Luận văn Phân tích chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế giai đoạn 2006 - 2010 và kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành giai đoạn 2011 - 2015

Một trong những chỉ tiêu về trình độ phát triển của một nước liên quan đến trình độ chuyển dịch cơ cấu của một nền kinh tế. Những nước có mật độ dân số đông và xuất phát từ nền nông nghiệp lạc hậu phải qua con đường công nghiệp hoá mới phát triển được và mới hiện đại hoá được bản thân nền nông nghiệp. Thống kê của Ngân hàng thế giới cho thấy vào năm 1994, tỷ trọng của công nghiệp trong GDP của Việt Nam là khoảng 22%, xấp xỉ tỷ trọng của Thái Lan vào khoảng năm 1980. Năm 2010 tỷ trọng cơ cấu của công nghiệp trong GDP của Việt Nam ước tính là 41% xấp xỉ với Thái Lan năm 1995. Nếu chỉ xét trên phương diện chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đặc biệt là tỷ trong công nghiệp đặc trưng cho giai đoạn CNH-HĐH thì có thể nói vào thời kỳ bắt đầu đổi mới Việt Nam đi chậm hơn Thái Lan độ hơn 20 năm. Với những cố gắng thúc đẩy sự nghiệp CNH_HĐH thì năm 2010 chúng ta rút gọn nó còn khoảng 15 năm. Đối với Hàn Quốc, một nước Đông Á thì cơ cấu ngành đã chuyển dịch sang một nước phát triển các ngành dịch vụ. So với Hàn Quốc thì Việt Nam còng ở một khoảng cách xa tầm 30 đến 35 năm.

doc29 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 6635 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phân tích chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế giai đoạn 2006 - 2010 và kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành giai đoạn 2011 - 2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn PHÂN TÍCH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ GIAI ĐOẠN 2006 - 2010 VÀ KẾ HOẠCH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH GIAI ĐOẠN 2011 - 2015 I. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 1. Cơ cấu ngành kinh tế Cơ cấu ngành kinh tế là tương quan giữa các ngành trong tổng thể nền kinh tế, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về số lượng và chất lượng giữa các ngành với nhau. Các mối quan hệ này được hình thành trong những điều kiện kinh tế nhất định, luôn luôn vận động và hướng vào những mục tiêu cụ thể. Như vậy, cần phải hiểu cơ cấu ngành kinh tế theo những nội dung sau: Thứ nhất là số lượng các ngành kinh tế được hình thành. Số lượng ngành kinh tế không cố định, nó luôn được hoàn thiện theo sự phát triển của phân công lao động xã hội. Theo thời gian và quan điểm đã có nhiều cách phân loại ngành kinh tế khác nhau. Để thống nhất cách phân loại ngành, Liên Hợp Quốc đã ban hành “Hướng dẫn phân loại ngành theo chuẩn quốc tế đối với toàn bộ các hoạt động kinh tế”. Theo tính chất công việc Liên Hợp Quốc đã gộp các ngành phân loại thành ba khu vực hay còn gọi là ba ngành gộp: Khu vực I bao gồm các ngành nông – lâm – ngư nghiệp; khu vực II bao gồm các ngành công nghiệp và xây dựng; khu vực III bao gồm các ngành dịch vụ. Thứ hai là mối quan hệ tương đối giữa các ngành với nhau. Mối quan hệ này bao gồm cả mặt số lượng và chất lượng. Mặt số lượng thể hiện ở tỷ trọng (tính theo GDP, lao động, vốn…) của mỗi ngành trong tổng thể nền kinh tế quốc dân còn khá cạnh chất lượng phản ánh vị trí tầm quan trọng của từng ngành và tính chất của sự tác động qua lại giữa các ngành với nhau. 2. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Cơ cấu ngành kinh tế là một pham trù động, nó luôn luôn thay đổi theo từng thời kỳ phát triển bởi các yếu tố hợp thành cơ cấu không cố định. Qua trình thay đổi cơ cấu nghành từ trạng thái này sang trạng thái khác ngày càng hoàn thiện hơn, phù hợp với môi trường và điều kiện phát triển gọi là sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế không chỉ là thay đổi về số lượng các ngành, tỷ trọng của mỗi ngành mà còn bao gồm sự thay đổi về vị trí tính chất, mối quan hệ trong nội bộ cơ cấu ngành. Việc chuyển dịch cơ cấu ngành phải dựa trên cơ sở một cơ cấu hiện có và nội dung của sự chuyển dịch là cải tạo cơ cấu cũ, lạc hậu chưa phù hợp để xây dựng cơ cấu mới tiên tiến, hoàn thiện và bổ sung cơ cấu cũ nhằm biến cơ cấu cũ thành cơ cấu mới hiện đại và phù hợp hơn. Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế mang tính quy luật, đó là khi thu nhập đầu người tăng lên thì tỷ trọng nông nghiệp trong tổng sản phẩm sẽ giảm xuống, còn tỷ trong của công nghiệp và dịch vụ sẽ tăng lên. Khi đạt đến trình độ nhất định, tỷ trọng của dịch vụ sẽ tăng nhanh hơn tỷ trọng của công nghiệp. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành đã được hai nhà kinh tê học là E.Engel và A.Fisher nghiên cứu khi đề cập sự thay đổi về nhu cầu chi tiêu và sự thây đổi cơ cấu lao động. Ngay từ cuối thế kỷ 19, E.Engel đã nhận thấy rằng, khi thu nhập của các gia đình tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu cho lương thực thực phẩm giảm nên tất yếu dẫn đến tỷ trọng nông nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế sẽ giảm đi khi thu nhập tăng lên. Quy luật E.Engel được nghiên cứu cho sự tiêu dùng lương thực, thực phẩm, nhưng có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng nghiên cứu tiêu dùng cho các loại sản phẩm khác. Các nhà kinh tế gọi lương thực, thực phẩm là sản phẩm thiết yếu, hàng công nghiệp là sản phẩm tiêu dùng lâu bền và việc cung cấp dịch vụ là hàng hóa tiêu dùng cao cấp. Thực tế phát triển của các nước đã chỉ ra xu hướng chung là khi thu nhập tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu cho hàng tiêu dùng lâu bền tăng phù hợp với tốc độ tăng thu nhập, còn chi tiêu cho hàng hóa cao cấp có tốc độ tăng nhanh hơn. Cùng với quy luật tiêu thụ sản phẩm của E. Engel, quy luật tăng năng suất lao động của A. Fisher cũng làm rõ xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế qua việc phân bố lao động. Trong quá trình phát triển, việc tăng cường sử dụng máy móc và các phương thức canh tác mới đã tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động. Kết quả là để đảm bảo lương thực thực phẩm cho xã hội sẽ không cần đến lực lượng lao động như cũ, có nghĩa là tỷ lệ lao động trong nông nghiệp sẽ giảm. Ngược lại, tỷ lệ lao động được thu hút vào công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng do tính co giãn về nhu cầu sản phẩm của hai khu vực và khả năng hạn chế hơn trong việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật để thay thế lao động, đặc biệt là hoạt động dịch vụ. 3. Nhiệm vụ của kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Mặc dù xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là mang tính quy luật nhưng trong thực tế không có một mô hình chuyển dịch chung cho tất cả các nước. Trong công tác kế hoạch những vấn đề thường phải đặt ra như cần ưu tiên cho nông nghiệp đến mức độ nào so với công nghiệp trong thời kỳ đầu phát triển, các mối lien kết kinh tế được phát huy thế nào qua từng thời kỳ. Xác định các điều kiện, yếu tố và các quan điểm chi phối sự chuyển dịch cơ cấu kinh tê. Đây chính là cơ sở để đưa ra các hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nó bao hàm các vấn đề kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ, các mối quan hệ kinh tế quốc tế và các nguồn lực của đất nước. Xác định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cụ thể hóa bằng các quan hệ tỷ lệ giữa các ngành sao cho đảm bảo phù hợp với xu thế biến đổi chung và phản ánh được đặc điểm cảu nền kinh tế trong những điều kiện cụ thể. Xác định hướng huy động và sử dụng các yếu tố đầu vào đặc biệt là cơ cấu vốn đầu tư và cơ cấu lao động nhắm đảm bảo được cơ cấu đầu ra theo hướng đã xác định. Đề xuất các chính sách, biện pháp kinh tế xã hội cần thiết để hướng dẫn hoạt động nền kinh tế sao cho đáp ứng được yêu cầu của sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. II. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010 Giai đoạn 2006 – 2010 là giai đoạn có rất nhiều sự kiện tác động mạnh mẽ tới nên kinh tế nước ta .Tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia đều đi kèm với những thay đổi trong cơ cấu kinh tế, đặc biệt là cơ cấu ba nhóm ngành nông nghiệp (bao gồm nông- lâm nghiệp và thuỷ sản), công nghiệp - xây dựng và dịch vụ. Cơ cấu kinh tế của nước ta thời kỳ này có sự chuyển dịch theo đúng xu hướng nhưng chưa thực sự rõ nét: tỷ trọng nông- lâm- thuỷ sản trong GDP giảm từ 20,97% năm 2005 xuống còn 20.3 % năm 2010 (ước tính); tỷ trọng công nghiệp- xây dựng tăng từ 41,02% lên 41,1%; khu vực dịch vụ cũng tăng từ 38,01% lên 38,6%. Như vậy là thời kỳ này tỷ trọng khu vực I giảm 0.67%, tỷ trọng của khu vực II tăng 0.08%, và tỷ trọng cảu khu vực III tăng 0,59%. So với các thời kỳ từ khi nước ta mở cửa và chuyển sang nền kinh tế thị trường thì đây là thời kỳ có sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế diễn ra chậm và không rõ rệt nhất và không đạt được chỉ tiêu theo kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành đã đề ra từ đầu kỳ kế hoạch là tỷ trọng của khu vực I chiếm trên GDP là khoảng 15-16 %, tỷ trọng của khu vực công nghiệp chiếm khoảng 43 – 44 %, tỷ trọng của khu vực dịch vụ chiếm 40 đến 43 %. Sự chuyển dịch cơ cấu ngành trong thời kỳ này thay đổi qua các năm, như năm 2006 có sự dịch chuyển khá rõ ở khu vực công nghiệp nhưng đến năm 2007 tỷ trọng công nghiệp lại giảm nhưng tỷ trọng dịch vụ tăng nhiều hơn nên tỷ trọng khu vực nông nghiệp vẫn giảm. Nhưng đên năm 2008 thì tỷ trọng cả khu vực dịch vụ và công nghiệp – xây dựng đêu giảm không chỉ so với năm 2007 mà so với năm 2005. Đến năm 2009 và 2010 thì tỷ trọng đã có phần dịch chuyển trở lại theo đúng xu thế tuy tỷ trọng của dịch vụ năm 2010 có giảm nhẹ so với năm 2009. Như vậy để phân tích rõ hơn sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ta sẽ đi vào phân tích tình hình hoạt động kinh tế ở từng khu vực trong thời kỳ vừa qua. 1. Khu vực I – ngành nông lâm ngư nghiệp Nông nghiệp giữ một vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, đặc biệt đối với các nước đang phát triển, thể hiện qua việc: đáp ứng nhu cầu ăn, mặc, ở của con người; cung cấp sản phẩm cho SX và xuất khẩu. Là thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp; cung cấp lao động cho các lĩnh vực kinh tế; xuất khẩu sản phẩm tạo nguồn ngoại tệ cho công nghiệp hóa và góp phần quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề XH cho đất nước. Ở các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng, sản xuất nông nghiệp là nguồn thu nhập chính của đại đa số dân cư, nó chiếm một tỉ trọng khá lớn trong cơ cấu GDP, tuy nhiên có xu hướng giảm dần qua các năm. 2006 2007 2008 2009 Tốc độ tăng GDP bình quân (%) 3.69 3,76 4,07 2,5 Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP (%) 20.4 20.3 22.21 20.09 (Bộ nông nghiệp) Năm 2009, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu tốc độ tăng trưởng của ngành có giảm, nhưng ngay cả trong trường hợp tốc độ tăng trưởng của năm 2009 và 2010 có giảm xuống 2,5% và 3% thì mức bình quân 5 năm vẫn là trên 3,4% và vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra (3,0% - 3,2%). Cơ cấu kinh tế nông nghiệp cũng giống như cơ cấu kinh tế của đất nước, có thể bao gồm cơ cấu ngành, cơ cấu vùng, cơ cấu thành phần, những cơ cấu này có mối quan hệ hữu cơ, gắn bó chặt chẽ với nhau. Trong đó cơ cấu ngành nông nghiệp phản ánh cao nhất sự tiến bộ của phân công lao động xã hội và trình độ phát triển sản xuất trong nông nghiệp. Theo xu hướng chung, trong cơ cấu của ngành nông nghiệp, tỷ trọng nông nghiệp (bao gồm trồng trọt và chăn nuôi) giảm dần, tỷ trọng lâm nghiệp và ngư nghiệp tăng dần nhằm khai thác tốt hơn tiềm năng đất đai trung du, miền núi, diện tích mặt nước, ao hồ, sông suối, biển. Đồng thời kết hợp chặt chẽ ba ngành để hỗ trợ cùng phát triển, bảo vệ môi trường sinh thái. Cơ cấu nông – lâm – thủy sản theo GTSX giai đoan 2006 - 2010 Đơn vị: % 2006 2007 2008 2009 Nông nghiệp 69,65 69,61 76,09 74,06 Lâm nghiệp 4,04 3,95 3,19 3,10 Thủy sản 26,31 26,44 20,72 22,84 (Bộ nông nghiệp) Theo số liệu, tỷ trọng nông nghiệp có xu hướng giảm, tuy nhiên năm 2008 lại tăng đột biến do được mùa lớn 1.1. Ngành nông nghiệp. Cơ cấu nông nghiệp theo GTSX giai đoạn 2006 - 2010 Đơn vị: % 2006 2007 2008 2009 GTSX Trổng trọt/ tổng GTSX nông nghiệp 75,04 75,17 72,61 71 GTSX Chăn nuôi/ tổng GTSX nông nghiệp 24,96 24,83 27,39 29 Tốc độ tăng GTSX trồng trọt 3,44 3,37 6,07 1,73 Tốc độ tăng GTSX chăn nuôi 6,89 4,62 5,97 8,43 (Bộ nông nghiệp) Trồng trọt và chăn nuôi là hai ngành chủ yếu của sản xuất nông nghiệp. Trong nền kinh tế nông nghiệp truyền thống, trồng trọt thường chiếm tỷ trọng lớn trong sản xuất nông nghiệp vì sản phẩm của nó đáp ứng nhu cầu thiết yếu của dân cư. Nhưng khi nền kinh tế phát triển, đời sống dân cư được nâng cao, nhu cầu sản phẩm chăn nuôi ngày càng gia tăng làm cho tỷ trọng chăn nuôi có xu hướng tăng lên. Ngành trồng trọt. Ba năm (từ 2006 – 2008), dù ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh, tốc độ tăng giá trị sản xuất ngành trồng trọt vẫn đạt mức cao, bình quân 4,29%/năm, cao hơn chỉ tiêu kế hoạch đặt ra là 2,7%. Năm 2009, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, đồng thời do năm 2008, ngành trồng trọt được mùa lớn nên tốc độ tăng GTSX trồng trọt bị giảm xuống. Trong những năm qua, dù vẫn phải chuyển đổi một số diện tích đất lúa sang nuôi trồng thủy sản và trồng các cây khác có giá trị hơn và cho nhu cầu công nghiệp hoá, đô thị hoá. Tuy vậy, do được giá, nông dân tận dụng hết diện tích và tăng vụ, nên diện tích gieo trồng lúa vẫn đạt mức trên 7,3 triệu ha, tương đương năm 2005 . Đồng thời, nhờ áp dụng giống chất lượng và các biện pháp thâm canh đồng bộ, năng suất lúa liên tục tăng qua các năm, năng suất lúa 2009 đạt 53 tạ/ha, tăng 4,1 tạ/ha so với năm 2005. Nhờ vậy, sản lượng lúa tăng khá cao so với năm 2005, năm 2008 đạt 38,7 triệu tấn, tăng 2,78 triệu tấn so với năm 2007, năm 2009 đạt 39,2 triệu tấn, tăng trên 445 nghìn tấn so với năm 2008. Sản xuất ngô tiếp tục phát triển, năm 2008 năng suất tăng 4,2 tạ/ha, sản lượng tăng 744 ngàng tấn so với năm 2005.Nhờ sản lượng lương thực phát triển với tốc độ khá nên ngành trồng trọt có điều kiện tiếp tục chuyển đổi cây trông theo hướng mạnh ra thị trường xuất khẩu. Ngành chăn nuôi Ngành chăn nuôi triển khai kế hoạch 2006 - 2010 trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn: Trong khi dịch cúm gia cầm vẫn chưa được khống chế hoàn toàn thì năm 2007 dịch lợn tai xanh và LMLM lại bùng phát trên diện rộng; Năm 2008 trận rét lịch sử kéo dài 39 ngày làm chết trên 200 ngàn trâu bò. Với ảnh hưởng của dịch bệnh và thời tiết như vậy, kèm giá thức ăn chăn nuôi tăng cao đã làm ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của ngành chăn nuôi. Những năm gần đây, ngành chăn nuôi đang có sự chuyển dịch theo hướng tăng chất lượng, thông qua việc thúc đẩy hình thành các vùng chăn nuôi quy mô lớn theo hình thức trang trại, phương thức công nghiệp, sử dụng giống tốt, thức ăn công nghiệp, đảm bảo an toàn dịch bệnh, hiệu quả chăn nuôi tăng lên: Nhiều giống mới được đưa vào sản xuất nên năng suất, chất lượng sản phẩm thịt, trứng, sữa được nâng cao. Xét về chỉ tiêu tăng giá trị sản xuất chăn nuôi bình quân 6,4%/năm có thể đạt được nếu tốc độ tăng trưởng chăn nuôi năm 2010 đạt trên 6%. Trong cơ cấu ngành nông nghiệp, tỷ trọng chăn nuôi đã tăng từ 24,96% năm 2006 lên 29% năm 2009. 1.2. Ngành thủy sản Trong những năm qua, ngành thủy sản nước ta đã trải qua nhiều thăng trầm đáng chú ý. Từ một lĩnh vực chưa được chú trọng phát triển, quy mô tự phát nhỏ lẻ, ngành thủy sản đã từng bước vươn lên phát triển một cách mạnh mẽ và hiện nay đang là một ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Tốc độ tăng GTSX thủy sản đạt mức khá cao trong 3 năm 2006-2008, bình quân 8,96%/năm, tuy nhiên tỷ trọng GTSX thủy sản trong nông lâm thủy sản thay đổi không rõ nét trong 3 năm qua. Cơ cấu sản xuất thủy sản biến đổi theo chiều hướng tích cực, tỷ trọng giá trị sản xuất nuôi trồng thủy sản tăng nhanh, tỷ trong giá trị thủy sản khai thác giảm, sự chuyển đổi tích cực này có được trước hết nhờ mở rộng diện tích nuôi trồng thủy sản, năm 2007 diện tích nuôi trông thủy sản đạt 1,05 triệu ha, bình quân mỗi năm mở thêm 74 nghìn ha, cùng với đó là sự tập trung phát triển theo chiều sâu, xác định đối tượng nuôi, phương thức nuôi, quản lý môi trường nuôi, áp dụng công nghệ nuôi bền vững. Hệ thống nghiên cứu và cung ứng giống cho sản xuất được sắp xếp lại, qua công tác khuyến ngư đã hướng dẫn nông dân và các tổ chức, cá nhân phát triển nuôi trồng theo quy hoạch. Đã đưa vào sản xuất một số loài thuỷ sản có giá trị kinh tế cao (cá lăng, rô phi đơn tính, tôm càng xanh, cá mú, cá chẽm, cua biển,...) với công nghệ nuôi hiệu quả cao. Đơn vị 2006 2007 2008 2009 Tốc độ tăng GTSX ngành thủy sản % 8,54 11,65 6,70 3,00 Tỷ trọng GTSX thủy sản nuôi trồng/ tổng GTSX thủy sản % 66,18 67,14 66,56 67 Ty trọng GTSX thủy sản khai thác/ tổng GTSX thủy sản % 33,82 32,86 33,44 33 (Bộ nông nghiệp) 1.3. Ngành lâm nghiệp. Lâm nghiệp đã có chuyển biến theo hướng từ hoạt động khai thác là chính sang bảo vệ rừng tự nhiên, tăng cường giao khoán bảo vệ rừng, thực hiện chủ trương rừng có chủ nên rừng tự nhiên được khôi phục nhanh. Hoạt động lâm nghiệp đã thực sự chuyển từ chủ yếu dựa vào quốc doanh sang phát triển lâm nghiệp xã hội với nhiều thành phần kinh tế tham gia. Trong lâm nghiệp nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật mới, nhất là trong tuyển chọn, tạo giống mới, nhân nhanh giống bằng công nghệ mô, hom đựợc đưa nhanh vào sản xuất, góp phần cải thiện năng suất, chất lượng rừng. Hiện nay, rừng kinh tế được trồng mới 60% bằng giống tiến bộ kỹ thuật. Tỷ lệ thành rừng đối với rừng trồng từ dưới 50% lên 80%, nhiều nơi năng suất rừng trồng đã đạt 15- 20m3/ha/năm. Việc phát triển lâm nghiệp đã gắn bó hơn với tạo việc làm, nâng cao thu nhập và đời sống cho nông dân, XĐGN ở các vùng miền núi. Sau 20 năm đổi mới, kinh tế Việt Nam đã chuyển từ cơ cấu nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ sang cơ cấu công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp. Cùng với quá trình thay đổi cơ cấu kinh tế quốc dân, cơ cấu ngành công nghiệp cũng đang có những thay đổi nhanh chóng. 2. Khu vực II – ngành công nghiệp và xây dựng 2.1. Các ngành công nghiệp Cơ cấu giá trị sản xuất ngành công nghiệp giai đoạn 2006 - 2010 (%): Công nghiệp khai thác (CNKT) : Năm 2007 : Trong 3 ngành CN cấp I, ước tính CN khai thác mỏ chiếm 6,8%, giảm 1,1% so với năm trước, chủ yếu do khai thác dầu thô giảm. Năm 2008 : Trong các ngành công nghiệp giá trị sản xuất của toàn ngành CNKT đạt 35,6 nghìn tỷ đồng, giảm 3,5% do lượng dầu thô khai thác giảm, chiếm tỷ trọng 5,4%. 9 tháng năm 2010 : CNKT là ngành chịu ảnh hưởng lớn của việc giảm sản lượng dầu thô khai thác. Giá trị sản xuất của ngành này chín tháng năm 2010 ước tính đạt 26,8 nghìn tỷ đồng, giảm 3,8% so với cùng kỳ năm 2009 (Chín tháng 2009 tăng 9,8%) và chiếm 4,7% tổng giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp. Dầu thô là sản phẩm có giá trị cao nhưng chín tháng năm nay chỉ khai thác 11,1 triệu tấn, giảm 13,8% so với cùng kỳ năm trước; than sạch đạt 32,4 triệu tấn, tăng thấp ở mức 1,4%. Ngược lại, khí đốt thiên nhiên hiện đang có tốc độ khai thác nhanh, đạt 7050 triệu m3, tăng 19,1%. Công nghiệp chế biến (CNCB) : Trong giai đoạn 2006 – 2010, công nghiệp chế biến có tỷ trọng ngày càng lớn và có xu hướng tăng hơn các ngành khác. Năm 2006 : CNCB có tỷ trọng ngày càng lớn và có xu hướng tăng hơn các ngành khác. Năm 2006 chiếm 84,5% giá trị sản xuất toàn ngành. Năm 2007 : Trong ba ngành công nghiệp cấp I, ước tính CNCB chiếm 87,6% .giá trị sản xuất toàn ngành tăng 19,1%. Năm 2008 : Trong các ngành công nghiệp, giá trị sản xuất ngành CNCB năm 2008 ước tính đạt 580,2 nghìn tỷ đồng, tăng 16% so với năm 2007, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng giá trị sản xuất toàn ngành với 88,9%. 9 tháng năm 2010 : Ngành CNCB, chế tạo không chỉ đạt mức tăng khá về sản xuất mà mức tiêu thụ cũng tăng ở mức cao. Tính chung tám tháng năm nay, chỉ số tiêu thụ của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,7% so với cùng kỳ năm 2009, trong đó một số ngành sản xuất có chỉ số tiêu thụ cao là: Đồ uống không cồn tăng 39,3%; gạch, ngói và gốm, sứ không chịu lửa tăng 34,2%; các sản phẩm bơ, sữa tăng 34,1%; các sản phẩm khác bằng kim loại tăng 28,4%; bia tăng 20,1%; xi măng tăng 19%; sản xuất các sản phẩm khác bằng plastic tăng 15,8%; sản xuất giày, dép tăng 14,5%. Một số ngành sản xuất có chỉ số tiêu thụ tám tháng năm 2010 tăng chậm hoặc giảm so với cùng kỳ năm 2009 là: Chế biến và bảo quản rau quả tăng 1,1%; thuốc lá tăng 1,4%; thuốc, hoá dược tăng 1,5%; sắt, thép tăng 2,5%; các sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 3,5%; chế biến, bảo quản thủy sản tăng 4,8%; đồ gốm, sứ không chịu lửa giảm 34,2%; đường giảm 17,6%; giấy nhăn và bao bì giảm 7,6%; xe có động cơ giảm 6,4%; thiết bị gia đình giảm 6,3%. Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước Năm 2007 : Trong ba ngành công nghiệp cấp I, sản xuất, phân phối điện, ga và nước chiếm tỷ trọng 5,6%, tăng 12,8%. Năm 2008 : Trong các ngành công nghiệp, ngành công nghiệp điện, ga và nước đạt 37 nghìn tỷ đồng, tăng 13,4%, chiếm 5,7%. 9 tháng năm 2010 : Ngành sản xuất, phân phối điện, ga, nước mặc dù chỉ chiếm 5,9% tổng giá trị nhưng có tốc độ tăng so với cùng kỳ 2009 cao nhất với 15,3% và tăng khá cao so với mức tăng cùng kỳ năm trước (Cùng kỳ năm 2009 tăng 10,3%). Tuy nhiên, trong đó ngành điện mặc dù chín tháng có tốc độ tăng khá so với cùng kỳ năm trước với 14,5%, nhưng tình trạng thiếu điện cho sản xuất và sinh hoạt thời gian vừa qua cho thấy sản xuất điện cần được quan tâm, đầu tư nhiều hơn nữa nhằm bảo đảm nhu cầu tiêu dùng trong nước. Đánh giá : Xem xét về mặt số lượng, sự thay đổi cơ cấu ngành công nghiệp được coi là phù hợp với xu hướng khách quan. Trong đó : Nhóm ngành CNKT được phát triển tập trung vào những tài nguyên có trữ lượng lớn và giá trị kinh tế cao (dầu khí, than đá…) để đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Nhóm ngành công nghiệp nặng được phát triển theo hướng tập trung hơn vào các ngành sản xuất sản phẩm trong nước có khả năng và có nhu cầu lớn  (điện, cơ khí chế tạo và lắp ráp, đóng tàu, vật liệu xây dựng, hóa chất …). Nhóm ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và chế biến nông, lâm, thủy sản được chú trọng phát triển vừa đáp ứng nhu cầu trong nước thay thế nhập khẩu và phục vụ xuất khẩu, vừa tạo thêm nhiều việc làm và thu nhập cho người lao động, tăng mức đóng góp vào ngân sách nhà nước. Một số ngành công nghệ cao (điện tử dân dụng và công nghiệp, máy tính, cơ khí chính xác, công nghệ thông tin), tuy mới được hình thành, nhưng có tốc độ phát triển nhanh và ngày càng trở thành bộ phận chiếm vị trí quan trọng trong cơ cấu ngành công nghiệp. Xem xét về mặt chất lượng: cơ cấu ngành công nghiệp bộc lộ ngày càng rõ những yếu kém, bất cập. Đó là : Trong khi tỷ trọng nhóm ngành CNKT có xu hướng giảm (từ 15,7% năm 2000 xuống còn 11,2% năm 2005. Và giai đoạn hiện nay từ 10,3% năm 2006 xuống 9,8% năm 2008 ), thì quy mô sản lượng lại tăng khá nhanh, chủ yếu là những tài nguyên không có khả năng tái tạo. Chẳng hạn, sản lượng than sạch khai thác năm 2006 đạt 38,91 triệu tấn (gấp 3,35 lần năm 2000: 11,61 triệu tấn ) và đến năm 2009 đã đạt tới 43,715 triệu tấn. Tuy nhu cầu sản phẩm thô trên thị trường thế giới có xu hướng tăng, nhưng giá cả lại bấp bênh, hiệu quả kinh tế - xã hội không cao và sự phát triển nhóm ngành này luôn có tác động xấu đến sự phát triển bền vững. Tuy CNCB có tỷ trọng ngày càng lớn và có xu hướng tăng hơn các ngành khác nhưng chuyển dịch cơ cấu chậm và không đáng kể ( năm 2006 chiếm 84,5% giá trị sản xuất toàn ngành, năm 2007 là 85,4% và năm 2008 là 85,6% ). Chế biến thì chủ yếu là sơ chế, nguyên liệu hầu hết thì nhập khẩu từ nước ngoài. Chiếm tỷ trọng lớn lại là các ngành gia công cho nước ngoài (dệt may, giầy dép, lắp ráp cơ khí và điện tử…) hoặc chế biến nông sản nên giá trị gia tăng thấp. Năm 2008, công nghiệp dệt may đạt kim ngạch xuất khẩu trên 9,2 tỷ USD, nhưng tới 70% trong đó là gia công cho nước ngoài. Đó cũng là tình trạng của ngành sản xuất giầy dép, lắp ráp điện tử và máy tính. Sản xuất công nghiệp phụ thuộc vào nước ngoài ở cả các yếu tố vật chất phục vụ sản xuất (máy móc thiết bị và nguyên vật liệu) và tiêu thụ sản phẩm. Do vậy, khi quy mô sản xuất công nghiệp càng mở rộng, mức nhập siêu ngày càng tăng. Mặt khác, mọi biến động bất lợi của thị trường nước ngoài đều có ảnh hưởng trực tiếp và to lớn đến sản xuất của các doanh nghiệp công nghiệp trong nước. Quan hệ liên kết giữa các ngành CN còn lỏng lẻo và kém hiệu quả. Các ngành CN phụ trợ còn nhỏ bé, phần lớn nguyên phụ liệu phải nhập khẩu. Công nghiệp năng lượng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển nhanh của nền kinh tế. Trong giai đoạn 2006 – 2010, chuyển dịch nội bộ ngành công nghiệp Việt Nam tuy đã theo chiều hướng tích cực: tăng tỉ trọng ngành CNCB, giảm tỉ trọng ngành CNKT; sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nhưng sự chuyển dịch này còn chậm. Mục tiêu của ngành công nghiệp trong năm 2010 là “phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất và giá trị gia tăng công nghiệp ở mức cao nhất (giá trị sản xuất tăng 12% so với năm 2009, giá trị gia tăng toàn ngành tăng 5,7% so với thực hiện năm 2009). Để hoàn thành những mực tiêu này, Bộ Công Thương đề ra nhiệm vụ chủ yếu là nhanh chóng phục hồi và đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng sản xuất công nghiệp đều khắp các ngành, các địa phương. Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm công nghiệp có thị trường, sức cạnh tranh cao, đáp ứng như cầu trong nước và có khả năng giải quyết nhiều việc làm. Các ngành được hướng đến là điện, than, thép xây dựng, xăng dầu, phân bón… Tuy nhiên các mục tiêu trên đều mang tính định lượng, ôm đồm thay vì chọn ra một số điểm nhấn phát triển ưu tiên, dần lồng vào kế hoạch thực tế hàng năm để tạo nên tính định hình rõ rệt cho một nền kinh tế cơ bản phát triển theo hướng công nghiệp hiện đại. Điều này phần nào giải thích rằng, việc tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp hàng năm vẫn đạt mức khá cao nhưng không phải là tăng trưởng mang tính ổn định và bền vững. Trong bối cảnh những biến động bất lợi của kinh tế thế giới, tốc độ tăng trưởng của công nghiệp chậm lại rõ rệt. Sự suy giảm tăng trưởng công nghiệp đã kéo theo sự suy giảm tăng trưởng của toàn bộ nền KTQD. Điều này đã diễn ra trong năm 2008 và kéo dài tới những tháng đầu năm 2009. Nguyên nhân trực tiếp của tình hình này là sự tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu. Song căn nguyên của nó lại là mô hình chiến lược phát triển công nghiệp theo chiều rộng dựa trên cơ sở tăng vốn và khai thác lợi thế về tài nguyên và sức lao động giản đơn. Chiến lược ấy tuy tạo ra được tốc độ tăng trưởng cao trong thời gian nhất định, nhưng không bảo đảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, không tạo nền tảng cho phát triển bền vững và dễ bị tổn thương trước những biến động bất lợi của môi trường quốc tế. 2.2. Ngành xây dựng Cơ cấu ngành xây dựng chiếm trong GDP % 2005 2006 2007 2008 Sơ bộ 2009 Xây dựng 6.35 6.62 6.97 6.44 6.65 Ngành xây dựng nước ta trong giai đoạn này phát triển khá cao trong giai đoạn năm 2006 và 2007 nhưng năm 2008 thì giảm và tăng lại vào năm 2009. Sở dĩ như vậy là vì giai đoạn 2006 và 2007 là năm đầu của thời kỳ đàu của kỳ kế hoạch nên có nhiều dự án đi vào đầu tư xây dựng ban đầu cộng với thị trường bất động sản phát triển nóngdẫn tới mức tăng trưởng lớn nên tỷ trọng của ngành trong GDP tăng khá cao. Nhưng 2008 với biến động của thì trường thế giới và giá cả leo thang đặc biệt là giá cả vật liệu xây dựng cộng với chính sách thắt chặt tiền tệ hạn chế đổ vào thị trường bất động sản khiến cho ngành phát triển chậm lại. Nhưng đến năm 2009 với chính sách kích cầu của chính phủ thì nhiều dự án xây dựng các công trình trọng điểm lại đi vào hoạt động và tiếp tục đẩy nhanh quá trình giải ngân nên ngành xây dựng lấy lại được đà tăng trưởng. Nước ta là nước đang ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển vì vậy cần phải xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trình trọng điểm là điều tất yếu nên tỷ trọng của xây dựng tăng là một sự chuyển dịch đúng với xu hướng. Tuy nhiên, ngành xây dựng nước ta vẫn còn tồn tại rất nhiều yếu kém cần khắc phục như: Hiện tượng đầu tư xây dựng tràn lan không có quy hoạch cụ thể, chất lượng công trình xây dựng kém... 3. Khu vực III – nhóm ngành dịch vụ Để có được một cái nhìn khái quát nhất về ngành dịch vụ Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010 xem xét số liệu sau: Cơ cấu % trong GDP của các nhóm ngành dịch vụ Năm Ngành 2006 2007 2008 2009 9 tháng đầu năm 2010 Khu vực dịch vụ 38.08 38.14 38,10 39,1 38,06 Thương nghiệp 13.64 13.67 13,82 14,32 13,69 Khách sạn, nhà hàng 3.68 3.93 4,38 4,54 4,63 Vận tải, bưu điện, du lịch 4.50 4.44 4,53 4,45 4,22 TC - NH, bảo hiểm 1.81 1.81 1,84 1,92 1,7 Khoa học 0.62 0.62 0,62 0,64 0,51 Kinh doanh bđs 3.78 3.80 3,63 3,66 3,89 Quản lý nhà nước 2.75 2.74 2,77 2,86 2,74 Giáo dục đào tạo 3.15 3.05 2,60 2,66 2,65 Y tế 1.45 1.41 1,25 1,28 1,23 Văn hóa 0.47 0.46 0,41 0,41 0,32 Đảng, đoàn thể, hiệp hội 0.12 0.12 0,13 0,13 0,13 Phục vụ cá nhân, cộng đồng 1.93 1.92 1,94 2,06 2,15 Dịch vụ làm thuê 0.17 0.17 0,17 0,18 0,17 ( Nguồn: Tổng cục thống kê) Giá trị đóng góp vào GDP ( theo giá thực tế) Đơn vị: tỷ đồng Năm Ngành 2006 2007 2008 2009 9 tháng đầu năm 2010 Thương nghiệp 132.794 156.286 204.375 235.612 186.796 Khách sạn, nhà hàng 35.861 44.953 64.717 74.644 63.229 Vận tải, bưu điện, du lịch 43.825 50.769 67.046 73.221 57.611 Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm 17.607 20.752 27.211 31.617 23.246 Khoa học 6.059 7.063 9.220 10.486 7.023 Kinh doanh bđs 36.797 43.509 53.742 60.234 53.133 Quản lý nhà nước 26.737 31.335 40.991 46.999 37.377 Giáo dục đào tạo 30.718 34.821 38.484 43.839 36.108 Y tế 14.093 16.151 18.473 21.053 16.829 Văn hóa 4.617 5.195 6.055 6.789 4.360 Đảng, đoàn thể, hiệp hội 1.217 1.425 1.875 2.138 1.805 Phục vụ cá nhân, cộng đồng 18.789 21.960 28.705 33.843 29.301 Dịch vụ làm thuê 1.657 1.927 2560 2898 2.376 Nguồn: Tổng cục thống kê Ngay từ khi bắt đầu thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế, Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chủ trương, chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động dịch vụ phát triển, nhờ vậy khu vực dịch vụ đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và đời sống dân cư, góp phần tăng trưởng kinh tế. Thể hiện sự phấn đấu đưa ngành dịch vụ trở thành một trong những ngành mũi nhọn của đất nước. Ngành dịch vụ chiếm một tỷ trong khá cao trong GDP ( xấp xỉ 40% GDP) và tăng trong các năm giai đoạn 2006-2010, năm 2006 chiếm 38.08%GDP và đến năm 2009 là 39.1%GDP. Cơ cấu ngành dịch vụ Việt Nam đa dạng với nhiều phân ngành khác nhau trong đó thương nghiệp vẫn là ngành luôn chiếm tỷ trọng cao nhất chiếm 13.64% GDP năm 2006 và 14.32%GDP năm 2009. Tỷ trọng đóng góp vào GDP của các nhóm ngành dịch vụ Đơn vị: % 3.1. Các ngành dịch vụ kinh doanh có tính chất thị trường: Trong giai đoạn 2006-2010 các ngành thuộc nhóm dịch vụ kinh doanh có tính chất thị trường như thương nghiệp, khách sạn, nhà hàng, tài chính, ngân hàng…luôn chiếm tỷ lệ cao nhất trong cơ cấu các nhóm ngành dịch vụ và tỷ trọng đóng góp vào GDP cũng có xu hướng tăng lên tuy nhiên vẫn cỏn rất chậm ( tốc độ tăng trung bình là 1,02%/năm) . Trong đó thương nghiệp vẫn luôn là lĩnh vực dẫn đầu chiếm tỷ trọng gần 50% nhóm ngành dịch vụ thị trường và vẫn có xu hướng ra tăng ( năm 2006 tỉ trọng là 42%, năm 2009 là 46%) Tỷ lệ đóng góp vào GDP (%) 2006 2007 2008 2009 9 tháng đầu năm 2010 Thương nghiệp 13.64 13.67 13,82 14,32 13,69 Khách sạn, nhà hàng 3.68 3.93 4,38 4,54 4,63 Vận tải, bưu điện, du lịch 4.50 4.44 4,53 4,45 4,22 Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm 1.81 1.81 1,84 1,92 1,7 Kinh doanh bđs 3.78 3.80 3,63 3,66 3,89 Phục vụ cá nhân, cộng đồng 1.93 1.92 1,94 2,06 2,15 Dịch vụ làm thuê 0.17 0.17 0,17 0,18 0,17 Tổng 29.51 29.74 30.31 31.13 30.45 Cùng với quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới của nền kinh tế, ngành dịch vụ Việt Nam ngày càng được đa dạng hóa hơn về số lượng và được nâng cao về chất lượng. Đặc biệt các lĩnh vực như tài chính ngân hàng, bảo hiểm, khách sạn nhà hàng, kinh doanh bất động sản đã có những bước tăng trưởng đáng kể. Đó là sự xuất hiện của các ngân hàng thương mại trong nước mới được thành lập cũng như sự gia nhập thị trường tài chính Việt Nam của các ngân hàng nước ngoài. Cũng như những biến động mạnh mẽ trên thị trường bất động sản trong nhưng năm gần đây. 3.2. Các ngành dịch vụ sự nghiệp: Trong những năm qua, tỷ trọng đóng góp vào GDP của nhóm ngành dịch vụ cũng có những biến động, giảm vào năm 2007,2008, tăng vào năm 2009. Trong nhóm ngành này giáo dục đào tạo là nhóm ngành chiếm tỉ trọng cao nhất (chiếm trên 50%) và vẫn luôn có xu hướng tăng. Năm 2008 giáo dục đào tạo chiếm tỉ trọng 52% trong nhóm ngành dịch vụ sự nghiệp thì 9 tháng đầu năm 2010 là 55%. Trong khi đó khoa học vẫn là lĩnh vực rất khiêm tốn, chi chiếm khoảng 12.5 % trong nhóm ngành này, và rất ít biến động trong thời gian qua. Vì vậy chúng ta cần có những ưu tiên hơn nữa cho lĩnh vực này phát triển trong thời gian tới. Tỷ trọng đóng góp vào GDP (%) 2006 2007 2008 2009 9 tháng đầu năm 2010 Khoa học 0.62 0.62 0,62 0,64 0,51 Giáo dục đào tạo 3.15 3.05 2,60 2,66 2,65 Y tế 1.45 1.41 1,25 1,28 1,23 Văn hóa 0.47 0.46 0,41 0,41 0,32 Đảng, đoàn thể, hiệp hội 0.12 0.12 0,13 0,13 0,13 tổng 5.81 5.66 5.01 5.12 4.84 3.3. Các ngành dịch vụ hành chính công: Đây là nhóm ngành không thể thiếu được trong một nền kinh tế bất kì. Các loại hình dịch vụ nhóm ngành này có tính chất bắt buộc, thuộc sự quản lý của nhà nước. Trong những năm qua, tỷ trọng của nhóm ngành này đóng góp vào GDP có xu hướng giảm, nhưng không vì đó mà có thể khẳng định sự đi xuống của nhóm ngành này. Cùng với quá trình phát triển, các hoạt động quản lý nhà nước, an ninh quốc phòng, bảo đảm xã hội ngày càng hiệu quả hơn,. 3.4. Đánh giá Tồn tại và hạn chế Bên cạnh một số kết quả đạt được nói trên, ngành dịch vụ nước ta vẫn tồn tại một số hạn chế nhất định: - Tỷ trọng ngành dịch vụ trong GDP có xu hướng tăng trong các năm qua nhưng vẫn còn rất chậm, một số lĩnh vực như giáo dục, y tế lại có xu hướng giảm. - Sự nghèo nàn, đơn điệu của hệ thống dịch vụ, cho dù cơ cấu ngành dịch vụ rất đa dạng với 12 ngành (Bao gồm 155 tiểu ngành) nhưng Việt Nam mới chỉ tập trung ở việc khai thác những dịch vụ thông thường. Các phân ngành dịch vụ quan trọng như tài chính, viễn thông , cơ sở hạ tầng….đều chưa đủ mạnh. Các phân ngành dịch vụ cần thiết và mới mẻ như nghiên cứu khoa học, thiết kế kiểu dáng hay tiếp thị, nghiên cứu thị trường…đều kém phát triển. Một sân chơi mà ngành dịch vụ Việt Nam đang chưa khai thác tốt như tư vấn đầu tư, tư vấn du học, bảo lãnh tín dụng, bảo hiểm hàng hải, y tế, giáo dục chất lượng cao…Trong khi đó, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, một vài doanh nghiệp tư nhân lại đang thỏa sức “gặt hai” trển mảnh đất này. - Chất lượng của các lĩnh vực dịch vụ trong nước chưa thực sự có sức cạnh tranh cao: Thiếu các trung tâm y tế có chất lượng cao, các cơ sở giáo dục đào tạo các cấp có khả năng cạnh tranh với khu vực và quốc tế…..Hoạt động cung cấp dịch vụ còn yếu, thể hiện ở hai điểm. Thứ nhất là chất lượng nguồn nhân lực, bởi vì dịch vụ nó phụ thuộc hoàn toàn vào con người, thể hiện qua chất xám của mỗi người như năng lực thông tin, ngoại ngữ, công nghệ thông tin. Đồng thời bản chất của dịch vụ là giao dịch và giao tiếp con người. Cũng vì điểm yếu trên nên kéo theo điểm yếu thư hai về chất lượng giao dịch hiện không cao. Chất lượng của khá nhiều sản phẩm dịch vụ còn thấp so với mặt bằng quốc tế và còn thiếu tính chuyên nghiệp, tác phong công nghiệp trong thực hiện các dịch vụ, giá dịch vụ chưa có khả năng cạnh tranh cao, chưa thỏa dụng được yêu cầu phục vụ của các đối tượng ngày càng đa dạng hay cao cập. - Ngành dịch vụ chưa thực sự tạo ra một môi trường tốt cho toàn bộ nền kinh tế phát triển. Hiện tại các chi phí dịch vụ viễn thông, cảng biển, vận tải.. của Việt Nam đang cao hơn mức trung bình của các nước trong khu vực( viễn thông cao hơn 30-50%, vận tải đường biển cao hơn 40-50%). Nguyên nhân : - Xuất phát điểm của nước ta thấp, ngành dịch vụ thực sự mới giành được nhiều quan tâm trong thời gian gần đây, thiếu đội ngũ nguồn nhân lực có chất lượng cao. - Ngành dịch vụ phát triển còn thiếu tính chiến lược, phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và thách thức trong nước cũng như thế giơi, cũng như ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới đặc biệt tài chính- ngân hàng là lĩnh vực bị chịu ảnh hưởng nhất. 4. Sự chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu đầu tư với chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế giai đoạn 2005 – 2009 Cơ cấu vốn theo ngành Năng suất lao động giai đoạn 2006 – 2010 Cấu kinh tế Việt Nam chuyển dịch chậm hơn dự kiến, kể cả cơ cấu ngành, cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ... Sự chuyển dịch cơ cấu ngành có liên quan chặt chẽ đến cơ cấu lao động và cơ cấu đầu tư. Cơ cấu lao động chưa có sự chuyển dịch rõ rệt theo hướng tiến bộ, lao động chưa có việc làm còn lớn, đang bị “tắc nghẽn” trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn. Trong khi đó, cơ cấu đầu tư thể hiện sự mất cân đối lớn giữa nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản và tình trạng đầu tư tràn lan ở các địa phương. Ngành nông nghiệp năng xuất vẫn còn thấp bởi hiện tượng bán thất nghiệp xảy ra rất phổ biến cộng với lượng vốn đầu tư vào khu vực này khá thấp dẫn đến công nghệ rất lạc hậu và thường sản xuất manh núm, chất lượng sản phẩm thấp. Ngành công nghiệp thì phát triển dựa vào yếu tố vốn là chủ yếu, chưa tận dụng được lợi thế lao động của nước ta. Nhìn từ góc độ dài hạn, quá trình chuyển dịch cơ cấu chưa diễn ra theo một quy hoạch chiến lược tổng thể có tầm nhìn dài hạn, với một lộ trình hợp lý và được bảo đảm thực hiện nghiêm ngặt. Những năm qua là giai đoạn hình thành cơ cấu được định hướng bởi các quy hoạch mang tính cục bộ ngành và địa phương, nhằm phục vụ cho các lợi ích cục bộ và ngắn hạn. Chính vì thế, quy hoạch tổng thể thường bị điều chỉnh, phá vỡ, hiệu quả đầu tư thấp, cơ cấu chuyển dịch không đúng yêu cầu thúc đẩy tăng trưởng cao, bền vững, nâng cao sức cạnh tranh. 5. So sánh cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam với Thái Lan và Hàn Quốc Cơ cấu ngành kinh tế theo mức độ thu nhập năm 2005 (%) Nguồn: WB, báo cáo phát triển, 2007 Các mức thu nhập Nông nghiệp Công nghiệp Dich vụ Toàn thế giới 4 28 68 Thu nhập cao 2 26 72 Thu nhập trung bình cao 7 32 61 Thu nhập trung bình thấp 13 41 46 Thu nhập thấp 22 28 50 Sau một số năm kể từ khi đổi mới, kinh tế Việt Nam lại bắt đầu nhập cuộc vào dòng thác công nghiệp tại châu Á. Hiện nay, vị trí của Việt Nam ở đâu và đâu là điều kiện để rút ngắn khoảng cách với các nước xung quanh? Trước năm 1993, các chỉ tiêu kinh tế của Việt Nam được tính theo hệ thống sản xuất vật chất (material product system - MPS) do đó phải tính toán lại và quy đổi các chỉ tiêu ấy sang các chỉ tiêu theo hệ thống tài khoản quốc gia (system of national account - SNA) của Liên hợp quốc mới so sánh được nhịp độ phát triển và cơ cấu kinh kế Việt Nam với kinh tế các nước trong khu vực. Một trong những chỉ tiêu về trình độ phát triển của một nước liên quan đến trình độ chuyển dịch cơ cấu của một nền kinh tế. Những nước có mật độ dân số đông và xuất phát từ nền nông nghiệp lạc hậu phải qua con đường công nghiệp hoá mới phát triển được và mới hiện đại hoá được bản thân nền nông nghiệp. Thống kê của Ngân hàng thế giới cho thấy vào năm 1994, tỷ trọng của công nghiệp trong GDP của Việt Nam là khoảng 22%, xấp xỉ tỷ trọng của Thái Lan vào khoảng năm 1980. Năm 2010 tỷ trọng cơ cấu của công nghiệp trong GDP của Việt Nam ước tính là 41% xấp xỉ với Thái Lan năm 1995. Nếu chỉ xét trên phương diện chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đặc biệt là tỷ trong công nghiệp đặc trưng cho giai đoạn CNH-HĐH thì có thể nói vào thời kỳ bắt đầu đổi mới Việt Nam đi chậm hơn Thái Lan độ hơn 20 năm. Với những cố gắng thúc đẩy sự nghiệp CNH_HĐH thì năm 2010 chúng ta rút gọn nó còn khoảng 15 năm. Đối với Hàn Quốc, một nước Đông Á thì cơ cấu ngành đã chuyển dịch sang một nước phát triển các ngành dịch vụ. So với Hàn Quốc thì Việt Nam còng ở một khoảng cách xa tầm 30 đến 35 năm. Phân tích trong phần trên cho thấy một cách khái quát là Việt Nam đi chậm hơn Thái Lan khoảng 15 - 20 năm, Hàn Quốc khoảng 30 – 35 năm. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là ta phải cần một thời gian như vậy mới bằng mức của Thái Lan, Hàn Quốc bây giờ. Các nước đi sau nếu có chính sách đúng đắn có thể đốt giai đoạn và đây là khuynh hướng chung có thể thấy trong trường hợp của Nhật Bản, Hàn Quốc và nhiều nước khác. III. Lập kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011 1.Tính tốc độ giảm bình quân năm về tỷ trọng GDP của ngành nông nghiệp : Hàm hồi quy có dạng : Ln( tỷ trọng NN) = a + k* t Sử dụng Eviews : k = -0.031649 => tỷ lệ giảm tỷ trọng GDP ngành nông nghiệp : gnn = ek – 1 = e-0.031649 – 1 = -0.0311 tương đương - 3.11 % 2. Tính tốc độ tăng bình quân năm về tỷ trọng GDP của ngành công nghiệp : Hàm hồi quy có dạng : Ln ( tỷ trọng CN) = b + m*t Sử dụng Eviews : m = 0.030826 => tỷ lệ tăng tỷ trọng GDP ngành công nghiệp : gcn = em – 1 = e0.030826 – 1 = 0.0313 tương đương 3.13 % 3. Tỷ trọng các ngành trong kỳ kế hoạch : Tỷ trọng ngành nông nghiệp = 20.66 * ( 1 – 0.0311) = 20.02 % Tỷ trọng ngành công nghiệp = 40.24 * ( 1 + 0.0313 ) = 41.5 % Tỷ trọng ngành dịch vụ = 100 – tỷ trọng ngành NN – tỷ trọng ngành CN = 38.48 % STT Chỉ tiêu Đơn vị tính Kế hoạch 5 năm 2011–2015 Cơ cấu ngành theo GDP 100 1 Nông nghiệp % GDP 20.02 2 Công nghiệp % GDP 41.5 3 Dịch vụ % GDP 38.48 MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbt396_1341.doc
Luận văn liên quan