Luận văn Phát triển dịch vụ tài chính hà nội đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế

Rõ ràng là sự phát triển của hoạt động dịch vụ tài chính, ngoài những đòi hỏi khách quan của nền kinh tế, bản thân nó cũng phải chủ động điều chỉnh các cơ chế chính sách trong hoạt động dịch vụ theo các cam kết đa phương, song phương, nhất là những cam kết trong hiệp định thương mại Việt Mỹ và những cam kết về dịch vụ tài chính của Việt Nam khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO. Chính vì vậy, hơn lúc nào hết, nhiệm vụ “phát triển dịch vụ tài chính Hà Nội đáp ứng yêu hội cầu hội nhập kinh tế” đang ngày càng trở nên quan trọng và cấp thiết. Tuy nhiên, để biến ước mong thành hiện thực thì Hà Nội nói riêng, cả nước ta nói chung còn phải làm rất nhiều việc, có những việc Hà Nội có thể tự làm, song có những việc Hà Nội phải dựa vào sự ủng hộ, giúp đỡ của các địa phương khác và của Nhà nước.

pdf95 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2160 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát triển dịch vụ tài chính hà nội đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ơn với thị trường vốn quốc tế. Tự do hóa tài chính sẽ làm giảm chi phí vốn do giảm mức độ rủi ro trên thị trường nội địa, thị trường tài chính trong nước có tính thanh khoản lớn hơn, vì vậy các trung gian tài chính và doanh nghiệp đều hưởng lợi. 66 d. Góp phần thúc đẩy thị trường tài chính phát triển hoàn thiện: Hội nhập kinh tế trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng chắc chắn sẽ có tác động tích cực đối với thị trường tài chính. Sự sôi động của thị trường chứng khoán trong nửa cuối năm 2006 và đầu năm 2007 là một minh chứng thực tế. Gắn liền với tốc độ tăng trưởng của các nguồn vốn đầu tư gián tiếp là sự tham gia góp vốn mua cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài, góp phần làm tăng chỉ số VN index; khối lượng giao dịch tăng, chủng loại chứng khoán niêm yết và giao dịch tăng. Thị trường chứng khoán phát triển lại có tác động thúc đẩy trở lại đối với hoạt động của các doanh nghiệp, trong đó có các ngân hàng thương mại cổ phần. Giá cổ phiếu ngân hàng trong năm 2006 liên tục tăng cao và dự báo sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới, do đó sẽ là yếu tố tích cự góp phần tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán phát triển. 3.1.1.2 Thách thức a) Cạnh tranh sẽ gay gắt hơn nhiều: Theo cam kết với WTO, bắt đầu từ 01/04/2007, các ngân hàng 100% vốn nước ngoài sẽ được thành lập và hoạt động tại Việt Nam cùng với sự phát triển không hạn chế chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Như vậy, hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những thách thức không nhỏ đối với các ngân hàng thương mại của Việt Nam nói chung và các ngân hàng thương mại của Hà Nội nói riêng trước áp lực cạnh tranh từ phía các ngân hàng nước ngoài với năng lực tài chính tốt hơn, công nghệ, trình độ quản lý và hệ thống sản phẩm đa dạng và có chất lượng cao hơn, đáp ứng được nhiều hơn nhu cầu đa dạng của khách hàng. Do đó, áp lực cạnh tranh đối với các ngân hàng thương mại của Việt Nam nói chung và các ngân hàng của Hà nội nói riêng là vô cùng gay gắt, phải tìm mọi cách để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Phát triển sản phẩm mới sẽ là những thách thức đối với các ngân hàng trong 67 nước bên cạnh những thách thức về chất lượng dịch vụ truyền thống cũng như nhân tố con người. b) Tăng rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngành ngân hàng: Khi hội nhập quốc tế với việc gia nhập WTO sẽ mang đến nhiều rủi ro cho khách hàng của các ngân hàng thương mại. Cụ thể là khi thực hiện các cam kết WTO về thương mại, trước hết về lĩnh vực thuế nhập khẩu đối với một số mặt hàng ngay trong năm 2007, sẽ có tác động ảnh hưởng nhất định đến các các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nước mà phần lớn trong số đó vẫn còn tồn tại nhiều lạc hậu, yếu kém, khả năng cạnh tranh thấp (về giá, về chất lượng, mẫu mã) so với hàng ngoại nhập, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ và những người sản xuất. Như vậy, việc mở cửa thị trường hơn đã đặt các doanh nghiệp này vốn là khách hàng của các ngân hàng trước nguy cơ bị cạnh tranh, có thể dẫn tới mất thị phần, làm ăn thua lỗ, kinh doanh phá sản. Chính điều này lại dẫn đến những rủi ro không thể lường trước được cho hoạt động của ngành ngân hàng. c) Hệ thống pháp luật ngân hàng còn thiếu, chưa đồng bộ và một số điểm chưa phù hợp với thông lệ quốc tế: Hệ thống chính sách, pháp luật ngân hàng hiện nay còn có một số hạn chế đã tạo ra sự phân biệt đối xử giữa các loại hình tổ chức tín dụng, giữa các nhóm ngân hàng và giữa ngân hàng trong nước với ngân hàng nước ngoài, gây ra sự cạnh tranh thiếu lành mạnh. Điều đó đặt ra thách thức phải sửa đổi tạo môi trường kinh doanh bình đẳng thông thoáng theo nguyên tắc không phân biệt đối xử của WTO. Ngoài ra, việc mở cửa thị trường dịch vụ tài chính trong nước sẽ làm tăng rủi ro thị trường do các tác động từ bên ngoài, từ thị trường tài chính khu vực và thế giới. Trong khi đó, năng lực điều hành chính 68 sách tiền tệ cũng như năng lực giám sát hoạt động ngân hàng của ngân hàng Nhà nước vẫn còn hạn chế. 3.1.2 Cơ hội và thách thức đối với dịch vụ bảo hiểm Hà Nội 3.1.2.1 Cơ hội a) Đem lại những lợi ích tổng thể cho thị trường: Có thể nói, khi trở thành thành viên của WTO, các cam kết cho phép thành lập pháp nhân thực hiện kinh doanh dịch vụ bảo hiểm là những cam kết mang tính chất tự do hóa thị trường bảo hiểm và có ảnh hưởng lớn nhất đối với các doanh nghiệp bảo hiểm hiện đã hoạt động trên thị trường cũng như với tình hình chung của thị trường. Việc cho phép thêm các doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài tham gia cung cấp dịch vụ bảo hiểm tại thị trường Việt Nam nói chung cũng như thị trường Hà Nội nói riêng sẽ tăng thêm năng lực khai thác bảo hiểm của thị trường bảo hiểm. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài với kinh nghiệm hoạt động lâu năm trên phạm vi quốc tế sẽ giúp chuyển giao công nghệ khai thác bảo hiểm và đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác bảo hiểm tại Việt Nam. Với năng lực tài chính lành mạnh, các doanh nghiệp bảo hiểm mới tham gia thị trường này cũng sẽ cho ra đời các sản phẩm bảo hiểm mới, đáp ứng tốt hơn như cầu của khách hàng. Trong điều kiện cung cấp dịch vụ tốt hơn, khách hàng sẽ là đối tượng hưởng lợi nhiều nhất. Đặc biệt, chi phí bảo hiểm là một cấu phần ngày càng quan trọng trong chi phí sản xuất và kinh doanh của các đơn vị kinh tế khi nền kinh tế ngày càng phát triển, vì vậy giảm giá thành đầu vào đối với chi phí bảo hiểm sẽ giúp giảm một cách tương đối giá thành sản xuất sản phẩm và dịch vụ đầu ra của các doanh nghiệp Việt Nam và là cơ sở để tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam nói chung trong điều kiện toàn cầu hóa ngày càng được đẩy mạnh. Điều đó có nghĩa là việc cho phép các doanh nghiệp 69 bảo hiểm nước ngoài tham gia vào thị trường bảo hiểm Việt Nam sẽ đem lại những lợi ích tổng thể cho thị trường. b) Tạo cơ hội cho các doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước chuyển đổi cơ cấu để tăng khả năng cạnh tranh: Dưới áp lực cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài và việc thực hiện cam kết, các công ty bảo hiểm trong nước đã thực hiện cơ cấu lại sang liên doanh, cổ phần hay công ty mẹ – công ty con. Quá trình này đang được đẩy nhanh trong những năm gần đây nhất là sự chuyển đổi sang cổ phần của Bảo Việt và Bảo Minh... 3.1.2.2 Khó khăn, thách thức đặt ra a) Hệ thống pháp lý chưa đủ mạnh: Trước một số vấn đề như cạnh tranh không lành mạnh, hệ thống pháp lí của Việt Nam lại chưa đủ mạnh để kiểm soát hoạt động đa dạng của các doanh nghiệp này. Thêm vào đó là khi Việt Nam gia nhập WTO, chính phủ các nước cùng với các doanh nghiệp bảo hiểm của họ sẽ gây sức ép với Việt Nam để được hoạt động trên thị trường bảo hiểm Việt Nam, nhất là những doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài đáp ứng được đầy đủ điều kiện ghi trong Luật Kinh doanh bảo hiểm và chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam. Điều này là dễ hiểu vì thị trường bảo hiểm Việt Nam đầy hứa hẹn khi nền kinh tế phát triển với tốc độ cao, các chỉ tiêu kinh tế –xã hội trong giai đoạn 2006-2010 rất sáng sủa và hấp dẫn. b) Cạnh tranh khốc liệt hơn và thị phần của các doanh nghiệp bảo hiểm trên địa bàn Hà Nội bị chia sẻ: Là thủ đô của cả nước, Hà Nội có trình độ dân trí cao nhưng khi trình độ dân trí ngày càng tăng thì sự lựa chọn các doanh nghiệp bảo hiểm cũng ngày 70 càng trở nên khắt khe hơn. Do đó, sự cạnh tranh giữa các công ty bảo hiểm hoạt động trên địa bàn sẽ diễn ra trên quy mô rộng hơn và mức độ gay gắt. Trước hết là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động trên địa bàn với nhau. Thứ hai là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm trên địa bàn với các dịch vụ tài chính khác như thu hút tiền gửi tiết kiệm, chứng khoán, kinh doanh bất động sản....Nhưng đáng ngại nhất phải kể đến sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động trên địa bàn với các doanh nghiệp bảo hiểm tại nước ngoài về cung cấp sản phẩm bảo hiểm trong khuôn khổ Việt Nam đã cam kết tại WTO. Theo cam kết mở cửa thị trường bảo hiểm Việt Nam, doanh nghiệp bảo hiểm của nước ngoài được phép cung cấp vào Việt Nam các dịch vụ bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm có vốn nước ngoài và người nước ngoài tại Việt Nam. Ngoài ra, họ còn được cung cấp dịch vụ tái bảo hiểm, vận tải quốc tế, môi giới bảo hiểm, tư vấn, tính toán, đánh giá rủi ro và giải quyết bồi thường cho thị trường bảo hiểm Việt Nam. Doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn nước ngoài không được kinh doanh các dịch vụ bảo hiểm bắt buộc cho đến ngày 1/1/2008, thì bãi bỏ hạn chế này. Theo cam kết này, các doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh và bảo hiểm nhân thọ không bị hạn chế được đối xử quốc gia (doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam được làm gì thì họ được làm cái đó). Doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn nước ngoài chỉ bị hạn chế sản phẩm bắt buộc đến 1/1/2008. Song, thực tế doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam hưởng lợi không nhiều vì mới có sản phẩm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, sản phẩm bảo hiểm bắt buộc người kinh doanh vận tải hành khách và hàng dễ cháy nổ trên đường thủy nội địa. Như vậy, điều đáng lo ngại nhất là các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài không cần thành lập doanh nghiệp bảo hiểm tại thủ đô Hà Nội nói riêng cũng như trên các tỉnh thành khác của cả nước nói chung cũng có thể vươn 71 cánh tay của mình vào khai thác thị trường bảo hiểm Việt Nam theo cam kết WTO. Trong khi đó, năng lực bảo hiểm của Việt Nam đang còn một khoảng cách nhất định với nhiều nước trên thế giới, nhất là về tài chính, công nghệ, con người và chất lượng dịch vụ. Rõ ràng là quá trình cạnh tranh ngày càng khốc liệt thì thị phần của các công ty bảo hiểm Việt Nam nói chung và của các công ty bảo hiểm Hà Nội nói riêng ngày càng bị chia sẻ. Cụ thể là thị phần Bảo hiểm Nhân thọ của các doanh nghiệp trong nước giảm từ trên 70% năm 2000 xuống còn 36% năm 2006. Hiện tại, mức phí bảo hiểm tại Việt Nam vẫn còn khá cao do đó các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam sẽ phải cạnh tranh khá vất vả khi gặp những tập đoàn bảo hiểm tầm cỡ với chương trình bảo hiểm toàn cầu có mức phí rất thấp. Các công ty bảo hiểm phi nhân thọ trong nước sẽ đứng trước sức ép cạnh tranh lớn trong khi năng lực về công nghệ, vốn còn yếu và nhỏ bé. Thêm vào đó là khi cam kết hội nhập, các doanh nghiệp bảo hiểm này sẽ không còn nhận được sự bảo hộ từ phía Nhà nước như trước nữa. Trong kinh doanh bảo hiểm, cũng sẽ không có sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp bảo hiểm trong nước và doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài. Với khả năng tài chính vượt trội, các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài sẽ tìm mọi cách để gây uy tín và chiếm lĩnh thị trường như tuyên truyền, quảng cáo, khuyến mại, khuếch trương sản phẩm, hạ phí bảo hiểm....Mức độ cạnh tranh cao còn có có thể dẫn tới hiện tượng liên kết giữa các công ty bảo hiểm lớn, thôn tính các doanh nghiệp nhỏ, ảnh hưởng tới sự cạnh tranh lành mạnh của thị trường, gây thiệt hại cho các công ty vừa và nhỏ. c) Chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu và nạn “chảy máu chất xám”từ các doanh nghiệp bảo hiểm trên địa bàn Hà Nội sang doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài” Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, nguồn nhân lực được xem là nhân tố hỗ trợ sự phát triển của ngành bảo hiểm trong nước nhưng nó lại đang 72 là một trong những điểm yếu của ngành. Lý do dẫn đến tình trạng này là bởi bảo hiểm mặc dù tồn tại ở nước ta từ rất lâu song bảo hiểm hoạt động theo nguyên tắc của kinh tế thị trường mới chỉ bắt đầu từ sau năm 1993. Dưới tác động của tự do hóa thương mại dịch vụ thì sự liên kết giữa đào tạo và thị trường là yếu tố hết sức quan trọng trong giáo dục nghiệp vụ bảo hiểm. Trong khi đó, tại các trường đại học, các chương trình đào tạo vẫn chưa bám sát nhu cầu của ngành, nặng về các môn học bảo hiểm bắt buộc nhưng nhu cầu về kiến thức của bảo hiểm thương mại lại lớn hơn rất nhiều. Do đó, mức độ đáp ứng của nguồn nhân lực có chuyên môn nghiệp vụ cao đang là một thách thức không nhỏ cho sự phát triển của ngành bảo hiểm, chỉ đạt ở mức trung bình mà thôi. Một thách thức nữa là về phía các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động trên địa bàn Hà Nội nói riêng là sự hạn chế về khả năng tài chính đã không cho phép các doanh nghiệp này có thể đầu tư dài hạn cho việc đào tạo cán bộ của mình. Phần lớn các cán bộ bảo hiểm đang làm việc tại các công ty bảo hiểm của Hà Nội cũng như ở các tỉnh, thành khác của cả nước đều vừa học vừa làm nên nhiều khi làm theo thói quen hoặc làm theo kinh nghiệm tích lũy được từ các lĩnh vực khác hay các va chạm thực tế tương tự. Do thiếu đào tạo bài bản về nghiệp vụ, các cán bộ, nhân viên này chỉ có thể xử lý được các tình huống thường ngày chứ chưa thể tự xử lý được các nghiệp vụ khó. Mặt khác, một trong những khó khăn làm đau đầu các lãnh đạo doanh nghiệp bảo hiểm trên địa bàn thành phố là tình trạng “chảy máu chất xám” khiến cạnh tranh về nguồn nhân lực bảo hiểm ngày một diễn ra quyết liệt. Chính những ràng buộc về cơ chế quản lý hành chính, chế độ tiền lương, cơ hội thăng tiến.... chưa hấp dẫn so với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang ngày càng nhiều lên nên các doanh nghiệp bảo hiểm Hà Nội đã bị 73 mất nhiều cán bộ giỏi. Khác với các doanh nghiệp bảo hiểm của Hà Nội nói riêng và của Việt Nam nói chung, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài luôn xây dựng bộ máy quản lý, trong đó các vị trí thường được tiêu chuẩn hóa về trình độ, năng lực. .. Chế độ đài thọ đối với người lao động tại các công ty nước ngoài thường cao hơn so với các công ty trên địa bàn. Do đó, không có gì là khó lý giải khi trong bối cảnh hối nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, các công ty bảo hiểm nước ngoài sẽ ngày càng dễ dàng lôi kéo được nguồn nhân lực có chất lượng cao, trong đó có cả các nhân viên, lãnh đạo chủ chốt của các công ty bảo hiểm trên địa bàn. 3.2 MỤC TIÊU, ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ TÀI CHÍNH HÀ NỘI Quan điểm định hướng xuyên suốt là phát triển dịch vụ tài chính Hà Nội phải tận dụng cơ hội, chủ động đối mặt với thách thức, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để đảm bảo tăng trưởng cả về khối lượng hoạt động và chất lượng dịch vụ với tính bền vững cao. Đây cũng chính là yêu cầu hội nhập quốc tế đối với phát triển dịch vụ tài chính Hà Nội. Cụ thể với từng loại hình dịch vụ như sau: 3.2.1 Mục tiêu, định hƣớng phát triển dịch vụ ngân hàng Hà Nội Ngày 24/05/2006, Chính phủ đã quyết định phê duyệt Đề án Phát triển ngân hàng đến năm 2010 và định hƣớng đến năm 2020. Trên cơ sở phương hướng chung, ngành ngân hàng Hà Nội đã xác định những mục tiêu, định hướng sau: - Các ngân hàng trên địa bàn Thành phố Hà Nội cần phải tiếp tục giữ vững thế mạnh hàng đầu về huy động vốn, khai thác tối đa tiềm năng, nguồn lực để duy trì tốc độ tăng trưởng vốn huy động bình quân hằng năm trong giai 74 đoạn 2006-2010 là 23-25%, nâng cao tỷ trọng vốn trung và dài hạn trong tổng vốn huy động; tăng trưởng dư nợ tín dụng bình quân hằng năm trong giai đoạn 2006-2010 là 22-24%, nâng cao hơn nữa chất lượng tín dụng. - Vai trò chi phối trong hệ thống ngân hàng của các ngân hàng thương mại Nhà nước phải được tiếp tục coi trọng. Từng bước cổ phần hóa các ngân hàng thương mại Nhà nước theo nguyên tắc thận trọng, bảo đảm ổn định kinh tế – xã hội và an toàn hệ thống ngân hàng. Phấn đấu hoàn thành về cơ bản chương trình tái cơ cấu ngân hàng thương mại trước năm 2009. Mở cửa nhưng thận trọng trong việc cấp giấy phép hoạt động cho các ngân hàng nước ngoài , cấp giấy phép thành lập mới các ngân hàng thương mại cổ phần trong nước có trụ sở đóng tại Hà Nội. - Các ngân hàng trên địa bàn thành phố Hà Nội cần phải đẩy mạnh phát triển đa dạng mọi sản phẩm dịch vụ trong xu thế hội nhập, chú trọng tăng tỷ trọng thu dịch vụ ngoài tín dụng trong tổng doanh thu hoạt động ngân hàng. - Các ngân hàng trên địa bàn Thành phố Hà Nội cần có bước đột phá trong việc ứng dụng công nghệ và dịch vụ ngân hàng hiện đại. Đề án Chiến lƣợc phát triển ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hƣớng đến năm 2020 đã nêu rõ: “Phấn đấu đến năm 2010, phát triển hệ thống dịch vụ ngân hàng Việt Nam ngang tầm với các nước trong khu vực ASEAN”. Do đó, các ngân hàng cần phải xây dựng chiến lược hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, coi công nghệ ngân hàng là chìa khóa của sự phát triển và là nền tảng cơ sở quan trọng cho việc ứng dụng thành công các dịch vụ mới của các ngân hàng trên địa bàn Thủ đô trong thời gian tới. Trong tình hình hiện nay, tính nhạy cảm cao về uy tín và danh tiếng của ngân hàng chủ yếu phụ thuộc vào việc ngân hàng có khả năng kịp thời đưa ra các dịch vụ mới trên nền tảng của công nghệ thông tin hiện đại hay không. Đây cũng là vấn đề có tính tiền đề 75 chiến lược đối với việc phát triển thị trường dịch vụ tài chính của thủ đô Hà Nội. Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng sẽ nâng cao chất lượng dịch vụ, tạo ra các sản phẩm mới, đáp ứng các yêu cầu sử dụng các dịch vụ ngân hàng ngày càng cao của khách hàng theo nguyên tắc hiệu quả, tiện lợi và an toàn; đồng thời cũng nâng cao khả năng quản lý, phòng ngừa rủi ro. Khi các nghiệp vụ ngân hàng đều được tiêu chuẩn hóa và hiện đại hóa, từng bước đạt tiêu chuẩn quốc tế sẽ đảm bảo cho các ngân hàng thương mại trên địa bàn thành phố khả năng hội nhập và tham gia tích cực vào hoạt động ngân hàng khu vực và thế giới. 3.2.2 Mục tiêu, định hƣớng phát triển dịch vụ bảo hiểm Hà Nội Xu thế hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế đã trở thành tất yếu khách quan của quá trình phát triển thế giới. Việc mở cửa thị trường tài chính trong đó có bảo hiểm là yêu cầu bắt buộc đối với bất kỳ quốc gia nào khi gia nhập WTO, nhất là khi Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức này. Trước tình hình đó, ngành bảo hiểm Hà Nội trong thời gian tới có một số mục tiêu, định hướng phát triển như sau: - Dịch vụ bảo hiểm Hà Nội phải đáp ứng được những đòi hỏi của nền kinh tế, tức là chiến lược phát triển dịch vụ bảo hiểm Hà Nội phải phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước cũng như phải phù hợp với chiến lược phát triển dịch vụ bảo hiểm của Việt Nam. Sự lớn mạnh và tăng trưởng của dịch vụ bảo hiểm Hà Nội phải xứng tầm là thành phố đi đầu, tiên phong trong lĩnh vực phát triển dịch vụ bảo hiểm của cả nước. - Cùng với thành phố Hồ Chí Minh, thủ đô Hà Nội phải tích cực chủ động hội nhập quốc tế trong lĩnh vực phát triển dịch vụ bảo hiểm trên cả ba cấp độ: cơ quan quản lý, hiệp hội bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm. Thông qua hội nhập, các doanh nghiệp bảo hiểm trên địa bàn thành phố phải từng 76 bước nâng cao năng lực cạnh tranh, năng lực tài chính, cải thiện môi trường đầu tư, gia tăng quy mô trao đổi thương mại hàng hóa dịch vụ. - Mục tiêu tăng trưởng dịch vụ bảo hiểm phải đi liền với phát triển bền vững. Tăng trưởng về quy mô, doanh thu ngành bảo hiểm phải đi liền với hiệu quả, an toàn tài chính và sức cạnh tranh của ngành bảo hiểm. Gắn tăng trưởng với nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, tạo thêm nhiều công ăn việc làm và đóng góp tích cực và ngân sách nhà nước. - Đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ bảo hiểm trong cả hai lĩnh vực: bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng và đa dạng hóa các kênh phân phối. - Tích cực đổi mới công nghệ và trình độ quản lý, chuẩn bị tốt các điều kiện để thực hiện có hiệu quả các cam kết quốc tế; đổi mới một cách căn bản các thủ tục hành chính tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động và phát triển của các doanh nghiệp nhưng vẫn phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế trong ngành kinh doanh bảo hiểm. 3.3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ TÀI CHÍNH HÀ NỘI 3.3.1 Nhóm giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển dịch vụ ngân hàng Hà Nội 3.3.1.1 Giải pháp thuộc về các cơ quan quản lý a) Về phía Chính quyền Thành phố Hà Nội: Theo Điều 4 - Luật các Tổ chức tín dụng có chỉ rõ: “Tăng cường vai trò quản lý Nhà nước đối với hoạt động ngân hàng”. Hầu hết các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng trên địa bàn thành phố đều không có sách lược, chiến lược kinh doanh cụ thể mà lựa chọn dự án, ngành nghề cho vay 77 theo sự phán đoán riêng. Các ngân hàng thương mại cũng không có được sự định hướng đầu tư của toàn ngành, các công trình trọng điểm mũi nhọn của thành phố. Chính vì vậy, chính quyền thành phố Hà Nội cần có những biện pháp sau: - Hoàn thiện môi trường pháp lý, cơ chế chính sách làm nền tảng cơ bản cho hoạt động ngân hàng phát triển lành mạnh và bền vững. Hành lang pháp lý phải đóng vai trò trung tâm, tạo dựng một môi trường kinh doanh bình đẳng cho mọi đối tượng tham gia thị trường. Luật chỉ nên quy định các điều cấm, các quy định không nên quá chi tiết, cụ thể mà cần thông thoáng, cho phép các ngân hàng vận dụng một cách sáng tạo trong khuôn khổ. - Có chiến lược, chính sách quy hoạch các khu vực kinh tế, ngành, nghề, hình thành các cụm/khu công nghiệp, khu kinh tế, thương mại đầu và đầu tư trên địa bàn Hà Nội để tạo cơ hội cho các ngân hàng tiếp cận các dự án và nhu cầu vay vốn. - Xây dựng chiến lược phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại có vai trò tác nhân chủ động của Nhà nước nhằm đưa ra một chiến lược chung mang tính chỉ đạo vĩ mô, hướng dẫn đầu tư cho các ngân hàng, tránh tình trạng lãng phí vốn đầu tư mà hiệu quả không cao. - Phối hợp kết hợp giữa các Bộ, ngành chức năng trong việc ban hành chính sách hỗ trợ phát triển dịch vụ ngân hàng và có các biện pháp nhằm hướng các doanh nghiệp, người dân sử dụng những dịch vụ này. - Thường xuyên định kỳ thông báo những thông tin vĩ mô, tình hình các ngân hàng, các khu vực kinh tế trong đó chú trọng nên hay không nên đầu tư vào lĩnh vực nào, tình hình triển khai các khu công nghiệp, khu chế xuất của Hà Nội với các tỉnh lân cận.... b) Về phía Ngân hàng Nhà nước thành phố Hà Nội: 78 Vì mục tiêu quan trọng nhất của các ngân hàng thương mại là lợi nhuận nên đôi khi vì lợi nhuận, các ngân hàng thương mại có thể có những hành động vi phạm luật cạnh tranh trong khi Ngân hàng Nhà nước vẫn còn như đứng ngoài cuộc. Lấy ví dụ, những ngân hàng mạnh về dịch vụ thẻ, thương hiệu.... thường không sẵn sàng chia sẻ thị phần, công nghệ.... với những ngân hàng khác. Trong khi đó, Ngân hàng Nhà nước lại chưa có những việc làm cụ thể để các ngân hàng hợp tác hay kết nối dịch vụ với nhau như hợp tác kết nối máy ATM với nhau để cùng phục vụ khách hàng được thuận tiện hơn là một ví dụ điển hình. Rồi cũng vì lợi nhuận, các ngân hàng thương mại thường cạnh tranh ráo riết với nhau trong cuộc chạy đua về lãi suất. Do đó, giải pháp hữu hiệu nhất là Ngân hàng Nhà nước phải tìm mọi cách nâng cao hơn nữa năng lực và khả năng điều hành của mình khi đưa ra các chính sách tiền tệ, dịch vụ hợp lý để mỗi khi một chính sách được đưa ra đều có tác động ngay đến nề kinh tế. Sau đây là một số giải pháp, kiến nghị về phía ngân hàng Nhà nước: - Ban hành các quy chế và chỉ đạo các Ngân hàng thương mại hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động phù hợp với thông lệ quốc tế. Tiếp tục chỉ đạo các ngân hàng thương mại cơ cấu lại những khoản nợ ngắn hạn, nợ khó đòi đang tồn đọng, ngăn chặn nợ xấu phát sinh mới, nâng cao chất lượng và bảo đảm các chỉ tiêu an toàn trong hoạt động. - Tạp điều kiện để các ngân hàng thương mại cổ phần tăng quy mô vốn và việc tăng vốn pháp định cũng cần có sự quản lý từ phía Nhà nước, tránh tình trạng tăng vốn hỗn loạn, phát hành cổ phiếu tràn lan vì lợi ích cục bộ, dẫn đến tình trạng không kiểm soát được. Việc tăng vốn phải nhằm góp phần giải quyết những vấn đề ở tầm vĩ mô trong quản lý và đảm bảo tính thanh khoản trong hệ thống. 79 - Sắp xếp lại các ngân hàng hoạt động yếu kém. Tiếp tục giảm sát chặt chẽ hoạt động của các ngân hàng này. Nếu các đơn vị này không tự tìm được phương án khả thi để chấn chỉnh, khắc phục những tồn tại trong hoạt động, hoặc không có điều kiện phát triển sẽ bị đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt để xử lý theo hướng thu hồi giấy phép hoạt động và thanh lý theo luật định. - Xem xét sửa đổi, bổ sung các chính sách để tạo điều kiện bình đẳng cho hoạt động các ngân hàng và phù hợp với thông lệ quốc tế. Khuyến khích các ngân hàng thương mại cổ phần có quy mô không lớn hợp nhất, sáp nhập với nhau để trở thành những ngân hàng có quy mô lớn hơn, có sức cạnh tranh cao hơn, hoạt động có hiệu quả hơn. - Có chính sách hợp lý, hấp dẫn các tổ chức tín dụng nước ngoài thành lập và hoạt động trên địa bàn Hà Nội cũng như tạo điều kiện và khuyến khích các ngân hàng trên địa bàn liên doanh, liên kết, hợp tác, liên minh chiến lược với các ngân hàng danh tiếng trên thế giới để từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh, hiện đại hóa công nghệ, phát triển dịch vụ và mở rộng quy mô hoạt động. - Tăng cường, kiểm tra, kiểm soát cho được các hoạt động của các ngân hàng thương mại có ảnh hưởng đến thị trưòng chứng khoán, đặc biệt là kiểm soát đối với việc sử dụng nguồn vốn ngân hàng để đầu tư chứng khoán vì trong thời điểm từ cuối năm 2006, thị trường chứng khoán Việt Nam đã có dấu hiệu tăng trưởng quá nóng. 3.3.1.2 Giải pháp thuộc về các ngân hàng thương mại a) Giải pháp cơ cấu lại nợ, lành mạnh hóa tình hình tài chính: Nợ tồn đọng của các ngân hàng Hà Nội tồn tại và kéo dài từ nhiều năm nay, trong đó nợ của các doanh nghiệp Nhà nước vẫn là chủ yếu, gồm nợ quá hạn, nợ chờ xử lý (có tài sản đảm bảo chờ xử lý) và nợ khoanh (được phép 80 của chính phủ). Từ khi thực hiện theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22 tháng 04 năm 2005 ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng, nhiều khoản nợ xấu đã được chuyển sang hạch toán ngoại bảng. Để xử lý nợ tồn đọng của các ngân hàng trên địa bàn, cần có nhiều giải pháp đồng bộ của ngành ngân hàng Hà Nội cũng như của Chính quyền Thành phố như: - Đối với nợ của các doanh nghiệp Nhà nước hiện cơ cấu lại hoặc chuyển sang hạch toán ngoại bảng.... Sau khi đến kỳ hạn trả nợ, nếu như tình hình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp ổn định, các doanh nghiệp có khả năng trả được nợ.... các ngân hàng sẽ bàn bạc với doanh nghiệp để doanh nghiệp tìm cách trả dần nợ gốc. Đối với các doanh nghiệp tiếp tục gặp khó khăn, không thể trả được nợ thì việc giải quyết sẽ được thực hiện theo chủ trương sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước của chính phủ. - Đối với nợ của các doanh nghiệp đã và đang thực hiện việc giải thể, phá sản; nợ đang nằm trong các vụ án mà các ngân hàng trên địa bàn hiện đang nắm giữ một phần tài sản thế chấp, xiết nợ... thì tổ chức việc bán, nhượng, cho thuê các tài sản để thu dần nợ. - Thực hiện các biện pháp khác như mua bán nợ, chuyển thành vốn góp cổ phần. b) Giải pháp xắp xếp lại cơ cấu tổ chức, tăng cường năng lực quản lý, điều hành: Hầu hết các ngân hàng trên địa bàn Hà Nội hiện nay có mô hình tổ chức theo kiểu truyền thống của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Trong điều kiện các ngân hàng thương mại hoạt động với quy mô nhỏ, tính chất đơn giản thì mô hình trên tỏ ra phù hợp với mức độ tập trung quyền lực cao. Song khi 81 ngân hàng phát triển với quy mô ngay càng lớn, với số lượng chi nhánh ngày càng mở rộng, khối lượng và tính chất công việc ngày càng nhiều và phức tạp thì mô hình trên dần dần sẽ bộc lộ những điểm bất hợp lý. Mặt khác, cũng phải thừa nhận là so với Thành phố Hồ Chí Minh, các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp ngành Ngân hàng Hà Nội nói riêng còn thiếu tính năng động, sáng tạo cần thiết trong điều kiện kinh tế thị trường. Do đó, để xắp xếp lại mô hình tổ chức, quản lý điều hành của các ngân hàng trên địa bàn Thủ đô cần phải đạt được các yêu cầu sau: - Tạo điều kiện mở rộng phạm vi hoạt động, phát triển các nghiệp vụ mới. Chú ý hướng các hoạt động ngân hàng tới khách hàng theo cách thay đổi lại tiêu thức phân định các phòng ban từ theo loại hình nghiệp vụ sang theo đối tượng khách hàng - sản phẩm, nhằm đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của khách hàng và nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. Theo đó, các hoạt động ngân hàng trước hết sẽ được phân loại theo đối tượng phục vụ: là khách hàng cá nhân, doanh nghiệp hay các định chế tài chính. - Xắp xếp lại mô hình tổ chức theo hướng nâng cao kỹ năng quản lý rủi ro và nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, kiểm soát hoạt động ngân hàng. Phân cấp các khâu quản lý cho khoa học và rõ ràng hơn để nâng cao hiệu quả hoạt động của các bộ phận và tăng cường hiệu lực của công tác quản trị điều hành. c) Tăng cường đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ ngân hàng, tạo điều kiện để khách hàng tiếp cận tốt hơn với dịch vụ ngân hàng: Trong những năm gần đây, các ngân hàng trên địa bàn Hà Nội đã bắt đầu có sự đầu tư và cạnh tranh về các sản phẩm mới trên nền tảng công nghệ hiện đại như: thẻ ATM và các dịch vụ đi kèm, thẻ Visa, Master, thẻ tín dụng, e- bankink (thanh toán online qua ngân hàng, internet banking (truy vấn thông 82 tin trực tuyến)...Tuy nhiên, các sản phẩm dịch vụ của các Ngân hàng Hà Nội vẫn còn ở mức độ sơ khai, chưa đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Do đó, đẩy mạnh phát triển sản phẩm dịch vụ ngân hàng trong xu thế hội nhập là một vấn đề hết sức cần thiết, không chỉ thỏa mãn nhu cầu đa đa dạng của mọi khách hàng mà còn đem lại rất nhiều mục tiêu. Đó là: tăng thu nhập, tăng sức cạnh tranh của ngân hàng trong nền kinh tế thị trường, thúc đẩy thực hiện hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, hoàn thiện bộ máy tổ chức. Một mục tiêu vô cùng quan trọng nữa chính là phát triển đa dạng mọi sản phẩm sẽ hạn chế được rủi ro. Kinh doanh trên nhiều lĩnh vực, đa dạng mọi dịch vụ từ dịch vụ tín dụng đến dịch vụ phi tín dụng là một phương sách hiệu quả nhất để phân tán rủi ro trong kinh doanh bởi vì chú trọng phát triển đa dạng mọi dịch vụ đã thực hiện đúng nguyên lý “không bỏ trứng vào cùng một giỏ”, lợi nhuận thu được từ các dịch vụ khác nhau sẽ bổ sung cho nhau khi thị trường biến động, giúp cho ngân hàng ổn định được mức doanh lợi. d) Giải pháp phát triển công nghệ và hiện đại hóa ngân hàng: Phải tiếp tục nâng cấp mạng diện rộng và hạ tầng công nghệ thông tin của Ngân hàng Nhà nước cũng như của các ngân hàng trên địa bàn Hà Nội với các giải pháp kỹ thuật và phương thức truyền thông phù hợp với trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam và các chuẩn mực, thông lệ quốc tế. Tăng cường hệ thống an toà, bảo mật thông tin, dữ liệu và an ninh mạng. Phải đầu tư, nâng cấp và hiện đại hóa công nghệ một cách tập trung và trọng điểm. Đi đầu đón tắt công nghệ của ngân hàng nước ngoài, nghiên cứu kỹ trước khi mua trọn gói các giải pháp phần mềm để giảm thời gian và giá thành chuyển giao công nghệ. Phần mềm trọn gói thường có tài liệu đầy đủ, theo phương thức xử lý quốc tế, chuẩn kế toán và có một kiến trúc hệ thống mở. Những gói phần mềm này cho phép giao diện với các hệ thống bên ngoài, 83 kết xuất dữ liệu tới tiện ích phân phối báo cáo và có thể vận hành trên các loại máy đa dạng cũng nh các loại mạng khác nhau. Giải pháp trọn gói có thể đ- ược triển khai nhanh chóng với tối thiểu công sức địa phương hóa sản phẩm, do vậy giảm thiểu nhu cầu phát triển ứng dụng tốn kém. e) Giải pháp phát triển nguồn nhân lực: Một trong những nguyên nhân chất lượng dịch vụ ngân hàng còn thấp, chưa đạt được như mong muốn là do chuyên môn nghiệp vụ chưa cao, thiếu kiến thức về thị trường, thiếu am hiểu về luật và các thông lệ quốc tế. Như vậy, con người luôn là nhân tố quyết định thành công mọi hoạt động sản xuất xã hội. Chúng ta chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN và bắt đầu sự nghiệp công nghiệp hóa đòi hỏi “Xây dựng đội ngũ cán bộ ngân hàng có phẩm chất tốt, có kiến thức về năng lực và nghiệp vụ ngân hàng áp dụng được công nghệ hiện đại và trình độ ngoại ngữ là yếu tố quyết định chất lượng và hiệu quả hoạt động ngân hàng”. Để đạt được những yêu cầu đó, ngành ngân hàng Hà Nội cần tập trung vào chiến lược con người với những nội dung cơ bản sau: - Liên kết đào tạo, đào tạo lại, đào tạo tại chỗ và không ngừng cập nhật kiến thức về dịch vụ, về công nghệ, về quản trị cho cán bộ nhân viên ngân hàng là những giải pháp hữu hiệu mà các ngân hàng thương mại cần thực hiện. Đặc biệt, cần đào tạo theo phương pháp chuyên gia - tức là nghe và thực hành trực tiếp từ các chuyên gia ngành, chuyên gia nước ngoài về kiến thức ngân hàng và về phát triển dịch vụ, công nghệ cũng như quản trị điều hành. Hiệu quả của phương pháp chuyên gia có tính cập nhật và tính thực tiễn cao. Thông qua liên kết đào tạo và thực hiện các chính sách đầu tư hấp dẫn (về thu nhập, về điều kiện làm việc, học tập....) để thu hút nguồn nhân lực chất lượng 84 cao từ các trường đại học trên địa bàn nhằm phục vụ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. - Trong công việc phải tạo một môi trường cạnh tranh lành mạnh, làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng cán bộ thay thế và ngân hàng luôn trong tình trạng sẵn sàng có cán bộ thay thế người muốn ra đi và có thể đó lại là một sự đổi mới, thay thế tốt hơn. Chính vì vậy, bộ phận nhân sự và các bộ phận nghiệp vụ cần có sự phối kết hợp chặt chẽ để xác định sớm những nhân viên có ý định nhảy việc (thay đổi cư xử, phong độ làm việc sa sút, có những lời than phiền đột ngột, tham khảo mức lương, vị trí ở ngân hàng khác với thái độ mong muốn nhất là khi dịch vụ ngân hàng đã sẵn sàng hội nhập, có rất nhiều cạnh tranh nguồn nhân lực từ phía ngân hàng nước ngoài. - Khi xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực phải đảm bảo rõ ràng, phù hợp gắn kết với định hướng phát triển chiến lược chung. Để xác định nhân viên giỏi cần xây dựng cụ thể tiêu chí đánh giá hiệu quả làm việc của nhân viên để từ đó có chính sách phù hợp, tạo môi trường làm việc tốt để họ có cơ hội phát triển và gắn bó lâu dài. 3.3.2 Nhóm giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển dịch vụ bảo hiểm Hà Nội 3.3.2.1 Về phía các cơ quan quản lý Nhà nước Các quy định điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm hiện hành về cơ bản đã khá hoàn chỉnh, đảm bảo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện hầu hết các cam kết trong lĩnh vực này. Tuy nhiên để thị trường phát triển ổn định, bền vững và phù hợp với thông lệ quốc tế, về phía cơ quan quản lý Nhà nước, cần có một số giải pháp sau: - Để thực hiện các cam kết, bổ sung các quy định về chi nhánh trực tiếp của các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài, bãi bỏ các quy định mang tính 85 bảo hộ các doanh nghiệp trong nước về địa bàn hoạt động, đối tượng khách hàng, các loại hình nghiệp vụ bảo hiểm bắt buộc, tái bảo hiểm bắt buộc; hoàn thiện các điều kiện, tiêu chuẩn cấp phép minh bạch, thận trọng thay thế cho cơ chế cấp phép theo từng trường hợp cụ thể. - Bổ sung, sửa đổi một số quy định nhằm tăng khả năng giám sát tài chính của các công ty bảo hiểm bao gồm vốn pháp định, khả năng thanh toán, hoạt động tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục tiêu lựa chọn được các nhà đầu tư có năng lực tài chính, cam kết lâu dài đối với sự phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam, nhất là vào thời điểm hiện nay, Việt Nam đã là thành viên của WTO. Các quy định này nhằm giúp doanh nghiệp nâng cao chất lượng quản trị điều hành, phát hiện sớm các rủi ro đồng thời hỗ trợ cho công tác quản lý giám sát của các cơ quan chức năng. - Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách đảm bảo sự lành mạnh của thị trường, bao gồm các quy định bảo vệ người tiêu dùng như hoàn thiện các quy định về nội dung và phương thức giao kết hợp đồng bảo hiểm nhằm đảm bảo tính an toàn của giao dịch cho cả người mua lẫn công ty bảo hiểm và các đối tượng liên quan (đại lý, môi giới bảo hiểm). Cần có các quy định cụ thể và đặc thù hơn điều chỉnh hoạt động cạnh tranh đảm bảo cạnh tranh công bằng và lành mạnh trên thị trường ngành bảo hiểm, bởi đây là một ngành rất đặc thù và nhạy cảm. 3.3.2.2 Về phía các công ty bảo hiểm a) Tăng cường phát triển sản phẩm mới, đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao chất lượng dịch vụ: Ngoài những sản phẩm bảo hiểm truyền thống, các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước cần tiếp tục đa dạng hóa sản phẩm, tập trung vào phát triển sản phẩm bảo hiểm chăm sóc sức khỏe, y tế chất lượng cao, bảo hiểm trách 86 nhiệm (trách nhiệm nghề nghiệp, trách nhiệm đối với sản phẩm, trách nhiệm pháp lý...) và các sản phẩm phục vụ phát triển nông thôn. Các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ cần tăng thêm sản phẩm liên kết đầu tư, bảo hiểm hưu trí và chăm sóc y tế, chú trọng tạo ra nhiều dịch vụ gia tăng ngoài việc được bảo hiểm như được khám, chữa bệnh tại cơ sở y tế và bác sỹ nổi tiếng theo giá ưu đãi, được sửa chữa xe (không thuộc trách nhiệm bồi thường của bảo hiểm) tại cơ sở uy tín và được giảm giá.... Để nâng cao năng lực cạnh tranh, khi hoạch định kế hoạch cho ra đời và phát triển các sản phẩm mới sao cho phù hợp công nghệ và tiêu chuẩn quốc tế, các doanh nghiệp bảo hiểm cần có tính chuyên nghiệp, thể hiện ở chỗ: - Thông tin về sản phẩm mới phải được cập nhật kịp thời cho các công ty thành viên, chi nhánh, đại lý theo sát tiến độ trình duyệt sản phẩm, tạo điều kiện cho toàn thể cán bộ nhân viên có đủ thời gian nghiên cứu, đánh giá sơ bộ về sản phẩm trước khi đưa sản phẩm ra giới thiệu, kiểm duyệt trước ban lãnh đạo . - Có thể thuê các công ty tư vấn chuyên nghiệp để lên kế hoạch tuyên truyền, quảng cáo cho sản phẩm mới bằng các phương tiên thông tin đại chúng, tờ rơi, poster, các chương trình khuyến mại, khen thưởng.... - Để kế hoạch giới thiệu các sản phẩm bảo hiểm mới được thành công, cần phải tiến hành ngay “dịch vụ sau bán hàng” nhằm giải quyết kịp thời nhất các vướng mắc và khó khăn như triển khai “thư mục nóng”, “đường dây nóng” của khách hàng về sản phẩm. Làm được như vậy, doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động tại Hà Nội sẽ chứng minh rằng, việc mua bảo hiểm của các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước đang hoạt động trên địa bàn sẽ được phục vụ tốt hơn, bảo đảm quyền lợi tốt hơn so với mua bảo hiểm của hãng bảo hiểm không có mặt tại Hà Nội. 87 Điều này sẽ hướng sự lựa chọn của khách hàng tới các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam. b) Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại trong kinh doanh bảo hiểm: Để nâng cao năng lực cạnh tranh, các doanh nghiệp bảo hiểm Hà Nội cần tăng cường trang thiết bị kỹ thuật công nghệ hiện đại, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hợp đồng bảo hiểm, khách hàng tham gia bảo hiểm, đối tượng được bảo hiểm, giám định giải quyết bồi thường và nhất là tiến tới thương mại điện tử bán hàng qua mạng. Với việc ứng dụng được thương mại điện tử, nhất là hiện nay số người sử dụng Internet ở Hà Nội ngày một tăng lên, khi đó, người có nhu cầu về bảo hiểm có thể dễ dàng lựa chọn các sản phẩm của các doanh nghiệp bảo hiểm trên mạng và khi chấp nhận sẽ được cấp đơn bảo hiểm, giấy chứng nhận bảo hiểm ngay lập tức.Từ đó, việc quản lý đơn bảo hiểm, giấy chứng nhận bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm, khách hàng tham gia bảo hiểm, đối tượng được bảo hiểm, rủi ro được bảo hiểm, giải quyết tổn thất và bồi thường bảo hiểm được dễ dàng và thuận tiện nhanh chóng. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp bảo hiểm cần phải chú trọng xây dựng phần mềm tin học hiện đại đối với việc thống kê rủi ro, tổn thất trong các nghiệp vụ bảo hiểm, đây là những vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp bảo hiểm. c) Tiếp tục xây dựng thương hiệu bảo hiểm, văn hóa doanh nghiệp và phong cách phục vụ tốt: Mặc dù thị trường bảo hiểm ở Thủ đô Hà Nội nói riêng cũng như thị trường bảo hiểm Việt Nam nói chung đã có đông đảo các thương hiệu bảo hiểm trong và ngoài nước, nhưng hầu hết người dân và không ít các khách 88 hàng bảo hiểm nói đến bảo hiểm thì nghĩ đó là Bảo Việt, Prudential, Bảo Minh, Pjico... mà không biết đến nhiều thương hiệu bảo hiểm khác nữa. Đối với lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, sản phẩm của doanh nghiệp là vô hình, đó chính là những cam kết. Vì vậy, thương hiệu được coi là yếu tố sống còn của doanh nghiệp, thương hiệu phải có độ tin cậy cao, có uy tín với khách hàng...Để xây dựng thương hiệu có uy tín trên thị trường, nhất là trong bối cảnh nền knh tế đang hội nhập như hiện nay, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam cần phải: - Đầu tư về nhân lực: Tài sản thương hiệu cần phải có người quản lý, khai thác quảng bá theo định hướng và mục tiêu của doanh nghiệp. Để làm được điều này, doanh nghiệp nhất thiết phải có bộ phận chuyên môn quản lý và khai thác thương hiệu, chịu toàn bộ trách nhiệm trước việc gìn giữ và phát triển khối tài sản vô hình nhằm khai thác tối đa ảnh hưởng của thương hiệu cho doanh nghiệp. - Đầu tư về tài chính: Khi thương hiệu đã có vị trí trên thị trường không có nghĩa là giữ nguyên hình ảnh đó, bởi thời gian sẽ làm cho thương hiệu mờ nhạt trong tâm trí khách hàng, chưa kể đến sự cạnh tranh ráo riết, hạ thấp uy tín thương hiệu của các doanh nghiệp đối thủ. Vì vậy, đòi hỏi các doanh nghiệp bảo hiểm phải thường xuyên có một ngân sách nhất định và thường xuyên để duy trì, giữ gìn và làm mới hình ảnh thương hiệu của doanh nghiệp mình. - Học tập kinh nghiệm: Trong nền kinh tế hội nhập với việc Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO, các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước đương nhiên sẽ phải đối đầu với những thương hiệu mạnh của các nền kinh tế trên thế giới. Do đó, bên cạnh những thách thức, các doanh nghiệp bảo hiểm của ta cần tận dụng cơ hội được tham khảo, học tập kinh nghiệm gìn giữ 89 và phát triển thương hiệu của nước ngoài và vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của Việt Nam để có thể gìn giữ và phát triển tốt thương hiệu của doanh nghiệp mình. Nói tóm lại, muốn gìn giữ và phát triển thương hiệu, các doanh nghiệp bảo hiểm cần xác định rõ tầm quan trọng, ý nghĩa, tác dụng và giá trị to lớn của tài sản thương hiệu để từ đó chú trọng đến việc xây dựng thương hiệu có mục tiêu và tính cách ổn định, tạo được ấn tượng riêng, xác định điểm nổi bật là phong cách riêng cho thương hiệu của doanh nghiệp mình. Bên cạnh đó, phải coi trọng việc xây dựng và gìn giữ văn hóa doanh nghiệp, phong cách phục vụ vì văn hóa doanh nghiệp, phong cách phục vụ tốt là những yếu tố không thể thiếu trong cấu thành hình ảnh thương hiệu. d) Đào tạo phát triển nguồn nhân lực, có chế độ chính sách hợp lý để giữ được đội ngũ cán bộ bảo hiểm chuyên nghiệp: Trên địa bàn thành phố Hà Nội, hoạt động đào tạo chính quy và chuyên sâu về bảo hiểm thương mại đã được thực hiện tại một số trường đại học và học viên có đào tạo về tài chính với khả năng đào tạo khoảng 300-400 người/năm như Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, Học viện Tài chính Hà Nội. Tuy nhiên, nhu cầu về nguồn nhân lực bảo hiểm có chất lượng cao trên địa bàn vẫn thiếu trầm trọng, đòi hỏi phải có một số giải pháp tình thế cũng như lâu dài đảm bảo cho sự phát triển ổn định của bảo hiểm Hà Nội. Đó là: - Tăng cường sự kết hợp giữa các công ty bảo hiểm trên địa bàn với các trường, viện và các đơn vị khác trên địa bàn như: Viện Quản trị kinh doanh, Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội, Đại học Tài chính Hà Nội, Đại học Ngoại ngữ Hà Nội, Đại học Ngoại thương Hà Nội.....để đào tạo các lớp chuyên sâu và nâng cao về kỹ năng nghiệp vụ bảo hiểm thông qua các ví dụ minh họa sinh động giữa lý thuyết và thực hành; chú trọng đến công tác đào tạo về quản 90 trị doanh nghiệp, kỹ năng quản lý và thực thi công việc cho từng chức cụ thể trong công ty bảo hiểm. - Xây dựng một chiến lược dài hạn về đào tạo, có mục tiêu, định hướng rõ ràng về yêu cầu, nhiệm vụ của đào tạo nguồn nhân lực để phục vụ công tác kinh doanh bảo hiểm. - Để có nguồn nhân lực cao và ổn định, các công ty bảo hiểm phải dành một lượng kinh phí nhất định cho công tác đào tạo nhân lực, chủ động tổ chức, mời các chuyên gia nước ngoài, cán bộ kỹ thuật các công ty tập đoàn, cơ sở nghiên cứu, cơ sở đào tạo... có uy tín trong và ngoài nước về đào tạo, đồng thời phải chú trọng tận dụng nguồn hỗ trợ qua các dự án, đón bắt thời cơ và yêu cầu mới, đi trước đón đầu về công nghệ, trình độ, thông tin... trong công tác đào tạo nhân lực bảo hiểm. - Để tránh nạn “chảy máu chất xám”, các doanh nghiệp bảo hiểm trên địa bàn cần có chế độ chính sách đãi ngộ hợp lý với những cán bộ lâu năm có kinh nghiệm như chế độ lương, thưởng hấp dẫn cũng như các ưu đãi về cơ hội học tập, thăng tiến khác, tạo một môi trường làm việc năng động, cạnh tranh nhưng chan hòa, gắn bó giữa các cán bộ, nhân viên trong doanh nghiệp, giữa cán bộ, nhân viên với doanh nghiệp. e) Giải pháp phát triển dịch vụ bảo hiểm qua dịch vụ ngân hàng: Trong xu thế hiện nay, sự liên kết giữa hai ngành bảo hiểm và ngân hàng đang diễn ra ngày một mạnh mẽ trên cả hai lĩnh vực bảo đảm rủi ro và sự hòa trộn trong lĩnh vực kinh doanh và các sản phẩm liên kết. Với mục tiêu đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ, các ngân hàng cũng đang chú trọng mở rộng các dịch vụ về bảo hiểm, còn các công ty bảo hiểm thì bắt đầu lấn sân sang lĩnh vực ngân hàng với việc cung cấp một số các dịch vụ như tư vấn, bảo lãnh, cho vay.... Do đó, các sản phẩm liên kết giữa ngân hàng và bảo hiểm 91 cũng ngày càng phát triển và đa dạng hóa như: Thanh toán phí bảo hiểm qua ATM, bảo hiểm tiết kiệm, bảo hiểm trong nghiệp vụ tín dụng, liên kết thanh toán điện tử.... Do đó để dịch vụ bảo hiểm thông qua dịch vụ ngân hàng ngày một phát triển thì mối quan hệ giữa ngân hàng và bảo hiểm phải ngày một chặt chẽ. Muốn vậy, ngành bảo hiểm cần có sự phối hợp chặt chẽ với ngân hàng trong việc tiếp cận sản phẩm đến từng khách hàng thông qua các nỗ lực thay đổi thói quen ít sử dụng cũng như ít hiểu biết về các sản phẩm bảo hiểm của người dân như quảng cáo, tiếp thị. Mặt khác, với mục tiêu lợi nhuận, các ngân hàng thương mại cũng hiểu được rằng khi dịch vụ bán bảo hiểm qua ngân hàng phát triển sẽ đem lại nguồn thu không nhỏ cho ngân hàng. Vì vậy, các ngân hàng thương mại nên coi đây là một dịch vụ kinh doanh thực sự, trên cơ sở đó sẽ có chiến lược cụ thể để đào tạo nhân viên ngân hàng có trình độ chuyên môn về cung cấp các sản phẩm bảo hiểm. * * * * Trên đây là những giải pháp, kiến nghị chủ yếu nhằm phát triển dịch vụ tài chính Hà Nội đáp ứng yêu cầu hội nhập. Quá trình thực hiện cần có sự triển khai đồng bộ và trong mối liên hệ khăng khít, mật thiết, không tách rời của dịch vụ tài chính Hà Nội với dịch vụ tài chính Việt Nam nói chung. 92 KẾT LUẬN Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế khách quan chi phối sự phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia và quan hệ quốc tế, bắt nguồn từ quy luật phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế. Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó. Trong những năm qua, Việt Nam đã ký kết và tham gia các Hiệp định song phương và đa phương về thương mại, tài chính, đầu tư..., đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong hội nhập kinh tế quốc tế như: gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) và Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), tham gia vào các diễn đàn ASEM và APEC, ký kết Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA) và mới đây nhất là trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Có thể nói, những sự kiện trên đã có ảnh hưởng và tác động to lớn đến nền kinh tế Việt Nam nói chung cũng như kinh tế Thành phố Hà Nội nói riêng. Là thủ đô và đồng thời cũng là vùng kinh tế trọng điểm của cả nước, Hà Nội được hưởng rất nhiều các ưu đãi về nguồn nhân lực, vị trí chính trị xã hội và sự quan tâm, ủng hộ hết lòng của Đảng và Nhà nước. Chính vì vậy, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô Hà Nội từ năm 2001 – 2010 đã mạnh dạn đề ra mục tiêu: đến năm 2010, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hằng năm của Hà Nội đạt khoảng 9%, GDP bình quân đầu người đạt 2.100 - 2.200 USD, cơ cấu kinh tế là: dịch vụ 56%, công nghiệp 42%, nông nghiệp 2%. Tuy nhiên, để có được những bước tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ như trên và để thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của thủ đô ngàn năm văn hiến cần có những giải pháp đồng bộ, trong đó có nhóm giải pháp 93 phát triển dịch vụ tài chính nhất là trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Quá trình này đã và sẽ tiếp tục thúc đẩy hoạt động dịch vụ tài chính trong nước nói chung, thủ đô Hà Nội nói riêng tăng trưởng và phát triển. Song, những cơ hội và thách thức mà hội nhập đem lại là hai mặt của một vấn đề, chúng đan xen, chuyển hóa. Trong khi đó, bên cạnh những kết quả, thành tựu bước đầu mà dịch vụ tài chính Hà Nội đạt được vẫn luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro, hạn chế như: quy mô thị trường nhỏ, hệ thống chính sách và luật pháp chưa đồng bộ, hình thức dịch vụ đơn điệu và thiếu, chất lượng chuyên môn nghiệp vụ thấp...Tất cả những tồn tại đó sẽ dẫn đến một hệ quả tất yếu là năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp kinh doanh ngân hàng và bảo hiểm trên địa bàn nhìn chung còn thấp, liệu có thể đứng vững trước những áp lực ngày càng tăng mà hội nhập quốc tế đem lại không ? Rõ ràng là sự phát triển của hoạt động dịch vụ tài chính, ngoài những đòi hỏi khách quan của nền kinh tế, bản thân nó cũng phải chủ động điều chỉnh các cơ chế chính sách trong hoạt động dịch vụ theo các cam kết đa phương, song phương, nhất là những cam kết trong hiệp định thương mại Việt Mỹ và những cam kết về dịch vụ tài chính của Việt Nam khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO. Chính vì vậy, hơn lúc nào hết, nhiệm vụ “phát triển dịch vụ tài chính Hà Nội đáp ứng yêu hội cầu hội nhập kinh tế” đang ngày càng trở nên quan trọng và cấp thiết. Tuy nhiên, để biến ước mong thành hiện thực thì Hà Nội nói riêng, cả nước ta nói chung còn phải làm rất nhiều việc, có những việc Hà Nội có thể tự làm, song có những việc Hà Nội phải dựa vào sự ủng hộ, giúp đỡ của các địa phương khác và của Nhà nước.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf3166_8174.pdf
Luận văn liên quan