Nghệ An, vẫn là một tỉnh nghèo, kinh tế chậm phát triển, trình độ dân trí thấp,
lực lượng lao động trong nông nghiệp rất đông (chiếm hơn 90% lao động toàn tỉnh),
nhưng hầu hết chưa được đào tạo nghề nghiệp, lao động cơ bắp là chủ yếu; phân chia
giàu nghèo có xu hướng gia tăng; tình trạng mất dân chủ; tệ tham nhũng, buôn lậu,
gian lận thương mại, làm hàng giả và các tệ nạn xã hội khác là điều đáng lo ngại.
106 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4042 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát huy nhân tố con người trong quá trình Công nghiệp hóa- hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
triển kinh tế từng vùng, địa phương. Nhà nước
bán vật tư cho nông dân với giá ổn định và thấp, mua nông sản cho nông dân với giá
cao và ổn định. Nhà nước bù lỗ chênh lệch giữa giá thị trường và giá mua hoặc bán
của nhà nước cho hộ sản xuất.
Đây là chính sách giá thích hợp nhằm can thiệp vào thị trường, tạo cơ hội cho
nông dân ổn định sản xuất.
Các chính sách trên đây cần được thực hiện đồng bộ với những chính sách khác
đã được ban hành mới đạt hiệu quả cao trong việc phát huy sức sáng tạo của nông dân,
phát triển kinh tế - xã hội đúng định hướng XHCN.
2.2.2.2. Có chính sách khuyến khích làm giàu chính đáng, gắn với xóa đói
giảm nghèo, đảm bảo công bằng xã hội
Đảng ta chủ trương khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp, "coi việc một
bộ phận dân cư làm giàu trước là cần thiết cho sự phát triển" [12, tr. 114], đồng thời
chăm lo xóa đói giảm nghèo, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, mức sống
giữa các vùng, các dân tộc, giữa các tầng lớp dân cư. Thực hiện chủ trương đó, trước
mắt Nghệ An cần thiết phải chú trọng thực hiện các giải pháp cụ thể sau đây:
Phải đổi mới từ nhận thức đến thực tiễn, coi một bộ phận dân cư giàu có chính
đáng là hợp quy luật và cần thiết cho sự phát triển.
Sự hình thành những nhóm xã hội có đủ vốn, đủ kinh nghiệm, có bản lĩnh kinh
doanh trong thị trường để làm nòng cốt cho sự phát triển kinh tế hàng hóa, thị trường
vốn yếu kém ở Nghệ An là vấn đề cấp thiết. Bộ phận đó có khả năng dẫn dắt nông dân
đi vào kinh tế thị trường thuận lợi nhất, có năng lực tập hợp các tầng lớp dân cư trong
nông thôn trong quá trình xây dựng nông thôn mới. Trong quá trình CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn, vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ có một vị trí vô cùng quan
trọng, trong mô hình kinh tế đó thì một bộ phận giàu có, có vai trò chủ yếu tạo dựng các
doanh nghiệp để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm, tăng
thu nhập cho dân cư ở nông thôn.
Tiếp tục tạo điều kiện để mọi người có cơ hội vươn lên làm giàu chính đáng,
đảm bảo công bằng xã hội.
Trong quá trình thực hiện sự nghiệp "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
văn minh", nội dung của công bằng xã hội cần được thể hiện trong mối quan hệ giữa
cống hiến và hưởng thụ, ai cống hiến nhiều thì hưởng nhiều, ai cống hiến ít thì hưởng ít.
Nhà nước và xã hội có chính sách giúp đỡ cho những người do hoàn cảnh đặc biệt
không thể tự mình lao động để kiếm sống. Cũng do vậy, phải chấp nhận sự khác biệt
trong thu nhập, do năng lực và điều kiện của mỗi người tham gia vào hoạt động kinh tế,
xã hội không giống nhau. Sự khác biệt, sự chênh lệch trong thu nhập gắn liền với sự
chênh lệch trong mức sống, sự khác biệt trong lối sống, tạo ra sự bất bình đẳng xã hội.
Sự khác biệt này một mặt tạo ra động lực phát triển kinh tế, mặt khác luôn là mầm
mống, nguyên nhân của bất bình đẳng xã hội.
Điều quan trọng là phải tạo ra những cơ sở của sự bình đẳng, tức là những cơ
hội bình đẳng cho mọi người tham gia vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Với cách
tiếp cận như vậy, sự chênh lệch về mức thu nhập một cách hợp lý mới được coi là bình
đẳng hay công bằng.
Trong trình độ phát triển của đất nước hiện nay, chúng ta buộc phải chấp nhận
sự bất bình đẳng. Song, không vì thế mà tước bỏ đòi hỏi về sự công bằng xã hội. Vì vậy
trong nội dung của công bằng xã hội đã bao hàm sự chấp nhận làm giàu chính đáng, hợp
pháp, biết làm giàu cho mình và có lợi cho sự phát triển của đất nước.
Sự phân hóa giàu nghèo là hệ quả tất yếu của việc thực hiện nguyên tắc công
bằng xã hội trong điều kiện lịch sử của nước ta hiện nay, và chúng ta bắt buộc phải chấp
nhận, mặc dầu đó là hệ quả chúng ta không mong muốn. Vì thế, không thể nôn nóng,
muốn xóa bỏ sự phân hóa giàu nghèo một cách nhanh chóng, mà chỉ có thể thực hiện
mục tiêu cuối cùng đó dần dần, từng bước, trước mắt thực hiện công bằng xã hội là yêu
cầu hàng đầu.
Vấn đề đặt ra hiện nay là:
- Trong khi những người lao động trung thực, cần mẫn dãi nắng, dầm sương
đang phải sống nghèo khổ thì lại có kẻ giàu lên quá nhanh bằng những thủ đoạn bất hợp
pháp, xảo trá như tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi, buôn lậu, trốn thuế, lừa đảo... và đang
sống xa hoa phè phỡn.
- Hiện có một bộ phận dân cư có nhiều cống hiến cho đất nước, đặc biệt là đã
cống hiến không chỉ sức lực, của cải mà cả xương máu của mình cho sự nghiệp giải
phóng đất nước, thì bây giờ vẫn phải sống nghèo khổ, đặc biệt những di chứng chiến
tranh để lại cho cả con cháu họ làm mất khả năng vươn lên trong cuộc sống.
Bởi vậy, để khắc phục tình trạng trên cũng là thực hiện công bằng xã hội cần có
những chính sách và biện pháp cụ thể:
- Đẩy mạnh đấu tranh, tiến tới loại trừ tệ tham nhũng, quan liêu, làm giàu bất
hợp pháp.
- Điều tiết thu nhập của những người giàu lên do lợi thế nghề nghiệp, lợi thế do
xã hội và tài nguyên tạo ra. Nhưng vấn đề công bằng xã hội trong phát triển theo định
hướng XHCN không chỉ là việc điều hòa lợi ích, điều tiết phân phối lại thu nhập của các
giai tầng trong xã hội cho hợp lý, mà quan trọng hơn là phải đảm bảo cho mọi tầng lớp
xã hội được hưởng các quyền lợi xã hội như giáo dục, chăm sóc sức khỏe, đào tạo nghề
nghiệp, được giúp đỡ lúc khó khăn, hoạn nạn.
- ở nông thôn Nghệ An do hậu quả nặng nề của xã hội cũ và các cuộc chiến
tranh để lại, bộ phận dân cư nghèo khổ này càng đa dạng, phần lớn đối tượng cần được
xã hội trợ giúp. Những người còn có khả năng lao động, ngoài việc tổ chức phục hồi
chức năng cho họ, cần phải hỗ trợ các điều kiện cần thiết như: vốn, đào tạo nghề, kinh
nghiệm sản xuất..., để họ vươn lên hòa nhập với cộng đồng. Những người không còn
khả năng lao động cần khuyến khích các tổ chức và cá nhân giúp đỡ, chăm sóc bằng các
hoạt động nhân đạo, từ thiện. Những người tàn tật, già cả, trẻ mồ côi không nơi nương
tựa cần phải được giúp đỡ tại địa phương hoặc nuôi trong các cơ sở xã hội.
Giải quyết việc làm cho người lao động nhằm đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh,
đi đến xóa đói, giảm nghèo.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã chỉ rõ "Tập trung sức tạo việc làm... khuyến
khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư, mở mang ngành nghề, tạo
nhiều việc làm cho người lao động" [12, tr. 114]. ở tầm vĩ mô, Việt Nam đã có chương
trình quốc gia về giải quyết việc làm. Trên cơ sở đó, các vùng, các tỉnh xuất phát từ thực
trạng và điều kiện cụ thể của vùng mình, tỉnh mình để có những giải pháp thiết thực hơn
giải quyết việc làm cho người lao động. Đối với nông thôn Nghệ An các giải pháp phải
là:
- Gắn chặt quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn với
việc di dân xây dựng các vùng kinh tế mới nhằm phân bố lại lao động, giải quyết việc
làm, góp phần xóa đói giảm nghèo. Việc di dân xây dựng các vùng kinh tế mới ở Nghệ
An cần kết hợp với chương trình phủ xanh đất trống đồi trọc và phát triển kinh tế trang
trại. Đi đôi với các chính sách hỗ trợ vốn đầu tư, miễn thuế, thì cần phải chuẩn bị tốt các
khâu: di dân tới, khai phá đất hoang, tổ chức sản xuất và xây dựng kết cấu hạ tầng.
- Trợ giúp xúc tiến việc làm thông qua các dự án nhỏ. Đối với nông thôn Nghệ
An các dự án nhỏ được xây dựng và triển khai theo hai hình thức: dự án do chính quyền
địa phương tổ chức để thu hút lao động, giải quyết việc làm, khai thác tiềm năng của địa
phương, dự án của các đoàn thể, tổ chức quần chúng, hội nghề nghiệp được xây dựng để
giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho các thành viên của Hội.
- Tạo việc làm thông qua các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mô hình này thích hợp
với các gia đình hoặc nhóm gia đình có vốn, có nghề truyền thống đủ điều kiện phát
triển trong nền kinh tế thị trường.
Thực hiện những giải pháp cụ thể hơn nhằm phát triển sản xuất ở các hộ nghèo,
đi đến xóa đói, giảm nghèo.
- Điều chỉnh, bổ sung giao thêm đất hoang hóa, đất trống, đồi trọc có khả năng
phát triển nông nghiệp, giao rừng, mặt nước cho các hộ nghèo có lao động. ở Nghệ An
phần lớn (70-80%) diện tích đất canh tác được chia theo nhân khẩu, quỹ đất còn lại được
tổ chức đấu thầu cho những hộ có điều kiện sản xuất, trong số này có địa phương giành
từ 3-5% để làm quỹ đất dự trữ. Bởi vậy, cần có sự điều chỉnh, bổ sung thêm ruộng đất
cho những hộ nghèo có nhiều lao động và có khả năng canh tác để họ thoát ra khỏi cảnh
nghèo. Đây cũng là hình thức bổ sung thêm vốn cho hộ nghèo vươn lên. Bên cạnh đó,
diện tích đất hoang, đồi trọc, đất lầy mặn ven biển và cửa sông có khả năng phát triển sản
xuất ở Nghệ An còn khá lớn, đối với các loại đất này cần có chính sách khuyến khích,
khai thác, sử dụng, đặc biệt là ưu tiên về vốn phát triển kinh tế trang trại. Nơi không có
khả năng khai hoang, phục hóa cần vận động các hộ nông dân di chuyển định canh, định
cư đến vùng đất mới.
Tuy nhiên các điều kiện về cơ sở hạ tầng như: giao thông, thủy lợi, điện, giáo
dục, y tế... ở các vùng định canh mới còn rất kém và nhiều khó khăn, cần thiết phải có
sự trợ giúp về vốn, miễn thuế nông nghiệp trong những năm đầu cho hộ nông dân. Cùng
với chính sách ưu tiên về vốn và miễn thuế, việc chọn hộ đi xây dựng vùng kinh tế mới
là rất cần thiết. Tỉnh Nghệ An mấy năm gần đây đã xây dựng được các tổng đội thanh
niên xung phong đứng ra đảm nhận công việc khó khăn này. Đây là một giải pháp có
hiệu quả trong chương trình xây dựng vùng kinh tế mới cần được phát huy.
- Tăng cường vai trò của nhà nước, của chính quyền các cấp trong việc thực thi
các giải pháp xóa đói, giảm nghèo như: đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng ở nông thôn,
đặc biệt ưu tiên cho những xã nghèo, vệt nghèo, thực hiện chính sách bảo trợ sản xuất
nông nghiệp trong những trường hợp nông dân gặp rủi ro, thiên tai, giá cả thị trường
biến động lớn, miễn, giảm phí học nghề cho học sinh nghèo tại các trung tâm dạy nghề,
xây dựng và mở rộng chương trình khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo, tuyên
truyền sâu rộng và hỗ trợ kinh phí để thực hiện kế hoạch hóa gia đình...
2.2.2.3. Thực hiện triệt để quy chế dân chủ ở xã
Dân chủ XHCN không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực to lớn của sự nghiệp
xây dựng CNXH. Nhờ phát huy dân chủ, chúng ta đã tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng
chiến, thống nhất đất nước. Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta lại nhấn mạnh phương
châm "lấy dân làm gốc" để dân chủ không chỉ là khẩu hiệu mà trở thành mục tiêu và
động lực thực sự của quá trình phát triển kinh tế - xã hội đúng định hướng XHCN.
Sự nghiệp đổi mới đất nước nhất định phải do một sức mạnh vĩ đại, sức mạnh
khối đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản vững mạnh về mọi mặt.
Muốn động viên và tổ chức được sức mạnh đó thì việc thực thi dân chủ, mở rộng dân
chủ, nâng cao dân trí là một yêu cầu cơ bản, không có nó thì không có CNXH, không có
nhà nước của dân, do dân, vì dân và không thể đấu tranh chống quan liêu tham nhũng,
bất công và các tệ nạn xã hội. Thực thi dân chủ, mở rộng dân chủ sẽ có thêm sức động
viên, làm tăng thêm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của
Nhà nước, vào bản chất ưu việt của chế độ XHCN ở nước ta. Do đó, nhân dân sẽ hồ hởi,
phấn chấn, tích cực đóng góp vào sự phát triển bền vững theo định hướng XHCN. Mở
rộng dân chủ là điều kiện để cho mọi người phát triển hài hòa, phát huy tối đa khả năng
xây dựng đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
Một trong những mục tiêu của mở rộng dân chủ ở nông thôn là thực hiện triệt
để quy chế dân chủ ở xã.
Quy chế dân chủ ở xã là văn bản cho Chính phủ ban hành nhằm phát huy quyền
làm chủ, sức sáng tạo của nhân dân ở xã, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần to
lớn của nông dân và nhân dân trong phát triển kinh tế, ổn định chính trị, xã hội, tăng
cường đoàn kết nông thôn, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, xây dựng Đảng bộ,
chính quyền và các đoàn thể ở xã trong sạch, vững mạnh, ngăn chặn và khắc phục tình
trạng suy thoái, quan liêu, tham nhũng, góp phần vào sự nghiệp dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, văn minh theo định hướng XHCN.
Theo tinh thần Chỉ thị 30 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam (khóa VIII), tháng 5 năm 1998 Chính phủ đã ban hành quy chế thực hiện dân chủ
ở xã, xác định thẩm quyền làm chủ của nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý
kinh tế - xã hội ở cơ sở. Có thể nói quy chế dân chủ ở xã đi vào cuộc sống quá chậm.
Thực tiễn cho thấy nội dung quy chế thì hay nhưng thực hiện quy chế lại không đơn
giản. Vì rằng, một số cán bộ mất phẩm chất ở xã sẽ không thực hiện nghiêm chỉnh quy
chế. Nếu thực hiện công khai, dân chủ thì những hành vi tham nhũng, lộng hành của họ
sẽ bị phơi bày ra ánh sáng và công luận. Một bộ phận không nhỏ ở nông thôn thích "an
phận thủ thường" nên chưa hẳn đã hồ hởi đón nhận quy chế. Thực hiện quy chế dân chủ
ở cơ sở, thực chất là một cuộc đấu tranh tư tưởng quyết liệt giữa tư tưởng đổi mới và
bảo thủ, trì trệ. Do đó cần được chỉ đạo thường xuyên, sát sao và kiên quyết.
Thực hiện quy chế dân chủ ở xã, xuất phát từ thực tế nông thôn cần phải tập
trung vào các giải pháp cụ thể sau:
Thứ nhất: Nâng cao hiệu quả thực hiện quy chế dân chủ trực tiếp ở xã theo
phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". Việc xóa bỏ cơ chế cũ chuyển
sang cơ chế khoán sản phẩm, giao đất, giao rừng cho hộ nông dân đã góp phần tạo nên
tư duy kinh tế năng động, sáng tạo, giám nghĩ, dám làm, ý thức chủ động, tranh thủ cơ
hội làm giàu ở người nông dân tăng lên. Có thể khẳng định: nhân tố tự chủ của cá nhân
và hộ gia đình là nguyên nhân hàng đầu làm cho kinh tế hộ phát triển, tăng hộ giàu,
giảm hộ nghèo. Ngay trên ruộng đất được giao lâu dài, hộ nông dân là một đơn vị kinh
tế tự chủ, tự quyết định lấy sản xuất, kinh doanh, quyết định trồng cây gì, nuôi con gì, tự
do trong liên kết sản xuất, kinh doanh... Đó là một bước tiến lớn trong quá trình thực
hiện quyền làm chủ về kinh tế của người nông dân và đã thực sự thúc đẩy sản xuất nông
nghiệp có những bước phát triển vượt bậc - yếu tố cơ bản đưa đất nước ra khỏi khủng
hoảng. Dân chủ hóa trong lĩnh vực kinh tế thực sự đã tạo điều kiện, tiền đề cho sự đổi
mới chính trị và ổn định xã hội.
Yêu cầu bức xúc, trọng tâm của việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở
xã hiện nay là việc đưa nhân dân tham gia quản lý kinh tế - xã hội ở thôn, xã với những
nội dung cơ bản:
- Nhân dân phải được bàn bạc và trực tiếp quyết định những công việc như: chủ
trương và mức đóng góp xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở và các công trình phúc lợi công
cộng (điện, đường, trường học, trạm xá, các công trình văn hóa, thể thao...), thành lập
các ban giám sát các công trình xây dựng do dân đóng góp. Nhân dân được bàn bạc,
thảo luận dân chủ những vấn đề có liên quan tới cuộc sống thiết thân của mình như giao
quyền sử dụng ruộng đất; vay vốn để xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế; giữ gìn
trật tự an ninh thôn, xóm; đề cử, ứng cử vào hội đồng nhân dân...
- Nhân dân có quyền giám sát, kiểm tra hoạt động của đại biểu và cơ quan dân
cử bằng những hình thức thích hợp, quyền được thông tin, bàn bạc tham gia ý kiến vào
những vấn đề cấp thiết như: dự thảo quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn và
hàng năm của xã; phương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm cho người
lao động; dự án quy hoạch sử dụng đất đai; phương án phòng và chống các tệ nạn xã
hội..., trước khi ủy ban nhân dân và hội đồng nhân dân xã quyết định và kiểm tra, giám
sát việc thực hiện những vấn đề đó.
- Nhân dân phải được quyền thông tin về: kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết
các vụ việc tiêu cực, tham nhũng của cán bộ xã, thôn, huyện, tỉnh; hoạt động của hội
đồng nhân dân, ủy ban nhân dân; các quy định của nhà nước, chính quyền địa phương
liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân.
Có thể nói, các giải pháp thực hiện dân chủ trực tiếp ở xã rất đa dạng và phong
phú. Vấn đề đặt ra là phải thường xuyên nghiên cứu, tìm tòi những giải pháp phù hợp
với điều kiện, đặc điểm cụ thể của từng địa phương để xây dựng thiết chế bảo đảm thực
hiện được các giải pháp đó một cách có hiệu quả nhằm thực hiện một nền dân chủ thực
sự để thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng nông thôn mới theo định
hướng XHCN.
Thứ hai: Tăng cường vai trò của nhà nước trong quá trình thực hiện dân chủ đại
diện ở cơ sở nông thôn. Vai trò của nhà nước, hay nói đúng hơn, sự can thiệp của nhà
nước vào hoạt động kinh tế - xã hội là vấn đề hết sức quan trọng. Trong điều kiện
chuyển sang nền kinh tế thị trường, vai trò của Nhà nước càng có ý nghĩa quyết định.
Nhà nước phải tạo ra môi trường và điều kiện thuận lợi để các chủ thế kinh tế được tự
chủ trong sản xuất và kinh tế. Nhà nước phải tăng cường đến mức tối đa việc giải quyết
các vấn đề xã hội bằng các chính sách chương trình cụ thể, có mục tiêu và đầu tư thích
đáng.
Người dân nông thôn hiện nay có quyền tự chủ trong sản xuất và kinh doanh,
song điều đó không có nghĩa là họ không cần tới sự hỗ trợ của hợp tác xã, của chính
quyền địa phương và của nhà nước, họ không chỉ mong muốn tăng cường dân chủ trực
tiếp mà còn mong muốn tăng cường sức mạnh của nhà nước pháp quyền.
ở nông thôn Nghệ An hiện nay việc chuyển sang nền kinh tế hàng hóa, cơ chế
thị trường nói chung còn ở mức độ rất thấp so với cả nước. ở đây, thị trường truyền
thống tự cung, tự cấp, khép kín trong phạm vi làng xóm đang còn chiếm ưu thế. Khó
khăn lớn nhất đối với người nông dân và xã hội nông thôn Nghệ An là chưa tạo ra được
ưu thế cạnh tranh trên thị trường, cái vòng luẩn quẩn của sự nghèo nàn, lạc hậu xuyên
suốt lịch sử xã hội nông thôn Nghệ An tạo ra điểm xuất phát quá thấp hết sức bất lợi
trong cơ chế thị trường. Cùng với việc chuyển sang cơ chế thị trường, các hiện tượng
tiêu cực và tệ nạn xã hội như cờ bạc, rượu chè, ma túy, mại dâm, tham nhũng... bộc lộ
ngày càng phức tạp. Để giải quyết các vấn đề đó, người dân cần "phép nước", "lệ làng"
thật nghiêm minh. Mong muốn của người dân nông thôn hiện nay là Nhà nước đổi mới
hơn nữa chính sách vĩ mô, giúp họ thích nghi với cơ chế thị trường đang hình thành và
phát triển ở nông thôn. Đòi hỏi Nhà nước phải tăng cường can thiệp một cách trực tiếp
vào việc xây dựng và thực hiện các chính sách xã hội ở mức tối đa bằng hệ thống các
công cụ, biện pháp cụ thể để giải quyết các vấn đề xã hội vừa cơ bản, vừa cấp bách để
không chỉ đảm bảo kỷ cương, trật tự, mà còn tạo điều kiện cho người dân sản xuất và tự
do kinh doanh, để không một ai bị gạt ra ngoài lề của sự tiến bộ xã hội.
Chính quyền cấp xã từ lâu đã xác định là cấp hành chính cơ sở có vị trí cực kỳ
quan trọng trong hệ thống chính quyền hành chính quốc gia. Cán bộ chủ chốt thôn, xã là
khâu quan trọng nhất trong quản lý nông thôn, là một động lực đáng kể thúc đẩy kinh tế -
xã hội nông thôn phát triển. Người nông dân Nghệ An lao động cần cù, chiến đất dũng
cảm, nhưng bước vào giai đoạn đổi mới lại thiếu một đội ngũ cán bộ có năng lực, có kinh
nghiệm quản lý và xây dựng kinh tế theo hướng kinh tế thị trường. Kinh nghiệm đổi
mới đất nước trong hơn thập kỷ qua, đã cho thấy đội ngũ cán bộ cấp xã có vững mạnh
thì xã mới phát triển tiến lên được, trái lại ở đâu đội ngũ cán bộ cấp xã yếu kém sẽ kéo
theo nhiều vấn đề phức tạp: mâu thuẫn giữa dân với chính quyền, vi phạm pháp luật, mất
trật tự trị an, kinh tế - xã hội kém phát triển...
Do đó, trong quá trình thực hiện dân chủ đại diện ở xã, vấn đề tăng cường vai
trò quản lý và điều hành của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương dựa trên nguyên
tắc và phương pháp dân chủ đóng vai trò cốt lõi.
Để hoàn thiện hình thức dân chủ đại diện, cần tiếp tục xây dựng, kiện toàn
chính quyền cơ sở, quy hoạch đội ngũ cán bộ cấp xã, thôn trên cơ sở những giải pháp cụ
thể là:
- Hoàn thiện cơ chế tuyển chọn đại biểu. Trước hết là quyền tự do ứng cử vào
các cơ quan đại diện, cần tạo bầu không khí dân chủ, kích thích tính tích cực chính trị
của công dân, khuyến khích tinh thần tự nguyện tham gia các hoạt động quản lý nhà
nước ở cơ sở. Mặt khác, cần thực hiện tranh cử dân chủ, tạo điều kiện để cử tri thực
hiện quyền tự do lựa chọn đại biểu trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, khắc phục
sự lựa chọn thụ động, ít căn cứ vào tiêu chuẩn năng lực và đạo đức, mà dựa vào quan hệ
dòng họ, thân quen, cục bộ theo địa bàn cư trú...
- Phát huy vai trò của hội đồng nhân dân xã trong việc xem xét quyết định các
nhiệm vụ về kinh tế, xã hội, an ninh trật tự, ngân sách, đời sống nhân dân và giám sát
việc điều hành của ủy ban nhân dân. Kiện toàn và củng cố hội đồng nhân dân, ủy ban
nhân dân để đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ và thẩm quyền được phân cấp, đồng thời
tham gia với chính quyền cấp trên thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với tổ chức
ngành dọc trên địa bàn địa phương.
- Thực hiện đúng các quy phạm pháp luật về đại biểu và cơ quan dân cử, định
kỳ tiếp xúc, chịu sự giám sát, kiểm tra của cử tri, tạo nên sự gắn bó mật thiết giữa đại
biểu với cử tri, làm cho các hoạt động của đại biểu luôn luôn sát cử tri.
- Phải ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái đạo đức, tham nhũng, lãng phí,
quan liêu trong bộ máy chính quyền cấp xã. Đây là vấn đề sống còn đối với chế độ dân
chủ XHCN ở nông thôn. Các tầng lớp xã hội ở nông thôn đang đòi hỏi phải ngăn chặn
tệ tham nhũng bằng sự trừng phạt nghiêm minh của pháp luật và sự lên án mạnh mẽ của
dư luận xã hội; loại trừ tình trạng dựa vào quyền lực để tham nhũng, tham nhũng được
bảo vệ bằng quyền lực. Do đó, để chống tham nhũng, phải chống từ trong bộ máy quyền
lực và để chống tham nhũng có hiệu quả, phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân từ
cơ sở.
Thứ ba: Tăng cường quyền tự quản của thôn, xóm, làng, bản. Trong khuôn khổ
bộ máy chính quyền hiện nay, thiết chế chính trị, cấu trúc quyền lực và sự vận hành của
chúng ở nông thôn nước ta nói chung và ở nông thôn Nghệ An nói riêng vẫn lấy xã làm
đơn vị cuối cùng của quản lý hành chính. Từ năm 1945 đến nay, qua hai cuộc kháng
chiến, qua cải cách ruộng đất và phong trào hợp tác hóa hơn 20 năm, các làng cổ truyền
thống thực tế đã bị lồng ghép vào khung hành chính của xã, dần dần bị mất đi tính tự
quản truyền thống vốn có. Để khôi phục lại sự tự quản của làng cổ truyền mà các hợp
tác xã thời bao cấp đã làm mất đi, mô hình tổ chức và hoạt động của chính quyền xã
hiện nay được bổ sung thêm đội ngũ trưởng thôn, xóm. Vấn đề thôn, xóm và vai trò của
nó trong quá trình đổi mới được khẳng định lại. Đảng ta chỉ rõ:
Nhà nước cần sớm nghiên cứu đề ra quy chế thích hợp với chức
năng, vai trò, vị trí của thôn xóm, làng bản trong tình hình mới, trong khuôn
khổ pháp luật và dựa vào những quy định này, xã có thể xây dựng "hương
ước" làm cơ sở để tổ chức quản lý hoạt động kinh tế, xã hội, an ninh quốc
phòng... trên địa bàn [10, tr. 15].
Trong bối cảnh của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, nhiều chuẩn mực và
giá trị mới đang hình thành, tính năng động xã hội được khơi dậy. Nhưng mặt trái của
cơ chế thị trường cũng đã và đang làm tha hóa, biến chất những giá trị văn hóa tốt đẹp
trong xã hội nông thôn truyền thống, đặc biệt là sự phát triển của những tệ nạn xã hội.
Quan hệ xã hội trong làng xã cổ truyền đang đứng trước những thách thức lớn, một bộ
phận khá đông, nhất là thanh niên từ chỗ lấy con người xã hội tập thể làm mẫu mực
chuyển sang chỗ quá nặng nề về con người cá nhân. Các giá trị truyền thống quý báu
như: đoàn kết, nhân ái, lối sống cộng đồng đang đối mặt với cơ chế thị trường.
Để làm lành mạnh hóa đời sống tinh thần, góp phần phòng và chống các tệ nạn
xã hội ở nông thôn, ngoài việc giáo dục ý thức pháp luật để điều chỉnh hành vi của mỗi
người dân, biện pháp cơ bản có tác dụng lâu dài là phải tăng cường vai trò tự quản của
thôn xóm, làng bản.
Để tăng cường tính hiệu lực tự quản của thôn xóm, làng bản về chính sách cần
phải giải quyết vấn đề:
- Phải hình thành quy chế cho hoạt động của cấp thôn xóm, làng bản theo
hướng mở rộng sự tự quản của người dân, nó không chỉ cho phép tạo ra mặt bằng xã hội
mà còn bảo đảm tính năng động của xã hội công dân, góp phần đẩy mạnh sản xuất, kinh
doanh và giải quyết các vấn đề xã hội, đặc biệt là các tệ nạn xã hội. Với bộ máy trưởng
thôn xóm, làng bản, căn bệnh kém hiệu lực của chính quyền xã sẽ dần dần được khắc
phục, tính dân chủ trực tiếp thông qua cấp thôn xóm ngày càng có hiệu lực. ở nhiều nơi,
vì biết dựa vào hệ thống thôn xóm, làng bản công tác quản lý hành chính, tuyên truyền,
giáo dục đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của nhà nước và pháp luật được
thực hiện tốt hơn, đã huy động nông dân đóng góp thuế, làm nghĩa vụ cho nhà nước,
đảm bảo an ninh trật tự, ngăn chặn tệ nạn xã hội, động viên xây dựng cơ sở hạ tầng
được tốt hơn.
- Chỉ đạo thống nhất và có định hướng rõ ràng cho việc soạn thảo hương ước
trên tinh thần đổi mới.
Hương ước, quy chế dân tự quản là những hình thức thuộc cơ chế thực hiện tự
quản dân chủ ở thôn xóm, làng bản. Hương ước ở các làng xã Việt Nam có nhiều nét
khác nhau. Hầu hết các hương ước chú trọng quy định về cư xử giữa người với người
trong làng như: không đánh nhau, cãi nhau, giúp đỡ lẫn nhau, giữ gìn quan hệ nam nữ
trong khuôn phép..., chú trọng việc cứu tế, việc tập và quản lý quỹ nghĩa thương, việc
giữ gìn an ninh thôn xóm, ngăn chặn việc trộm cắp, khuyến khích học hành... tuy nhiên,
trong hương ước cổ có nhiều điều không còn phù hợp với ngày nay như: tâm lý cục bộ
địa phương, coi "phép vua thua lệ làng"; những hủ tục ma chay, cưới xin, khao vọng, tế
lễ... Với những đặc điểm đó mà "các quan hệ và thiết chế làng xã ở nước ta đã có tác
dụng to lớn đến quá trình lịch sử dân tộc. Nó đã từng là yếu tố tạo nên sức mạnh dân
tộc, nhưng đồng thời cũng chính nó là tác nhân làm chậm bước tiến của dân tộc" [14, tr.
24].
"Gạn đục, khơi trong" vốn là bài học lớn của cha ông chúng ta trong việc giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Thành công to lớn ở nhiều vùng nông thôn là đã biết rút ra
những gì tốt đẹp trong việc thực hiện hương ước xưa, duy trì và phát huy thuần phong
mỹ tục, tình làng nghĩa xóm để xây dựng và thực hiện quy chế "làng xã văn hóa", "gia
đình văn hóa"...
Trong phương hướng tiếp tục phát triển hình thức thực hiện dân chủ ở nông
thôn, Đảng ta đã xác định: "khuyến khích xây dựng và thực hiện các hương ước, các
quy chế về nếp sống văn minh ở các xã" [11, tr. 73]. Để những hương ước có vai trò
tích cực trong việc thực hiện dân chủ ở nông thôn, nội dung của hương ước một mặt
phải kế thừa được, giữ được truyền thống, thuần phong mỹ tục vốn có ở làng quê Việt
Nam, mặt khác nội dung của hương ước phải chứa đựng định hướng lãnh đạo chính trị
của Đảng, những mục tiêu quản lý của nhà nước và nội dung hương ước không được
mâu thuẫn với luật pháp hiện hành mà phải là sự cụ thể hóa nó để chuyển tải những quy
phạm pháp luật vào cuộc sống, tạo nên niềm tự hào về truyền thống địa phương. Và
"khi các vấn đề của đô thị như ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội đang kéo về nông
thôn, thì hương ước cần phải mở rộng đến các vấn đề thời đại" [33, tr. 4].
Việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở xã là một trong những giải pháp
cơ bản nhằm chống tham nhũng, tiêu cực, đẩy lùi các tệ nạn xã hội, làm trong sạch bộ
máy, vừa là vấn đề có tính chiến lược lâu dài nhằm khơi dậy tiềm năng trong xã hội để
phát triển kinh tế, văn hóa, quản lý ở xã hội, xây dựng nông thôn mới theo định hướng
XHCN.
2.2.3.4. Nâng cao trình độ văn hóa, khoa học, kỹ thuật và nâng cao sức khỏe
cho nông dân
Phát triển con người Việt Nam cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, trong
sáng về đạo đức, phong phú về tinh thần không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực
quyết định đẩy nhanh thành công của sự nghiệp xây dựng CNXH. Đối với Nghệ An, để
nâng cao chất lượng nhân tố con người ở nông thôn cần thực hiện các giải pháp cụ thể
sau:
Thứ nhất: Nâng cao trình độ dân trí cho nông dân.
Hướng dẫn cách làm ăn cho nông dân:
Trước mắt là phổ cập những kiến thức khoa học và tiến bộ kỹ thuật cho nông
dân phù hợp với yêu cầu khai thác tiềm năng, lợi thế của từng vùng trong quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo các nội dung:
- Phổ cập tiến bộ kỹ thuật thâm canh, tăng vụ cây trồng, kỹ thuật chăn nuôi các
loại gia súc gia cầm, nuôi trồng thủy sản, phổ biến kỹ thuật làm VAC, VACR thích hợp
với từng địa phương; kỹ thuật bảo quản và sử dụng cây và giống vật nuôi có năng suất
cao, ổn định, có phẩm chất tốt; công nghệ chế biến, bảo quản nông sản, lâm sản, thủy hải
sản cho nông dân để đáp ứng yêu cầu cạnh tranh tốt; hướng dẫn nông dân sử dụng có
hiệu quả phân bón hóa học và thuốc trừ sâu (xét cả về kinh tế - xã hội và môi trường).
- Để khôi phục ngành nghề truyền thống và mở ngành nghề tiểu thủ công
nghiệp, cần giúp đỡ người lao động hiểu biết thêm về kỹ thuật và thị trường tiêu thụ...
thu hút thêm những lao động còn dư dôi, tăng thu nhập, nâng cao đời sống.
- Bồi dưỡng và phát triển kỹ năng về kiến thức quản lý kinh tế hộ cho nông dân,
cung cấp những thông tin thị trường cho họ. Qua đó, họ dần dần nâng cao trình độ hiểu
biết về kinh tế thị trường và tự chủ vươn lên trong sản xuất, kinh doanh thúc đẩy kinh tế
phát triển, từng bước ổn định và nâng cao đời sống.
- Gợi ý, hướng dẫn cách thức hợp tác giữa các hộ nghèo với nhau hoặc các hộ
giàu để mở mang ngành nghề sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Qua đó mà phát huy được
sức sản xuất của mọi người, mọi nhà làm cho người giàu thì giàu lên, hộ nghèo thì khá
hơn, đồng thời đó là một trong những biện pháp hướng tới thu hẹp dần khoảng cách
giữa giàu và nghèo, xây dựng khối đoàn kết cộng đồng.
Biện pháp trước mắt là sử dụng tối đa các phương tiện truyền thông đại chúng
như đài phát thanh, truyền hình, báo chí, tranh vẽ... để truyền đạt và đăng tải thông tin
đến tận gia đình, đặc biệt là thông tin về nội dung cụ thể của các chương trình khuyến
nông cho nông dân.
Tổ chức huấn luyện, bồi dưỡng, đào tạo tại chỗ cho nông dân, nội dung tập
huấn thật đơn giản, cụ thể và kèm theo các tiêu bản, mẫu vật. Tổ chức hội nghị "đầu
bờ" để trao đổi, thảo luận về những kết quả làm được và thảo luận công việc mở rộng
tiếp theo. Tổ chức tham quan, nghe báo cáo điển hình, hoặc bồi dưỡng dài hạn cho các
lao động chủ chốt và lao động trẻ.
Xây dựng và nhân các mô hình có hiệu quả ở mỗi vùng, như mô hình kinh tế hộ
làm ăn giỏi, khá, trung bình mà trọng tâm là các hộ thuần nông từ nghèo lên trung bình
khá.
Để có thể tiến hành bồi dưỡng, đào tạo có kết quả cần có sự hỗ trợ của các
chương trình xúc tiến việc làm, các trung tâm đào tạo nghề, đặc biệt là hỗ trợ kinh phí
để thực hiện chương trình đào tạo miễn phí cho người nghèo. Đồng thời phải có chính
sách ưu đãi đối với những cán bộ có trình độ nghiệp vụ chuyên môn về công tác ở nông
thôn, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa.
Phổ cập giáo dục và đào tạo nghề ở nông thôn.
Giáo dục và đào tạo là con đường cơ bản trong chiến lược phát triển nông thôn.
Việc đảm bảo tiếp cận một nền giáo dục toàn diện có chất lượng là nhân tố quyết định
phát triển kinh tế - xã hội nông thôn đúng định hướng XHCN. Giáo dục làm cho người
lao động phát triển về năng lực trí tuệ, có nhân cách, lối sống lành mạnh là động lực
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững, xây dựng cuộc sống tốt hơn và xã hội đoàn kết.
Khả năng của người dân nông thôn trong việc khai thác các nguồn lực, tăng năng suất
và tìm kiếm việc làm phụ thuộc vào trình độ học vấn và khả năng chuyên môn của họ...
Bởi vậy, phổ cập giáo dục và đào tạo nghề ở nông thôn vừa là yêu cầu cấp bách vừa là
căn bản lâu dài.
- Thực hiện phổ cập giáo dục ở nông thôn.
Vấn đề đặt ra là khả năng tiếp cận giáo dục ở nông thôn khó khăn hơn nhiều so
với thành thị. Điều kiện thiếu thốn về cơ sở vật chất và thiếu nhận thức của người dân là
hai cản trở giáo dục nông thôn. Giáo dục nông thôn sa sút về chất lượng do giáo viên
không được đào tạo đủ chuẩn, do lương không đủ sống phải bớt giờ dạy để làm thêm
nghề phụ. Các trường học ở xa người học, đặc biệt, vùng sâu vùng xa các em đi lại khó
khăn. Các khoản đóng góp tài chính của trường phụ thuộc vào phụ huynh học sinh.
Bình quân các hộ phải đóng góp 44% trong tổng chi phí của trường tiểu học thực sự là
một gánh nặng đè lên vai nông dân.
Một số không nhỏ gia đình con em nghỉ học để trông em, chăn bò hoặc nhặt các
phụ phẩm, phế liệu nông nghiệp. Trong điều kiện đời sống khó khăn, nhiều gia đình tạm
bằng lòng cho con bỏ học hoặc không đến trường. ở nông thôn miền núi diện này tương
đối cao.
Chương trình giáo dục không thiết thực, hấp dẫn, còn nặng nề làm cho trẻ
không hứng thú đến trường. Người học không tìm ra mối liên hệ nào đối với nông
nghiệp, nông thôn. Từ đó học không biết ứng dụng vào đâu cả.
Bởi vậy, để nâng cao giáo dục nông thôn cần có những chính sách và giải pháp
phù hợp. Cụ thể là:
- Tăng đầu tư vào cơ sở hạ tầng: trường sở, trang thiết bị dạy và học, đặc biệt ưu
tiên miền núi, vùng đồng bào dân tộc.
- Cải thiện chất lượng giáo viên - chuẩn hóa và đồng bộ hóa đội ngũ giáo viên.
Đặc biệt đối với miền núi cải thiện điều kiện sinh hoạt cho giáo viên, tăng phụ cấp
lương, xây dựng nhà ở và phát triển chuyên môn.
- Chương trình giảng dạy cần tăng cường mối liên hệ với kinh tế, xã hội địa
phương, môi trường, địa lý, sức khỏe, dân số, lâm - ngư nghiệp... Cải cách chương trình
xóa mù chữ. Mở các lớp bổ túc văn hóa để giảm tỷ lệ người chưa biết chữ nhất là đồng
bào dân tộc.
- Các đối tượng đặc biệt, nhà nghèo, diện thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có
công với cách mạng, trẻ em gái, dân tộc ít người phải được chú ý giảm chi phí cho
người đi học. Từng bước thực hiện giáo dục miễn phí cho học sinh nông thôn, nhất là ở
các vùng khó khăn. Đặc biệt để thu hút và tạo điều kiện cho các em học sinh vùng sâu,
vùng xa, trẻ em nghèo có điều kiện học tập, không những miễn phí cho các em mà còn
miễn mọi khoản đóng góp và ưu tiên cho các em mượn sách giáo khoa để học. Cấp học
bổng cho những em học giỏi, con em dân tộc ít người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
- Phát huy truyền thống hiếu học của con em xứ Nghệ, củng cố và mở rộng các
hội khuyến học từ tỉnh, huyện đến phường, xã. Trên cơ sở đó phát động phong trào tự
học, nâng cao kiến thức, hình thành xã hội học tập, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH.
- Đào tạo nghề ở nông thôn.
Cùng với việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trong nhà trường từ mầm
non đến bậc phổ thông trung học nhằm phát triển nguồn nhân lực cho tương lai, cần đẩy
mạnh công tác đào tạo nghề. Từ thực trạng ở nông thôn Nghệ An có trên 95% lao động
làm việc chủ yếu bằng cơ bắp, không được đào tạo nghề, trực tiếp là một trở ngại lớn
cho việc phát huy sức mạnh sáng tạo của nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH.
Rõ ràng nhu cầu đào tạo nghề, bồi dưỡng chuyên môn kỹ thuật cho người lao động và
tình trạng thiếu cán bộ khoa học - kỹ thuật đang là bài toán trước tiên cần được giải
quyết để đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Nghệ An. Để đáp ứng nhu cầu
đó, cần có giải pháp cụ thể:
- Củng cố và phát triển các cơ sở đào tạo hiện có, đa dạng hóa các hình thức đào
tạo, kết hợp các trường đào tạo với hệ thống khuyến nông - lâm từ Trung ương đến tỉnh,
huyện, xã để xây dựng mạng lưới đào tạo nghề ngay tại địa phương, gắn đào tạo với
chuyển giao công nghệ kỹ thuật mới đối với nông dân.
- Đổi mới nội dung chương trình đào tạo, hướng trọng tâm vào chiến lược
ngành nghề của địa phương nhằm phát huy được truyền thống và thế mạnh của từng
vùng, phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Chú ý
trọng tâm đào tạo lao động có chất lượng cao không chỉ phục vụ CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn mà còn xuất khẩu lao động.
- Có chính sách ưu tiên, tạo điều kiện cho những lao động nghèo, lao động
thuộc diện chính sách, dân tộc thiểu số có điều kiện theo học. Kết hợp đào tạo với giới
thiệu việc làm.
Vấn đề dạy nghề cho nông dân cần được xem xét và giải quyết đồng bộ cùng
với các giải pháp về kỹ thuật, vốn, thị trường; cần phải gắn với chương trình đào tạo
nghề nghiệp nói chung và nhất thiết phải có sự đầu tư của nhà nước và xã hội. Nhà nước
cần ưu tiên các dự án quốc gia và quốc tế cho vấn đề giải quyết việc làm, dạy nghề ở
nông thôn và nâng cao dân trí cho nông dân. Việc đào tạo nghề cho lao động không chỉ
bó hẹp trong nhu cầu của từng tỉnh, mà phải vươn ra thị trường lao động ở các khu công
nghiệp, các thành phố lớn và ra cả nước ngoài.
Thứ hai: Nâng cao trình độ văn hóa và sức khỏe cho nông dân.
Nâng cao trình độ văn hóa cho nông dân.
Việc đảm bảo cho nhân dân hấp thụ một nền văn hóa tiến tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc không chỉ mục tiêu mà còn là động lực tinh thần nội sinh của khối đại đoàn kết
toàn dân đẩy nhanh thắng lợi của sự nghiệp xây dựng CNXH. Đặc biệt trong nền kinh tế
thị trường, để ngăn chặn mặt tiêu cực, phát huy mặt tích cực của nó một cách có hiệu
quả thì việc nâng cao trình độ văn hóa cho nông dân là nhân tố đóng vai trò hết sức
quan trọng. Do đó, phải nâng cao trình độ văn hóa cho nông dân Nghệ An theo các nội
dung sau:
- Thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về phát triển văn hóa, đẩy
mạnh và nâng cao hiệu quả cuộc vận động "toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa", phong trào "xây dựng nếp sống văn minh và gia đình văn hóa", phong trào "người
tốt việc tốt" làm cho văn hóa thấm sâu vào từng thôn xóm, làng bản, từng gia đình, hình
thành hệ giá trị mới của con người Việt Nam, làm cho đời sống văn hóa cộng đồng lành
mạnh; xây dựng con người có nhân cách cao đẹp, có trí tuệ đáp ứng yêu cầu CNH,
HĐH. Phát huy truyền thống tốt đẹp của nền văn hóa dân tộc.
- Tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động văn hóa thông tin cơ sở để không ngừng
nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của dân tộc. Phát triển văn hóa quần chúng, duy trì và
khôi phục những lễ hội quần chúng có giá trị lịch sử - văn hóa, có tác dụng giáo dục
lòng yêu nước, tình làng nghĩa xóm, uống nước nhớ nguồn, nhưng kiên quyết đấu tranh
ngăn chặn, bài trừ hủ tục mê tín dị đoan.
- Phát triển và hiện đại hóa mạng lưới thông tin đại chúng, nâng cao chất
lượng sản phẩm, dịch vụ phát thanh, truyền hình, báo chí, panô, áp phích, tranh cổ
động... phổ cập các phương tiện truyền thanh đến mỗi gia đình.
- Hoàn thành việc xây dựng thiết chế văn hóa ở làng xã, nâng cấp nhà văn hóa,
nhà biểu diễn, sân vận động hiện có; làm mới một số công trình văn hóa, cơ sở vật chất
cho hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao. Thực hiện chủ trương xã hội hóa trong hoạt
động văn hóa thể thao; đồng thời tăng cường đầu tư ngân sách cho văn hóa tương ứng
với đà tăng trưởng kinh tế.
Nâng cao sức khỏe cho nông dân.
Sức khỏe là nhu cầu tồn tại trước hết của bản thân con người, cho việc phát
triển năng lực thực tiễn, năng lực nhận thức và làm tăng thêm sức mạnh của bản thân
con người. Nâng cao sức khỏe là nâng cao thể trạng và tầm vóc con người Việt Nam -
một yêu cầu cơ bản của việc nâng cao chất lượng nhân tố con người đáp ứng yêu cầu
CNH, HĐH. Đồng thời, việc quan tâm chăm sóc sức khỏe cho nhân dân lao động làm
cho họ vững tin hơn vào bản chất tốt đẹp của chế độ mà chúng ta đang xây dựng. Do đó,
nhân dân sẽ đóng góp tốt hơn sức lực của mình vào công cuộc xây dựng CNXH.
Để nâng cao sức khỏe cho người dân nông thôn Nghệ An, cần phải thực hiện
các biện pháp cụ thể sau:
- Phát động toàn dân tham gia hoạt động thể dục thể thao, rèn luyện sức khỏe
nâng cao thể trạng và tầm vóc con người Việt Nam.
- Nâng cao chiến lược phòng chống dịch, khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe
ban đầu, bảo vệ chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em, người cao tuổi, người bị di chứng
chiến tranh.
- Củng cố và nâng cao mạng lưới y tế cơ sở, có bác sĩ làm việc trong tất cả các
trạm y tế xã đồng bằng, trung du và phần lớn các xã miền núi. Khuyến khích các thành
phần kinh tế tham gia phát triển các cơ sở khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe, đáp ứng
yêu cầu đa dạng của xã hội.
kết luận
- Con người là chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và tinh
thần xã hội nói chung. Nhờ có hoạt động thực tiễn mà trước hết là lao động sản xuất
vật chất, con người đã sáng tạo ra toàn bộ đời sống hiện thực và sáng tạo ra bản thân
mình. Hoạt động thực tiễn vừa là cơ sở, động lực thúc đẩy sự hình thành, phát triển
những năng lực, phẩm chất xã hội của con người, vừa là phương thức duy nhất để hiện
thực hóa những năng lực, phẩm chất xã hội của con người tạo ra sự biến lịch sử.
- Phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn Nghệ An thực chất là phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo (cả về mặt hoạt
động nhận thức và cả về mặt hoạt động thực tiễn) của con người thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
- Xuất phát từ bản chất của CNXH, phát huy nhân tố con người trong quá trình
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Nghệ An trước hết cần phải tạo ra cơ hội và điều
kiện thuận lợi cho mọi người đều được tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh; Hai
là phải tạo điều kiện, cho hoạt động đó đem lại một hiệu quả ngày càng cao; Ba là tạo
điều kiện thúc đẩy nhanh hơn sự phát triển về năng lực, phẩm chất xã hội của con
người, nhằm nâng cao chất lượng nhân tố con người không chỉ là động lực mà còn là
mục tiêu của sự nghiệp xây dựng CNXH.
- Phát huy nhân tố con người không chỉ là ở một số người mà là phát huy sức
mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, làm sao cho mọi thành viên trong cộng đồng ngày
càng gắn bó chặt chẽ với nhau hơn trên con đường xây dựng đất nước đi lên CNXH.
- Đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo hợp quy luật, hợp
lòng dân, được nhân dân đồng tình hưởng ứng. Do đó, đã khơi dậy và phát huy được
tính tích cực, năng động, sáng tạo của mọi cá nhân mọi thành phần kinh tế đẩy mạnh
phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng XHCN. Đặc biệt, sức sản xuất ở nông thôn
Nghệ An cũng được giải phóng một bước, bộ mặt nông thôn có nhiều biến đổi tích
cực, năng động hơn.
Vấn đề đặt ra đối với việc phát huy nhân tố con người trong quá trình
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Nghệ An vẫn còn nhiều bất cập.
Nghệ An, vẫn là một tỉnh nghèo, kinh tế chậm phát triển, trình độ dân trí thấp,
lực lượng lao động trong nông nghiệp rất đông (chiếm hơn 90% lao động toàn tỉnh),
nhưng hầu hết chưa được đào tạo nghề nghiệp, lao động cơ bắp là chủ yếu; phân chia
giàu nghèo có xu hướng gia tăng; tình trạng mất dân chủ; tệ tham nhũng, buôn lậu,
gian lận thương mại, làm hàng giả và các tệ nạn xã hội khác là điều đáng lo ngại.
Để phát huy nhân tố con người đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội nông thôn
Nghệ An cần phải:
- Đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn
trên cơ sở khai thác triệt để tiềm năng lợi thế để phân công lại lao động một cách hợp
lý, thu hút phần lớn lực lượng lao động dư thừa tích cực tham gia đẩy mạnh phát triển
sản xuất, kinh doanh trên địa bàn tỉnh, ngăn chặn làn sóng di cư ra thành phố.
- Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn Nghệ An
muốn đạt hiệu quả cao phải kết hợp chặt chẽ với tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng một
cách hợp lý, khai thông thị trường, trợ cước, trợ giá cho nông dân...
- Đẩy mạnh phát triển sản xuất phải kết hợp chặt chẽ với nâng cao dân chủ,
nâng cao dân trí và sức khỏe cho nông dân. Đồng thời phải có biện pháp hữu hiệu để
ngăn chặn các tiêu cực xã hội, nhằm làm lành mạnh hóa các quan hệ xã hội, ổn định
chính trị.
- Phát huy nhân tố con người ở Nghệ An gắn liền với việc phát triển nông
thôn, cải thiện đời sống nông dân về mọi phương diện. Quá trình phát triển nông thôn
Nghệ An với phương châm là do con người và vì con người mới phát huy được tính
tích cực, sáng tạo của người nông dân trong sự nghiệp CNH, HĐH và trong quá trình
phát triển đất nước theo định hướng XHCN.
Danh mục tài liệu tham khảo
[1]. Nguyễn Tống Ban (1999), "18/19 huyện, thị xã phát hiện ra nhiễm HIV", Báo
Nghệ An, Số ra ngày 31 tháng 12.
[2]. Lê Hồng Bảng (1998), "Sử dụng vốn, giải quyết việc làm ở Nghệ An", Báo Công
an nhân dân, Số ra ngày 20 tháng 11.
[3]. Hoàng Chí Bảo (1993), "Đổi mới ở Việt Nam. Một số vấn đề về con người và xã
hội", Tạp chí Cộng sản, tháng 1.
[4]. Bộ Lao động - Thương binh và xã hội. Trung tâm Thông tin thống kê lao động và
xã hội (1999), Thực trạng lao động - việc làm ở Việt Nam 1998, Nxb Thống
kê 1999.
[5]. Nguyễn Như Diệm (1989), "Tổng thuật: Nhân tố con người và tính tích cực hòa
nhân tố con người. Khái niệm và vấn đề", Thông tin khoa học - xã hội, tháng
1.
[6]. Nguyễn Hữu Dũng, Trần Hiếu trung (1997), Về chính sách giải quyết việc làm ở
Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[7]. Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành
Trung ương khóa V, Nxb Sự thật, Hà Nội.
[8]. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.
[9]. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành
Trung ương khóa VII, Hà Nội.
[10]. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành
Trung ương khóa VII, Hà Nội.
[11]. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành
Trung ương khóa VII, Hà Nội.
[12]. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[13]. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành
Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[14]. Vũ Minh Giang (1992), Thiết chế làng xã cổ truyền và quá trình dân chủ hóa hiện
nay ở nước ta, Tạp chí Thông tin lý luận số 9.
[15]. Lê Quang Hoan (2000), Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và vấn đề phát huy
nhân tố con người trong thời kỳ đổi mới hiện nay, Luận án tiến sĩ.
[16]. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[17]. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[18]. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[19]. V.I.Lênin (1981), Toàn tập tập 29, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
[20]. C.Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Sự thật,
Hà Nội.
[21]. C.Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Sự thật,
Hà Nội.
[22]. C.Mác và Ph. Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị Quốc gia, Sự thật,
Hà Nội.
[23]. C.Mác và Ph. Ăngghen (2000), Toàn tập, tập 42, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[24]. C.Mác và Ph. Ăngghen (1980), Tuyển tập, (gồm 6 tập), tập 6, Nxb Sự thật, Hà
Nội.
[25]. Richard Bergeron (1995), Phản phát triển cái giá của chủ nghĩa tự do, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
[26]. Sở Lao động - Thương binh và xã hội Nghệ An.
[27]. Nguyễn Văn Tài (1998), Tính tích cực hóa nhân tố con người của đội ngũ sĩ quan
trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam, Luận án tiến sĩ quân sự, Hà
Nội.
[28]. Tổng cục Thống kê (2000), Niên giám thống kê 1999, Nxb Thống kê, Hà Nội.
[29]. Tổng cục Thống kê - Vụ Tổng hợp và thông tin ISID (1999), Tư liệu thống kê
kinh tế - xã hội 61 tỉnh và thành phố, Nxb Thống kê.
[30]. Từ điển kinh tế (1979), NXb Sự thật, Hà Nội.
[31]. Thông báo của Trung tâm y tế dự phòng tỉnh Nghệ An (1998), Số 182/YTDP ngày
1-9-1998.
[32]. Thông tin cựu chiến binh (1998), Số 56 ngày 03 tháng 1.
[33]. Ngô Đức Thịnh (1999), "ý kiến", Báo Nông thôn ngày nay, Nguyệt san tháng 8.
[34]. Minh Thư (1999), huyện Kỳ Sơn (Nghệ An), 60% cán bộ chi cục thuế nghiện
ma túy, Báo Nông nghiệp Việt Nam, Số ra ngày 14 tháng 3.
[35]. Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (1996), Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[36]. Mục lục
Trang
Mở đầu 1
Chương 1: Nhân tố con người và vai trò của nhân tố con người
trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn
6
1.1. Quan điểm mác xít về nhân tố con người 6
1.1.1. Khái niệm về con người 6
1.1.2. Những điều kiện khách quan ảnh hưởng đến việc phát huy 15
nhân tố con người ở Việt Nam
1.2. Vai trò của nhân tố con người trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam
21
1.2.1. Đặc điểm của quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
Việt Nam - thuận lợi và khó khăn
21
1.2.2. Vai trò của nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn Việt Nam
26
Chương 2: Phát huy nhân tố con người trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Nghệ
An - Thực trạng và giải pháp
40
2.1. Thực trạng việc phát huy nhân tố con người trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Nghệ An
40
2.1.1. Vài nét về tình hình, đặc điểm Nghệ An ảnh hưởng trực tiếp
đến việc phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn
40
2.1.2. Chủ trương, chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn
và sự tác động của nó đến việc phát huy nhân tố con người
trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
43
2.1.3. Những thành tựu đạt được đối với việc phát huy nhân tố con
người trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
Nghệ An
48
2.1.4. Những vấn đề đặt ra đối với việc phát huy nhân tố con
người trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
Nghệ An
52
2.1.5. Những nguyên nhân chủ yếu làm hạn chế khả năng phát huy
nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp,
60
nông thôn Nghệ An
2.2. Một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy có
hiệu quả nhân tố con người trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Nghệ An
62
2.2.1. Những phương hướng chủ yếu nhằm phát huy có hiệu quả
nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn Nghệ An
62
2.2.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy nhân tố con người
trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Nghệ
An
74
Kết luận 109
Danh mục tài liệu tham khảo 112
[37].
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nước ta hiện nay.pdf