Luận văn Nguồn gốc và vai trò của lợi nhuận đối với sự phát triển của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Nói chung trước tình hình kinh doanh hiện nay, nhiều doanh nghiệp đi đến chỗ thua lỗ, phá sản do nhiều nguyên nhân. Nhưng ta có thể khẳng định một trong những nguyên nhân cơ bản nhất đó là sự yếu kém trong quả trị của các nhà quản trị. Vì vậy trước tiên cần phải trang bị hay trang bị lại những kiến thức kinh doanh hiện đại, tạo điều kiện để các nhà quản lý tham gia vào các khoá đào tạo, bồi dưỡng về quản trị, học hỏi các kinh nghiệm quản lý của các nước phát triển.

pdf25 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2584 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nguồn gốc và vai trò của lợi nhuận đối với sự phát triển của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Nguồn gốc và vai trò của lợi nhuận đối với sự phát triển của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay Mở Đầu Lợi nhuận là động cơ hay sự thúc đẩy đối với mọi công việc kinh doanh và mọi cá nhân trong kinh doanh. Phạm trù lợi nhuận nói chung cũng như phạm trù lợi nhuận gắn với kinh tế thị trường nói riêng đã được biết đến từ thế kỷ XV. Chính những ý nghĩa lý luận của nó đối với khoa học kinh tế mà nó luôn được quan tâm, luôn được phát triển. Và như chúng ta đã biết, lý luận Mác là đỉnh cao của sự phát triển ấy. Đứng trên giác độ của học thuyết này, Mác đã giải quyết mọi mâu thuẫn của nền sản xuất hàng hóa. Vì vậy, đối với Việt Nam giai đoạn hiện nay, giai đoạn phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, việc vận dụng lý luận về lợi nhuận trong hoạt động kinh tế mà cụ thể là trong việc nâng cao lợi nhuận trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là hết sức cần thiết. Tất cả chúng ta đang phải tìm lời giải cho bài toán vận mệnh của Việt Nam: Làm thế nào để tăng trưởng nhanh, thành công trong cạnh tranh quốc tế khi trình độ của ta còn thấp, nguồn lực của ta còn hạn chế? Chính vì vậy mà đề tài: "Nguồn gốc và vai trò của lợi nhuận đối với sự phát triển của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay" đã thu hút sự chú ý cũng như đã gây cho em nhiều hứng thú. Theo em đây là một đề tài hết sức thiết thực trong công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta hiện nay. nội dung 1.Những vấn đề lý luận chung 1.1. Quan điểm về lợi nhuận của các nhà kinh tế học trước C.Mac  Chủ nghĩa trọng thương là lý luận đầu tiên của kinh tế chính trị, là hệ tư tưởng kinh tế của giai cấp tư sản, là cương lĩnh kinh tế của giai cấp tư sản trong điều kiện tích luỹ nguyên thuỷ của tư bản, tìm nguồn gốc của cải trong thương nghiệp, bảo vệ lợi ích của tư bản thương nghiệp và giải thích cho sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa trọng thương ra đời và phát triển từ khoảng giữa thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XII ở Tây Âu. Theo quan điểm của chủ nghĩa trọng thương thì lợi nhuận là kết quả của việc trao đổi không ngang giá. Nói cách khác, lợi nhuận được sinh ra trong lưu thông. Họ coi mục đích của hoạt động kinh tế là lợi nhuận và coi lợi nhuận là động lực của các hoạt động kinh tế. Đó chính là cơ sở của lý luận về cơ chế thị trường sau này. Hạn chế của chủ nghĩa trọng thương chưa thấy được lợi nhuận còn được sinh ra trong sản xuất. Theo như C.Mac nhận xét trong cuốn tư bản:” học thuyết đó chỉ nắm cái vẻ bên ngoài của những hiện tượng”.  Chủ nghĩa trọng nông ra đời vào cuối thế kỷ XVIII ở Pháp do hậu quả thực hiện chính sách kinh tế của Kolbert làm cho nền nông nghiệp Pháp bị đình đốn, nợ nần cha truyền con nối, nông dân đói khát, khủng hoảng kinh tế xã hội diễn ra nghiêm trọng. Do đó đã xuất hiện một lý luận phê phán gay gắt chủ nghĩa trọng thương, tìm nguồn gốc của cải trong sản xuất nông nghiệp, khuyến khích phát triển nông nghiệp. Chủ nghĩa trọng nông đề cập đến sản phẩm thuần tuý hay sản phẩm ròng là sự chênh lệch giữa giá trị của nông sản và chi phí sản xuất nông nghiệp (gồm giống và tiền lương). Hạn chế: Chỉ có sản xuất nông nghiệp mới tạo ra sản phẩm thuần tuý, mới là nguồn gốc làm giàu cho quốc gia, muốn quốc gia giàu có phải phát triển nông nghiệp. Tức là họ mới chỉ nhìn thấy hình thái địa tô (R) mà trên thực tế giá trị thặng dư bao gồm: lợi nhuận(p) – lợi nhuận bình quân ( ) lợi tức (z) và địa tô (r) Chủ nghĩa trọng nông cho rằng nông nghiệp có được sự trợ giúp của tự nhiên làm tăng về chất tạo ra chất mới và do đó tạo ra sản phẩm thuần tuý. Công nghiệp chỉ đơn thuần chế biến lại những sản phẩm của nông nghiệp. Công nghiệp không những không có lợi mà còn có hại vì trong quá trình sản xuất có những sản phẩm sẽ bị lãng phí.  Trường phái cổ điển (kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh) Vào cuối thế kỷ XVII ở Anh chủ nghĩa trọng thương đã tích luỹ được một khối lượng tiền tạo được để phát triển sản xuất. Do đó lợi nhuận do sản xuất đem lại ngày càng tăng còn lợi nhuận do thương nghiệp đem lại có xu hướng giảm vì thị trường ngoài nước đã khai thác hết. Do đó chủ nghĩa trọng thương bị suy đồi và xuất hiện lý luận mới nhằm kích thích phát triển sản xuất là kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh. Theo W.Petty (1623-1687), ông chỉ nhìn thấy hình thái địa tô là sự chênh lệch giữa giá trị của sản phẩm và chi phí của sản xuất. Tuy vậy, theo Mac nhận xét, W.Petty là người đã nêu ra mầm mống của lý luận về chế độ bóc lột, dự đoán đúng bản chất của giá trị thặng dư. Sai lầm của ông là đã đồng nhất địa tô với giá trị thặng dư (thực tế địa tô chỉ là một phần của giá trị thặng dư). Theo A.Smith (1723-1790), lợi nhuận là khoản khấu trừ thứ hai vào sản phẩm lao động của công nhân. Lao động của công nhân tạo ra lợi nhuận và lợi nhuận thuộc về nhà tư bản, lợi nhuận là lao động không được trả công của công nhân. Ông thấy được xu hướng lợi nhuận bình quân và tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm. Ông đã thấy được địa tô, lợi tức, lợi nhuận là những hình thái khác nhau của giá trị thặng dư nhưng lại không thấy được sự khác nhau giữa lợi nhuận và giá trị thặng dư. Ông cho rằng lợi nhuận do toàn bộ tư bản đẻ ra. Do không phân biệt được lĩnh vực sản xuất và lưu thông nên ông cho rằng tư bản trong lĩnh vực sản xuất cũng như trong lĩnh vực lưu thông đều đẻ ra lợi nhuận như nhau. Tuy nhiên, mặt tích cực mà A.Smith đã đạt được – theo như C.Mac đánh giá- A.Smith đã nêu được nguồn gốc thực sự của giá trị thặng dư là đẻ ra từ lao động. Theo D.Ricardo (1772-1823), lợi nhuận là phần giá trị thừa ra ngoài tiền công, là lao động không được trả công của công nhân. Ông chưa biết đến phạm trù giá trị thặng dư nhưng nhất quán quan điểm cho rằng giá trị do công nhân tạo ra lớn hơn số tiền mà họ nhận được. Ông đã thấy được xu hướng hình thành lợi nhuận bình quân nhưng lại chưa hiểu được giá cả sản xuất (giá cả sản xuất = chi phí sản xuất + lợi nhuận bình quân).  Trường phái tầm thường: Vào đầu thế kỷ 19 do cuộc cách mạng công nghiệp hoàn thành, giai cấp tư sản thống trị xã hội nhưng bắt đầu xuất hiện khủng hoảng kinh tế, giai cấp vô sản bị bần cùng hoá. Thời kỳ này bắt đầu xuất hiện lý luận chủ nghĩa xã hội không tưởng do đó giai cấp tư sản cần có một lý luận để chống lại chủ nghĩa xã hội không tưởng và bảo vệ chủ nghĩa tư bản. Kinh tế chính trị học tư sản tầm thường xuất hiện. Thomas Robert Malthus (1766-1834), ông cho rằng lợi nhuận là hoạt động thêm vào giá cả (giá cả = chi phí sản xuất + lợi nhuận). Malthus phủ nhận vai trò của lao động là nguồn gốc tạo ra lợi nhuận và coi lợi nhuận là yếu tố cấu thành khác của giá trị. Từ đó ông giải thích lợi nhuận như là khoản thặng dư ngoài số lao động đã hao phí để sản xuất hàng hóa. Người trả tiền cho khoản lợi nhuận là giai cấp quý tộc địa chủ. Tức là ông đã biện hộ cho giai cấp thống trị: lợi nhuận không phải do bóc lột (điều này có thể hiểu vì ông là con út của một gia đình quý tộc). Jean.Baptiste Say (1766-1832), ông cũng biện hộ cho chủ nghĩa tư bản. Ông cho rằng chủ nghĩa tư bản không có bóc lột. Ông thấy lợi nhuận là do tư bản sinh ra, đó là thứ tiền công cao cho công tác lãnh đạo và quản lý của nhà tư bản. Còn những người công nhân làm việc thô kệch hiển nhiên sẽ hưởng lương ít. Theo C.Mac đánh giá thì vai trò quản lý của nhà tư bản giống như “nhạc trưởng” của dàn nhạc, lao động quản lý và lãnh đạo là lao động phức tạp nên nhạc trưởng được hưởng lương cao là đương nhiên nhưng toàn bộ tiền lương làm chức năng quản lý không phải là toàn bộ lợi nhuận.  Trường phái tiểu tư sản: Vào đầu thế kỷ 19 giai cấp tư sản thống trị xã hội, sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ làm cho giai cấp công nhân bị bần cùng hoá, khủng hoảng, thất nghiệp gia tăng. Những người sản xuất nhỏ bị phá sản hàng loạt do đó xuất hiện lý luận phê phán chủ nghĩa tư bản và muốn quay lại sản xuất nhỏ. J.Simondi cho rằng lợi nhuận là khoản khấu trừ từ sản phẩm lao động, đó là thu nhập không lao động, là kết quả của sự cướp bóc công nhân, là tai hoạ kinh tế của giai cấp vô sản. Ông cho rằng việc san bằng lợi nhuận chỉ đạt được bằng cách phá huỷ những tư bản cố định, bằng sự tiêu vong của công nhân trong các ngành bị suy sụp. Hạn chế: ông lặp lại luận điểm của A.Smith về lợi nhuận doanh nghiệp, nghi ngờ ý kiến đúng đắn của Ricardo về lợi nhuận tư bản, ông không hiểu nguồn gốc của địa tô tuyệt đối. 1.2. Quan điểm về lợi nhuận của C.Mac Như chúng ta đã biết giá trị hàng hoá = c+v+m . Trong đó c là tư liệu sản xuất , v là sức lao động, m là giá trị thặng dư. Nhà tư bản phải bỏ ra một khoản chi phí để mua tư liệu sản xuất c và mua sức lao động v. Chi phí đó gọi là chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa(k) k=c+v .Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa và giá trị của hàng hoá khác nhau cơ bản về lượng và về chất:  Về chất : chi phí nhà tư bản bỏ ra để sản xuất hàng hoá được đo bằng chi phí tư bản . Còn giá trị hàng hoá là chi phí thực tế để sản xuất ra nó được đo bằng chi phí lao động .Vì vậy chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa thấp hơn giá trị hàng hoá.  Về lượng : chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là bộ phận giá trị tư bản tiêu dùng đã chuyển vào sản phẩm nên bao giờ nó cũng nhỏ hơn tổng số tư bản ứng ra ban đầu (k).Khi nghiên cứu C.Mac thường giả định tư bản cố định hao mòn hết trong một năm nên tổng tư bản ứng trước và chi phí sản xuất bằng nhau về lượng và cùng kí hiệu là (c+v). Khái niệm CFSX một mặt biểu thị tính chất đặc thù của sản xuất tư bản chủ nghĩa (vì chỉ trong TBCN thực thể của giá trị mới bị che lấp bởi chi phí tư bản).Mặt khác, chi phí sản xuất còn được gọi là giá thành sản xuất(vì trong bất cứ nền sản xuất hàng hoá nào, sau khi thực hiện giá trị hàng hoá đều phải mua lại những yếu tố sản xuất đã tiêu dùng trong việc sản xuất hàng hoá).Vì vậy, trong nền kinh tế thị trường, việc tiết kiệm chi phí lao động sống và lao động quá khứ để giảm giá thành sản phẩm bằng các biện pháp kinh tế, kĩ thuật và tổ chức quản lý là yêu cầu thiết thân mà mọi chủ thể kinh doanh đều phải quan tâm thường xuyên. Do có sự chênh lệch giữa giá trị hàng hoá và chi phí sản xuất TBCN nên khi bán hàng hoá theo giá thị trường (bằng giá trị của hàng hoá), các nhà tư bản thu được một khoản tiền lời gọi là lợi nhuận, kí hiệu p. So sánh p và m cho thấy :  Về lượng : nếu cung bằng cầu thì giá cả hàng hoá bán ra bằng giá trị của nó thì số lượng p thu được bằng số lượng giá trị thặng dư .Nếu cung nhỏ hơn hoặc lớn hơn cầu thì giá cả hàng hoá lớn hơn hoặc nhỏ hơn giá trị của nó thì từng tư bản cá biệt có thể thu được một lợi nhuận lớn hơn hoặc nhỏ hơn m.Nhưng trong toàn xã hội tổng giá cả bằng tổng giá trị hàng hoá, tổng lợi nhuận bằng tổng giá trị thặng dư .  Về chất: m là bộ phận giá trị mới do lao động của công nhân tạo ra trong lĩnh vực sản xuất dôi ra ngoài phần bù lại giá trị tư bản khả biến mà nhà tư bản trả cho công nhân, còn p là hình thức biểu hiện bên ngoài của m, là m khi nó được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng ra, là kết quả của toàn bộ tư bản đầu tư vào sản xuất kinh doanh. C.Mac viết “giá trị thặng dư, hay là lợi nhuận, chính là phần giá trị dôi ra ấy của giá trị hàng hoá so với chi phí sản xuất của nó, nghĩa là phần dôi ra của tổng số lượng lao động chứa đựng trong hàng hoá so với số lượng lao động được lao động chứa đựng trong hàng hoá”. Phạm trù lợi nhuận phản ánh sai lệch bản chất quan hệ sản xuất giữa tư bản và lao động, vì nó làm cho người ta tưởng rằng m không phải chỉ do lao động làm thuê tạo ra.Thực chất, p và m cũng là một.Lợi nhuận chẳng qua chỉ là một hình thái thần bí hoá của giá trị thặng dư. Tóm lại p là hình thái chuyển hoá của m do lao động sống làm ra , được quan niệm là do toàn bộ tư bản ứng trước sinh ra.  Khi m chuyển hoá thành p thì giá trị hàng hoá chuyển hoá thành chi phí sản xuất TBCN cộng p : w=c+v+m w=k+p  Khi m chuyển hoá thành p thì tỷ xuất giá trị thặng dư cũng chuyển hoá thành tỷ xuất lợi nhuận p’ : m’ = m/v x 100% => p’ = p/(c+v) x 100% p’ là tỷ lệ phần trăm giữa tổng số lợi nhuận với toàn bộ tư bản ứng ra để sản xuất kinh doanh. p’ hàng năm = p/k x 100% P’ và m’ có sự khác nhau về lượng và về chất :  Về lượng : p’ bao giờ cũng nhỏ hơn m’ .  Về chất : m’ biểu hiện mức độ bóc lột của chủ tư bản đối với lao động còn p’ chỉ nói lên mức doanh lợi của việc đầu tư tư bản . m’ là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động sống, còn p’ là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn đầu tư hàng năm của một đơn vị sản xuất kinh doanh .  Những nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận  Tỷ suất giá trị thặng dư m’ : Theo công thức: p’= m/(c+v) x 100% Mà m’= m/v x 100% do đó p’= m’ x v/(c+v) x 100% (*) p’ là hình thái chuyển hoá của m’ nên giữa chúng có mối liên hệ phụ thuộc. Theo (*) nếu v/(c+v) không đổi thì p’ tỷ lệ với m’ do đó những biện pháp nâng cao m’ cũng là những biện pháp nâng cao p’.  Tốc độ chu chuyển tư bản n : nếu n tăng thì khối lượng tư bản hoạt động trong năm sẽ lớn làm cho khối lượng giá trị thặng dư hàng năm tăng do đó p’ hàng năm tăng. Như vậy, p’ tỷ lệ với số vòng chu chuyển và tỷ lệ nghịch với thời gian chu chuyển của tư bản. Do đó, để nâng cao p’, các nhà tư bản đều tìm mọi biện pháp rút ngắn thời gian sản xuất và thời gian lưu thông hàng hoá của mình.  Tiết kiệm tư bản bất biến c : Vì p’= m/(c+v) nếu m, v không đổi thì p’ vận động ngược chiều với c.Vì thế, để nâng cao p’, các nhà tư bản tìm mọi cách tiết kiệm tư bản bất biến như : sử dụng máy móc, thiết bị, nhà xưởng, nhà kho, phương tiện vận tải với hiệu quả cao nhất ; thay nguyên liệu đắt tiền bằng nguyên liệu rẻ tiền ; giảm chi tiêu để bảo hiểm lao động, bảo vệ môi trường, giảm tiêu hao vật tư năng lượng, tận dụng phế liệu, phế phẩm, phế thải trong tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân của xã hội để sản xuất hàng hoá.  Cấu tạo hữu cơ của tư bản (c/v) : là tỷ số giữa giá trị tư bản bất biến c với tư bản khả biến v. Sự thay đổi cấu tạo hữu cơ của tư bản có ảnh hưởng đến p’: Cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng làm cho p’ giảm đồng thời làm khối lượng lợi nhuận tăng . CacMac gọi đó là hình thức biểu hiện tính chất hai mặt của quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm xuống. Để ngăn trở sự giảm xuống của tỷ suất lợi nhuận p’ : +) tăng mức độ bóc lột sức lao động làm cho các nhà tư bản nâng cao được tỷ suất giá trị thặng dư và do đó sẽ cản trở sự giảm p’ do đó cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng. +) hạ thấp tiền công xuống dưới giá trị sức lao động sẽ giảm bớt phần lao động được trả công do đó làm tăng phần lao động không công và giảm được lượng tư bản khả biến ứng trước v. +) hạ giá cả các yếu tố tư bản bất biến c. Giá tư liệu sản xuất giảm làm cho cấu tạo giá trị của tư bản tăng với mức thấp hơn mức tăng của cấu tạo kỹ thuật của tư bản. Do đó, p’giảm ít hơn mức tăng của (c/v). +) nhân khẩu thừa tương đối tận dụng được lượng nhân công rẻ mạt hoặc thu hút số lao động dư thừa ở các ngành công nghiệp có cấu tạo hữu cơ tư bản cao. Nhờ đó mà một số xí nghiệp cũ hay có cấu tạo hữu cơ tư bản thấp hơn mức trung bình có thể thu được tỷ suất lợi nhuận cao. +) hoạt động ngoại thương có thể mua được tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt rẻ làm giảm tư bản bất biến c và tư bản khả biến v. Các nhà tư bản có thể thu lợi nhuận cao hơn kinh doanh trong nước, nhờ đó tăng được tỷ suất lợi nhuận. +) tư bản cổ phần : là tư bản được đem đầu tư vào các xí nghiệp sản xuất lớn dưới hình thức tư bản cổ phần và chỉ đọc hưởng lợi tức cổ phần. Các tư bản cổ phần này không tham gia vào việc bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận chung, vì lợi tức cổ phần của họ thấp hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân. Sự cạnh tranh giữa các nhà tư bản kinh doanh trong các ngành sản xuất khác nhau nhằm giành giật nơi đầu tư có lợi nhất đã hình thành lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất. Do trong các ngành sản xuất khác nhau, những nhân tố ảnh hưởng đến p’ mỗi ngành không giống nhau, kết quả là p’ thu được không bằng nhau. Các nhà tư bản theo đó mà sẽ kinh doanh ở những ngành có p’ cao làm thay đổi p’ cá biệt vốn có của các ngành. Do đó, trong một thời gian nhất định, p’ các ngành xấp xỉ bằng nhau, hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân giữa các ngành sản xuất khác nhau. Tỷ suất lợi nhuận bình quân là con số trung bình của tất cả những tỷ suất lợi nhuận khác nhau đó : P’ bình quân = (p1’+….+pn’)/n Sau khi xác định được p’ bình quân có thể tính được p bình quân : pbình quân = P bình quân che dấu quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa, vì bất cứ tư bản đầu tư vào ngành nào, nếu có khối lượng ngang nhau, rốt cuộc cũng thu được lợi nhuận bằng nhau. Nó không có quan hệ gì với khối lượng giá trị thặng dư do lao động làm thuê tạo ra. Trên thực tế, p bình quân chỉ là giá trị thặng dư được phân phối giữa các ngành sản xuất khác nhau tương ứng với số tư bản đầu tư của mỗi nhà tư bản một cách tự phát. Xét chung trong toàn xã hội : tổng lợi nhuận bằng tổng giá trị thặng dư. Theo Mac : lợi nhuận bình quân phản ánh mâu thuẫn giữa các nhà tư bản trong việc đấu tranh phân chia giá trị thặng dư do giai cấp công nhân tạo ra. Nó vạch rõ toàn bộ sự bóc lột của giai cấp tư sản đối với giai cấp công nhân. Khi lợi nhuận chuyển hoá thành p bình quân thì giá trị hàng hoá chuyển hoá thành giá cả sản xuất : W = c+v+m chuyển thành gcsx = k+pbình quân Khi đó quy luật giá trị có hình thức biểu hiện là quy luật giá cả sản xuất, còn quy luật giá trị thặng dư có hình thức biểu hiện là quy luật lợi nhuận bình quân. Chúng ta đã biết m và p không hoàn toàn đồng nhất nhưng chúng đều có nguồn gốc từ lao động thặng dư. Đứng về một góc cạnh nào đó thì chính m biểu hiện cho sự bóc lột và chứng minh công thức mâu thuẫn của tư bản một cách chính xác, khoa học nhưng nó lại được che dấu bởi phạm trù lợi nhuận và nó tồn tại trong xã hội tư bản dưới các hình thức sau: Lợi nhuận công nghiệp : về bản chất lợi nhuận công nghiệp là phần giá trị do người công nhân tạo ra bị nhà tư bản chiếm không và phần giá trị này bán trên thị trường thu được một số tiền lời sau khi trừ đi chi phí sản xuất.Đây là hình thái dễ thấy nhất, gần nhất với m.Lợi nhuận công nghiệp là hình thức chung nhất của các hình thức p, là động lực mạnh mẽ nhất để phát triển sản xuất .  Lợi nhuận thương nghiệp : trong lưu thông, trao đổi không tạo ra giá trị nhưng nhà tư bản thương nghiệp làm nhiệm vụ lưu thông hàng hoá, làm cho hàng hoá được bán đi nhanh hơn. Tư bản thương nghiệp chính là thực hiện khâu trên của tư bản chủ nghĩa, chính vì thế họ phải thu được một phần lợi nhuận mà tư bản công nghiệp kiếm được.Về thực chất thì tư bản thương nghiệp là một phần m dược sáng tạo ra trong quá trình sản xuất mà nhà tư bản công nghiệp nhường cho tư bản thương nghiệp.  Lợi tức cho vay : đây là hình thức nhà tư bản này cho nhà tư bản khác vay một số tiền tạm thời nhàn rỗi của mình . Lợi tức là cái giá mà nhà tư bản hoạt động phải trả cho người sở hữu tư bản cho vay về quyền được sử dụng tạm thời khoản tư bản tiền tệ của người đó. Bản chất của lợi tức là một phần giá trị thặng dư mà nhà tư bản hoạt động thu được nhờ tư bản cho vay trả cho nhà tư bản cho vay vốn , tức là một phần lợi nhuận bình quân . Xét ở một góc cạnh nào đó , nhà tư bản cho vay cũng là nhà tư bản kinh doanh hàng hoá nhưng là hàng hoá đặc biệt : tiền tệ . Lợi tức ở đây được hiểu chính là lợi nhuận của tư bản cho vay.  Lợi nhuận ngân hàng : lợi nhuận ngân hàng là khoản chênh lệch giữa lợi tức cho vay và lợi tức tiền gửi của ngân hàng sau khi khấu trừ các chi phí hoạt động . Về bản chất , tư bản ngân hàng là tư bản hoạt động , vì vậy phần lợi nhuận do tư bản ngân hàng tạo ra cũng tham ra vào quá trình cạnh tranh với các ngành sản xuất khác . Vì vậy khoản lợi nhuận mà tư bản ngân hàng nhận được cũng là lợi nhuận bình quân.  Địa tô : địa tô TBCN là khoản tiền mà nhà tư bản phải trả cho địa chủ- người sở hữu ruộng đất - để được sử dụng trong một thời gian nhất định. Địa tô là một bộ phận lợi nhuận siêu nghạch do công nhân làm thuê trong nông nghiệp tạo ra (là bộ phận m sau khi trừ đi lợi nhuận bình quân) và do nhà tư bản thuê đất trả cho người sở hữu ruộng đất. 1.3. Quan điểm về lợi nhuận của một số nhà kinh tế học mới A.Marshall : lợi nhuận là thứ tiền lương cao. J.Keynes : lợi nhuận là hiệu quả của đầu tư tư bản. Samellson : lợi nhuận là kết quả của doanh thu- chi phí . Theo ông, lợi nhuận vừa là động lực vừa là mục đích, lợi nhuận sẽ lôi kéo người kinh doanh vào những mặt hàng có lợi nhuận cao bỏ trống những hàng hoá cho lợi nhuận thấp hoặc không lợi nhuận . Cách duy nhất để những nhà kinh doanh cạnh tranh được giá cả và thu lợi nhuận cao là giảm mức chi phí sản xuất đến mức tối thiểu bằng cách áp dụng những phương pháp sản xuất có hiệu quả , công nghệ hiện đại . Hạn chế chung đó là các nhà kinh tế học mới mới chỉ dừng lại phân tích lợi nhuận về mặt lượng . 2. Vai trò của lợi nhuận đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn hiện nay 2.1.Vài nét về kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Từ đại hội đảng VI (12/1986) đảng và nhà nước ta đã chủ trương phát triển nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý vĩ mô của nhà nước theo định hướng XHCN. Cơ chế này phát huy vai trò điều tiết của thị trường, từng bước hình thành một thị trường cạnh tranh làm cho hàng hoá lưu thông, cung cầu cân đối, giá cả ổn định…Nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường là nền kinh tế trong đó những vấn đề : sản xuất cái gì ? sản xuất như thế nào ? sản xuất cho ai? được giải quyết thông qua thị trường . Cơ chế thị trường là tổng thể các nhân tố, các quan hệ cơ bản vận động dưới sự chi phối của các quy luật thị trường trong môi trường cạnh tranh nhằm mục tiêu lợi nhuận. Nhân tố cơ bản trong cơ chế thị trường là cung cầu và giá cả thị trường. Cạnh tranh là môi trường, lợi nhuận là động lực. Đảng ta chủ trương cạnh tranh lành mạnh nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển. Thực tế qua hơn 10 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể . Mặc dù bên cạnh đó vẫn có nhiều hạn chế song cùng với sự quản lý của nhà nước, kinh tế chính trị xã hội dần dần được ổn định. 2.2. Lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường Xã hội loài người đã chuyển từ hình thái kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá và từ kinh tế hàng hoá chuyển lên hình thái kinh tế thị trường . Đó là những quá trình mang tính tất yếu lịch sử, bởi con người luôn luôn mong muốn thoả mãn một cách cao nhất nhu cầu của mình, trong đó có nhu cầu lợi nhuận trong kinh doanh. Tuy nhiên, cùng một hành vi tối đa hoá lợi nhuận nhưng không hoàn toàn giống nhau trong XHCN và TBCN. 2.2.1. Phân biệt lợi nhuận trong kinh tế thị trường XHCN và TBCN  Nếu như trong nền kinh tế thị trường TBCN lấy chế độ tư hữu làm nền tảng thì nền kinh tế thị trường XHCN dựa trên chế độ công hữu.Chính quan hệ sản xuất nói chung và quan hệ sở hữu nói riêng là yếu tố đầu tiên quy định sự khác nhau về bản chất của hai loại thị trường . Cơ chế thị trường quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nhưng do có sự khác nhau về bản chất giữa hai loại thị trường : kinh tế thị trường TBCN và kinh tế thị trường XHCN nên cùng theo đuổi mục tiêu lợi nhuận nhưng ở tính chất và mức độ khác nhau.  Mục tiêu của nền kinh tế thị trường XHCN là vì nhân dân lao động, do dân vì dân và thực hiện xã hội mọi người đều giàu có. Cho nên song song với việc phát triển kinh tế là thực hiện chính sách phân phối khác, kết hợp với việc các chính sách xã hội. Do đó khắc phục được sự phân hoá giàu nghèo, giảm dần được tỷ lệ nhân dân nghèo đói, mức sống trung bình của nhân dân ngày càng tăng.  Do chịu sự tác động của các quy luật kinh tế (quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh…) các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường luôn vận động cạnh tranh lẫn nhau. Tuy nhiên không vì thế mà họ có thể làm những việc trái với pháp luật, trái với tình người. Cạnh tranh trong môi trường XHCN không dã man tàn ác như trong môi trường TBCN, mà cạnh tranh để phát triển, phát triển vì mục tiêu con người . Lợi nhuận trong kinh tế thị trường XHCN không phải là kết quả của sự bóc lột sức lao động, không phải là quan hệ người bóc lột người mà là do tư liệu sản xuất thuộc về xã hội, lợi nhuận ở đây là số chênh lệch giữa giá cả sản xuất và giá thành sản xuất của các doanh nghiệp. Do đó, trong điều kiện giá cả nhất định, lợi nhuận trực tiếp phản ánh sự biến động của giá thành sản phẩm. Và cũng như đối với các doanh nghiệp trong các nền kinh tế thị trường khác nhau, lợi nhuận cũng là thước đo hoàn hảo nhất để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, nó là công cụ bình tuyển tự nhiên và rất công bằng : doanh nghiệp nào làm ăn có lãi sẽ tiếp tục mở rộng sản xuất và phát triển, còn doanh nghiệp nào làm ăn thua lỗ sẽ bị đào thải khỏi thị trường. Đối với các doanh nghiệp, một phần lợi nhuận sẽ được giữ lại để mở rộng sản xuất, đầu tư cải thiện sinh hoạt, làm việc của công nhân viên, trả tiền thưởng, trợ cấp… còn lại sẽ nộp cho nhà nước để phục vụ cho các mục đích công cộng như xây dựng cơ sở hạ tầng, phúc lợi xã hội…  Lợi nhuận trong CNXH là mục tiêu cuối cùng của các nhà kinh tế, kích thích các nhà kinh tế mở rộng mở rộng sản xuất kinh doanh nhưng nó không phải là mục tiêu cao nhất. Mục tiêu cao nhất là một mức lợi nhuận cao nhất trong khả năng cố gắng nỗ lực, đi kèm với bảo vệ môi trường, bảo vệ con người, bảo vệ chế độ, bảo vệ truyền thống dân tộc, bản sắc văn hoá và hơn hết là tình người. 2.2.2. Lợi nhuận trong kinh tế thị trường giai đoạn hiện nay  Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận vừa là mục tiêu, vừa là động lực của mọi hoạt động kinh tế. Cho nên lợi nhuận ảnh hưởng đến nền kinh tế nói chung và có thể kể đến một số ảnh hưởng tích cực sau:  Trên thị trường, quy luật cung cầu quyết định giá cả hàng hoá dịch vụ, do đó quyết định lượng lợi nhuận của doanh nghiệp. Do vậy, để thu được lượng lợi nhuận cao, các doanh nghiệp phải phát triển công nghệ thông tin, nắm bắt chính xác mọi thay đổi của thị trường và xử lý thông tin đó nhanh chóng, có hiệu quả, gây những ảnh hưởng có tính chất quyết định lên toàn bộ chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Lịch sử hoạt động kinh tế của một số nước phát triển trên thế giới, đặc biệt là trong 20 năm qua cho thấy sự tăng trưởng của công nghệ thông tin đã giúp cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn. Đến lượt nó, nền kinh tế phát triển tác động trở lại công nghệ thông tin, thúc đẩy công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ hơn.  Vì mục tiêu lợi nhuận, các nhà kinh doanh có thể có mặt ở mọi nơi mọi lúc, nếu ở đó có thể kiếm được nhiều tiền. Cũng vì mục đích đó, các doanh nghiệp có thể chuyển từ kinh doanh mặt hàng này sang kinh doanh mặt hàng khác nếu ngành mới có lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Do đó doanh nghiệp có thể đáp ứng kịp thời hơn, chất lượng hơn, đầy đủ hơn các nhu cầu của người tiêu dùng.  Để thu hút được khách hàng và chiếm được thị trường, những người sản xuất luôn phải cạnh tranh với nhau. Cạnh tranh làm cho các doanh nghiệp phải đổi mới được sản xuất, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, sản xuất nhiều hơn chất lượng hơn, giá thành sản xuất rẻ hơn. Đồng thời các doanh nghiệp cũng cố gắng một cách tối đa trong giới hạn cho phép của mình để đáp ứng tốt nhất nhu cầu thị trường về loại mặt hàng.Tuy theo đuổi mục đích lợi nhuận cá nhân, song vô hình chung, họ đã đem lại hiệu quả xã hội cao : tạo việc làm cho người lao động, tạo sản phẩm cho người tiêu dùng…  Lợi nhuận doanh nghiệp quyết định sự tồn tại hay sa thải các doanh nghiệp ra khỏi vũ đài kinh tế. Có nghĩa là nhà kinh tế làm ăn có lãi tiếp tục tồn tại trên thị trường đồng thời sẽ loại bỏ những cơ sở kinh doanh thua lỗ ra khỏi thị trường. Có thể nói, lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp để phản ánh toàn bộ kết quả và hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Lợi nhuận là động lực kinh tế thúc đẩy các doanh nghiệp không ngừng nâng cao hiệu quả xử lý các nguồn lực, nâng cao năng suất chất lượng và hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh nhằm thu được lợi nhuận cao. Đồng thời việc thu được lợi nhuận cao sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp phục vụ tốt hơn nhu cầu của thị trường. Lợi nhuận của doanh nghiệp không những là bộ phận quan trọng trong thu nhập thuần tuý của doanh nghiệp mà nó còn là nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước, là cơ sở để tăng thu nhập quốc dân của mỗi nước. Như vậy với mục tiêu lợi nhuận của mình, các doanh nghiệp không ngừng nâng cao trình độ tay nghề, nâng cao hiệu quả của quá trình sản xuất và kinh doanh góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất chung của xã hội. Ngoài ra, nhà nước, chính phủ phải tạo ra hành lang pháp lý để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.  Lợi nhuận thúc đẩy quan hệ hợp tác quốc tế . Lợi nhuận là lý do phát sinh và phát triển của nền kinh tế thị trường. Nó thúc đẩy quá trình mở cửa của nền kinh tế, nhằm mở rộng việc trao đổi hàng hoá, trao đổi khoa học kỹ thuật. Các nước tiến hành mở cửa nền kinh tế nhằm thu hút nguồn lực từ bên ngoài và phát huy nguồn lực bên trong làm thay đổi mạnh mẽ trình độ kỹ thuật trong nước. Đồng thời đầu tư ra nước ngoài sẽ mang lại mức lợi nhuận cao hơn trong nước. Như vậy, để thu hút được lợi nhuận cao hơn, đòi hỏi các nước phải tăng cường liên doanh liên kết, mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi.  Lợi nhuận thúc đẩy quá trình tái sản xuất xã hội . Muốn mở rộng sản xuất ngày càng hiện đại thì đòi hỏi phải tích luỹ nhiều vốn. Như đã biết, quá trình tái sản xuất mở rộng là sự lặp lại quá trình tái sản xuất cũ với quy mô lớn hơn trước, với một lượng tư bản lớn hơn trước. Muốn như vậy thì phải biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm. Do đó để tiến hành được quá trình tái sản xuất phải tạo ra được lợ nhuận. Lợi nhuận tạo ra càng nhiều thì quá trình tái sản xuất mở rộng càng diễn ra nhanh hơn và với quy mô lớn hơn. Ngược lại, việc thu được lợi nhuận cao sẽ kích thích các chủ doanh nghiệp tiếp tục mở rộng sản xuất thu được lợi nhuận cao hơn. Bên cạnh những mặt tích cực, lợi nhuận cũng có những tác động tiêu cực đến nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh khốc liệt giữa các nhà tư bản do mục đích theo đuổi tối đa hoá lợi nhuận. Do đó dẫn đến sự tích tụ tập trung tư bản mức độ cao hình thành nên các tổ chức độc quyền . Và cạnh tranh giữa các nhà độc quyền đã gây ra những thiệt hại lớn không những cho nền kinh tế thế giới mà cho cả môi trường tự nhiên như ô nhiễm môi trường, thủng tầng ô zôn, hàng triệu tấn rác thải chưa được xử lý… Trong xã hội và nền kinh tế luôn luôn có tình trạng bất ổn định như các cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, khủng hoảng tiền tệ, khủng hoảng dầu mỏ… gây ra lạm phát, thất nghiệp… Đồng thời với những quá trình đó là thu nhập tập trung phần lớn vào một số ít người trong xã hội, những người lao động chỉ được hưởng một phần nhỏ, khoảng cách giàu nghèo trong xã hội ngày càng tăng. Các nhà tư bản thu được lợi nhuận thì cứ tiếp tục giàu lên. Mặt khác, các nhà tư bản chỉ đầu tư vào nơi nào họ đảm bảo thu được lợi nhuận cao còn không họ sẽ không đâù tư vào. Sự phân phối bất hợp lý có thể là nguyên nhân gây mất ồn định trong tương lai. Ngoài ra trong xã hội còn có tình trạng đầu cơ tích trữ, làm hàng giả. Thay vì đầu tư máy móc thiết bị, mở rộng sản xuất, đã không ít những người tham lam hám lợi đã đầu cơ tích trữ hàng hoá tạo nên cơn sốt giả tạo, đẩy giá hàng hoá lên cao, sau đó bán ra thu lợi nhuận… Tệ hại hơn, đó là việc chạy theo lợi nhuận, chạy theo những lợi ích trước mắt mà có người có thể đang tâm làm những việc thất đức, vi phạm đạo đức, lối sống…là những hiện tượng phổ biến, mà người ta thường gọi là những khuyết tật của nền kinh tế thị trường. Đó là lời cảnh báo hết sức nguy cấp cho toàn xã hội, cần có những biện pháp thiết thực để cải tạo xã hội tốt đẹp hơn. 2.2.3. Lợi nhuận trong nền kinh tế Việt Nam Sau cuộc cải cách kinh tế (12/1996) Đảng và nhà nước ta đã thay đổi quan điểm về vấn đề lợi nhuận. Đảng ta đã khẳng định rằng lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu trong hoạt động sản xuất.Trong cơ chế hiện nay, muốn tồn tại và phát triển, không còn con đường nào khác là doanh nghiệp phải đạt lợi nhuận càng cao càng tốt, mới có điều kiện hơn trong việc mở rộng sản xuất kinh doanh theo chiều rộng lẫn chiều sâu, đủ sức cạnh tranh trên thị trường với các đối thủ của mình. Mười năm qua và nhất là năm năm gần đây, nền kinh tế nước ta đã có sự tăng trưởng đáng khích lệ. Đó là kết quả của quá trình đổi mới của đảng, sự nỗ lực của những người nông dân, công nhân, trí thức, của các gia đình, của bộ máy quản lý nhà nước và sự đầu tư của nước ngoài. Cùng với sự thay đổi cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đã có sự thay đổi về diện mạo và chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh bên trong của doanh nghiệp. Doanh nghiệp từ chỗ trước đây trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung chỉ là cơ cấu chấp hành : nhận vốn, vật tư, chỉ thị mệnh lệnh sản xuất từ cấp trên, ngày nay trở thành chủ thể sản xuất kinh doanh. Việc mở cửa nền kinh tế, hàng hoá từ nước ngoài tràn vào rất nhiều, mẫu mã và chủng loại rất đa dạng, với giá cả thấp nhưng vẫn đảm bảo chất lượng. Đứng trước tình hình đó, các đơn vị, doanh nghiệp tổ chức sản xuất trong nước đã mạnh dạn đầu tư công nghệ, máy móc hiện đại vào sản xuất. Cùng với nó là quá trình đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên chức. Với mục tiêu lợi nhuận đặt lên hàng đầu thì từ sau cải cách đến nay, hệ thống các doanh nghiệp Việt Nam đã phát triển rất mạnh mẽ. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp được nâng cao. Cơ cấu tổ chức quản lý doanh nghiệp có sự đổi mới theo hướng gắn với thị trường, tinh giảm bộ máy, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý. Cùng với việc mở cửa nền kinh tế chúng ta cũng đồng thời mở rộng quan hệ với các nước nhằm thu hút vốn đầu tư của nước ngoài. Những thay đổi trên đã làm cho đời sống của toàn dân tăng lên rõ rệt, mức thu nhập bình quân đầu người không ngừng tăng lên, cơ sở hạ tầng ngày càng được củng cố, tạo tiền đề vững chắc cho những bước đi vững chắc của dân tộc ta. Với những phân tích trên, đến đây chúng ta có thể khẳng định tầm quan trọng to lớn của lợi nhuận đối với một doanh nghiệp hay nói một cách khác: vấn đề nâng cao hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp là hết sức cần thiết. Việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan như : tình hình thị trường, các chế độ chính sách của nhà nước có liên quan, việc nắm vững và sử dụng nguồn lực doanh nghiệp, cách thức tổ chức quản lý kinh doanh, năng lực con người và đặc biệt là đội ngũ quản trị gia, việc lựa chọn và thực thi các chiến lược của doanh nghiệp, hiểu biết về đối thủ cạnh tranh… 3.Một số biện pháp làm tăng lợi nhuận Để làm tăng lợi nhuận ta phải tác động trực tiếp đến các nhân tố ảnh hưởng đến mức lợi nhuận. Đó là : 3.1.Quy mô của sản xuất hàng hoá dịch vụ Một doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả là doanh nghiệp giải quyết 3 vấn đề kinh tế cơ bản : sản xuất cái gì ? sản xuất như thế nào ? sản xuất cho ai ?  Sản xuất cái gì ? là quyết định của doanh nghiệp sản xuất hàng hoá dịch vụ với số lượng bao nhiêu, bao giờ thì sản xuất, cung ứng sản phẩm cho thị trường. Trên cơ sở nhu cầu của thị trường, các nhà kinh tế cân đối với khả năng sản xuất của nền kinh tế, của từng doanh nghiệp và chi phí sản xuất tương ứng để lựa chọn và quyết định cung ứng cái gì để đạt được mức lợi nhuận cao nhất, đạt được thu nhập quốc dân cao nhất. Gía cả trên thị trường là bàn tay vô hình điều chỉnh quan hệ cung cầu giúp chúng ta sản xuất cái gì.  Sản xuất như thế nào? nghĩa là phải sản xuất bằng lực lượng sản xuất(gồm cả con người và công nghệ ) như thế nào, tài nguyên, nhiên liệu gì và phương án sản xuất ra sao. Sau khi đã lựa chọn sản xuất hàng hoá dịch vụ gì, các nhà kinh tế phải tính toán làm sao để sản xuất hàng hoá với chi phí thấp nhất mà vẫn đảm bảo khả năng cạnh tranh trên thị trường. Mục tiêu lợi nhuận đã buộc các nhà kinh tế phải tìm kiếm, lựa chọn phương án sản xuất tối ưu : đầu vào tối thiểu ( chi phí thấp nhất ), đầu ra tối đa ( sản xuất nhanh nhất, nhiều nhất, chất lượng cao ).  Sản xuất cho ai ? doanh nghiệp cần phải xác định được đối tượng tiêu dùng hàng hoá dịch vụ do mình sản xuất ra, để từ đó đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng. Mức lợi nhuận cao sẽ thu hút các nhà doanh nghiệp xuất hiện ở mọi nơi mọi lúc, đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng. Các doanh nghiệp cần áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới nhất vào sản xuất, đào tạo chuyên sâu, nâng cao tay nghề cho những người thợ, người công nhân, đúc rút kinh nghiệm, nâng cao trình độ quản lý của cán bộ. Như thế năng suất lao động sẽ tăng lên, mặt khác sẽ giảm được chi phí sản xuất. Hay nói cách khác, đó là phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Bên cạnh đó thúc đẩy quan hệ sản xuất phát triển : chế độ sở hữu, chế độ quản lý và chế độ phân phối phải phù hợp, kết gắn với nhau, phát huy các nguồn lực, tạo ra động lực mạnh mẽ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện công bằng xã hội. 3.2. Tổ chức tiêu thụ hàng hoá có lợi nhuận Tiêu thụ là một khâu trong quy trình sản xuất- phân phối- trao đổi- tiêu dùng, do đó thị trường tiêu thụ hàng hoá là một trong những vấn đề quan trọng mà các nhà doanh nghiệp rất quan tâm. Những tồn tại trong vấn đề tiêu thụ :  Quảng cáo của chúng ta ít gây tác động và hưởng ứng. Không có việc lên dự án trước đúng thể thức. Thư và tài liệu chào hàng của chúng ta không hoàn hảo Sản phẩm của chúng ta chưa nhạy bén với các thị trường đang thay đổi Kinh doanh của chúng ta đang sinh lợi nhưng nguồn tiền mặt luôn eo hẹp. Khắc phục những điểm yếu của nhân viên tiêu thụ. Giải pháp cụ thể : 1)Xác định những nhu cầu của thị trường, phân tích thị trường hiện tại và tương lai. Khi sản xuất chế tạo ra một sản phẩm mới, người quản lý phải nghiên cứu kỹ lưỡng thị trường để xác định xem có tồn tại những nhu cầu thực tế hay không, quy mô thị trường sẽ như thế nào? Sự hiểu biết thị trường sâu sắc sẽ tạo điều kiện cho các nhà sản xuất phản ứng với những biến động thị trường một cách nhanh nhậy, có hiệu quả. Nghiên cứu thị trường là một điều kiện tiên quyết đối với mọi công ty muốn đưa ra sản phẩm mới hoặc mở rộng thị trường của mình với những sản phẩm hiện có. 2) Phân tích sự cạnh tranh để từ đó biết được mọi khía cạnh của những cái mạnh và yếu của các đối thủ chính trong mỗi khu vực thị trường để hoạch định kế hoạch tiêu thụ, nhằm vượt qua cạnh tranh. Chiến thắng trong cạnh tranh với sự đưa ra sản phẩm mới có thể là một lợi nhuận thương mại nhưng ãn đầu cạnh tranh đòi hỏi một sự hoạch định tiêu thụ đúng đắn. Kế hoạch tiếp thị phải bao gồm việc xử lý năng động và sáng tạo đối với quảng cáo, hoạt động thúc đẩy và tiếp xúc với quần chúng, với đội ngũ nhân viên có huấn luyện, có năng lực. 3) Hoạch định những chiến lược hiện đại để tồn tại. Ngày nay, tính năng động trong toàn công ty sẽ là vấn đề quyết định. Sự phát triển phải gắn liền với thị trường, tạo ra những sản phẩm và dịch vụ có nhu cầu thực sự. Việc cung cấp những sản phẩm mà thị trường tiêu thụ mong muốn sẽ tạo ra sức bật mạnh mẽ cho đội ngũ tiêu thụ, tạo điều kiện cho họ thâm nhập thị trường một cách có hiệu quả. Các nhà sản xuất nên rất thận trọng trong những giai đoạn cực thịnh khi mà sự tồn tại trong tương lai phụ thuộc vào sự phát triển có kiểm soát hơn là phát triển bột phát. 4) Tấn công vào thị trường một cách có hiệu quả nhất. Một doanh nghiệp có cái nhìn đúng đắn về hiện trạng doanh nghiệp, môi trường hoạt động để đề ra mục tiêu xác đáng, các chiến lược, giải pháp để thực hiện mục tiêu đề ra. Với mục tiêu đề ra, các doanh nghiệp phải đề ra chiến lược cho từng thời kỳ. Đồng thời cần lượng giá những rủi ro, những thua lỗ thất bại có thể có vì khi tình hình không như mong muốn doanh nghiệp dễ rơi vào tinhf trạng phá sản. 5) Thêm giá trị, tăng lợi nhuận. Việc tăng thêm giá trị và tăng thêm tính độc đáo cho sản phẩm có thể giúp người sản xuất gạt bỏ nhu cầu tham gia vào đấu trường chỉ về giá không hay ho gì. Những cuộc cạnh tranh đơn thuần về giá có thể là một trò chơi nguy hiểm, nó xói mòn lãi xuất và làm giảm mức lợi nhuận có thể thu được, từ đó “cấm đoán” những dự án “bành chướng” tiềm tàng. Tăng thêm giá trị cho sản phẩm bất cứ khi nào có thể được để tăng lợi nhuận, tăng thị phần. 6) Chiếm lĩnh thị trường bằng sự chuyên môn hoá. Các mức lợi nhuận thực tế và thoả đáng có thể thu được nhờ sự chuyên biệt với những sản phẩm được tăng thêm giá trị hoặc có một cái gì đó khác đối thủ, cho phép nhà sản xuất “chiếm được” thanh danh lừng lẫy như một nhà sản xuất chuyên gia. Việc chuyên môn hoá thu hút sản xuất và kinh doanh và cống hiến những cơ hội rất khả quan cho phép sự phát triển có lợi. 7) Phân phối có hiệu quả . Chi phí vận chuyển và giao hàng cao cần được ưu tiên cân nhắc. Những lô hàng hoàn hảo trả cước phí vận chuyển trước được giao một cách hiệu quả bảo đảm sự bền vững và tính hiệu quả về thu nhập cho một mạng lưới phân phối lưu thông. Ngoài ra, khen thưởng để tạo hiệu quả cao trong công việc là yếu tố động viên bổ xung để người lao động thực hiện mục tiêu đề ra một cách hài lòng, tiền thưởng trao đều đặn để người lao động vui hưởng ngay thành quả lao động và cố gắng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình. 3.3.Tổ chức hoạt động kinh tế vĩ mô của doanh nghiệp Khả năng lãnh đạo của chủ doanh nghiệp ảnh hưởng trực tiếp đến các quyết định của doanh nghiệp đối với ba vấn đề kinh tế cơ bản, do đó nó ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, nói cách khác nó ảnh hưởng trực tiếp đến việc thu lợi nhuận của doanh nghiệp. Để thực hiện biện pháp cần phải nhận thức, hiểu rõ vai trò, tầm quan trọng của quản trị đối với doanh nghiệp. Nói chung trước tình hình kinh doanh hiện nay, nhiều doanh nghiệp đi đến chỗ thua lỗ, phá sản do nhiều nguyên nhân. Nhưng ta có thể khẳng định một trong những nguyên nhân cơ bản nhất đó là sự yếu kém trong quả trị của các nhà quản trị. Vì vậy trước tiên cần phải trang bị hay trang bị lại những kiến thức kinh doanh hiện đại, tạo điều kiện để các nhà quản lý tham gia vào các khoá đào tạo, bồi dưỡng về quản trị, học hỏi các kinh nghiệm quản lý của các nước phát triển. Việc có được trình độ quản lý cao là cơ sở để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực tổ chức như vốn, nhân sự, công nghệ…cũng như làm chủ được các yếu tố bên ngoài như thị trường, giá cả hạn chế những lãng phí, tổn thất. Trên đây là một số những biện pháp , kiến nghị được rút ra từ thực trạng kinh doanh của các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay. Tuy lượng tri thức bản thân còn ít ỏi, nhưng em tin tưởng rằng chúng sẽ không là một bài văn cứng nhắc mà trong một giới hạn nào đó là có ích cho việc nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, có ích cho công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa của đất nước. Phần kết luận Với một đề tài khá rộng, trong phạm vi chỉ khoảng hơn hai mươi trang giấy, bài viết của em tuy không phân tích hết được mọi khía cạnh cũng như mọi nội dung có liên quan đến “ nguồn gốc và vai trò của lợi nhuận đối với sự phảt triển kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” , nhưng em hy vọng và tin tưởng rằng những vấn đề quan ttọng và thiết yếu nhất đã được đưa ra xem xét, phân tích và đánh giá. Bài viết đã tổng kết được tất cả các quan điểm về lợi nhuận từ khoảng giữa thế kỷ XV cho đến khi nó đạt tới đỉnh cao của khoa học và mang ý nghĩa thực tiễn lớn lao – phạm trù lợi nhuận trong học thuyết kinh tế của Karl Marx. Trên cơ sở những nhận thức lý luận ấy, bài viết tiếp tục lý giải vai trò và sự cần thiết của việc tăng lợi nhuận trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vấn đề lợi nhuận được nhìn nhận một cách khách quan và đánh giá như một chỉ tiêu quan trọng số một khi đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời vấn đề hiệu quả kinh tế cũng được xem xét bằng những nhận thức mới nhất dựa trên cơ sở lý luận khoa học từ những thế kỷ trước mà vẫn mang tính thời đại. Giữa thế kỷ XIX Marx đã rút ra một nhận định hết sức quan trọng “ lịch sử chỉ đặt ra những nhiệm vụ phải giải quyết khi mà sự phát triển của lịch sử đã chứa đựng những tiền đề để giải quyết nó “ . Vì thế, chúng ta hãy kiên trì đi theo chỉ dẫn của Marx, phân tích các bài học lịch sử và thực tiễn hiện nay của dân tộc và thế giới, chắc chắn với trí tuệ của người Việt Nam chúng ta sẽ đưa dân tộc Việt Nam phát triển trong thời đại mới. Tài liệu tham khảo 1.Chiến lược thị trường- J ohn Shaw NXB Thế giới-1995 2.Giáo trình KTCT NXB Giáo dục-1998 3.Kinh tế học chính trị Mac-Lenin NXB CTQG-1999 4.Kinh tế học P.Samuellson 5.Lịch sử các học thuyết kinh tế NXB Giáo dục-1998 6.Tư bản- quyển I, quyển III 7.Tạp chí: Dự báo-chiến lược-chính sách Nghiên cứu kinh tế Ngân hàng Nghiên cứu phát triển Phát triển kinh tế Thương mại Tài chính doanh nghiệp Mục lục Mở đầu Nội dung 1.Những vấn đề lý luận chung 1.1.Quan điểm về lợi nhuận của các nhà kinh tế học trước mac 1.2.Quan điểm về lợi nhuận của mac 1.3.Quan điểm về lợi nhuận của một số nhà kinh tế học mới 2.Vai trò của lợi nhuận đối với sự phát triển kinh tế Việt nam giai đoạn hiện nay 2.1.Vài nét về nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN ở VN 2.2.Lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường 2.2.1.Phân biệt lợi nhuận trong kinh tế thị trường XHCN và TBCN 2.2.2.Lợi nhuận trong kinh tế thị trường giai đoạn hiện nay 2.2.3.Lợi nhuận trong nền kinh tế VN giai đoạn hiện nay 3.Một số biện pháp làm tăng lợi nhuận 3.1.Quy mô của sản xuất hàng hoá và dịch vụ 3.2.Tổ chức tiêu thụ có lợi nhuận 3.3.Tổ chức hoạt động kinh tế vĩ mô của doanh nghiệp Kết luận

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Nguồn gốc và vai trò của lợi nhuận đối với sự phát triển của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.pdf
Luận văn liên quan