Luận văn Nhà có gia phả như Nước có quốc sử

Hồi Pháp thuộc mỗi làng có một nghĩa trang. Làng Vĩnh Thuận có gò thứ 10 và làng Vĩnh Khang có gò 11. Trước kia các phần mộ từ đời cụ Nghĩa trở xuống đều chôn ở gò thứ 11. Năm 1966 do yêu cầu đắp con đê mới chạy qua giữa nghĩa trang gò 11 nên xã Vân Nam đã cho quy tu các mộ ở gò 11 về gò thứ 10 như hiện nay. Ông Mô đứng ra thực hiện việc di chuyển các mộ của nhà ta. Ông đã cho khiêng cả các nấm xây bằng gạch đi theo rồi ghép lại trả về các mộ, nhưng bị vỡ một số mảng không đủ cho các mộ, ông đã sang táng hài cốt cụ Nghĩa và cụ Thư chung một nấm (2 bố con).

pdf131 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2600 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nhà có gia phả như Nước có quốc sử, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là con thứ 4 của ông Nhã và bà Xuân. Tuổi nhỏ ham học và chăm chỉ làm việc nội trợ gia đình. Tốt nghiệp kỹ sư thực phẩm của Trường Đại học Bách Khoa. Công tác tại Tổng Công ty lương thực, thực phẩm, Hà Nội. Là một cán bộ có trách nhiệm công tác tốt. Có thời kỳ làm phó phòng kỹ thuật Xí nghiệp bột Hoàng Mai, và một năm được bầu là chiến sĩ thi đua của ngành. Hiện nay bà Tuyết và em gái là Dung cùng ở với mẹ (bà Xuân) tại căn hộ nhà số 19 (3 tầng) ngõ 64 phố Phó Đức Chính, Hà Nội, hai chị em trực tiếp chăm sóc mẹ tuổi già (ngoài 80) có bệnh mãn tính. 5. Đào Viết Thọ Ông Đào Viết Thọ, sinh năm 1951 (Tân Mão) là con thứ 5 của ông Nhã và bà Xuân. Tốt nghiệp Đại học Kiến trúc Việt Nam, là kiến trúc sư công tác ở Bộ Xây dựng, trực tiếp tham gia các dự án và các công trình xây dựng của Bộ Giao thông. Hiện nay công tác tại một công ty thuộc Tổng Công ty Xây dựng sông Đà (phó giám đốc Công ty xây lắp 96 thuộc Tổng Công ty xây dựng sông Đà). Vợ: Phạm Thị Kim Chung, người Hà Nội (quận Hai Bà Trưng), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội, là giáo viên dạy giỏi cấp thành phố. Hiện là giáo viên dạy trường PTCS Nguyễn Du, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Đã mất tháng 01-2003 (do bệnh phù thận). Hai ông bà sinh được 1 con trai: 1. Đào Nhật Tú SN 1979, đã tốt nghiệp Đại học Kiến trúc. 6. Đào Thị Nga Bà Đào Thị nga, sinh năm 1953 là con thứ 6 của ông Nhã và bà Xuân. Tốt nghiệp trung cấp cơ điện. Tốt nghiệp cử nhân Luật của Trường Đại học Tổng hợp. Hiện công tác tại Cục Hải quan Hà Nội. Chồng: Nguyễn Thành Hưng, cử nhân Luật, trung tá công an quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Nhà ở hiện nay C4B, phường Thành Công, quận Ba Đình, Hà Nội. Ông bà sinh được một con gái: Nguyễn Quỳnh Hương, sinh năm 1981 đang là sinh viên Trường Đại học Phương Đông, Hà Nội. 7. Đào Bích Liên Bà Đào Thị Bích Liên, sinh năm 1956, là con thứ 7 của ông Nhã và bà Xuân. Tốt nghiệp Đại học Kiến trúc, hiện là cán bộ công tác tại Tổng cục đường sắt. Chồng: Đồng Quang Tuấn, người quê ở Bắc Giang, Kỹ sư đại học Kiến trúc; hiện là cán bộ xây dựng của Tổng cục đường sắt. Ông bà sinh được 2 con: 1. Đồng Quang Anh SN 1982 (sinh viên) 2. Đồng Vân Anh SN 1984 (sinh viên). Nhà ở hiện nay số 8, phố 353 đường Giải Phóng, phường Giáp Bát, Quận Thanh Xuân, Hà Nội. 8. Đào Thị Dung Bà Đào Thị Dung, sinh năm 1960, là con thứ 8 của ông Nhã và bà Xuân. Tuổi nhỏ là một học sinh chăm ngoan. Năm 1978 trúng tuyển vào trường Đại học Sư phạm Ngoại Ngữ, học Khoa Trung Văn. Sau mấy tháng học, xin chuyển xuống trường quản lý kinh tế Hà Nội. Đã tốt nghiệp trung cấp quản lý kinh tế và công tác tại Công ty ăn uống quận Đống Đa, được một thời gian về nghỉ theo "176" (giảm biên chế). Về sức khỏe: thị lực kém (phải mổ mắt), đồng thời có 1 phần ảnh hưởng bệnh tim, không lao động nặng được. Hiện nay cùng mẹ và chị gái Đào Thị Tuyết ở nhà căn hộ (3 tầng) ngõ 64 phố Phó Đức Chính, quận Ba Đình, Hà Nội. IV. Các con của ông nhạc và bà Vy 1. Đào Thị Minh Đức Bà Đào Thị Minh Đức, sinh năm 1937 (Đinh Sửu) là con cả của ông Nhạc và bà Vy. Lúc nhỏ được đi học hết tiểu học. ở cùng với mẹ khi hồi cư về Hà Nội 1947 giúp việc nội trợ gia đình. Sau khi bà Vy (mẹ) mất 1954, bà Đức tự lực kiếm sống làm các nghề phụ như đan len, buôn bán nhỏ lặt vặt. Năm 1958 được tuyển làm công nhân viên của công ty lương thực Hà Nội và công tác ở đó cho đến ngày về nghỉ hưu. Chồng: Nguyễn Văn Trí nguyên là y tá của bệnh viện Phủ Doãn. Ông bà sinh một con trai: Nguyễn Minh Hùng SN 1961. Hai ông bà đã ly hôn và hiện ông Trí đã mất. Bà Đức ở cùng con trai tại số nhà 9 ngõ Châu Long, Phường Trúc Bạch, quận Ba Đình, Hà Nội đã có 3 cháu nội. 2. Đào Đình Tứ Đào Đình Tứ, sinh năm 1940 là con thứ 2 của ông Nhạc và bà Vy, mất khi 1 tuổi ở Hà Nội, không có phần mộ. 3. Đào Ngọc Hải Ông Đào Ngọc Hải sinh năm 1943 (Quý Mùi), tại Hà Nội là con thứ 3 của ông Nhạc và bà Vy. Lúc nhỏ ở với mẹ, khi mẹ mất sớm đi theo bố dạy học ở Bắc Giang, cùng các em, Hải rất tích cực lao động và ham học. Tốt nghiệp trung học phổ thông, Hải nhập ngũ vào đơn vị Phòng không ở Hà Nội. Công tác và chiến đấu, Hải đã hoàn thành tốt nhiệm vụ, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam và được khen thưởng biểu dương nhiều lần. Năm 1987, Hải nghỉ hưu quân hàm đại úy về ở cùng với bố ở số nhà 4 phố Yên Ninh. Ông Hải rất tích cực lao động làm thêm để tăng thu nhập gia đình bảo đảm cuộc sống như xay đậu. Đối với khu phố có ý thức trách nhiệm trong công tác lãnh đạo đã tham gia chi ủy, bí thư chi bộ khu phố, tổ trưởng tổ hưu trí được nhân dân địa phương tín nhiệm. Hiện nay gia đình làm nhà mới ở đường Lạc Long Quân số 23 ngõ 416. Vợ: Ninh Thị Ngà, sinh 1953 (Quý Tỵ). Quê quán: Phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, Hà Nội, hiện đang dạy học trường Trung học cơ sở Tứ Liên, quận Tây Hồ, Hà Nội. Ông bà sinh được hai con trai: 1. Đào Ngọc Anh SN 1983 - học sinh 2. Đào Ngọc ánh SN 1985 - học sinh. 4. Đào Trọng Hậu Ông Đào Trọng Hậu, sinh 9-1 năm 1946 (ất Dậu) là con thứ ba của ông Nhạc và bà Vy. Tuổi nhỏ là một học sinh giỏi. Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp - Khoa Vật Lý địa cầu được về công tác tại Tổng cục địa chất Việt Nam. Từ 1980 đến 1992 đi lao động nước ngoài (làm đội trưởng), ở Liên Xô cũ (bây giờ là Liên bang Nga). Từ 1993 nghỉ công tác. Hiện nay ở số 601 nhà E3 chung cư Vĩnh Phúc, phường Cống Vị, quận Ba Đình, Hà Nội chăm lo công việc gia đình. Vợ: Nguyễn Thị Khương, sinh năm 1949 (Kỷ Tỵ) cán bộ ngành dược của công ty dược phẩm Hà Nội 5 năm, rồi về công tác tại bệnh viện huyện Từ Liêm, Hà Nội, 20 năm. Nay nghỉ hưu. Ông bà sinh được 3 người con: 1. Đào Trọng Dũng SN 1970 2. Đào Trọng Quang SN 1972 3. Đào Thị Vân Hằng SN 1974. 5. Đào Trọng Hiếu Ông Đào Trọng Hiếu, sinh năm 1948 (Mậu Tý), là con thứ 5 của ông Nhạc và bà Vy. Tuổi nhỏ, sau khi mẹ mất, ở với bố (dạy học ở Bắc Giang), chịu khó lao động và học tập tốt. Học xong Trung học, nhập ngũ, lúc đầu là công nhân quốc phòng (nhà máy Quang Học), sau chuyển công tác sang cục Vận tải, học lái xe và trở thành lái xe thuộc Đoàn 3 của Tổng cục Hậu Cần. Ông đã tham gia vận tải cho nhiều chiến dịch ở các chiến trường miền Nam (ở Đoàn 559) và các đơn vị hậu phương miền Bắc. Trong nhiệm vụ công tác có nhiều khó khăn ông đã dũng cảm, chịu đựng gian khổ luôn có quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ tốt. Từ năm 1975, ông chuyển công tác về Bộ Nông nghiệp, rồi nghỉ hưu trong quá trình công tác ông được khen thưởng: Huân chương kháng chiến hạng 3 và 1 huân chương chiến sĩ vẻ vang hạng 3. Vợ Phạm Thị Đức, sinh năm 1952, người Hà Nội, quận Hoàn Kiếm. Là nhân viên dịch vụ thương mại của Bộ Lương thực, thực phẩm. Nay đã nghỉ hưu. Ông bà sinh được 1 con gái: Đào Minh Hảo. Nơi ở hiện nay: Ông bà mới làm nhà ở số 14, ngõ 30, Đường Lương Đính của phường Phương Mai, quận Thanh Xuân, Hà Nội. V. Các con của ông đường và bà thụ 1. Đào Thị Hợi Bà Đào Thị Hợi là con gái đầu của ông Đường và bà Thụ, sinh năm 1947 (Đinh Hợi). Tuổi nhỏ đi học ở quê và lao động gia đình. Lớn lên được tuyển công nhân quốc phòng (do anh Liễn giới thiệu), học đào tạo thợ quân giới, ra làm việc tại nhà máy sửa chữa khí tài quang học, thuộc Tổng cục Kỹ thuật của Bộ Quốc phòng. Hiện nay nghỉ hưu. Chồng: Nguyễn Đình Đức, trung tá quân đội đã nghỉ hưu, người cùng làng. Gia đình hiện nay ở quê (thôn Vĩnh Khang) mua lại vườn cũ của ông Nhạc, rồi làm nhà ở. Ông bà sinh được 3 người con: 1. Nguyễn Thị Yên, cử nhân Luật, hiện là thư ký Tòa án, huyện Thạch Thất, Hà Tây. 2. Nguyễn Văn Chung, tú tài đang học thợ. 3. Nguyễn Văn Khánh, tú tài ở nhà. 2. Đào Văn Thìn Ông Đào Văn Thìn sinh năm 1952 (Nhâm Thìn), là con thứ 2 của ông Đường và bà Thụ. Tuổi nhỏ chăm học thông minh, tốt nghiệp trung học phổ thông điểm cao được xét vào Đại học Khoa học Thủy công thủy điện trường Đại học Thủy Lợi. Ra trường được về công tác tại Viện Thiết kế Thủy lợi, Thủy điện. Hiện nay làm giám đốc văn phòng Công ty tư vấn xây dựng thủy lợi 1 thuộc Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn - đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam đang học thạc sĩ. Vợ: Phạm Thị Quý, sinh năm 1954 (Giáp Ngọ), quê ở xã Quỳnh Giao, huyện Quỳnh Phụ, Thái Bình. Hiện là cán bộ phòng tổ chức trường Đại học Thương mại - đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông bà sinh được 2 người con: 1. Đào Ngọc Thiết, SN 1978 (Đinh Tỵ) 2. Đào Thị Hồ Hương, SN 1982 (Nhâm Tuất). Gia đình hiện đang ở khu tập thể trường Đại học Thương mại - Hà Nội. VI. Các con của ông Đài và bà Rói 1. Đào Thị Minh Nguyệt Đào Thị Minh Nguyệt, sinh ngày 21-1-1960 (Kỷ Hơi). Khi học đến lớp 4 tiểu học khai tăng tuổi để đi thi, nên hồ sơ năm sinh là 21-1-1959. Là con đầu của ông Đài và bà Rói; lúc mới đẻ (ở trạm xá xã Vân Nam) rất gầy, nhẹ cân (khoảng 1,8 kg) cả nhà rất thương, Cụ Lộc gọi là "gái gầy" vì thế. Do sơ tán chiến tranh, Nguyệt về quê ở với bà Nội (cụ Lộc) và bác Đường, học xong tiểu học đến 1970 lên thị xã học cấp 2 và cấp 3. Năm 1976 thi đỗ vào Đại học Sư phạm 2 ở Xuân Hòa, học đến năm thứ hai bị bệnh viêm cầu thận phải ngừng học để chữa bệnh. Qua nhiều năm điều trị bằng thuốc tây cũng như thuốc đông y của nhiều lương y, bệnh vẫn không khỏi, trở thành mãn tính. Tính đến nay đã hơn 20 năm, hiện bây giờ tạm ổn định nhưng phải thường xuyên ăn nhạt tuyệt đối. Từ năm 1988 làm công tác văn phòng ủy ban Nhân dân phường Lê Lợi, Sơn Tây, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1991, nhiều năm được giấy khen của UBND thị xã. 2. Đào Xuân Chiến Đào Xuân Chiến sinh ngày 18 tháng 4 năm 1968, là con thứ hai của ông Đài và bà Rói. Tuổi nhỏ, được đi học nhưng trình độ và khả năng tiếp thu hạn chế, học chưa hết cấp 2 tự thôi học. Bà Rói (mẹ) xin cho được đi làm công nhân của xí nghiệp rau quả xuất khẩu Sơn Tây. Đến năm 1988 - 1989 đi làm nghĩa vụ quân sự xong trở về tiếp tục làm việc tại xí nghiệp rau quả xuất khẩu Sơn Tây, được một thời gian vì xí nghiệp không đảm bảo có công ăn việc làm, công nhân nghỉ dài, hiện nay lao động tự do, có thời kỳ đạp xích lô, nay trông xe đạp cổng chợ Nghệ. Năm 1991 xây dựng gia đình. Vợ: là Giang Thị Hải Yến, quê ở Sài Sơn, Quốc Oai, hiện nay lao động tự do, chạy chợ bán hàng vặt. Có 2 con trai sinh đôi: Đào Xuân Vinh SN 1991 Đào Xuân Quang SN 1991. 3. Đào Thị Minh Loan Đào Thị Minh Loan, sinh ngày 31 tháng 7 năm 1970, là con gái thứ ba của ông Đài và bà Rói. Học xong cấp 3 Sơn Tây thi vào Cao đẳng sư phạm Hà Nội. Sau 3 năm tốt nghiệp được bổ nhiệm làm giáo viên dạy văn trường Trung học cơ sở xã Đường Lâm, Sơn Tây. Năm 1994 được chuyển về trường chuyên Sơn Tây (bây giờ gọi là Trung học cơ sở Sơn Tây), dạy văn. Năm 1998 học tại chức Đại học trường Đại học Quốc gia (xã hội, nhân văn) tốt nghiệp được cấp bằng cử nhân chính quy (cử nhân khoa Ngữ Văn). Năm 2001 được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Chồng: Lê Văn Anh, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát Nhân dân huyện Ba Vì, đảng viên. Hiện nay ở gia đình nhà chồng: thôn Đông Sàng, xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây. Được 1 con gái: Lê Thị Phương Thảo, SN 1997. 4. Đào thị Minh Phương Đào Thị Minh Phương, sinh năm 1975 (20-5-1945) là con thứ 4 của ông Đài và bà Rói. Tuổi nhỏ học giỏi được giấy khen của cấp tỉnh và một lần được về Thủ đô lĩnh phần thưởng. Năm 1992 thi đỗ vào trường Đại học Luật Hà Nội. Sau 5 năm tốt nghiệp (1997) được cấp bằng đỏ cử nhân luật loại khá. Từ tháng 8 năm 2001 công tác tại Trường Đại học Giao thông và Vận tải (ở trung tâm Thông tin, Thư viện). VII. Các con của ông Giáp và bà Hòa 1. Đào Tố Hoan Đào Tố Hoan sinh năm 1960 (Canh Tý) là con đầu của ông Giáp và bà Hòa. Tuổi nhỏ là học sinh ngoan chăm chỉ lao động trong gia đình. Tốt nghiệp trung học phổ thông, thi vào học trường Trung học quân y của Tổng cục Hậu Cần, quân đội ra trường được điều về làm y tá ở Viện Quân y 105 Sơn Tây. Sau một thời gian (5 năm) chuyển về bệnh viện nội tiết, Hà Nội, hiện nay là cán bộ Phòng tổ chức của bệnh viện. Tốt nghiệp cử nhân luật học tại chức năm 1997 được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam năm 2001. Chồng: Lê Minh Tâm, sinh năm 1952 (Nhâm Thìn), Phó giáo sư, Tiến sĩ Luật học. Hiện là Hiệu trưởng trường Đại học Luật Hà Nội. Các con: 1. Lê Thái Phương SN 1982 đang học Đại học Luật. 2. Lê Minh Sơn SN 1992 học sinh lớp 6. Nơi ở gia đình: Số nhà 101 nhà A4, khu tập thể Đại học Luật Hà Nội. Đường Nguyên Hồng, Phường Láng Hạ, quận Đống Đa. 2. Đào Ngọc Giao Đào Ngọc Giao, sinh năm 1961 (Tân Sửu), là con thứ hai của ông Giáp và bà Hòa, tuổi nhỏ học giỏi, chăm lao động. Tốt nghiệp trung học phổ thông, học trung cấp Xây dựng xong, làm việc Sở Xây dựng Hà Nội. Năm 1982 nhập ngũ nghĩa vụ quân sự. Hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác và chiến đấu ở biên giới phía Bắc, được kết nạp đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1985. Đi lao động nước ngoài ở Liên bang Nga từ 1989 đến năm 1994 về nước. Hiện nay công tác trong Ban quản lý chợ Đồng Xuân, Hà Nội. Đã tốt nghiệp cử nhân Luật học tại chức năm 1997. Vợ: Nguyễn Thị Nguyệt, công nhân về mất sức giảm biên chế, hiện tại: nội trợ gia đình, bán hàng ăn sáng. Các con: 1. Đào Trúc Quỳnh SN 1987 học sinh 2. Đào Tố Linh SN 1995 học sinh Nơi ở gia đình hiện nay: Số nhà 628, đường Láng, phường Láng Hạ, Thanh Xuân, Hà Nội. 3. Đào Trọng Giang Đào Trọng Giang, sinh năm 1962 (Nhâm Dần), là con thứ 3 của ông Giáp và bà Hòa. Học xong trung học, nhập ngũ làm nghĩa vụ quân sự. Trong thời gian ở bộ đội, đã hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác được giao. Ra quân về làm công nhân xây dựng. Hiện nay làm nhân viên bảo vệ Trường Đại học Luật Hà Nội. Được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam năm 2002. Vợ Nguyễn Thị Hồng SN 1963, quê ở Sơn Tây, công nhận về nghỉ mất sức, giảm biên chế, hiện ở nhà, công việc nội trợ gia đình, bán hàng nước. Các con: 1. Đào Thúy Anh SN 1991 học sinh 2. Đào Trọng Khôi SN 1998. Gia đình hiện nay ở số 628 đường Láng, phường Láng Hạ, Hà Nội. 4. Đào Đức Cần Đào Đức Cần, sinh năm 1971 (Tân Hợi) là con thứ 4 của ông Giáp và bà Hòa. Tốt nghiệp Trung học phổ thông xong, làm việc một thời gian ở ban quản lý chợ hàng Bè Hà Nội, đồng thời học tại chức Đại học Luật. Tốt nghiệp cử nhân luật năm 1994. Hiện nay là thư ký Tòa án Nhân dân huyện Từ Liêm Hà Nội. Được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam năm 2001. Vợ: Võ Thị Liên Hương SN 1975, hiện đang công tác ở Trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Các con: 1. Đào Tố Trâm, sinh năm 2003. Đời thứ tám I. Các con của ông Liễn và bà Chỉnh 1. Đào Thị Hạnh Đào Thị Hạnh sinh năm 1947 (Đinh Hợi). Tuổi nhỏ đi học xong trung học cơ sở ở Hà Nội đến 1964 nhập ngũ. Sau chuyển sang chế độ công nhân quốc phòng. Quân hàm trung sĩ, thợ sửa chữa khí tài quân giới (đồng hồ đo), nhà máy X100, thuộc Tổng cục Kỹ thuật. Trình độ tay nghề thợ bậc 7/7. Năm 1990 do mắc bệnh hiểm nghèo: Viêm phù thận đã được điều trị tại bệnh viện 354 quân đội, nhưng không qua khỏi và mất ngày 18 tháng 6 năm 1990. Mộ chị hiện nay tại khu nhà Tầng thờ, nghĩa trang Văn Điển. Chồng: Tô Trọng Nghiệp, sinh 1944, đảng viên, giáo viên trường Đại học Ngoại Thương, hiện giữ chức vụ phó phòng quản lý giáo dục đào tạo của trường. Các con: 1. Tô Kiều Oanh, SN 1973 (đã có chồng + con) 2. Tô Hoài Thu SN 1976 (đã có chồng). 2. Đào Thị Thanh Hà Đào Thị Thanh Hà sinh năm 1957 tại Hà Nội - Tốt nghiệp đại học ngoại thương Hà Nội, khóa 15 năm 1979, được điều động là cán bộ của Công ty xuất nhập khẩu Hà Nội (Unimex Hà Nội) làm việc tại Intershop nhiều năm liên tục. Nay đang công tác tại công ty Servico Hà Nội (Công ty dịch vụ thương mại Hà Nội). Được kết nạp đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Chồng: Lã Trọng Nhã - Sinh 1949 - Quê ở Phú Thọ - Tốt nghiệp Đại học kinh tế hàng hải ở Ba Lan. Hiện công tác tại Công ty vận tải biển - Hà Nội (Hamatco) là đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Các con: + Lã Thị Phương Hoa, Sinh năm 1981 (Tân Dậu) + Lã Minh Phương, Sinh năm 1990 3. Đào Minh Hiền Đào Minh Hiền, Sinh năm 1959 Tốt nghiệp Đại học Sư phạm I Hà Nội (khoa Vật lý) năm 1983 (Cử nhân khoa học). Đã dạy học ở các trường bổ túc văn hóa cán bộ của thị xã Hòa Bình và khu Thủy Điện Sông Đà Trường trung học Thường Tín - Trường phổ thông trung học Yên Hòa ngoại thành Hà Nội. Hiện là giáo viên dạy Vật lý của Trường THPT Lê Quý Đôn - quận Đống Đa - Hà Nội. Là giáo viên dạy giỏi, được biểu dương khen thưởng nhiều lần. Chồng: Hoàng Khanh, Sinh năm 1962, là Thạc sĩ giáo dục . Hiện tại là giáo viên Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh thuộc Bộ văn hóa. Các con: + Hoàng Minh Hằng, Sinh năm 1990, học sinh. + Hoàng Hiền Anh, Sinh năm 1994, học sinh. II. Các con của ông lâm và bà đức 1. Đào Thị Kim Dung Đào Thị Kim Dung, sinh năm 1954 là con thứ nhất của ông Lâm và bà Đức. Tốt nghiệp Đại học Nông nghiệp 1, nay công tác tại (Bộ khoa học công nghệ). Chồng: Đỗ Vũ Đài Tốt nghiệp Đại học Xây dựng Hà Nội Công tác tại công ty nhựa Bình Minh. Các con: + Đỗ Vũ Tuấn Linh, Sinh viên năm thứ 4 Đại học Bách khoa. + Đỗ Vũ Mai Linh, Học sinh. 2. Đào Bích Ngọc Đào Bích Ngọc, sinh năm 1956 là con thứ hai của ông Lâm và bà Đức. Tuổi nhỏ học trung học ở Thuận Châu Sơn La - Năm 1972 nhập ngũ học trường trung cấp kỹ thuật quân giới xong - về công tác tại nhà máy Phong Châu - Z121 thuộc Tổng cục công nghiệp quốc phòng, cấp bậc thiếu tá chuyên nghiệp. Chồng: Vũ Hồng Phận - Trung tá chủ nhiệm khoa - Trường trung học công nghiệp quốc phòng. Các con: + Vũ Thị Kim Anh + Vũ Hồng Hải 3. Đào Quỳnh Hương Đào Quỳnh Hương, sinh năm 1958 là con thứ ba của ông Lâm và bà Đức. Tuổi nhỏ học xong Trung học, vào học trường Thể dục thể thao, ra làm giáo viên Thể dục thể thao. Chồng: Hoàng Thế Sơn, giáo viên Thể dục thể thao, đã nghỉ. Có hai con: + Hoàng Hà Phương + Hoàng Hà Châu. Nơi ở hiện nay: Khu Định Công. Số nhà: 502 Tập thể Nước Ngầm - Công ty Thủy lợi Quốc Bảo huyện Thanh Trì ngoại thành Hà Nội. 4. Đào Ngọc Tuấn Đào Ngọc Tuấn, sinh năm 1961 (Tân Sửu) là con thứ 4 của ông Lâm và bà Đức. Tốt nghiệp Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội ra trường công tác: giáo viên triết học - Trường Đại học Luật Hà Nội. (Có thời kỳ làm bí thư Đoàn TNCS của trường) đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Là một cán bộ giáo viên có tinh thần nghiên cứu học tập tốt. Được cấp bằng Thạc sĩ và Tiến sĩ triết học. Vợ: Nguyễn Phương Liên Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Việt Nam và học tại Liên Xô cũ sau công tác một số năm tại Liên Xô cũ. Hiện nay công tác tại "Trung tâm nghiên cứu nhiệt đới hóa Việt Nga", thuộc Bộ Quốc Phòng. Các con: + Đào Nguyễn Trâm Anh, sinh năm 1994. + Đào Duy Anh, sinh năm 2000. Nơi ở hiện nay: Số 407 Tập thể VT 40 Bưu Điện phường Ngọc Khánh - quận Ba Đình - Hà Nội. 5. Đào Anh Tú Đào Anh Tú, sinh năm 1963 là con thứ 5 của ông Lâm và bà Đức. Tuổi nhỏ đi học trung học xong, học trường Thể dục thể thao. Hiện nay là giáo viên dạy thể dục thể thao của trường Trung học Lương Thế Vinh Hà Nội. Vợ: Nguyễn Bích Lệ Giáo viên dạy toán trường Cao đẳng Sư phạm Tây Bắc (nay chuyển lên thành trường Đại học Tây Bắc). Các con: + Đào Diệu Linh, sinh năm 1993 + Đào Ngọc Bình Thiên, sinh năm 2003 Nhà ở hiện nay: Khu Mỹ Đình - Từ Liêm - Hà Nội. 6. Đào Tố Uyên Đào Tố Uyên, sinh năm 1965, là con thứ 6 của ông Lâm và bà Đức. Tuổi nhỏ học xong Trung học phổ thông. Hiện công tác tại Công ty bảo hiểm Nhân Thọ Vũng Tàu. Chồng: Lương Hồng Thanh, Kỹ sư. Hiện nay công tác tại dàn khoan Dầu Khí Vũng Tàu. Các con: + Lương Hồng Nam + Lương Hồng Hải. Nơi ở hiện nay: Cả gia đình nhà chồng ở thành phố Vũng Tàu. 7. Đào Thu Thủy Đào Thu Thủy sinh 1968, là con thứ 7 của ông Lâm và bà Đức. Tốt nghiệp trung học phổ thông ở Tây Bắc. Công tác hiện nay: Thợ may tại Công ty may 20 thuộc Tổng Cục Hậu Cần - Bộ quốc phòng. Czhồng: Nguyễn Trịnh Tứ - Thượng úy. Lái xe tại công ty may 20 - Tổng Cục Hậu Cần - Bộ quốc phòng. Các con: + Nguyễn Linh Hà + Nguyễn Duy Linh Nhà ở hiện nay: Khu Linh Đàm - Hà Nội - Số nhà 203 Nhà CT4B (9 tầng). 8. Đào Anh Dũng Đào Anh Dũng, sinh năm 1970 Là con thứ 8 của ông Lâm và bà Đức. Tuổi nhỏ học xong trung học, thi vào học trường cao đẳng kiểm sát. Tốt nghiệp trường cao đẳng kiểm sát, được tuyển dụng làm kiểm sát viên của Viện kiểm sát quận Ba Đình - Hà Nội. Tốt nghiệp: Thạc sĩ Luật học năm 2002. Vợ: Công Thị Vân Hương. Công tác tại Công ty tư vấn Tổng công ty I Xây dựng Hà Nội. Các con: - Đào Dũng Trí, sinh năm 1998. Nhà ở hiện nay: Phường Ngọc Khánh, quận Ba Đình - Hà Nội. 9. Đào Lan Anh Đào Lan Anh, sinh năm 1971. Tuổi nhỏ học xong trung học ở nhà, làm các công tác dịch vụ ở Hà Nội. Chồng: Nguyễn Hồng Hải. Lái xe: Công ty xe buýt - Hà Nội Bắc Ninh. Các con: + Nguyễn Thảo Ly Nhà ở hiện nay: Phường Cống Vị - quận Ba Đình - Hà Nội. III. Các con ông mẫn và bà thảo 1. Đào Thị Hiền Đào Thị Hiền sinh năm 1959 là con đầu của ông Mẫn và bà Thảo. Tuổi nhỏ học xong Trung học phổ thông, được vào học trường Trung học kinh tế Quân đội. Tốt nghiệp ra trường làm công tác tài vụ tại nhà máy X100 - Quân giới. Bị ốm: Viêm bể thận cấp tính, điều trị tại Viện Quân y 354, không cứu chữa được, Hiền đã mất ngày 13 tháng 3 năm 1987 (Đinh Mão). Mộ táng tại NghĩaTrang khu vực Cầu Diễn. Chồng: Nguyễn Văn Đạt là quản đốc phân xưởng nhà máy Z191 (X100 cũ). Các con: + Một trai đầu - 3 tuổi bị chết vì bỏng. + Con thứ hai: Nguyễn Thị Thu Huyền, sinh năm 1986 hiện ở với bố và mẹ kế tên là Trần Thị Thiều. Nhà riêng gia đình chồng ở phố Cầu Diễn, quận Cầu Giấy, Hà Nội. 2. Đào Thị Lành Đào Thị Lành, sinh năm là con người thứ hai của ông Mẫn và bà Thảo; mất khi 15 tuổi. - Phần mộ tại gò thứ 10 - thôn Vĩnh Khang xã Vân Nam. IV. Các con của ông Mạc và bà thường 1. Đào Minh Khai Đào Minh Khai, sinh ngày 20/5/1959 là con cả của ông Mạc và bà Thường theo Bố lên làm ăn vùng kinh tế mới chí cao - Phú Thọ từ 1960 trình độ văn hóa Phổ thông cơ sở. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự, về gia đình sản xuất nông nghiệp và tham gia công tác địa phương - Trưởng khu hành chính (trưởng thôn) xã Hương Cần, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Kết nạp Đảng: tháng 12 năm 1979, nay làm bí thư chi bộ. Vợ: Phùng Thị Sinh, sinh năm 1961 dân tộc Mường - nghề nghiệp: Làm ruộng. Các con: + Đào Ngọc Huấn, sinh năm: tháng 11/1983. + Đào Thị Thanh Huệ, sinh năm: tháng 10/1985. + Đào Đình Luyện, sinh năm: tháng 11/1987. + Đào Thị Kim Dung, sinh năm: tháng 11/1989 + Đào Thị Hồng Nhung, sinh năm: tháng 2/1992 Nơi ở gia đình hiện nay: xã Hương Cần, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. 2. Đào Thị Hội Đào Thị Hội, sinh năm 1962 là con thứ 2 của ông Mạc và bà Thường. Học xong tiểu học ở nhà sản xuất nông nghiệp. Chồng: Đinh Văn Hòa (dân tộc Mường), người quê xã Hương Cần - huyện Thanh Sơn - Phú Thọ. Các con: + Đinh Thi Hợp, sinh năm 1983 (chồng tên là Thinh, người cùng xã). + Đinh Thị Hạnh, sinh năm 1984. + Đinh Văn Hiển, sinh năm 1986. V. Các con của ông phú và bà mai 1. Đào Viết Cường Đào Viết Cường, sinh năm 1976 là con cả của ông Phú và bà Mai. Đã tốt nghiệp Đại học. Làm việc ở: Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội. Đang ở nhà A3B Tập thể Lâm nghiệp - phố Thanh Nhàn - quận Hai Bà Trưng - Hà Nội. 2. Đào Việt Anh Đào Việt Anh, sinh năm 1980 là con thứ 2 của ông Phú và bà Mai. Đã tốt nghiệp Đại học. Đang ở Nhà A3B - Tập thể Lâm nghiệp - phố Thanh Nhàn - quận Hai Bà Trưng - Hà Nội. VI. Các con của ông thọ và bà chung 1. Đào Nhật Tú Đào Nhật Tú, sinh năm 1980 là con của ông Thọ và bà Chung. Đã tốt nghiệp Đại học Kiến trúc Hà Nội. Nơi ở hiện nay chung vơi gia đình bố mẹ. Số nhà 47 phố Thi Sách - quận Hoàn Kiếm - Hà Nội. VII. Các con của ông hải và bà ngà 1. Đào Ngọc Anh Đào Ngọc Anh, sinh năm 1983 là con cả của ông Hải và bà Ngà. Đã tốt nghiệp Trung học phổ thông. 2. Đào Ngọc ánh Đào Ngọc ánh, sinh năm 1985 là con thứ hai của ông Hải và bà Ngà. Đang còn đi học: Trung học Phổ thông. VIII. Các con của ông Hậu và bà Khương 1. Đào Trọng Dũng Đào Trọng Dũng, sinh năm 1970 là con cả của ông Hậu và bà Khương. - Đã tốt nghiệp Đại học kinh tế quốc dân. - Công tác tại công ty Viễn thông Sài Gòn. 2. Đào Trọng Quang Đào Trọng Quang, sinh năm 1972 là con thứ 2 của ông Hậu và bà Khương. - Đã tốt nghiệp Đại học Kiến trúc. - Công tác tại: Công ty xây dựng số 1 - Hà Nội. 3. Đào Thị Vân Hằng - Đào Thị Vân Hằng, sinh năm 1974 là con thứ 3 của ông Hậu và bà Khương. Đã tốt nghiệp Đại học Ngoại thương. Công tác tại công ty: Vinaphon. - Chồng: Nguyễn Ngọc Quỳnh: Môtorola. - Đã sinh một con gái. IX. Con của ông hiếu và bà đức 1. Đào Minh Hảo Đào Minh Hảo, sinh năm 1986 là con đầu của ông Hiếu và bà Đức. Đang học sinh trường phổ thông Trung học Lê Quý Đôn - Hà Nội. X. Các con của ông thìn và bà quý 1. Đào Ngọc Thiết Đào Ngọc Thiết, sinh năm 1978 (Đinh Tỵ) là con của ông Thìn và bà Quý. Đã tốt nghiệp Đại học Thương Mại. Hiện đang công tác kế toán tại nhà xuất bản Hà Nội. 2. Đào Thị Hồ Hương Đào Thị Hồ Hương, sinh năm 1982 (Nhâm Tuất) là con thứ hai của ông Thìn và bà Quý. Đang là sinh viên trường Đại học Thương Mại. XI. Các con của ông chiến và bà yến 1. Đào Xuân Vinh, sinh ngày 12/9/1991 2. Đào Xuân Quang, sinh ngày 12/9/1991. là hai con sinh đôi của ông Chiến và bà Yến. Đào Xuân Vinh ra đời trước 10 phút là anh, Đào Xuân Quang ra đời sau Đào Xuân Vinh 10 phút gọi là em. Do đặc điểm sinh đôi giống nhau, khi chưa đặt tên gọi, cũng như khi đã khai sinh có tên nhưng gia đình thường gọi tên riêng để phân biệt: Đào Xuân Vinh là "Nghè" Đào Xuân Quang là "Bù". thì phân biệt dễ hơn là tên khai sinh. - Hiện nay Vinh và Quang đang là học sinh lớp 6 của trường THCS Sơn Tây. XII. Các con của ông giao và bà nguyệt 1. Đào Trúc Quỳnh Đào Trúc Quỳnh, sinh năm 1987 là con gái đầu của ông Giao và bà Nguyệt. - Hiện tại đang đi học lớp 10 phổ thông trung học ở gia đình bố mẹ. 2. Đào Tố Linh Đào Tố Linh, sinh năm 1995 là con gái thứ 2 của ông Giao và bà Nguyệt. Hiện đang đi học lớp 2. XIII. các con của ông giang và bà hồng 1. đào thúy anh Đào Thúy Anh, sinh năm 1991, là con gái đầu của ông Giang và bà Hồng, hiện là học sinh lớp 7 ở với bố mẹ 2. đào trọng khôi Đào Trọng Khôi, sinh năm 1998, là con thứ hai của ông Giang và bà Hồng, hiện đang là học sinh mẫu giáo. XIV. Các con của ông cần và bà hương 1. Đào Tố Trâm Đào Tố Trâm, sinh năm 2003, là con gái đầu cả ông Cần - bà Hương. đời thứ chín Tính đến tháng 12 năm 2002 (Nhâm Ngọ) danh sách đời thứ 9 có như sau: (Viết theo thứ tự cành trên trở xuống) 1. Đào Nguyễn Trâm Anh (Gái) Đào Nguyễn Trâm Anh, sinh năm 1994, là con thứ nhất của ông Đào Ngọc Tuấn và bà Nguyễn Phương Liên. Hiện đang là học sinh tiểu học. 2. Đào Nguyễn Duy Anh (Trai) Đào Nguyễn Duy Anh, sinh năm 2000 là con thứ hai của ông Đào Ngọc Tuấn và bà Nguyễn Phương Liên. 3. Đào Diệu Linh (Gái) Đào Diệu Linh, sinh năm 1993 là con thứ nhất của ông Đào Anh Tú và bà Nguyễn Bích Lê, Đào Ngọc Bình Thiên, sinh tháng 03-2003 (con thứ 2) 4. Đào Ngọc Bình Thiên (Trai) 5. Đào Dũng Trí (Trai) Đào Dũng Trí, sinh năm 1998 là con thứ 1 của ông Đào Anh Dũng và bà Công Thị Vân Hương. 6. Đào Ngọc Huấn (Trai) Đào Ngọc Huấn, sinh năm 1983 là con trưởng của ông Đào Minh Khai và bà Phùng Thị Sinh. Học xong phổ thông cơ sở, ở nhà sản xuất nông nghiệp. Vợ tên Là: Mới sinh con đầu tên là: Nơi ở hiện nay: Xã Hương Cần, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. 7. Đào Thị Thanh Huệ (Gái) Đào Thị Thanh Huệ, sinh tháng 10 năm 1985 là con thứ hai của ông Đào Minh Khai và bà Phùng Thị Sinh. Học xong tiểu học ở nhà sản xuất nông nghiệp. 8. Đào Đình Luyện (Trai) Đào Đình Luyện, sinh năm 1987 (11/1987) là con thứ 3 của ông Đào Minh Khai và bà Phùng Thị Sinh. Học xong tiểu học ở nhà sản xuất nông nghiệp. 9. Đào Thị Kim Dung (Gái) Đào Thị Kim Dung, sinh tháng 11 năm 1989 là con thứ 4 của ông Đào Minh Khai và bà Phùng Thị Sinh. Hiện tại học sinh. 10. Đào Thị Hồng Nhung (Gái) Đào Thị Hồng Nhung sinh tháng 2 năm 1992 là con thứ 5 của ông Đào Minh Khai và bà Phùng Thị Sinh. Hiện tại đang đi học. Tổng cộng đến tháng 12 năm 2002, đời thứ 9 có được 10 người (gồm 5 trai + 5 gái) (chỉ thống kê họ Nội). Quan hệ họ ngoại Gia phả cụ Thư để lại không nói đến họ Ngoại của các đời trước. Ông Đài viết phần này căn cứ vào mối quan hệ họ hàng bên ngoại hiện nay của cụ Thư (đời thứ 5), có tham khảo ý kiến ông Đỗ Văn Huỳnh 78 tuổi là chắt nội của cụ Đỗ Văn Luận (bố vợ cụ Thư) để con cháu cụ Thư biết họ hàng bên ngoại của mình như thế nào mà truyền lại cho các đời sau: Cụ Đỗ Văn Luận thân sinh ra cụ Điều, cụ Lộc là con trai thứ hai của cụ Đỗ Phúc Mỹ, người cùng xã Vân Cốc xưa (nay là xã Vân Phúc) nhà ở xóm côi thôn Vĩnh Thọ. Cụ Luận có 3 anh em trai, anh cả là Đỗ Văn Hoài, em trai là Đỗ Văn Thông (một thầy thuốc bắc giỏi nổi tiếng thời đó). Không nhớ tuổi cụ Luận - chỉ biết ngày giỗ là 4 tháng 6 âm lịch và mất trước cụ Bà. Cụ Bà thường gọi là cụ Ngữ theo tên hiệu diệu không nhớ họ tên chính. Ngày giỗ 19/2 âm lịch. Được biết cụ Ngữ thỉnh thoảng xuống chơi nhà chăm con cháu vào những năm 1932 - 1933 - Cụ già lắm, chống gậy đi còng, tính tình xởi lởi. Cụ hay ngồi sưởi nắng ở sân nói chuyện với các cháu. Hai cụ Luân và Ngữ sinh được 7 người con: con trai trưởng là Đỗ Văn Khải và 6 người con gái. I. Cụ Đỗ Văn Khải con trưởng của cụ Luận được cụ Đỗ văn Hài nuôi làm con nuôi (Bác nuôi cháu vì không có con trai nối dõi). Cụ Khải là anh cả của cụ Điếu và cụ Lộc, thuở trước có làm chức Phó lý ở làng Vĩnh Thọ gia đình làm nông nghiệp, kinh tế trung nông - cụ Bà hiệu diệu Quang. Hai cụ sinh được hai người con trai và một con gái. Ông Cường là con trưởng của cụ Khải, thường gọi là ông Mục Cường (chức Kỳ Mục làng Vĩnh Thọ) Ông Hùng là con thứ hai, làm nông nghiệp, nhà rất nghèo. Một bà con gái (lúc nhỏ thường gọi là Tý nheo, lấy chồng là Doãn Văn Tín ở làng Vĩnh Khang, cụ Khải mất tháng 9/1949 (75 tuổi) trong trường hợp bị giặc Pháp bắn chết tại bờ ao nhà ông Đoàn Mạo (con cụ y) trong cuộc càn quét vào xóm Ngọc Long xã Hồng Châu huyện Yên Lạc tỉnh Vĩnh Phúc. Thời gian này gia đình sơ tán từ xóm côi Vĩnh Thọ sang ở nhờ nhà cụ y (cụ y là em gái cụ Khải, mẹ đẻ ra ông Đoàn Mạo. Hôm đó giặc tràn đến, cụ Khải ra nấp ở bụi tre bờ ao nhà ông Đoàn Mạo bị giặc bắn chết. II. Sáu người con gái của cụ Luận là các em cụ Khải có tên là 1. Cụ Chi hiệu diệu Thức là chị nhất (không nhớ tuổi và ngày mất) chồng là Đào Văn Yên con cụ Đào Văn Bình bác ruột của cụ Thư - do đó mà các con cụ Yên và con cụ Thư vừa là anh em con chú con bác, vừa là con Bá con Dì. Gia đình hiện nay ở xã Hồng Châu huyện Yên Lạc tỉnh Vĩnh Phúc. 2. Cụ y - lấy chồng về xóm Ngọc Long, xã Hồng Châu, huyện Yên Lạc (không nhớ tuổi và ngày giỗ) - con trai cả là ông Đoàn Mạo liệt sĩ hy sinh trong chống Pháp năm 1952 khi ông làm cán bộ xã đội du kích Hai con trai là ông Thuổi và ông Thành làm nông nghiệp cùng ở làng. 3. Cụ Đỗ Thị Thiện hiệu diệu Điều, sinh năm 1883 (Quý Mùi) mất năm 1964 (13/12 Quý Mão) là vợ cụ Đào Văn Thư (có tiểu sử đã viết ở phần ba, trang 34). 4. Cụ Phúc (gọi theo hiệu diệu, không rõ tên chính). - Chồng là cụ Hoàng Văn Thịu (thường gọi là cụ Thọ, Thịu), người làng Vĩnh Phúc xã Vân Phúc - làm nghề đan thuyền nan. Hai cụ sinh ra 3 ông: Đoàn Hảo, ông Thuật, ông Tố là con trai, và 2 bà Đoài, bà Diện là con gái. - Ông Hảo có một con trai là Cầu - liệt sĩ chống Mỹ các cụ và các ông con trai nay đã mất cả chỉ còn các cháu ở xã Vân Phúc. 5. Cụ Tý và chồng là người làng Vĩnh Thọ xã Vân Phúc (không nhớ tên, tuổi, nay đã mất. Hai cụ có một trai tên là Phùng Văn Mỹ có thời kỳ làm bí thư Đảng Bộ xã Vân Phúc. Ông Mỹ đã mất, hiện còn bà vợ nay đã 90 tuổi, sống ở quê - cùng với con trai là Phùng Văn Thọ đại tá quân đội nghỉ hưu. Ông Mỹ còn có hai con trai là: Ông Phú trước kia đi ngành cơ yếu quân đội, nay về nghỉ hưu có gia đình ở Hà Nội. - Ông Phùng Văn Chiến nguyên lái xe quân đội nghỉ hưu nay ở phố Cửa Tiền - thị xã Sơn Tây, Cu Tý có hai bà con gái là Cún lớn và Cún con. + Bà Cún lớn bây giờ gọi theo tên chồng là bà Bình (năm nay 80 tuổi, mẹ Việt Nam anh hùng, chồng là ông Bình người làng Vĩnh Khang, cán bộ thông tin xã hy sinh trong trận chống giặc Pháp càn quét vào làng ngày 20/10/1950. Ông Bà có hai con đều là liệt sĩ chống Mỹ là Doãn Văn Thấn và Doãn Văn Yên. Bà Bình là bí thư Đảng Bộ xã Vân Nam từ sau cải cách ruộng đất. Hiện nay ở với con trai út là Doãn Văn Dậu, nhà giáp ranh với nhà Tý Cao, và Đức Hợi (con rể bà Đường ở Vĩnh Khang). Bà Bình có một con gái là Doãn Thị Hòa nay là giáo viên trườngTrung học cơ sở Sơn Tây. + Bà Cún con bây giờ gọi là Bà Sự, chồng ở xóm Còi thôn Vĩnh Thọ xã Vân Phúc. Năm 1934 đến 1939, Bà là người giúp việc cho Bà Điển gánh hàng ra chợ Bãi và cơm nước sinh hoạt trong gia đình trông các cháu nhỏ. 6. Cụ Đỗ Thị Thêm là con út của cụ Luận là vợ hai của cụ Thư, sinh năm 1897 - mất năm 1982 (ngày 9/11 Nhâm Tuất) thọ 86 tuổi tiểu sử ghi ở phần ba trang 37. III. Hệ trưởng nam cúng giỗ tổ tiên bên ngoại - Ông Mục Cường sinh được 3 người con trai: + Con trưởng: Đỗ Văn Huynh (nay đã mất) + Con thứ hai: Đỗ Văn Nghênh (đã mất) + Con thứ ba: Đỗ Văn Huỳnh hiện ở quê. - Ông Đỗ Văn Huynh sinh được 3 người con trai: + Con trưởng là Đỗ Văn Cờ. + Con thứ hai: Đỗ Văn Pháo. + Con thứ ba: Đỗ Văn Thao Hiện nay ông Đỗ Văn Cờ là người chịu trách nhiệm cúng giỗ Tổ Tiên bên ngoại theo hệ trưởng. - Gia đình hiện nay vẫn ở vườn đất thừa kế hương hỏa của các cụ để lại - tại xóm Cỏi, thôn Vĩnh Thọ, xã Vân Phúc. Về phía nhà ta, kể từ khi cụ Thư và cụ Điều từ trần, gia đình nhà ta không đến "góp giỗ" nữa vì các con cháu cụ Thư đi công tác xa đồng thời do ảnh hưởng chiến tranh. Chỉ cứ đến Tết Âm Lịch, thì ông Mô và bà Đường ở quê, mang lễ vàng nhang đến nhà anh Cờ để bái vọng tổ tiên bên ngoại. Sau khi ông Mô, Bà Đường mất, thì ông Đài từ năm 1978 về nghỉ hưu, và bấy giờ là anh Thìn, tiếp tục thực hiện cơ lệ này. Phần bốn Giỗ, tết và mồ mả I. Giỗ và tết Từ xưa việc giỗ, tết thường quy định như sau: 1. Mỗi người ai cũng có trách nhiệm trực tiếp cúng giỗ, và cúng tết với Bố, mẹ để ra mình. 2. Hệ trưởng nam có trách nhiệm chính cúng giỗ và Tết đối với Bố mẹ và đối với Tổ tiên các đời từ tam đại trở lên, các hệ thứ phải theo, đóng góp lễ cho trưởng nam. Do vậy cụ Thư trước đây phải trực tiếp cúng giỗ cụ Nghĩa, cụ Mỹ và hàng năm đến ngày giỗ và Tết các cụ từ ba đời trở lên (cụ Thông, cụ Xưng, cụ Tô) đều phải đến góp giỗ, góp Tết (đưa lễ) cho cụ Khán Yên ở Trăng Lan (bây giờ là xã Hồng Châu - huyện Yên Lạc, Vĩnh Phúc) và đúng đến ngày Tết, ngày giỗ phải có mặt tại nhà trưởng nam để làm lễ. 3. Trường hợp người quá cố không có con trai thường trưởng nam phân công trách nhiệm cho người em hoặc cháu cúng giỗ, ví dụ cụ Tịch quá cố, chỉ có một con gái lấy chồng, thì cụ Thư phân công cho ông Mô là cháu làm nhiệm vụ cúng giỗ chú. II. Mồ mả 1. Phần mộ các đời trước - Giống như phân công cúng giỗ, việc trông nom mồ mả cũng quy định chi hệ trưởng nam phải chịu trách nhiệm bằng "Cúng ai thì trông nam mồ mả người ấy, cúng đến đời nào thì phải trông nom mồ mả đến các đời ấy". Hiện nay các chi họ không ai biết phần mộ cụ Đào Phúc Tô đời 1, và cụ Đào Văn Xứng đời 2, ở đâu? Có hai khả năng: Khả năng 1 bằng mộ còn ở đâu đó, nhưng ngày xưa hệ trưởng là cụ Hương Thêu phụ trách, không truyền lại được cho các đời sau. Khả năng 2 bằng có thể mộ đã mất vì lở xuống sông vì rằng nơi làm ăn sinh sống của các đời trước đều đã bị lở xuống sông và thay đổi nhiều nơi nhiều lần, không nơi nào ổn định lâu dài đến ngày nay. Đời cụ Thư chỉ biết đến mộ của ông bà nội như sau: Mộ cụ Thông chôn ở phía sau Đình Vân Cốc cũ nay đã chuyển về gò thứ 10. - Mộ cụ Thông bà (không rõ tên vì cụ Thông 2 vợ) xưa kia chôn ở mảnh ruộng nhà (Nương dâu của cụ Điều) sát bờ sông Hồng, cuối đường cái 17 (địa danh này bây giờ không còn bởi vì đã lở xuống sông) nay đã được chuyển về gò thứ 10. Hai ngôi mộ này, từ trước đến bây giờ vẫn do con cháu cụ Khán Yên bên Tràng Lan, trông nom, hàng năm dịp Tết nguyên đán đều sang tảo mộ, và năm 2000 đã tu bổ lại xây bao nấm mộ cũ (không có bia). 2. Phần mộ và nghĩa trang hiện nay Hồi Pháp thuộc mỗi làng có một nghĩa trang. Làng Vĩnh Thuận có gò thứ 10 và làng Vĩnh Khang có gò 11. Trước kia các phần mộ từ đời cụ Nghĩa trở xuống đều chôn ở gò thứ 11. Năm 1966 do yêu cầu đắp con đê mới chạy qua giữa nghĩa trang gò 11 nên xã Vân Nam đã cho quy tu các mộ ở gò 11 về gò thứ 10 như hiện nay. Ông Mô đứng ra thực hiện việc di chuyển các mộ của nhà ta. Ông đã cho khiêng cả các nấm xây bằng gạch đi theo rồi ghép lại trả về các mộ, nhưng bị vỡ một số mảng không đủ cho các mộ, ông đã sang táng hài cốt cụ Nghĩa và cụ Thư chung một nấm (2 bố con). Hài cốt cụ Mỹ và bà Sẹo chung một nấm (2 bà cháu) - hài cốt cụ Tịch và ông Điền chung một nấm (2 chú cháu). Ông Mô cho biết rằng: Hai tiểu đặt song song nhưng cao thấp khác nhau, ai là bậc trên thì đặt tiểu cao hơn (nhưng không nói rõ tên người bên trái, bên phải, vì vậy các bia trên mộ cũng chỉ khắc tên thứ tự trên, dưới vào một bia chung. Không làm được hai bia). Năm 1997 ông Liền đã chủ trì tổ chức tu bổ lại các phần mộ (có sự đóng góp của các bếp con cháu cụ Thư) với phương châm không động phá nấm cũ, chỉ xây bọc ra ngoài từng ngôi mộ và gắn bia mới. Vì vậy hiện nay các kích thước và hình dáng kiến trúc các ngôi mộ không giống nhau nhưng đảm bảo lâu bền hơn. 3. Danh sách phần mộ ở gò thứ 10 (Tính đến năm 2002) STT Họ tên Ghi chú 1 Đào Phúc Thông Thuộc đời thứ 3 - mộ xây lại không rõ tên năm 2000, không có bia (hai cụ trên ở gần mộ cụ nghĩa và cụ Tịch) 2 Mộ cụ Bà Thông 3 Đào Văn Nghĩa Đời thứ 4 Song táng có bia Đào Văn Thư Đời thứ 5 4 Phùng Thị Mỹ Đời thứ 4 Song táng có bia Đào Thị Sẹo Đời thứ 6 5 Đỗ Thị Điều Đời thứ 5 có bia 6 Đỗ Thị Lộc Đời thứ 5 có bia 7 Đào Phúc Tịch Đời thứ 5 có bia Song táng Đào Văn Điển Đời thứ 6 có bia 8 Bùi Thị Chúc Đời thứ 6 có bia 9 Đào Văn Mộ Đời thứ 6 có bia 10 Doãn Thị Cún (Cửu) Đời thứ 6 có bia 11 Đào Viết Nhã Đời thứ 6 có bia 12 Nguyễn Thị Vy Đời thứ 6 có bia 13 Đào Văn Đường Đời thứ 6 có bia 14 Bùi Thị Thụ Đời thứ 6 có bia 15 Đặng Thị Rói Đời thứ 6 có bia 16 Đào Thị Nhung Đời thứ 7 có bia 17 Đào Thị Lành Đời thứ 8 có bia Ghi chú: + Phần mộ liệt sĩ Đào Văn Mẫn (đời 7) hiện nay ở nghĩa trang liệt sĩ Vân Cốc (gần Đình). + ở gò thứ 10 còn có 4 phần mộ của người đã xuất giá lấy chồng cùng làng là: Đào Thị Ngãi (đời 5) Đào Thị Còi (đời 5), Đào Thị Trinh (Cún, đời 6) và Đào Thị Đen (đời 6). Lời kết Cuốn gia phả này ghi chép từ đời cụ Cao Cao Tổ Đào Phúc Tô đến 9 đời sau nhưng cũng chỉ viết được tương đối rõ từ đời 5 trở xuống thuộc cành cụ Đào Văn Thư là chủ yếu. Tuy vậy đối với các đời thứ 7, 8, 9 viết còn sơ sài chưa xây dựng được đầy đủ tiểu sử của từng thành viên vì ít thời gian và điều kiện tiếp xúc, sưu tầm tư liệu, vả chăng hầu hết là người đương thời, tuổi đời còn ít, sự nghiệp còn lâu dài, nhất là đối với đời 8, 9 chỉ mới thống kê được tên tuổi là chính chưa có sự tích gì để viết, song qua phần diễn giải toàn bộ hệ thống lịch sử chỉ họ Đào nhà ta, trải qua trên 200 năm với 9 đời hậu duệ, chúng ta lấy làm tự hào về sự phát triển mọi mặt của dòng họ nói chung và của chị họ cụ Thư nói riêng. Thật vậy, từ mảnh đất quê hương ven sông Hồng khi lở khi bồi, bao đời nay ông cha ta đã bỏ nhiều công sức khai phá, khắc phục khó khăn dũng cảm đấu tranh chống thiên tai (nước lụt, chạy lở) cần cù lao động xây dựng cơ sở kinh tế chống đói nghèo, mưu cầu cuộc sống ấm no hạnh phúc. Tunh thần tự lực tự cường của các thế hệ đã thành một truyền thống quý báu đáng trân trọng. Chúng ta rất khâm phục cụ Đào Văn Thư mặc dù mồ côi cha từ tuổi 25, rồi mồ côi mẹ khi đến tuổi 32, cụ đã cùng các cụ bà phát huy cao độ tinh thần tự lực tự cường, vượt qua mọi trở lực quyết tâm phấn đấu mọi mặt cho cuộc sống gia đình đạt được yêu cầu có cơm ăn áo mặc và học hành. Vừa làm thuốc, vừa đi cày vừa dạy học, cụ đã trở thành một lương y nổi tiếng trong vùng đồng thời là một người thầy dạy chữ nho cho nhiều lớp tuổi nhỏ. Tấm gương cụ Điều là hình mẫu người mẹ, người vợ, người nội trợ vô cùng đảm đang, cả cuộc đời lao động cần kiệm, tất cả vì gia đình con cái, không mảy may một chút riêng tư, lúc nào cũng rất khiêm nhường đối với bản thân mình. Chúng ta vô cùng biết ơn các cụ đã trang bị kiến thức cho các con, tạo mọi điều kiện cho các con được học hành, chỉ cho các con phương hướng phát triển tương lai. Với truyền thống hiếu học và tinh thần vượt lên tự lực cánh sinh, các đời con, đời cháu, đời chắt của các cụ hiện nay đều đã thành đạt, ai cũng làm nên sự nghiệp và đều chuyển cuộc sống ra thành phố, tuy sự nghiệp chưa tới đỉnh cao, mới chỉ là có công ăn việc làm ổn định có được nhà để ở, nuôi dạy con cái trưởng thành song được như vậy là cả một quá trình phấn đấu kiên trì với ý chí quyết tâm đầy nghị lực đáng trân trọng (ví dụ: ở đời con cụ có ông Nhã, ông Giáp với hai bàn tay trắng từ nhà quê ra Hà Nội tìm đường lập nghiệp). - Ông Nhạc góa vợ ở tuổi 40, một mình gà trống nuôi con vẫn đảm bảo cho các con được học hành và trưởng thành như ngày nay. - Ông Đài cả đời đi đánh giặc, khi đầu 2 thứ tóc mới về còn phải đi làm thêm để có điều kiện xây dựng cơ ngơi sum họp gia đình nuôi dạy con cái. Đến đời cháu có ông Lâm một người có khuyết tật bẩm sinh, đã biết học nghề và phát huy tài năng nghề nghiệp (làm ảnh) tình nguyện lên Tây Bắc công tác bây giờ nghỉ hưu trở về Hà Nội với lòng tự hào đã nuôi dạy 9 người con trưởng thành, ai cũng có học, học từ tú tài trở lên và một tiến sĩ. - Ông Thìn mồ côi cha từ thuở lọt lòng, nhà nghèo nhưng đã phấn đấu học hành thành đạt, hiện nay là kỹ sư thạc sĩ ngành thủy lợi. Đời chắt hiện nay còn ít tuổi, nhưng đa số đã có bằng tú tài, cử nhân và một tiến sĩ + đều là những cán bộ, chuyên viên đang hăng hái hoạt động trên các hình vực khoa học và giáo dục của Nhà nước (như Hà, Hiền, Dung, Tuấn, Tú, Dũng, Quang, Thiết...). Nói về học lực, bằng cấp, tính đến nay, trong chi họ bếp cụ Thư được biết như sau: Trước 1945 (thời kỳ phong kiến Pháp thuộc). - Cụ Thư không thi cử đỗ đạt gì, nhưng cụ có kể lại ngày xưa học chữ nho đã đọc đến sách Đại học Trung Dung, kinh dịch và sách thuốc cụ biết làm thơ Đường Luật, câu đối phú, viết văn tế chữ rất đẹp. Thời đại của cụ đã tiếp xúc với nền văn minh khoa học phương Tây, cụ đã tự học chữ quốc ngữ (đọc viết chậm) cụ thấy tầm quan trọng của học vấn nên khuyên con người cái phải học hành và tạo mọi điều kiện cho con cái được học hành. Cụ có 7 người con trai đều được đi học từ thuở nhỏ, 6 người đã đỗ tốt nghiệp tiểu học (có 1 người đang học tú tài). Sự kiện này rất hiếm hồi Pháp thuộc ở quê hương vân cốc ta dân làng ca ngợi "nhà cụ Thư học giỏi nhất Tổng". Sau 1945, từ khi Cách mạng tháng Tám thành công, nước nhà được độc lập tự do, mặc dù phải trải qua hai cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp và Mỹ, nhưng dưới chế độ chính trị tươi đẹp do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, ai cũng được học hành, nền giáo dục được phát triển mạnh mẽ, các thế hệ của gia đình cụ Thư (đời 7, 8 9) đã phát huy truyền thống hiếu học, đạt được thành tựu rực rỡ, từ xưa chưa từng có. Tính đến nay (2003) nam nữ đều được học hành thấp nhất là đều phổ cập tiểu học cao nhất đạt được là tốt nghiệp đại học và một số một số ít người trên đại học cụ thể đã có: - 11 tú tài. - 22 cử nhân - kỹ sư. - 2 thạc sĩ - 2 tiến sĩ. Một truyền thống tốt đẹp nữa của đại gia đình cụ Thư chúng ta là tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái giúp đỡ, đùm bọc lẫn nhau. Thực hiện lời dạy của cụ Thư, các thế hệ con cháu đã biết dìu dắt nhau cùng tiến lên giúp đi trước giúp người đi sau, người trên giúp người dưới, sẻ cơm nhường áo trong cuộc sống, tạo điều kiện hỗ trợ nhau về vật chất cũng như tinh thần trong các lĩnh vực học hành, hướng nghiệp lao động để xây dựng cuộc sống chung tốt đẹp hơn. Như lịch sử gia phả đã viết: Ông Điển tấm gương đầu tiên dìu dắt các em: ông Nhã, ông Nhạc, ông Đường bước vào đời... Khi ông Điển mất, hà chúc đi tái giá, thì ông bà Nhã đã cáng đáng tất cả các con ông Điển được ăn học, trưởng thành trong khi hoàn cảnh gia đình riêng của ông Nhã cũng không có gì dư dật - ông Đường mới đi làm được 2 năm cũng giúp cho ông Đài được học Trung học ở Hà Nội bà Đường hết lòng giúp đỡ các anh chị em khi gặp khó khăn cần thiết như nuôi đỡ con Bà Sinh mấy năm rồi con cô Tân, đến khi các cháu ở Hà Nội sơ tán chiến tranh về quê cũng được bà chăm sóc trông nom dạy bảo chu đáo. Đến đời cháu có ông Liễn là người giải quyết giúp đỡ giới thiệu được nhiều người thân trong gia đình được đi học làm công nhân quốc phòng, trở thành thợ kỹ thuật có tay nghề vững chẵc, có công ăn việc làm ổn định như có Thanh, các em và cháu Hợi Hiếu, Hiền v.v... Tinh thần đoàn kết nội bộ trong đại gia đình chúng ta không những chỉ là việc làm cụ thể như trên, mà còn thể hiện trên các mặt quan hệ tình cảm, ứng xử, luôn quan tâm săn sóc nhau cả đến đời sống tinh thần, văn hóa, mặc dù điều kiện ở xa nhau, song sẵn sàng vui buồn có nhau, giúp đỡ nhau khắc phục khó khăn trong cuộc sống. Sự đoàn kết toàn diện đó là một sức mạnh động viện mỗi người chúng ta làm nên sự nghiệp ngày nay. - Về mặt chính trị, trong phong trào cách mạng của dân tộc, chi họ cụ Thư đã thể hiện được tinh thần yêu nước ngay từ những ngày đầu của cách mạng tháng 8-1945 có người tham gia từ tiền khởi nghĩa được ít ngày. Và tiếp theo sau đó các thế hệ nhất là lớp tuổi thanh niên đã hăng hái tham gia mọi công tác của các thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cũng như công việc xây dựng đất nước hiện tại, tính đến nay, các con cháu cụ Thư đã có: - 14 người tham gia lực lượng vũ trang (bộ đội và công nhân viên quốc phòng) trong đó có một thương binh và 1 liệt sĩ thời kỳ chống Mỹ. - 20 người được kết nạp vào Đảng cộng sản Việt Nam (13 trai + 7 gái) trong đó có 2 người đã được tặng huy hiệu 50 năm tuổi Đảng. - Hầu hết các con và cháu cụ Thư đều được Nhà nước khen thưởng huân, huy chương và bằng khen giấy khen các loại tùy theo thành tích và cương vị công tác của mỗi người. Quá trình phát triển của đại gia đình cụ Thư nằm trong bối cảnh đất nước ta trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ, đến bây giờ các thế hệ con cháu không còn vị thế ở quê cũ làng xưa nữa. Tất cả đã định cư lập nghiệp ở Hà Nội. Riêng ông Đài ở thị xã Sơn Tây và một chắt nội của cụ là Đào Minh Khai ở xã Hương Cần ở xã Hương Cần huyện Thanh Sơn tỉnh Phú Thọ. ở quê Vân Nam, về họ nội chỉ còn một số hộ thuộc chi dưới của cụ Thư, ngoài ra còn họ ngoại của các thế hệ con cháu. Đối với những người họ Đào cùng chung giỗ tổ hàng năm hiện nay ở quê Vân Nam (như phần đầu cuốn gia phả đã dẫn), chưa xác định được mối quan hệ họ tộc từ đời nào? Cần được tiếp tục sưu tầm nghiên cứu. * * * Cuốn gia phả này viết đến đầu đời hậu duệ thứ 9 (năm 2002), tạm thời tổng kết được một số truyền thống tốt đẹp kể trên. Chúng ta thấy được công lao to lớn của ông cha những tấm gương cao đẹp và trong sáng của các thế hệ, những bài học quý giá trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Rất mong các thế hệ con cháu cần tiếp thu và phát huy tinh thần lao động tích cực, sáng tạo tinh thần hiếu học, rèn luyện đạo đức nếp sống gia phong, nêu cao tinh thần đoàn kết đùm bọc dìu dắt lẫn nhau, tinh thần tự lực tự cường; nêu cao  và phát huy tinh thần cách mạng, yêu nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc  tiến lên phía trước, phát huy kết quả thành tựu lớn phía trước, phát huy kết quả thành tự lớn hơn nhiều lần nữa để xứng đáng và đền đáp công ơn các bậc tổ tiên cha ông chúng ta, làm cho truyền thống gia đình ngày càng vẻ vang hơn và được lưu danh mãi về sau: Đề nghị mỗi hộ gia đình sẽ viết tiếp tiểu sử của chính bản thân mình và gia đình riêng của mình, lấy gốc từ cuốn gia phả chung này lập thành gia phả nhà mình, để cứ như thế lưu truyền mãi các đời sau có căn cứ tìm hiểu nguồn gốc họ hàng được đầy đủ chi tiết cụ thể rất có ích cho các đời hậu duệ sau này thuộc các chi họ sẽ tổng hợp tộc phả chuẩn xác, thật vô cùng quý giá. Lịch ngày giỗ (Ghi theo thứ tự ngày tháng Âm lịch) TT Ngày tháng Họ và tên Ghi chú 1 02-01 Doãn Thị Cún Đời thứ 6 2 22-01 Phùng Thị Mỹ Đời thứ 4 3 11-02 Đào Việt Nhã Đời thứ 6 4 19-02 Đào Văn Mô Đời thứ 6 5 12-03 Đăng Thị Nguyên Đời thứ 2 6 13-03 Đào Thị Hiền Đời thứ 8 7 27-03 Đào Văn Xứng Đời thứ 2 8 04-04 Đào Văn Điển Đời thứ 6 9 23-04 Bùi Thị Hiệu Diệu Cựu Đời thứ 3 10 15-05 Đào Văn Đường Đời thứ 6 11 18-05 Đào Phúc Tô Đời thứ 1 12 21-05 Đào Văn Thông Đời thứ 3 13 25-05 Đào Thị Còi Đời thứ 5 14 26-05 Đào Văn Nhạc Đời thứ 6 15 26-05 Đào Thị Hạnh Đời thứ 8 16 20-06 Đào Thị Lành Đời thứ 8 17 22-06 Bùi Thị Thụ Đời thứ 6 18 23-06 Phùng Thị Mùi Đời thứ 3 19 27-06 Đào Văn Thư Đời thứ 5 20 28-06 Đào Văn Bảo Đời thứ 3 21 27-07 Đào Thị Ngãi Đời thứ 5 22 05-08 Đặng Thị Rói Đời thứ 6 23 09-08 Đào Văn Nghĩa Đời thứ 4 24 13-08 Đào Văn Tịch Đời thứ 5 25 19-08 Đào Văn Mẫn Đời thứ 7 26 29-08 Đào Văn Mạc Đời thứ 7 27 30-08 Đào Thị Nhung Đời thứ 7 28 29-09 Bùi Thị Chúc Đời thứ 6 29 09-11 Đỗ Thị Thêm (Lộc) Đời thứ 5 30 12-12 Đào Thị Nháy Đời thứ 6 31 13-12 Đỗ Thị Thiện (Điều) Đời thứ 5 32 17-12 Nguyễn Thị Vy Đời thứ 6 33 17-12 Phạm Thị Kim Chung Đời thứ 7 Sơ đồ gia phả 1. Cành ông Đào Văn Điển 2. Cành ông Đào Văn Mô 3. Cành ông Đào Viết Nhã 4. Cành ông Đào Văn Nhạc 5. Cành ông Đào Văn Đường 6. Cành ông Đào Xuân Đài 7. Cành ông Đào Văn Giáp 8. Một sơ đồ bằng chữ nho do cụ Thư vẽ 1943 từ đời 1 đến đời 6. 9. Một sơ đồ tổng hợp từ đời 1 đến đời 9.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN-Nhà có gia phả như Nước có quốc sử.pdf
Luận văn liên quan