. Mở rộng diện tích đất bồi, hạn chế xói lở
Sự phát triển của RNM và mở rộng diện tích đất bồi là hai quá trình luôn đi
kèm nhau.Ở những vùng đất mới bồi có độ mặn cao có các thực vật tiên phong là
loài Mấm trắng, Bần đắng; vùng cửa sông với độ mặn thấp hơn có Bần chua, Mấm
trắng. Rễ cây ngập mặn, đặc biệt là quần thể thực vật tiên phong mọc dày đặc có tác
dụng làm cho trầm tích bồi tụ nhanh hơn, vừa ngăn chặn tác động của sóng biển,
giảm tốc độ gió, vừa làm vật cản cho trầm tích lắng đọng. RNM còn có tác dụng
hạn chế xói lở và các quá trình xâm thực bờ biển.
3.3. Các giải pháp sử dụng hợp lý, bảo tồn và phát triển bền vững các hệ
sinh thái rừng ngập mặn tại thành phố Hải Phòng
3.3.1. Các nguyên nhân gây suy giảm đa dạng thực vật ngập mặn và một
số bất cập trong công tác bảo tồn các hệ sinh thái rừng ngập mặn
3.3.1.1. Một số nguyên nhân gây suy giảm đa dạng thực vật ngập mặn ven
biển thành phố Hải Phòng
a. Bão, triều cường đã và đang làm mất diện tích bãi bồi, RNM
Dưới tác động của các cơn bão trong năm 2013 đã làm thay đổi đáng kể vị
trí, địa hình của các hệ sinh thái rừng ngập mặn. Hoạt độngkiểm tra, thống kê thiệt
hại sau bão cho thấy khu vực bãi bồi và hệ sinh thái rừng rừng ngập mặn ở khu vực
Tiên Lãng đã bị mất một phần, với chiều dài là 2,9km, chiều rộng từ 15 – 30 m.
Diện tích rừng ngập mặn bị mất là 6,23 ha, phần lớn các cây Đước vòi có đường
kính, chiều cao lớn bị đổ, gãy.
Sự xâm thực của biển kết hợp triều cường và sóng lớn đã làm cho dải bãi bồi
ở khu vực Tiên Lãng bị chia cắt.Một cửa Nứt mới được hình thành tại khu vực này
với chiều ngang của bãi khoảng gần 100m. Điều này đã và đang làm xói lở diện tích
rừng ngập mặn ở phía đông của bãi Nứt mới, một phần diện tích bị cát biển xâm lấn
do sóng biển và triều cường đẩy vào đã bị chết. Hiện tượng này đang tiếp diễn, xâm
thực sâu vào phía trong dải rừng ngập mặn và có nguy cơ làm cho diện tích rừng
ngập mặn tại khu vực bị chết dần.
73
Sự xâm thực của biển kết hợp triều cường và sóng biển đã làm cho một phần
diện tích rừng ngập mặn thuộc phân khu phục hồi sinh thái (thuộc địa giới hành
chính của huyện Tiên Lãng) bị chết. Ghi nhận diễn biến tài nguyên rừng ngập mặn
do sóng xâm thực ngày 23/8/2016 đã xác định có 2,5 ha rừng ngập mặn trong khu
vực bị chết và 1,5 ha bị cát xâm lấn và đang có dấu hiệu chết lan ra các khu vực
xung quanh. Đợt khảo sát tháng 7/2018 cho thấy hiện tại có khoảng 500m rừng
ngập mặn thuộc khu vực má này đã và đang bị triều cường, sóng biển xâm thực.
Ảnh 3.11. Diện tích rừng ngập mặn bị chết do biển xâm lấn kết hợp với triều
cường (Nguồn Ngô Đình Quế)
b. Rét đậm, rét hại khiến một số cây ngập mặn bị suy thoái và chết
Năm 2013, tại khu vực phía Bắc diễn ra đợt rét đậm, rét hại kéo dài đã khiến
cho cây Bần chua – một loài cây ngập mặn có sinh khối lớn, sinh trưởng và phát
triển mạnh tại khu vực - bị suy thoái dần và chết. Biểu hiện ban đầu là toàn bộ lá
của các cây này bị rụng hoàn toàn, với các cây bị sâu bệnh hoặc sống trong điều
kiện gây trồng khó khăn thì không có khả năng phục hồi. Cành, thân sẽ bị hoại mục
dần và cây chết.Với những cây có khả năng phục hồi thì khả năng sinh trưởng và
phát triển cũng bị hạn chế.Kết quả thống kê cho thấy, sau đợt rét đậm, rét hại năm
2013 đã làm cho> 100 cây Bần chua trong khu vực bị chết.Phần lớn cây Trang
trồng thuần loài bị khô, chết ngọn (khoảng 50 – 80 cm từ ngọn cây xuống).Sau khi
phần ngọn này bị khô và gẫy thì cây sẽ mọc những chồi nhỏ xung quanh và tạo ra
những tầng tán mới. Nguyên nhân ban đầu của hiện trạng này có thể là do rét đậm,
74
rét hại kéo dài, còn với các cây Trang trong vùng đệm thì phần lớn nguyên nhân là
do bão làm gẫy ngọn, cành.
Ảnh 3.12. Cây Bần chua bị rụng lá, chết do rét đậm, rét hại ở Lập Lễ, Thủy
Nguyên (Nguồn học viên)
c. Hà bám khiến rừng ngập mặn sinh trưởng và phát triển kém
Do khu vực rừng ngập mặn xã Bàng La, Đồ Sơn giáp biển nên có độ mặn
cao khiến cho Hà phát triển mạnh và bám dầy đặc vào thân cây. Đây chính là
nguyên nhân khiến cho rừng ngập mặn tại khu vực này phát triển rất kém, cây thấp,
phân cành sớm và còi cọc, ảnh hưởng rất lớn tới chức năng phòng hộ của rừng.
Khảo sát sơ bộ cho thấy, diện tích rừng ngập mặn bị Hà bám khoảng 40 ha.
Ảnh 3.13. Cây ngập mặn bị Hà bám ở Bàng La, Đồ Sơn (Nguồn học viên)
d. Áp lực từ việc tăng dân số
Trong quá trình thực tế tại khu vực xã Phù Long, có gần 1/2 hộ gia đình
trong vùng đệm có sinh kế phụ thuộc gián tiếp và trực tiếp vào tài nguyên đất ngập
nước trong khu vực VQG Cát Bà. Trong nhóm cộng đồng này, đại đa số là tham gia
75
khai thác trực tiếp và phụ thuộc trực tiếp nguồn lợi thủy sản, còn các hình thức gián
tiếp cung cấp dịch vụ chỉ thu hút khoảng 6% hộ. Trong các hình thức khai thác trực
tiếp thì đáng lưu ý nhất là hoạt động khai thác tự do thủ công (hơn 40%). Đây chính
là nhóm đối tượng đang tác động trực tiếp tới hệ sinh thái rừng ngập mặn trong khu
vực. Việc cộng đồng tự do vào trong vùng lõi để đánh bắt thủy hải sản đã và đang
làm cho các cây mạ, cây con tái sinh của rừng ngập mặn bị gẫy và chết khiến cho
việc tái sinh tự nhiên của rừng ngập mặn trong khu vực bị ảnh hưởng. Mặt khác,
một số cộng đồng địa phương thiếu ý thức thường chặt cây ngập mặn mang về nhà
làm nguyên liệu đốt phục vụ gia đình.
Ảnh 3.14. Người dân khai thác thủy, hải sản trong RNM (Nguồn học viên)
e. Thay đổi phương thức sử dụng mặt nước, bãi triều
Hoạt động chuyển đổi đất rừng ngập mặn thành đầm nuôi tôm (quảng canh,
quảng canh cải tiến) ở vùng lõi và vùng đệm VQG Cát Bà đã làm phân mảnh hệ
sinh thái RNM, đồng thời giảm diện tích RNM. Theo dẫn liệu của Phan Nguyên
Hồng, Phan Thị Anh Đào (2007) chỉ ra rằng diện tích RNM trưởng thành trong hơn
12 năm đã giảm từ 1.412,91 ha xuống còn 402,95 ha (giảm 71,4%). Trong khi đó
diện tích đầm nuôi tôm lại tăng vọt từ 415,27 ha lên 2743,6 ha (tăng 660,9%) năm
1998 [24].
Ở thời điểm năm 2014 ghi nhận có tới 180 ha diện tích đầm tôm nằm trong
khu vực vùng lõi của Vườn quốc gia Cát Bà (56 ha nằm trong phân khu bảo
vệnghiêm ngặt).Việc một phần diện tích đầm tôm nằm trong khu vực vùng lõi đã
khiến cho cảnh quan trong khu vực bị phá vỡ, hệ sinh thái rừng ngập mặn bị phân
76
mảnh và đây cũng là yếu tố làm cho đa dạng sinh học của khu đất ngập nước bị suy
giảm.
Trong mấy năm trở lại đây, do môi trường ô nhiễm, năng suất nuôi tôm theo
hình thức quảng canh giảm nên nhiều chủ đầm đã tự động chặt phá cây rừng ngập
mặn, đưa phương tiện cơ giới, máy móc vào để chuyển đổi sang mô hình nuôi ngao
giống và tôm công nghiệp đã khiến cho đa dạng sinh học bị ảnh hưởng, số lượng cá
thể loài giảm, cảnh quan môi trường bị phá vỡ và bãi kiếm ăn của các loài chim
nước di trú quý hiếm bị mất.
3.3.1.2. Một số bất cập trong công tác bảo tồn các hệ sinh thái rừng ngập
mặn ven biển TP. Hải Phòng
Mặc dù nước ta đã có một số thành tựu trong việc phục hồi RNM nhưng việc
bảo vệ các rừng đó đang gặp một số trở ngại, do các nguyên nhân: Nhà nước chưa
ban hành một văn bản cụ thể nào về quản lý RNM mà chỉ có những chủ trương,
chính sách chung về việc bảo vệ, phát triển rừng, do đó khi vận dụng vào từng địa
phương ven biển gặp nhiều khó khăn.
Bên cạnh đó, thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp chính quyền liên quan
trong việc quản lý và lập kế hoạch sử dụng đất cũng như nguồn tài nguyên thiên
nhiên cho các vùng ven biển, bãi bồi; Một số địa phương vận dụng sai lệch chính
sách của Nhà nước trong việc sử dụng đất bồi mặt nước ven biển, không quan tâm
đúng mức đến việc trồng, bảo vệ rừng phòng hộ mà chỉ coi RNM là vùng đất ngập
nước ít giá trị nên đã phá một số RNM để mở rộng diện tích nuôi tôm.
Ngoài ra, một số cán bộ chính quyền địa phương có hiểu biết hạn chế về vai
trò của hệ sinh thái RNM do đó các kế hoạch sản xuất đều được phát triển nhắm tới
lợi ích trước mắt mà không quan tâm những tác động xấu và lâu dài tới môi trường
và tài nguyên khi không còn rừng; Trong việc thi hành các chính sách của Nhà nước
về chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, một số chính quyền địa phương chỉ muốn
chuyển đổi RNM, thậm chí một phần của rừng bảo tồn thành đầm tôm phục vụ cho
mục đích xuất khẩu.
77
Một số đề án trồng RNM của các tổ chức phi chính phủ đã hết thời hạn hỗ
trợ kinh phí, khi giao lại cho địa phương do không đủ kinh phí để tổ chức bảo vệ,
nên rừng lại tiếp tục bị chuyển đổi sang mục đích kinh tế khác.
3.3.2. Các giải pháp nhằm bảo tồn đa dạng thực vật các hệ sinh thái rừng
ngập mặn tại TP. Hải Phòng
3.3.2.1. Các giải pháp chung về bảo tồn các hệ sinh thái rừng ngập mặn
Cần xây dựng quy hoạch tổng thể sử dụng các vùng RNM, tiến hành khảo sát
và nghiên cứu chi tiết về tình trạng RNM, diện tích ao nuôi tôm, diện tích đất lở, đất
bồi ở tất cả các tỉnh ven biển có RNM thông qua ảnh vệ tinh, ảnh máy bay và
nghiên cứu thực địa. Các kết quả nghiên cứu sẽ là cơ cở khoa học cho quy hoạch
tổng thể sử dụng đất và tài nguyên một cách hợp lý và bền vững ở các vùng ven
biển.
Nghiên cứu phát triển các ngành nghề nuôi trồng thủy sản ở các vùng ven
biển như nuôi sò, nuôi vạng hoặc các loài cá có giá trị kinh tế cao để dần dần thay
thế nghề nuôi tôm ở các vùng RNM.Cũng cần thiết phải cải thiện cơ cấu và đa dạng
hóa nuôi trồng thủy sản để đáp ứng nhu cầu khắt khe của thị trường và giảm thiểu
nguy cơ bệnh dịch.
Xem xét, đánh giá nguồn tài nguyên kinh tế và các tác động tới môi trường
của một số mô hình lâm ngư kết hợp nhằm phát huy những thành tựu và rút ra
những bài học kinh nghiệm. Cần tiếp tục xây dựng các mô hình nuôi tôm kết hợp
bảo vệ RNM...
Giới thiệu về RNM và giáo dục bảo vệ nguồn lợi động vật biển cần trở thành
một phần trong giáo dục giảng dạy ở tất cả các bậc học; Tổ chức các khóa đào tạo
về vai trò của hệ sinh thái RNM trong tiến trình phát triển kinh tế và bảo tồn tự
nhiên cho các nhà quản lý địa phương và cán bộ nòng cốt từ các phòng ban lâm
nghiệp và thủy sản.
78
Lập ra các công cụ chính sách rõ ràng và các quy định sử dụng một phần lợi
nhuận thu được từ kinh doanh các sản phẩm tôm đông lạnh (thông qua hàng rào
thuế quan) cho việc phục hồi rừng.
Áp dụng các chính sách khả thi nhằm hạn chế tốc độ tăng dân số và kế hoạch
hóa dân số cho mỗi vùng RNM. Đồng thời, đẩy mạnh việc giao đất và giao rừng
cho các hộ chịu trách nhiệm trồng và bảo vệ rừng.Các chính sách lâu dài về sử dụng
bãi bồi ven biển cần phải được quy định rõ ràng nhằm ứng phó với tình trạng
chuyển đổi đất rừng sang sử dụng vào mục đích không thích hợp và bảo vệ quyền
lợi của người nghèo.
3.3.2.2. Đề xuất cơ chế chính sách và giải pháp cụ thể
a. Quy hoạch sử dụng đất, rừng ngập mặn
- Cần xây dựng quy hoạch tổng thể về RNM trong phạm vi toàn quốc, làm
cơ sở xây dựng với chương trình, kế hoạch khôi phục và phát triển hệ sinh thái
RNM.
- Việc quy hoạch sử dụng đất đai, quy hoạch 3 loại rừng cần có sự phối hợp
chặt chẽ giữa các nghành: Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Tài nguyên – Môi
trường và Thủy sản.
- Rà soát và quy hoạch ổn định cho các ngành chủ yếu sử dụng đất ngập mặn
ven biển có liên quan là xây dựng đê điều, trồng và bảo vệ rừng ngập mặn, nuôi
trồng thủy sản. Phải coi đây là quy hoạch liên ngành và phải được nhà nước chấp
nhận về pháp lý, cắm mốc trên thực địa, có biển báo,
- Cần chọn 1 số rừng ngập mặn điển hình cho từng vùng sinh thái làm khu
bảo tồn các nguồn gen thực vật và động vật vùng triều và dự trữ thiên nhiên, có thể
kêt hợp trong việc chọn khu bảo tổn RNM với địa điểm du lịch và giáo dục hoặc tổ
chức nơi du lịch thuận lợi để thu hút du khách trong và ngoài nước.
- Tăng cường công tác quản lý quy hoạch sử dụng đất, rừng ngập mặn, cần
phải có giải pháp dự phòng hạn chế tối đa ảnh hưởng bất lợi của các hoạt động xây
dựng cơ sở hạ tầng, phát triển du lịch, đê biển, đến các hoạt động bảo vệ, khôi
phục và phát triển bền vững. Nghiêm cấm việc lấn chiếm rừng và đất quy hoạch cho
79
lâm nghiệp để nuôi trồng thủy sản, xử lý nghiêm khắc những trường hợp sử dụng
đất không đúng mục đích làm tổn hại đến rừng. Những diện tích sử dụng không
đúng quy định cần thu hồi và xử lý nghiêm khắc. Nơi nào nuôi tôm không hiệu quả,
cương quyết lấy lại để trồng rừng, tạo môi trường sống lâu dài cho hải sản.
- Đối với bãi bồi ven biển, các địa phương nên có chủ trương phát triển rừng,
lấn biển; nên giao cho cơ quan, chuyên ngành quản lý từ đầu, không nên giao cho
chính quyền cấp xã quản lý, dân sẽ tự ý khoanh nuôi thủy sản, ảnh hưởng sự phát
triển của rừng khi bãi bồi ổn định.
- Quy định về tỷ lệ rừng và tôm: hiện tại các tỉnh vận dụng tỷ lệ diện tích
rừng và diện tích nuôi trồng thủy sản khác nhau, nên quy định một tỷ lệ diện tích
bảo đảm tốt môi trường trong vùng rừng ngập mặn, bảo vê và nâng cao năng suất
nuôi trồng thủy sản. Tỷ lệ này phụ thuộc vào bối cảnh tự nhiên, nhu cầu của người
dân cũng như chiến lược phát triển rừng.
b. Giao, cho thuê, khoán rừng và đất nông nghiệp
- Tiếp tục giao đất, giao RNM cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư
đối với diện tích rừng và đất RNM chưa có chủ quản lý cụ thể, hiện UBND cấp xã
hoặc kiểm lâm đang chịu trách nhiệm quản lý về mặt nhà nước.
- Đối với diện tích đât và RNM chưa có chủ quản lý cụ thể, UBND cấp xã
cần xây dựng phương án tiếp tục giao đất, giao rừng cho hộ gia đình, cá nhân, cộng
đồng dân cư địa phương. Vùng có đất và nguồn lợi RNM tốt, phong phú chủ yếu
giao đến hộ gia đình hoặc nhóm hộ. Vùng có đất và nguồn lợi RNM thấp, nghèo,
phân tán hoặc có tác dụng phòng hộ cục bộ 1 thôn xã thì nên giao cho cộng đồng
địa phương đó, khi giao chỉ cần làm rõ ranh giới các loại rừng trên thực địa và bản
đồ đến từng lô, xác định được hiện trạng rừng.
- Rà soát và triển khai việc giao khoán đất rừng sản xuất và đất mặt nước
nuôi trồng thủy sản trong các nông lâm trường quốc doanh theo nghị định
135/2005/NĐ-CP ngày 8/11/2005 và thông tư 102/2006/TT-BNNPTNT ngày
13/11/2006.
80
- Thực hiện đấu thầu trong RNM để tạo tính cạnh tranh cao, giảm giá thành,
đấu thầu các bãi bồi ven biển để trồng rừng, chú ý ưu tiên đối với người dân địa
phương có điều kiện đầu tư.
c. Đầu tư, tín dụng
- Nhà nước chỉ nên đầu tư vào việc gây trồng, bảo vệ RNM thuộc loại rừng
đặc dụng và phòng hộ. Tăng suất đầu tư theo hướng thâm canh cao trên vùng sinh
thái, lập địa có vấn đề, đầy rủi ro nhưng rất quan trọng với bảo vệ môi trường và
phòng chống thiên tai.
- Tổ chức, hộ gia đình được giao đất trồng để trồng rừng sản xuất được vây
vốn với lãi suất ưu đãi (khoảng 5% năm), thời hạn vay trên 10 năm, trả tiền vay gốc
và lãi khi có sản phẩm chính; được vay 100% nhu cầu vốn đầu tư trên cơ sở tính
đúng, tính đủ theo định mức KTKT hiện hành.
- Huy động vốn đầu tư tái tạo RNM từ các nguồn lực khác.
- Nhà nước cần có chính sách thu hút các tổ chức quốc tế thuộc Chính phủ và
phi chính phủ đầu tư phát triển RNM theo hướng ưu đãi về thuế, tiền thuê
đất,Kêu gọi tổ chức quốc tế hỗ trợ phục hồi rừng ở một số vùng trọng điểm ven
biển.
- Có chính sách, quy chế rõ ràng về việc dành một phần nguồn lợi thủy sản
(qua biểu thuế) để đầu tư tái tạo RNM.
- Tăng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng từ 10 – 15% đến 20 – 25% tổng vốn
nhất là vùng diện tích đầu tư RNM không lớn để có điều kiện quản lý bảo vệ và
phát triển RNM tốt hơn.
d. Khoa học công nghệ và khuyến lâm
- Cần nghiên cứu, đánh giá bổ sung, sửa đổi và ban hành quy trình, quy
phạm lâm sinh cho đối tượng RNM phù hợp với từng vùng sinh thái. Cần có quy
trình chăm sóc, điều chế rừng phù hợp với cấp tuổi, cấp đất và điều kiện sinh thái
cho từng loại thực vật ngập mặn.
81
- Về cơ cấu cây trồng: chọn loài cây trồng thích hợpvới vùng sinh thái của
các địa phương và trồng rừng và trồng rừng bằng cây con có bầu, đủ lớn để có thể
sống được ở vùng ngập triều sâu.
- Áp dụng kỹ thuật trồng thâm canh, xây dựng rừng giống, chọn giống và
quy trình kỹ thuật trồng cho những cây trồng chính ngoài Đước như Mắm, Bần, Sú,
Vẹt dù, Trang,
- Chuyển hóa rừng thuần loài thành rừng hỗn loài, trồng rừng hỗn loài tạo
rừng 2 – 3 tầng nhằm nâng cao hiệu quả chắn song, cố định đất, phòng chống thiên
tai, bảo vệ môi trường.
- Cải thiện giống cây trồng RNM: hướng dẫn và chuyển giao kỹ thuật các mô
hình sản xuất có hiệu quả trong vùng RNM.
- Phát triển các hình thức lâm ngư kết hợp trên đất và RNM: hướng dẫn kỹ
thuật đối với người nuôi trồng thủy sản để chuyển từ nuôi tôm quảng canh thô sơ
sang nuôi quảng canh cải tiến nhằm đạt sản lượng cao, ổn định, đồng thời vẫn đảm
bảo RNM sinh trưởng tốt.
- Tổ chức tập huấn cho người lao động, phổ biến và hướng dẫn kỹ thuật lâm
sinh về trồng, chăm sóc và bảo vệ RNM kết hợp với kinh nghiệm cổ truyền. Phổ
biến mô hình lâm ngư kết hợp có hiệu quả cao, kỹ thuật trồng cây ngập mặn vẫn
sinh trưởng tốt mà thủy sản vẫn đạt năng suất cao và ổn định.
e. Hoàn thiện tổ chức quản lý RNM
- Củng cố hệ thống quản lý nhà nước về RNM ở các cấp tỉnh, huyện, xã;
thực hiện chức năng quản lý rừng và đất nông nghiệp theo quyết định 07/2012/QĐ-
Ttg ngày 8/2/2012 của Thủ tướng Chính phủ; tăng cường phối hợp liên ngành trong
việc quản lý, sử dụng, khôi phục phát triển RNM.
- Cần sớm có tổ chức thống nhất và hoàn chỉnh hệ thống quản lý nhà nước về
RNM ven biển ở các cấp địa phương trong phạm vi toàn quốc; thực hiện chức năng
quản lý rừng và đất lâm nghiệp theo quyết định số 07/2012/QĐ-Ttg của Thủ tướng
Chính phủ.
82
- Tăng cường phối hợp liên ngành trong quản lý, sử dụng, khôi phục phát
triển RNM ven biển. Phân công rõ trách nhiệm giữa các ngành liên quan và có cơ
chế phối hợp rõ ràng.
- Tăng cường tiềm lực cho lực lượng kiểm lâm như nhân lực, trang thiết bị
và phương tiện trong quản lý bảo vệ RNM.
- Hình thành, củng cố và mở rộng hệ thống chủ rừng trong vùng RNM.
- Củng cố duy trì hoặc thành lập mới (nếu đủ điều kiện). Ban quản lý RNM
ven biển cấp cơ sở trực thuộc Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn có nhiệm vụ
chính là quàn lý, bảo vệ, khôi phục và phát triển RNM nói chung và đa dạng thực
vật ngập mặn nói riêng.
- Huy động sự tham gia của người dân thông qua thực hiện giao đất, giao
rừng cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư địa phương sử dụng ổn định lâu
dài vào mục đích lâm nghiệp.
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần ban hành kế hoạch hành động
quốc gia về quản lý RNM và các cơ chế chính sách thích hợp với việc quản lý bền
vững RNM.
f. Giải quyết vấn đề kinh tế - xã hội trong vùng RNM
- Rà soát, quy hoạch lại dân cư ven biển, hạn chế di cư tự do trong vùng
RNM vì nguồn lợi về nuôi tôm ở vùng RNM lớn đã thu hút một số lao động từ
nhiều nơi đến phá rừng để nuôi tôm; mặt khác, nhiều người dân đã bỏ nghề truyền
thống để làm tôm quảng canh, dẫn đến tình trạng phân tán ngày càng tăng, nếu để
tình trạng này kéo dài thì rừng sẽ tiếp tục bị tàn phá, nguồn thủy hải sản giảm sút và
dẫn đến suy giảm đa dạng thực vật ngập mặn.
- Đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống trong vùng RNM, tạo
công ăn việc làm cho người lao động địa phương nhằm giảm sức ép phá rừng ngập
mặn và khai thác quá mức các tài nguyên như thủy hải sản, động thực vật ngập
mặn.
83
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
- Đã xác định được tại khu vực RNM ven biển Hải Phòng 106 loài thực
vậtthuộc 88 chi, 40 họ, thuộc 2 ngành Dương xỉ và Hạt kín. Ngành Hạt kín chiếm
ưu thế hoàn toàn với 93,40% số loài toàn khu vực nghiên cứu.
- Hệ thực vật bậc cao có mạch của RNM ven biển Hải Phòng đặc trưng bởi
yếu tố châu Á nhiệt đới chiếm tỷ lệ cao nhất 26,21%; tiếp đến là yếu tố tân nhiệt đới
và liên nhiệt đới chiếm 16,50%; yếu tố cổ nhiệt đới chiếm 13,59%; đặc hữu Việt
Nam chiếm 1,94% với 2 loài cùng các yếu tố Đông Á và yếu tố Maylaysia -
Indonesialà những yếu tố có tỷ lệ thấp nhất.Trong đó chỉ có 2 loài mang yếu tố đặc
hữu Việt Nam là Cỏ Ngạn (Scirpus kimsonnensis N.K. Khoi), Quả nổ (Ruellia
tuberosa L.).
- Đã xác định được 11 nhóm cây tài nguyên với 75 loài thực vật có giá trị sử
dụng, số lượt loài cây làm thuốc với 62 lượt (53,91%), chiếm nhiều nhất; tiếp theo
là cây ăn được có 15 lượt (13,04%) và cây cho gỗ có 14 lượt (12,17%); cây làm
cảnh có 11 lượt (9,57%); cây có các công dụng khác như làm nhiên liệu đốt, cải tạo
đất, có 5 lượt (4,35%); cuối cùng cây cho tinh dầu và cây làm thức ăn gia súc
cùng có 4 lượt (3,48%).Tại RNM ven biển Hải Phòng chỉ có duy nhất một loài quí
hiếm có giá trị bảo tồn là loài Cỏ ngạn (Scirpus kimsonnensis N.K.Khoi).Đây vừa là
loài đặc hữu Việt Nam, vừa có tên trong Sách Đỏ Việt Nam và được xếp hạng nguy
cấp (EN).
- Đã xác định được 4 quần xã thực vật ngập mặn đặc trưng ở khu vực RNM
ven biển Hải Phòng và mô tả cấu trúc, xác định sinh khối của 4 quần xã này.
+ Quần xã Trang thuần loài (OTC01) có mật độ là 6.275 cây/ha và sinh khối
là 15,23 tấn/ha.
+ Quần xã Đước vòi thuần loài (OTC02) có mật độ là 2.650 cây/ha và sinh
khối là 6,34 tấn/ha.
84
+ Quần xã Trang – Bần chua (OTC03) có mật độ là 4.650 cây/ha, sinh khối
là 127,575 tấn/ha.
+ Quần xã Bần chua thuần loài (OTC04) có mật độ là 1.050 cây/ha và sinh
khối là 118,1 tấn/ha.
- Đã xác định được một số giá trị sử dụng trực tiếp về kinh tế của quần thể
thực vật ngập mặn trong các hệ sinh thái RNM ven biển Hải Phòng như: làm thực
phẩm trong đời sống; dược liệu trong y học; cho tinh dầu; lấy gỗ và các sản phẩm
làm nhiên liệu đốt; làm cảnh và cho bóng mát; có giá trị rất lớn và là một trong
những nguồn thu nhập chính của người dân khu vực xung quanh. Các giá trị sử
dụng gián tiếp cũng được đề cập tới như: tích trữ và cung cấp nước, tích trữ cacbon,
các giá trị về du lịch sinh thái,
- Đã xác định được vai trò cũng như ý nghĩa sinh thái và bảo vệ môi trường
của quần thể thực vật ngập mặn ven biển Hải Phòng như: cung cấp thức ăn cho các
loài động vật, đặc biệt cho cácloài thủy sản; là nơi cư trú, nuôi dưỡng các loài động
vật, các loài thủy sản; góp phần duy trì bền vững năng suất thủy sản ven bờ, là nơi
cư trú nhiều loài động vật trên cạn; điều hòa khí hậu trong vùng, làm khí hậu dịu
mát hơn, giảm nhiệt độ tối đa và biên độ nhiệt, giúp hạn chế sự bốc hơi nước vùng
đất RNM, giữ ổn định độ mặn lớp đất mặt, hạn chế sự xâm nhập mặn vào đất liền;
có khả năng chắn sóng chắn bão vững chắc bảo vệ cư dân vùng ven biển, hạn chế
tác hại của gió bão; có tác dụng hạn chế xói lở và các quá trình xâm thực bờ biển.
2. Kiến nghị
- Một số quần xã thực vật ngập mặn thực thụ tại RNM ven biển Hải Phòng,
đặc biệt là quần xã thuần Trang tại khu vực VQG xã Phù Long, huyện Cát Hải đang
có dấu hiệu bị suy giảm mật độ do đó cần có các biện pháp phục hồi, bảo vệ kịp
thời.
- Cần tạo điều kiện thuận lợi để người dân và cộng đồng địa phương tham
gia bảo vệ và phát triển RNM, được hưởng lợi trực tiếp từ rừng, dần thay thế cơ chế
khoán bằng tiền như hiện nay.
85
- Đảm bảo vừa phát triển được vốn RNM vừa phát triển kinh tế thủy sản, giữ
cân bằng giữ cân bằng nhu cầu phòng hộ và phát triển kinh tế, tạo vùng an toàn bảo
vệ và phát triển RNM một cách lâu dài.
- Chính sách phải rõ ràng, hợp lý, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
- Tăng cường sự phối hợp liên ngành trong việc quản lý nhà nước đối với
RNM, việc tổ chức quản lý hệ sinh thái RNM cần hướng tới phương thức đồng
quản lý rừng với sự tham gia của người dân và cộng đồng địa phương.
- Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế lâm nghiệp, nông nghiệp, thủy sản
phù hợp với đặc thù vùng RNM, đảm bảo cân đối giữa việc bảo vệ môi trường và
ổn định cuộc sống của người dân trong vùng.
86
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Đặng Minh Quân, Nguyễn Nghĩa Thìn và Phạm Thị Bích Thủy, 2011,
Thành phần loài và đặc điểm của thảm thực vật trong hệ sinh thái rừng ngập mặn
của Vườn Quốc gia Phú Quốc, Tạp chí Khoa học, 20a, 239-249.
2. Đặng Trung Tấn và cs, 1999, Sinh khối rừng Đước, Hội thảo “Bảo vệ và
phát triển rừng ngập mặn ven biển Nam Bộ, Tập 1, Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt
Nam, Sở Khoa học và Công nghệ và môi trường tỉnh Cà Mau.
3. Đặng Văn Sơn, Phạm Văn Ngọt, 2014, Đa dạng thành phần loài cây du
nhập rừng ngập mặn ở khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ, thành phố Hồ Chí Minh,
Tạp chí Khoa học và Phát triển, tập 12, số 1, 52-58.
4. Đỗ Hữu Thư, Nguyễn Thế Cường, Trần Thị Phương Anh, 2012, Báo cáo
kết quả điều tra khảo sát Thực vật tại VQG Xuân Thủy, 35 trang.
5. Đỗ Hữu Thư, Nguyễn Thế Cường, Trần Thị Phương Anh, 2012, Nghiên
cứu các thảm thực vật và thành phần các taxon trong hệ thực vật Vườn Quốc gia
Xuân Thủy và đề xuất các chỉ thị đa dạng sinh học tại khu vực, Tuyển tập hội nghị
khoa học toàn quốc về sinh thái và tài nguyên sinh vật lần thứ 5, 1637-1643.
6. Hoàng Thị Thanh Nhàn, Hồ Thanh Hải, Lê Xuân Cảnh, 2013, Đa dạng
sinh học Vườn Quốc gia Xuân Thủy, tỉnh Nam Định, Tuyển tập hội nghị khoa học
toàn quốc về sinh thái và tài nguyên sinh vật lần thứ 5, 587 – 594.
7. Lê Diên Dực, 1986, Kiểm kê đất ngập nước Việt Nam, Trung tâm Tài
nguyên và Môi trường, Trường đại học Tổng hợp Hà Nội, 128 trang.
8. Lê Trần Chấn, 1990, Một số đặc điểm cơ bản của hệ thực vật Việt Nam.
NXB Khoa học cà Kỹ thuật. Hà Nội.
9. Lê Xuân Ái, Trần Đình Huệ, Bảo tồn tài nguyên đa dạng sinh học cho sự
phát triển bền vững Côn Đảo, 2012, Tuyển tập báo cáo Hội nghị Sinh thái và Tài
nguyên sinh vật lần thứ 5, 353 – 359.
10. Mai Sỹ Tuấn, Phan Hồng Anh, 2008, Thảm thực vật vùng rừng ngập
mặn thuộc Khu Bảo tồn thiên nhiên đấp ngập nước Tiền Hải, Thái Bình, Tuyển tập
87
Phục hồi rừng ngập mặn ứng phó với biến đổi khí hậu hướng tới phát triển bền
vững, NXB. Nông nghiệp, 305-319.
11. Nguyễn Quang Hùng, Đỗ Anh Duy, 2011, Đa dạng sinh học và nguồn
lợi thuỷ sản trong hệ sinh thái rừng ngập mặn ven biển Việt Nam, Hội nghị Khoa
học và Công nghệ biển toàn quốc lần thứ V, Quyển 4: Sinh học và nguồn lợi sinh
vật biển. NXB Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, Hà Nội, 22-28.
12. Nguyễn Thị Huyền, Trần Mạnh Hà, Cao Thu Trang, Đặng Hoài
Nhơn, Phạm Thế Thư, 2011, Các giá trị sử dụng được mang lại từ hệ sinh thái rừng
ngập mặn Tiên Lãng, Hải Phòng, Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển, Số 1, 57 –
72.
13. Nguyễn Thị Hồng Hạnh, 2009, Nghiên cứu khả năng tích lũy cacbon
của rừng Trang (Kandelia obovata Sheue, Liu & Yong) trồng ven biển huyện Giao
Thủy, tỉnh Nam Định. Luận án TS sinh học, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội.
14. Nguyễn Thị Hồng Hạnh, Phạm Hồng Tính, 2017, Định lượng cacbon
trong rừng ngập mặn trồng vùng ven biển miền Bắc Việt Nam, NXB Khoa học tự
nhiên và công nghệ, 238 trang.
15. Nguyễn Văn Quân, Nguyễn Thị Hương Liên, 2014, Thành phần loài
và biến động nguồn lợi cá vùng rừng ngập mặn Phù Long, Cát Hải, Hải Phòng, Tạp
chí Khoa học và Phát triển, tập 12, số 3, 384-391.
16. Nguyễn Xuân Hòa, Phạm Thị Lan, Nguyễn Xuân Trường, 2010, Hiện
trạng rừng ngập mặn ở dải ven bờ Nam Trung Bộ (Từ Đà Nẵng đến Ninh Thuận,
Tuyển Tập Nghiên Cứu Biển, XVII: 167-177.
17. Phạm Khánh Linh, Đỗ Thị Xuyến, 2009, Các loài cây ngập mặn tại
Vườn Quốc gia Bái Tử Long, tỉnh Quảng Ninh, Tuyển tập báo cáo Hội nghị Sinh
thái và Tài nguyên sinh vật lần thứ 3.
18. Phạm Hoàng Hộ, 1999-2000, Cây cỏ Việt Nam (An Illustrated Flora
of Vietnam). NXB Trẻ. Tp. Hồ Chí Minh.
88
19. Phạm Ngọc Dũng, Hoàng Công Tín, Tôn Thất Pháp, 2012, Thành
phần loài và phân bố của thực vật ngập mặn ở đầm Lập An, huyện Phú Lộc, tỉnh
Thừa Thiên Huế, Tạp chí Khoa học, Đại học Huế, Tập 75A, Số 6, 37-48.
20. Phan Nguyên Hồng (Chủ biên) và nnk, 1997, Vai trò của rừng ngập
mặn Việt Nam, kỹ thuật trồng và chăm sóc. NXB Nông nghiệp Hà Nội.
21. Phan Nguyên Hồng (Chủ biên) và nnk, 1999, Rừng ngập mặn Việt
Nam. NXB Nông nghiệp Hà Nội.
22. Phan Nguyên Hồng, 2004, Đánh giá tính đa dạng của thảm thực vật
và hệ thực vật trong môi trường sinh học huyện Giao Thủy (tỉnh Nam Định) làm cơ
sở cho quy hoạch Phát triển bền vững các hệ sinh thái ĐNN ven biển Bắc Bộ
23. Phan Nguyên Hồng, 2004, Hệ sinh thái ngập mặn vùng ven biển đồng
bằng sông Hồng – Đa dạng sinh học, sinh thái, kinh tế - xã hội và giáo dục, NXB
Nông nghiệp Hà Nội, 337 trang.
24. Phan Nguyên Hồng, Lê Xuân Tuấn, Phan Thị Anh Đào, 2007, Đa
dạng sinh học ở Vườn quốc gia Xuân Thủy. 42 trang.
25. Phan Nguyên Hồng, Lê Xuân Tuấn, Vũ Thục Hiền, 2007, Vai trò của
hệ sinh thái rừng ngập mặn và rạn san hô trong việc giảm nhẹ thiên tai và cải thiện
cuộc sống ở vùng ven biển, NXB Nông nghiệp, 433 trang.
26. Thái Văn Trừng, 1970, Sinh thái phát sinh thảm thực vật rừng Việt
Nam. NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
27. Trần Đức Thạnh (chủ biên), 2015, “Thiên nhiên và môi trường vùng
bờ Hải Phòng”, NXB Tự nhiên và Khoa học công nghệ.
28. Trung tâm nghiên cứu Tài nguyên & Môi trường. 2001, 2003, 2005,
ĐHQGHN. Danh mục các loài thực vật Việt Nam Tập 1, 2, 3. NXB Nông nghiệp
HN.
29. Võ Văn Chi, 2012, Từ điển cây thuốc Việt Nam, tập 1, NXB Y học,
1675 trang.
30. Võ Văn Chi, 2012, Từ điển cây thuốc Việt Nam, tập 2, NXB Y học,
1541 trang.
89
31. Vũ Đoàn Thái, 2004, Hệ sinh thái rừng ngập mặn và tác dụng cản
sóng của rừng ngập mặn, NXB Nông nghiệp, 196 trang.
32. Vũ Đoàn Thái, 2006, Bước đầu nghiên cứu khả năng chắn sóng, bảo
vệ bờ biển trong bão qua một số kiểu cấu trúc RNM trồng ven biển Hải Phòng,
trong: Phan Nguyên Hồng, Lê Xuân Tuấn, Vũ Thục Hiền, Vai trò của hệ sinh thái
RNM và rạn san hô trong việc giảm nhẹ thiên tai và cải thiện cuộc sống ở vùng ven
biển, NXB Nông nghiệp, Hà Nội, 77-87.
33. Vũ Đoàn Thái, 2011, Vai trò của rừng ngập mặn làm giảm sóng bão
tại khu vực Đại Hợp (Kiến Thụy, Hải Phòng), Tạp chí khoa học và công nghệ biển,
Vol 11, No 1.
34. Vũ Mạnh Hùng, Phạm Văn Lượng, Đàm Đức Tiến, Cao Văn Lương,
2013, Nghiên cứu hiện trạng và sự biến động về diện tích của rừng phòng hộ ven
biển phía Bắc – Việt Nam, Tuyển tập Hội nghị Khoa học toàn quốc về sinh thái và
tài nguyên sinh vật lần thứ 5.
35. Vũ Mạnh Hùng, Đàm Đức Tiến, Cao Văn Lương, 2015, Nghiên cứu
khả năng hấp thụ Cacbon của rừng ngập mặn ven biển Hải Phòng, Tạp chí Khoa
học và Công nghệ Biển; Tập 15, Số 4, 347-354.
II. TÀI LIỆU TIẾNG NƯỚC NGOÀI
36. A.E. Lugo, & S.C. Snedaker, 1975, Properties of a mangrove forest in
southern Florida, In G. Walsh, S. Snedaker & H. Teas, eds, Proceedings of
international symposium on biology and management of mangroves, Gainesville,
Florida, University of Florida, Institute of Food and Agricultural Sciences, 170-
212.
37. Komiyama, H. Moriya, S. Prawiroatmodjo, T. Toma, K. Ogino, 1988,
Forest primary productivity. In: Ogino, K., Chihara, M. (Eds.), Biological System
of Mangrove, Ehime University, 97–117.
38. Barry Clough, 2013, Continuing the Journey Amongst Mangroves,
ISME Mangrove Educational Book Series No. 1, International Society for
90
Mangrove Ecosystems (ISME), Okinawa, Japan, and International Tropical Timber
Organization (ITTO), Yokohama, Japan.
39. B. Gopal and M. Chauhan, 2006, Biodiversity and its conservation in
the Sundarban mangrove ecosystem, Aquatic Sciences, vol. 68, no. 3, 338–354.
40. C. Giri, E. Ochieng, L. Tieszen, Z. Zhu, A. Singh, T. Loveland, J.
Masek and N. Duke, 2010, Status and distribution of mangrove forests of the world
using earth observation satellite data, Global Ecology and Biogeography, 20 (1),
154–159.
41. Ding Hou, 1958, Rhizophoraceae, Flora Malesiana, Ser.I, 5: 429 –
493.
42. FAO, 2007, The world's mangroves 1980-2005, FAO Forestry Paper,
153.
43. F. Dahouh-Guebas et al, 2005, How effective were mangroves as a
defence against the recent tsunami?, Current Biology, 15 (12), 443-447.
44. F. Talbot and C. Wilkinson, 2001, Coral reefs, mangroves and
seagrasses: A sourcebook for managers, Australian Institute of Marine Science,
Townsville, Australia, 193 pp.
45. H. T. Chan, 1986, Malaysia, In Mangroves of Asia and the Paafic:
status and management, Research and Training Pilot Programme on Mangrove
Ecosystem in Asia and the Pacific, 131 – 150.
46. I.Nagelkerken et al, 2008, The habitat function of mangroves for
terrestrial and marine fauna: A review, Aquatic Botany, 89, 155 – 185.
47. Ivan Valiela, Jennifer L. Bowen, Joanna K. York, 2001, Mangrove
Forests: One of the World's Threatened Major Tropical Environments: At least 35%
of the area of mangrove forests has been lost in the past two decades, losses that
exceed those for tropical rain forests and coral reefs, two other well-known
threatened environments, BioScience, Volume 51, Issue 10, 807–815.
48. J. B. Long and C. Giri, 2011, Mapping the Philippines mangrove
forests using Landsat imagery, Sensors, vol. 11, no. 3, 2972–2981.
91
49. J.M. Kovacs, 1999, Assessing mangrove use at the local scale,
Landscape and Urban Planning, 43, 201–208.
50. J. Wu, Q. Xiao, J. Xu, M. Y. Li, J.Y. Pan & M.H. Yang, 2008,
Natural products from true mangrove flora: source, chemistry and bioactivities, Nat
Prod Rep, 25, 955-981.
51. K. Harada, F. Imamura, 2003, Utilization of forest control to mitigate
tsunami damage and its evaluation, Proc. of Coastal Eng. in Japan, 50, 341-345.
52. K. Kathiresan, B.I. Bingham, 2001, Biology of mangroves and
mangrove ecosystems, Advances in Marine Biology, 40, 81- 251.
53. Kathiresan, K., Anburaj, R., Gomathi, V., and Saravanakumar, K.,
2013, Carbon sequestration potential of Rhizophora mucronata and Avicennia
marina as influenced by age, season, growth and sediment characteristics in
southeast coast of India. Journal of Coastal Conservation, 17(3):397-408.
54. M.D. Spalding, F. Blasco and C.D. Field, 1997, World Mangrove
Atlas, The International Society for Mangrove Ecosystems, Okinawa, Japan, 178
pp.
55. Mohammad Ali Zahed, Fatemeh Rouhani, Soraya Mohajeri, Farshid
Bateni, Leila Mohajeri, 2010, An overview of Iranian mangrove ecosystems,
northern partof the Persian Gulf and Oman Sea, Acta Ecologica Sinica, 30, 240 -
244.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nguyen_chien_thang_1_4715_2085172.pdf