Để củng cố, phát triển và nhân rộng các mô hình KTHT kiểu mới có hiệu quả
cần nắm vững nội dung định hướng phát triển nông nghiệp, đó là: phát triển KTHT phải
phù hợp với hình thức, mức độ yêu cầu cấp thiết của hộ nông dân; phát triển KTHT phải
phù hợp với quy luật kinh tế khách quan và phải có sự tác động, hỗ trợ của nhà nước;
phát triển KTHT phải trên cơ sở đảm bảo các nguyên tắc hợp tác hóa; phát triển kinh tế
hợp tác phải phù hợp với đặc điểm, điều kiện, nhu cầu của kinh tế nông nghiệp ngoại
thành thành phố Hồ Chí Minh; phải đa dạng hóa KTHT.
70 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2628 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát triển kinh tế hợp tác ở ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh, thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hàng năm nhằm củng cố, tạo lực
cho HTX, động viên xã viên gắn bó thêm với HTX.
- Hình thức sở hữu cá nhân xã viên: Loại hình này vẫn được tồn tại và được tôn
trọng. Xã viên có quyền sử dụng đất đai (với 5 quyền theo luật), vốn, trang thiết bị để sản
xuất, kinh doanh... xã viên có quyền cho thuê, cho muợn... vốn hoặc các phương tiện sản
xuất của mình. Nếu HTX cần sử dụng cũng phải thuê hoặc mượn của xã viên.
- Vốn góp xã viên: Đây là vốn xã viên đóng góp khi vào HTX, trở thành sở hữu
tập thể. Nhưng khi xã viên ra khỏi HTX vốn góp đó sẽ được HTX trả lại cho xã viên và
trở thành sở hữu riêng của xã viên.
Khác với mô hình của HTX cũ trước đây. HTX mới hiện nay với nhiều hình thức
sở hữu như trên là phù hợp và có tác dụng tốt trong việc ổn định, phát triển HTX cũng
như thúc đẩy kinh tế hộ phát triển sản xuất, tạo tâm lý an tâm cho các hộ nông dân.
2.4.2. Về xã viên
Qua điều tra khảo sát các hộ xã viên ở các HTX nông nghiệp ngoại thành thành
phố Hồ Chí Minh (6/1999) của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn bằng hình thức
điều tra xã hội học, chúng ta thấy:
Một là, 74,6% xã viên có mục đích được nhận khoán đất khi vào HTX vì ruộng
đất là tư liệu sản xuất chủ yếu, vào HTX là có đất để sản xuất, tạo miếng cơm manh áo,
đây chính là yếu tố quan trọng nhất.
Hai là, có khá đông xã viên (60,2%) muốn vào HTX với mục đích là để ủng hộ
HTX. Đây cũng là suy nghĩ và tình cảm của nhiều xã viên bởi vì dầu sao họ cũng đã
tham gia HTX từ nhiều năm nay, ở trong HTX họ không bị thiệt thòi, mất mát gì, ngược
lại họ còn được thụ hưởng những mặt tích cực khác do HTX đem lại như: chuyển giao
KHKT, phúc lợi... thêm tình làng nghĩa xóm.
Ba là, có 61,4% xã viên vào HTX là để có việc làm, điều đó khẳng định sự cần
thiết phải có công ăn việc làm cho người nông dân. Số xã viên này hầu hết đã lớn tuổi, họ
chỉ biết làm ruộng và suốt đời gắn bó với
đồng ruộng.
Bốn là, 48% xã viên có nguyện vọng được tiêu thụ sản phẩm. Tỷ lệ này khá thấp
so với các mục đích, nguyện vọng khác. Điều đó có thể được lý giải như sau: Đứng về
mặt lý luận và thực tiễn sản xuất trong cơ chế thị trường thì người nông dân đang cần có
sự hợp tác với nhau để giải quyết những khó khăn về vật tư, giống, vốn, kỹ thuật... nhất là
về vấn đề tiêu thụ sản phẩm để tạo sức mạnh trên thị trường...Điều đó hoàn toàn đúng.
Nhưng với các xã viên vùng ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh hiện nay chỉ mới đúng
một nửa - bởi vì, hầu hết quy mô sản xuất của xã viên nhỏ, đa phần là nông dân nghèo,
dựa vào đất khoán.. Do đó họ mới chỉ sản xuất để đáp ứng nhu cầu cuộc sống gia đình:
cái ăn, cái mặc. Trước mắt chưa có điều kiện để phát triển sản xuất hàng hóa. Vì thế, việc
tiêu thụ sản phẩm tập trung, ổn định chưa bức bách đối với họ. Điều họ cần là được giúp
đỡ đầu vào để ổn định sản xuất trước đã. Khi có tích lũy, mở rộng sản xuất thì họ mới có
nguyện vọng giải quyết đầu ra cho sản phẩm của họ. Thực sự họ chưa thấy ở hợp tác xã
có khả năng, cũng như bản thân họ chưa có điều kiện để hai bên ký kết "chuyển mình"
mở rộng sản xuất - kinh doanh làm giàu...
Năm là, đối với các hợp tác xã chăn nuôi bò sữa mới thành lập thì cả mục đích và
nguyện vọng của xã viên vào hợp tác xã là để được phục vụ đầu vào. Điều đó phù hợp
với thực tế của các gia đình chăn nuôi bò sữa. Bởi vì, hiện tại đầu ra của con bò sữa là ổn
định nhất so với sản xuất các cây, con khác. Một khi đầu ra đã được giải quyết cơ bản rồi
thì yếu tố cần thiết là phải giải quyết tốt đầu vào. Làm được điều đó sẽ thúc đẩy được
chăn nuôi bò sữa phát triển, góp phần ổn định, nâng cao đời sống xã viên.
2.3.3. Về hoạt động sản xuất kinh doanh
9/12 HTX nông nghiệp hiện nay của các huyện ngoại thành thành phố Hồ Chí
Minh đều có hoạt động dịch vụ hỗ trợ. Cụ thể là:
- 5 HTX có dịch vụ về thủy lợi. Đây là số HTX có đất đai nằm ở vùng bưng; giáp
rạch, sông ngòi. Các HTX này thường xuyên đầu tư vốn, công lao động xã viên hoặc
nhận vốn của chính quyền để thi công các công việc về nạo vét kênh mương, lỗ cống
kênh nội đồng... nhằm chống ngập úng, hạn chế phèn mặn. Xã viên không phải đóng góp
thủy lợi phí, chỉ tham gia công lao động.
- 3 HTX làm dịch vụ về bảo vệ thực vật. Các HTX này thường tổ chức thăm
đồng, phát hiện sâu bệnh hoặc thực hiện chống dịch bệnh, hướng dẫn kỹ thuật sử dụng
thuốc và phun xịt thuốc... Khi thu hoạch xã viên sẽ hoàn trả lại tiền vật tư, HTX không
thu phí bảo vệ thực vật của xã viên.
- 3 HTX làm dịch vụ chăn nuôi thú y. HTX hướng dẫn bà con kỹ thuật chăn nuôi,
phòng bệnh gia súc và chữa những bệnh đơn giản, hướng dẫn cách dùng thuốc, vệ sinh
chuồng trại, vệ sinh vắt sữa, đào cán bộ truyền giống...
- 2 HTX làm dịch vụ tiêu thụ sản phẩm, tiêu thụ sữa bò. HTX kết hợp với việc
hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi, hướng dẫn vệ sinh cho bò sữa và thu mua sữa bò do dân
sản xuất. Khi HTX làm dịch vụ tiêu thụ thì thanh toán tiền tương đối nhanh, không có
tình trạng gây khó, ép chất lượng sữa, ép giá... Hoạt động dịch vụ trung chuyển sữa của
HTX đã làm cho nông dân yên tâm về đầu ra, tập trung phát triển đàn bò sữa, tạo hiệu
quả cao trong sản xuất.
2.3.4. Về bộ máy quản lý
Từ khi đổi mới, việc tổ chức bộ máy quản lý HTX có những đặc điểm mới:
- So với trước, bộ máy gọn nhẹ hơn, trình độ cán bộ được nâng cao hơn và định
kỳ được bồi dưỡng nghiệp vụ. Trong 11 HTX, thường Ban quản trị có 2 người, có trình độ
đại học, một số có trình độ cấp 2, cấp 3 (15 người).
- Cán bộ do xã viên bầu chọn theo nguyên tắc dân chủ. Tuy nhiên, cũng có
trường hợp có sự can thiệp sâu của chính quyền. Trong những trường hợp này, có trường
hợp không được xã viên tín nhiệm.
2.3.5. Về hiệu quả kinh tế - xã hội
- Về hiệu quả kinh tế:
Qua khảo sát thực tế về thực trạng KTHT ở các huyện ngoại thành thành phố Hồ
Chí Minh - xét về mặt hiệu quả kinh tế - thì các mô hình KTHT còn rất hạn chế. Do quy
mô HTX nhỏ, xã viên còn nghèo, do đó nguồn lực để phát triển sản xuất - kinh doanh rất
hạn hẹp. Các HTX nông nghiệp chủ yếu mới giải quyết được một số hoạt động dịch vụ
hỗ trợ cho xã viên. Các hoạt động sản xuất kinh doanh khác còn rất nhỏ bé với mong
muốn có một phần chi phí để trang trải cho khối văn phòng, đó là chưa nói đến một số
hợp tác xã cơ bản sống được là nhờ tiền cho thuê mặt bằng, tiền lãi gửi tiết kiệm hoặc
đang chờ giải thể... Hợp tác xã dịch vụ sản xuất bò sữa Xuân Lộc (huyện Hóc Môn) là ví
dụ: Đây là một hợp tác xã làm ăn căn cơ, có hướng phát triển hiện đang kinh doanh khá
nhưng qua hai năm hoạt động (1998 1999) kết quả đạt được như sau:
Bảng 6:
Năm Doanh thu Chi Phí Lãi
Các Quỹ
Chia lãi
vốn góp
XV
Quỹ tích
lũy PTSX
1998 346.648.32
3
333.496.44
1
13.151.882 5.260.752 2.760.000
1999 561.261.65
3
549.353.57
5
11.908.078 4.763.231 2.581.198
Từ số liệu trên chúng ta thấy rằng: Hoạt động sản xuất kinh doanh của hợp tác xã
chỉ mới đóng được thuế, chưa có lãi nhiều. Do đó, chưa thể tích lũy và hình thành các
dạng quỹ để đầu tư cho phát triển sản xuất, đổi mới công nghệ ...
Tuy nhiên, trong thời gian qua hoạt động của các mô hình kinh tế hợp tác đã có
những tác dụng tích cực, thúc đẩy sản xuất phát triển thông qua các hoạt động dịch vụ hỗ
trợ về kỹ thuật, về vốn... Đó là những thành quả mà thực tế không thể chối cãi được.
- Về hiệu quả xã hội:
Bên cạnh hiệu quả kinh tế, kinh tế hợp tác cũng tạo ra những hiệu quả xã hội trên
các mặt:
- Qua hình thức hỗ trợ, kinh tế hợp tác đã tạo tâm lý ổn định, yên tâm sản xuất
cho hàng ngàn xã viên mà đại đa số là những nông dân
nghèo. Thông qua việc giúp đỡ nông dân sản xuất mà góp phần xóa đói giảm nghèo.
- Góp phần chăm lo cuộc sống cho người nông dân đặc biệt là xã viên của các
hợp tác xã. Như vậy, xã viên vừa được sự quan tâm, chăm lo chung của chính quyền như
những người dân khác, vừa được hưởng sự chăm sóc của hợp tác xã.
- Góp phần gìn giữ an ninh, trật tự trên địa bàn.
Tóm lại: Nhu cầu hợp tác của nông dân để phát triển sản xuất là có thực, là tất
yếu của quá trình phát triển sản xuất hàng hóa. Đó là một yêu cầu khách quan. Nếu
không hợp tác để cùng hỗ trợ nhau giải quyết những khó khăn trong sản xuất thì tự người
nông dân vốn đã đơn lẻ lại càng bất lực hơn trước những khó khăn liên tiếp mà họ phải
hứng chịu trong quá trình sản xuất, nhất là việc giải quyết đầu vào và đầu ra. Nếu người
nông dân không được giúp đỡ giải quyết những vấn đề đó, chắc chắn họ sẽ bị lỗ và phá
sản trong điều kiện khắc nghiệt của kinh tế thị trường. Vì vậy, để tồn tại và phát triển
người nông dân phải hợp tác kinh tế, hợp tác là vấn đề cần thiết, cấp bách của nông dân
nói chung và nông dân ở ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
Tuy nhiên, kinh tế hợp tác ở ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh, nhìn chung
chưa phát triển, còn hạn chế. Với một vùng ngoại thành có đất đai rộng lớn (1.653,7
km2), đa dạng (có đồng bằng, có ven biển...), lại có dân cư đông (917.933 người), nhất là,
là một vành đai cho một thành phố dân cư đông nhất nước, mà mới chỉ có 12 HTX dịch
vụ nông nghiệp là quá ít. Nguyên nhân là:
Thứ nhất: Đã một thời gian dài, hợp tác xã nông nghiệp bị lãng quên. Vị đắng
của hợp tác xã cũ vẫn còn đọng trong mỗi người dân, thậm chí trong các hộ. Vì vậy, mỗi
khi có ai đề cập đến hợp tác xã là mọi người hình dung ngay kiểu "đánh kẻng chấm
công"; "cha chung không ai khóc"; "tập thể hóa tư liệu sản xuất"...
Mặc dù đã có Luật hợp tác xã làm cơ sở cho HTX kiểu mới, nhưng công tác
tuyên truyền cho các hộ nông dân chưa sâu rộng, ảnh hưởng đến nhận thức về kinh tế hợp
tác của người dân. Do đó, Luật hợp tác xã và các chủ trương, chính sách mới của Đảng
và Nhà nước chưa đến được với người dân. Hơn nữa, các cấp ủy Đảng và chính quyền
địa phương cũng còn thiếu quan tâm đẩy mạnh công tác này.
Thứ hai: Các mô hình kinh tế hợp tác ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh hiện
nay mà hợp tác xã là nòng cốt, tuy đã qua một thời gian dài tự mày mò, tự chuyển đổi,
tìm hướng đi cho mình, nhưng các hợp tác xã vẫn chưa tránh khỏi những quan niệm cũ.
Cách làm việc, quản lý, việc xác định trách nhiệm với xã viên, tâm lý trông chờ vào sự hỗ
trợ của nhà nước... vẫn còn đè nặng trong ý thức của cả HTX và của mỗi hộ - xã viên.
Vì thế, có một thực trạng là: Những hợp tác xã cũ chuyển đổi chưa thực sự thoát
thai cái cũ, trong khi cái mới tuy đã xuất hiện nhưng chưa đủ điều kiện để khẳng định
mình.
Thứ ba: Cơ chế chính sách chưa thật sự khuyến khích, tạo điều kiện để thúc đẩy
kinh tế hợp tác phát triển. Mặt khác, việc triển khai lại chậm chạp, thiếu sáng tạo, không
kịp thời tháo gỡ khó khăn, đề xuất các ý kiến để có những chính sách phù hợp.
Thứ tư: Kinh tế hợp tác ở ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh hiện đang gặp khó
khăn về nhiều mặt: vốn ít, trang thiết bị nghèo nàn lạc hậu, lao động có sức khỏe, tay
nghề kỹ thuật cao thiếu. Vì vậy, kinh tế hợp tác và hợp tác xã cứ quanh quẩn trong khuôn
viên ấp, xã của mình thì không thể mở rộng tầm hoạt động được.
Thứ năm: Trình độ năng lực của cán bộ hợp tác xã hiện nay hết sức hạn chế, sự
nhanh nhạy, năng động, trình độ nghiệp vụ, kinh nghiệm quản lý trong cơ chế thị trường
và cả mối quan hệ trên thương trường...
Có hai hiện tượng đáng lo ngại: Một là, việc lao động nông nghiệp trẻ có trình độ
bỏ nông nghiệp để đi tìm những việc khác có thu nhập cao hơn. ở nông thôn chỉ còn lại
những người già, những người hạn chế về trình độ. Hai là, đất nông nghiệp ngày càng bị
giảm do quá trình đô thị hóa tăng lên làm hao tổn các nguồn lực chủ yếu để phát triển
kinh tế hợp tác.
Thứ sáu: Kinh tế hợp tác và hợp tác xã trong thời gian qua chưa được sự hỗ trợ
của kinh tế nhà nước, và các thành phần kinh tế khác chưa có sự liên kết chặt chẽ với các
thành phần kinh tế trên cơ sở bình đẳng, cả hai cùng có lợi. Đây là một nguyên nhân góp
phần tác động làm cho kinh tế hợp tác ở các huyện ngoại thành chậm được phát triển
trong thời gian qua.
Chương 3
phương Hướng Và những Giải Pháp
Phát Triển KINH Tế Hợp Tác trong NÔNG Nghiệp
ở ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh
3.1. PHƯƠNG hướng phát triển kinh tế hợp tác nông nghiệp Ngoại Thành
Thành phố Hồ Chí Minh THEO TƯ DUY Mới
3.1.1. Phát triển kinh tế hợp tác phải phù hợp với hình thức, mức độ yêu cầu
cấp thiết của hộ nông dân
Đổi mới và phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã là một tất yếu khách quan,
nhằm đáp ứng nhu cầu chính đáng của người lao động. Các huyện ngoại thành thành phố
Hồ Chí Minh là nơi sản xuất nông nghiệp với nhiều vùng, nhiều cây, con khác nhau. Nhu
cầu phát triển kinh tế hàng hóa đòi hỏi phải phát triển kinh tế hợp tác khác nhau tùy từng
vùng khác nhau vì hoạt động của các đơn vị kinh tế hợp tác chỉ tập trung vào những
khâu, những lĩnh vực đòi hỏi phải có sự hợp tác, liên kết nhau nhằm giúp đỡ các hộ tiến
hành sản xuất có hiệu quả hơn.
Chính việc xác định rõ yêu cầu của từng vùng, đặc điểm sản xuất, tập quán của
nhân dân - cũng như việc điều tra tình hình cụ thể để xác định nông dân cần hợp tác ở
mức độ nào, với hình thức nào là một vấn đề có ý nghĩa to lớn trong việc thúc đẩy kinh tế
hợp tác phát triển, góp phần làm giàu cho người lao động, làm giàu cho xã hội.
3.1.2. Phát triển kinh tế hợp tác phải mang lại hiệu quả kinh tế và phải có sự
tác động, hỗ trợ của nhà nước
Thực tiễn của quá trình đổi mới kinh tế hợp tác cho thấy rằng: Kinh tế hộ chỉ có
thể tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường khi tham gia vào các tổ chức kinh tế
hợp tác đa dạng. Chính sự cạnh tranh gay gắt trong cơ chế thị trường buộc các hộ nông
dân phải liên kết lại để nhân sức mạnh của mình lên. Trong quá trình hoạt động, các đơn
vị kinh tế hợp tác chỉ tồn tại và phát triển khi mang lại lợi ích thiết thực cho các thành
viên tham gia hợp tác.
Nhưng để có được ưu thế trong cạnh tranh, trước hết các hộ xã viên phải nỗ lực
để tạo ra một sức mạnh của chính mình, ngoài ra các tổ chức kinh tế hợp tác phải được sự
tác động, giúp đỡ, hỗ trợ của Nhà nước. Thiếu sự giúp đỡ của Nhà nước, các HTX sẽ gặp
rất nhiều khó khăn về vốn, về khoa học công nghệ, về thị trường tiêu thụ và về cán bộ. Sự
giúp đỡ của Nhà nước trên các mặt này là yếu tố quan trọng, nếu không nói là quyết định
cho sự thành công của phong trào kinh tế hợp tác. V.I.Lênin đã chỉ rằng: "Mỗi chế độ xã
hội chỉ nảy sinh ra nếu được một giai cấp nhất định nào đó giúp đỡ về tài chính... Trong
lúc này, chế độ xã hội mà chúng ta phải ủng hộ hơn hết là chế độ hợp tác xã" [18, 423].
3.1.3. Phát triển kinh tế hợp tác phải trên cơ sở đảm bảo các nguyên tắc hợp
tác hóa
Các hợp tác xã là những tổ chức kinh tế tự nguyện của các hộ xã viên. Thực tiễn
hoạt động của những tổ chức này vừa qua đã chứng minh: muốn tổ chức thành công và
hoạt động có hiệu quả thì trong quá trình chỉ đạo thực tiễn cần phải có phương châm,
phương pháp và đặc biệt là phải thực hiện đúng các yêu cầu các nguyên tắc hợp tác hóa.
Điều 7 của Luật hợp tác xã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua ngày 23/3/96 và có hiệu lực bắt đầu từ 1/1/1997 đã qui định 5 nguyên tắc
tổ chức và hoạt động của hợp tác xã:
Một là: Nguyên tắc tự nguyện gia nhập hợp tác xã.
Đây là nguyên tắc quan trọng bậc nhất của quá trình hình thành và phát triển của
hợp tác xã. V.I.Lênin đã nói rằng: "ở đây mà dùng bạo lực có nghĩa là làm nguy hại đến
toàn bộ sự nghiệp... điều cần làm là công tác giáo dục lâu dài và không bao giờ được
dùng mệnh lệnh" [17, 242-243]. C. Mác và Ph.Ăngghen đã từng nhắc nhở: cần phải để
cho người nông dân suy nghĩ trên luống cày của họ.
Hai là: Nguyên tắc quản lý dân chủ.
Nguyên tắc này đòi hỏi phải coi xã viên là người trực tiếp tham
gia quản lý đối với những hoạt động của hợp tác xã. Bác Hồ luôn nhấn mạnh: quản lý
phải thật dân chủ, tài chính phải công khai, sổ sách phải thật minh bạch.
Ba là: Nguyên tắc tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi.
Hợp tác xã tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, tự
quyết định về phân phối thu nhập trên cơ sở hợp tác xã và xã viên cùng có lợi. HTX phải
đặc biệt quan tâm coi trọng lợi ích của các thành viên vì đây chính là động lực trực tiếp
thúc đẩy nông dân tự nguyện, tự giác tham gia vào tổ chức kinh tế hợp tác.
Bốn là: Nguyên tắc chia lãi bảo đảm kết hợp lợi ích của xã viên và sự phát triển
của hợp tác xã.
Nội dung của nguyên tắc này qui định hợp tác xã sau khi làm nghĩa vụ nộp thuế,
phần lãi còn lại sẽ được chia như sau: Trích một phần để tích lũy cho hợp tác xã, một
phần được chia theo vốn góp và công sức đóng góp của xã viên, phần còn lại chia cho xã
viên theo mức độ sử dụng dịch vụ của hợp tác xã do đại hội xã viên quyết định.
Năm là: Nguyên tắc hợp tác và phát triển cộng đồng.
Theo nguyên tắc này, HTX phải động viên xã viên phát huy tinh thần tập thể,
nâng cao ý thức hợp tác trong hợp tác xã và trong cộng đồng xã hội; khuyến khích hợp
tác giữa các hợp tác với nhau; giữa hợp tác xã với các thành phần kinh tế khác.
3.1.4. Phát triển kinh tế hợp tác phải phù hợp với điều kiện, tiềm năng, đặc
điểm của vùng ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh
Như trên đã nêu, ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh có nhiều điều kiện tự nhiên
thuận lợi cho phát triển nông nghiệp đa dạng, có vị trí là vành đai cho thành phố đông
dân nên kinh tế hợp tác cần phù hợp và phát huy được các điều kiện thuận lợi đó. Từ thực
tiễn nêu ở phần trên, theo chúng tôi, kinh tế hợp tác mà nòng cốt là HTX ở ngoại thành
thành phố Hồ Chí Minh nên là:
- Phát triển các đơn vị hợp tác trong các ngành nông nghiệp có tính chất cao cấp
như: trồng rau sạch, rau cao cấp, nuôi trồng cây, con cảnh. chăn nuôi gia súc, gia cầm
theo lối công nghiệp để lấy thịt, trứng, sữa.
- Kinh tế hợp tác thực hiện các dịch vụ kinh tế, kỹ thuật phục vụ cho các nông hộ
như dịch vụ kỹ thuật canh tác, dịch vụ vốn, dịch vụ đầu vào và dịch vụ bao tiêu đầu ra...
- Kinh tế hợp tác phải đa dạng về hình thức, có loại hợp tác "lỏng" với nhiều loại
hình tổ hợp tác, có loại là HTX cổ phần chặt chẽ.
3.2. Các giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế hợp tác ở các huyện ngoại
thành thành phố Hồ Chí Minh.
Xuất phát từ lợi thế là các huyện ngoại thành của một trung tâm thành phố (như
đã trình bày ở chương 2), trong quá trình lãnh đạo Đảng bộ thành phố đã nhận thức được
vị trí vai trò quan trọng của việc phát triển kinh tế nói chung cũng như việc phát triển
kinh tế hợp tác trong nông nghiệp nói riêng. Vì vậy, trong quá trình chỉ đạo thực tiễn lãnh
đạo thành phố luôn chú ý tập trung việc phát triển kinh tế hợp tác ở khu vực ngoại thành
nhằm đẩy mạnh sản xuất, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho nhân dân, góp phần
nâng cao đời sống và từng bước xây dựng nông thôn mới. Việc chỉ đạo triển khai Luật
hợp tác xã và các chủ trương chính sách của Đảng trong lĩnh vực nông nghiệp, đã được
lãnh đạo thành phố chú trọng. Với sự cố gắng của các cấp thành phố đã đạt được một số
kết quả song vẫn chưa tương xứng với tiềm năng nông nghiệp của các huyện ngoại thành,
sự đầu tư của nhà nước và nhân dân. Do đó, để đưa nông nghiệp ở ngoại thành phát triển
đạt được mức tăng trưởng cao, đi đôi với tăng cường phúc lợi xã hội, nhằm đưa sự
nghiệp văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế phát triển một bước mới trong thời gian tới, cần
phải thực hiện một số giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế hợp tác.
3.2.1. Tổ chức định hướng, điều chỉnh nhu cầu hiệp tác, từng bước tạo lập
hoàn thiện những điều kiện cho quá trình hình thành, củng cố kinh tế hợp tác
Nền tảng cho sự hình thành, phát triển các mô hình hợp tác là nhu cầu hiệp tác
sản xuất của các hộ, các đơn vị. Do vậy mức độ, nội dung, nhu cầu cũng như trình độ
thỏa mãn các nhu cầu hiệp tác quyết định khả năng phát triển các hình thức hợp tác và
nhu cầu hiệp tác của các hộ là điều kiện cần cho việc ra đời, củng cố, phát triển các đơn
vị hợp tác.
Thực tế quá trình hợp tác hóa nông nghiệp ở ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh
cho thấy, nhu cầu, động cơ tham gia hợp tác rất phức tạp như phần thực trạng đã nêu. Có
những nhu cầu không đúng với nội dung,trở thành nhu cầu sai lạc và từ đó,việc tham gia
vào hợp tác xã chỉ để thực hiện một mục đích nào khác (như được phân đất) và các HTX
được xây dựng trên nền tảng này sẽ không thể đứng vững. Trong những trường hợp khác,
mức độ nhu cầu chưa đủ lớn, chưa đủ tạo động lực để mọi người quan tâm, tha thiết với
HTX, do vậy, HTX chưa có cơ hội phát triển, phát huy vai trò mặc dù có chính sách
đúng.
Để kinh tế hợp tác phát triển theo mục tiêu chất lượng, hiệu quả, thực hiện đúng
vai trò của nó trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội cần giải quyết một vấn đề căn
bản: Định hướng, điều chỉnh nhu cầu hợp tác cho đúng với yêu cầu, qui luật để từ đó, tạo
động lực nền tảng phát triển hệ thống kinh tế hợp tác.
Sự hình thành, phát triển các hình thức hợp tác không chỉ dựa trên nền tảng nhu
cầu hợp tác sản xuất, chuyển hóa nó thành nhu cầu tham gia các hình thức hợp tác mà
còn dựa vào những điều kiện về tinh thần, vật chất nhất định.
Việc có điều kiện tinh thần xuất phát từ đặc điểm của nông dân Việt Nam nói
chung, thành phố nói riêng. Trước đây, việc vận động nhân dân tham gia hợp tác xã dựa
trên lòng yêu nước thì ngày nay dựa trên cơ sở lòng tin cậy lẫn nhau giữa các thành viên
tham gia. Đây là tính đặc thù về mặt tâm lý còn tồn tại của nông dân ngoại thành: đa số
mọi người rất ngại thực hiện quan hệ hiệp tác, tham gia vào tổ chức hiệp tác với những
người chưa hiểu, chưa tin. Do đó lòng tin dựa trên cơ sở thân tộc, xóm giềng, bằng hữu
chiếm vai trò không nhỏ trong việc đảm bảo sự tồn tại của hợp tác. Có sự tin cậy lẫn
nhau, mỗi người sẽ đem hết tiềm năng của mình cống hiến cho sự nghiệp của đơn vị hợp
tác mà không cần so sánh. Đây là đặc tính Nam bộ cần phát huy. Ngược lại, nếu không
tin nhau thì việc tham gia hợp tác xã chỉ là hình thức, không có động lực. Như vậy sự tin
nhau đã tạo động lực tinh thần cho sự hình thành các quan hệ hợp tác và đặc biệt, nối kết
các thành viên tham gia để tạo sức mạnh, tiềm lực cho hoạt động hợp tác.
Điều kiện vật chất lại có những nội dung vật chất cụ thể phù hợp
với yêu cầu tổ chức hoạt động của các hợp tác xã trên các lĩnh vực khác nhau. Đó là các
điều kiện về vốn, tài sản, thiết bị, trình độ khoa học - công nghệ v.v... Đây là các yếu tố
đầu vào để đảm bảo hoạt động của hợp tác xã với tính cách là thực thể kinh tế, doanh
nghiệp. Trong thực tế, điều kiện vật chất do các chủ thể tham gia xây dựng ban đầu và
được phát triển qua quá trình hoạt động. Tuy nhiên, vai trò của các tổ chức tín dụng, các
đơn vị thương mại, kỹ thuật cũng rất quan trọng ở các nội dung hỗ trợ vật chất hoặc cung
cấp thông tin để hoàn thiện hơn điều kiện vật chất. Đó là hoạt động hỗ trợ nhằm tạo động
lực vật chất cho quá trình phát triển hợp tác xã mà nhà nước phải thực hiện.
Để thực hiện nội dung định hướng, điều chỉnh nhu cầu hiệp tác, hoàn thiện
những điều kiện cho quá trình hình thành, củng cố kinh tế hợp tác cần thực hiện các giải
pháp:
- Tăng cường công tác giáo dục truyền thống về kinh tế hợp tác để mọi đối tượng
hiểu rõ hơn về mô hình pháp lý hợp tác xã, xác định đúng vai trò thực sự của hợp tác xã;
những nhiệm vụ, quyền lợi mà mỗi thành viên tham gia. Thông qua đó tạo điều kiện cho
mọi người chủ động được hoạt động của mình trong quá trình tham gia hợp tác xã.
- Phát triển các hoạt động hỗ trợ để tăng qui mô, hiệu quả sản xuất của kinh tế hộ,
tạo tiền để cho việc hình thành các nhu cầu hiệp tác. Nâng qui mô hoạt động của các hộ
đủ lớn để hình thành nhu cầu hiệp tác trong quan hệ chuyên môn hóa và phụ thuộc vào
các yếu tố: thị trường, tiềm năng tài chính v.v... Như vậy giải pháp để thực hiện vấn đề
này chính là các giải pháp để phát triển kinh tế hộ, kinh tế trang trại.
- Tuyên truyền, nhân rộng các mô hình hợp tác xã điển hình để mỗi người có cơ
sở thực tiễn so sánh, lựa chọn phương án thực hiện dịch vụ từ bên ngoài hoặc từ HTX.
Giải pháp này là cơ sở về mặt nhận thức chuyển hóa từ nhu cầu hiệp tác sản xuất
sang nhu cầu tham gia hợp tác và tiến tới gia nhập hợp tác xã để giải quyết những nhu
cầu hiệp tác phát sinh. Nhu cầu này còn dựa trên cơ sở kết quả hạch toán chi phí thực
hiện dịch vụ của các hộ cho nên việc định hướng nhu cầu được thực hiện theo hai hướng:
+ Hình thành các trung tâm đảm bảo thực hiện dịch vụ hiệu quả để tập hợp các
thành viên có khả năng tham gia. Các trung tâm này có thể là các doanh nghiệp tiêu thụ
sản phẩm, cung ứng dịch vụ, có khả năng thu hút sự quan tâm của mọi người. Từ đó hình
thành mô hình hợp tác dựa trên cơ sở liên kết.
+ Nhân rộng, phổ biến kinh nghiệm của các hợp tác xã hoạt động có hiệu quả,lấy
đó làm mô hình thực tế để mọi người tham gia xây dựng hợp tác mới hoặc tham gia vào
các hợp tác xã đang hoạt động có hiệu quả.
Việc tạo các điều kiện vật chất, tinh thần được thực hiện bằng các giải pháp:
- Chú trọng phát triển các hình thức hợp tác dựa trên cơ sở các quan hệ thân tộc,
xóm giềng, bằng hữu trong các thôn, ấp. Đây là các đơn vị hợp tác có sự tin cậy lớn giữa
các thành viên tham gia, mâu thuẫn trong nội bộ ít xảy ra nên có độ ổn định trong hoạt
động cao. Hạn chế những tổ chức hợp tác được thành lập theo phong trào, bộ máy quản
lý được xây dựng theo chỉ định hoặc có sự can thiệp trực tiếp của chính quyền. ở đây, vấn
đề nhân sự của hợp tác với tính chất là đơn vị kinh doanh dịch vụ có quyền tự chủ phải
do mọi người thực sự quyết định.
- Đảm bảo việc tham gia tự nguyện nhưng có điều kiện của mọi đối tượng tham
gia vì hợp tác xã không phải là phong trào để tập hợp mọi đối tượng với mọi mục đích,
mục tiêu khác nhau. HTX là một thực thể kinh tế, một doanh nghiệp nên mọi đối tượng
tham gia phải hội đủ những điều kiện và những điều kiện này do bản thân HTX xác định
theo luật.
- Để tạo điều kiện vật chất, Nhà nước ngay từ đầu có những hoạt động hỗ trợ
vốn, thông tin, lao động v.v... để hợp tác xã có thể hình thành những điều kiện tài sản,
thiết bị, vốn... tương ứng với nội dung hoạt động cần thiết của hợp tác xã. Đồng thời,
cũng cần có những cơ quan tư vấn
về các nội dung tổ chức, kinh tế, kỹ thuật cho hợp tác xã theo yêu cầu
thành lập.
3.2.2. Tổ chức qui hoạch, sắp xếp lại hệ thống các đơn vị kinh tế hợp tác trên
địa bàn nhằm đạt mục tiêu chất lượng, hiệu quả
Việc hình thành các đơn vị hợp tác được dựa trên cơ sở tự nguyện nhưng ở tầm
vĩ mô việc phát triển hệ thống các đơn vị hợp tác và đảm
bảo khả năng thực hiện vai trò của nó trong quá trình phát triển nông nghiệp không thể là
quá trình tự thân vận động, tự phát. Để kinh tế hợp
tác phát triển, thúc đẩy nền nông nghiệp hàng hóa thì rất cần sự chỉ đạo của Nhà nước.
Vai trò của nhà nước không chỉ đơn giản đảm bảo sự vận động của hệ thống đơn
vị hợp tác mà quan trọng hơn là đảm bảo yêu cầu sử dụng hiệu quả các nguồn lực: Lao
động, vốn, đất đai cho quá trình phát triển. Do đó, toàn bộ quá trình phát triển hệ thống
hợp tác cần đặt trong sự chỉ đạo, qui hoạch nhà nước trên cơ sở kế hoạch phát triển kinh
tế trên địa bàn các huyện ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh.
Hệ thống qui hoạch chi phối sự phát triển kinh tế hợp tác bao gồm:
- Qui hoạch phát triển các đơn vị kinh tế hợp tác theo đặc điểm kinh tế - xã hội
của vùng, theo nội dung cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Qui hoạch chuyển tiếp các đơn vị hợp tác từ thấp đến cao theo trình độ, qui mô
hoạt động theo yêu cầu.
- Qui hoạch đào tạo, bồi dưỡng lao động, qui hoạch công nghệ triển khai v.v...
Cùng với qui hoạch, cần tổ chức, sắp xếp lại hệ thống các đơn vị hợp tác theo
nguyên tắc loại thải các hợp tác xã không có khả năng hoạt động hiệu quả; tiếp tục hỗ trợ,
khuyến khích các hợp tác xã làm ăn tốt hoặc đang phát huy vai trò trong các ngành, các
lĩnh vực phát triển nông nghiệp, nông thôn. Nội dung tổ chức sắp xếp lại bao gồm:
- Nhà nước có biện pháp tiến hành xóa bỏ các hợp tác xã chuyển đổi, các hợp tác
xã kiểu mới không hoạt động hiệu quả.
- Nhà nước từng bước thực hiện sự tác động để dần hình thành hệ thống ngành
dọc của hợp tác xã theo mô hình cơ cấu nhiều tầng: cơ sở, quận, huyện, thành phố theo
hướng chuyên môn hóa các hoạt động tổ chức sản xuất, quản lý. Hệ thống này sẽ dần
đảm nhiệm những vấn đề chiến lược trong sự nghiệp phát triển kinh tế hợp tác như: định
hướng các hoạt động sản xuất, thị trường, đào tạo cán bộ, lao động v.v...
3.2.3. Tiến hành tổng kết, củng cố, phát triển và nhân rộng những mô hình
hợp tác trong nông nghiệp có hiệu quả
Đây là yêu cầu cấp thiết, vì trên cơ sở tổng kết các mô hình kinh tế hợp tác hiện
có mới tìm ra những mô hình kinh tế hợp tác sản xuất phù hợp, qua đó tạo điều kiện để
Nhà nước có các chính sách hỗ trợ, giúp đỡ cho kinh tế hợp tác phát triển xuất phát từ nhu
cầu nội sinh của kinh tế hộ nông dân.
Tuy nhiên, trong quá trình tiến hành tổng kết các mô hình kinh tế hợp tác hiện có,
phải có quan điểm đúng đắn khách quan để phân tích, chỉ rõ những mặt tốt, những hạn
chế và những nguyên nhân của nó, rút kinh nghiệm để hoàn thiện các mô hình kinh tế ấy.
Các việc phải làm là:
Một là: Cần tiến hành lựa chọn một số hợp tác xã nông nghiệp điển hình, tiến
hành tổng kết về tổ chức và phương thức hoạt động, từ đó nhân rộng ra trên địa bàn theo
phương châm thận trọng, coi trọng chất lượng. Ví dụ như mô hình hợp tác xã dịch vụ -
chăn nuôi bò sữa ở Xuân Lộc - Thạnh Lộc (Hóc Môn); mô hình hợp tác xã dịch vụ sản
xuất rau an toàn Tân Phú Trung (Củ Chi)... Bởi lẽ nông dân thường chỉ dựa vào những
điều tai nghe, mắt thấy. Sức hấp dẫn, lôi cuốn nông dân là ở chất lượng hiệu quả hoạt
động của các hợp tác xã chứ không phải là ở những lời hứa, hay những khẩu hiệu hùng
hồn.
Hai là: Tiếp tục quán triệt nội dung của Luật hợp tác xã và các Nghị định của
Chính phủ về hợp tác xã để tuyên truyền, vận động thành lập các hợp tác xã nông nghiệp.
ở đây chúng ta phải tạo được sự thống nhất trong nhận thức về đổi mới kinh tế hợp tác
đối với cán bộ các ngành, các cấp và nông dân. Điều này có ý nghĩa to lớn đối với quá
trình phát triển nông nghiệp, nông thôn hiện nay. Bởi lẽ, chỉ có trên cơ sở thống nhất về
nhận thức mới thống nhất được về hành động.
Do đó, cần mở nhiều những lớp tập huấn về các mô hình hợp tác xã kiểu mới,
với nội dung ngắn gọn, súc tích theo từng chủ đề và lồng ghép trong phổ biến công tác
khuyến nông; mặt khác, cần kịp thời tổng kết, phổ biến những kinh nghiệm của các hợp
tác xã điển hình, tổ chức các cuộc tham quan một số đơn vị trong và ngoài huyện (kể cả
tỉnh bạn) thậm chí chọn những nông dân xuất sắc cho đi tham quan ở nước ngoài (như
Cần Thơ đưa 3 nông dân sản xuất giỏi sang Nhật tham quan - do Giáo sư Tiến sĩ Võ
Tòng Xuân dẫn đi) là những việc làm có ý nghĩa thiết thực động viên tuyên truyền để
thúc đẩy kinh tế hợp tác ngoại thành thành phố phát triển trong thời gian tới.
Ba là: Tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động và thúc đẩy việc hình thành các tổ
hợp tác kiểu mới vì đây chính là tiền đề, là cơ sở vững chắc để tiếp tục xây dựng, tổ chức
và phát triển lên hợp tác xã nông nghiệp trong tương lai.
3.2.4. Nhà nước thực hiện sự hỗ trợ - giúp đỡ về vốn cho các loại hình kinh
tế hợp tác
Để phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, các hợp tác xã
và các hộ nông dân cần có một khối lượng vốn đầu tư lớn. Nhưng nông dân các huyện
ngoại thành thành phố - những vùng căn cứ cách mạng đã cống hiến cho cách mạng cả
tiền của và con người trong hai thời kỳ kháng chiến của đất nước đều là những hộ nghèo,
đời sống còn nhiều khó khăn, rất thiếu vốn để sản xuất. Vì thế, cần có sự giúp đỡ về vốn
của nhà nước và các tổ chức xã hội. Để giải quyết tốt vấn đề vốn cần quan tâm đến các
vấn đề sau:
Một là: Cần tập trung, thống nhất quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với các nguồn
vốn trong nông nghiệp nói chung và trong kinh tế hợp tác nông nghiệp nói riêng. Xóa bỏ
tình trạng nhiều đầu mối, nhiều nấc thang trung gian trong quản lý vốn. Tốt nhất là đưa
vốn vay đến tận tay các hộ xã viên thông qua hệ thống ngân hàng nông nghiệp.
Phương thức cho vay có hiệu quả hiện nay là ngân hàng cần kết hợp chặt chẽ với
Ban quản lý các hợp tác xã nông nghiệp, qua đó mà nắm chắc thực lực của từng hộ xã
viên và có cách thức cho vay thích hợp. Hợp tác xã cũng là đầu mối giúp ngân hàng thu
hồi vốn, giảm những khoản nợ dây dưa khó đòi của hộ nông dân nghèo.
Hiện nay, ở ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh vấn đề vốn hỗ trợ cho những hộ
xã viên nghèo là yêu cầu bức xúc, cần được giải quyết thỏa đáng để góp phần tích cực đối
với tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Một thực tế hiện nay là cho các
hộ xã viên nghèo vay có thể không đạt hiệu quả cao như cho các hộ giàu vay, nhưng nó
lại có hiệu quả cao về mặt xã hội, đạt yêu cầu tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và
công bằng xã hội.
Hai là: Cải cách thủ tục cho vay. Thời gian cho vay phải phù hợp theo chu kỳ
sinh trưởng của cây trồng vật nuôi.
Vốn của các hợp tác xã ít, số đọng nợ trong xã viên nhiều, thu hồi chậm, thậm
chí có một số khó thu hồi (số nợ này lên đến 900 triệu). Vốn góp của xã viên lại rất thấp
(hầu hết từ 70.000 đồng đến 250.000 đồng) nên mỗi hợp tác xã chỉ có nguồn vốn góp từ
10 triệu đến 50 triệu. Rất ít hợp tác xã có số vốn góp cao hơn. Một số xã viên lại chưa tự
nguyện góp đủ vốn. Vì thế, hợp tác xã không có vốn để hoạt động dịch vụ, hỗ trợ cho xã
viên. Các hợp tác xã đang trông chờ sự giúp sức của ngân hàng, sự trợ vốn của các dự án
chương trình sản xuất của thành phố và các tổ chức xã hội.
Trước hết, để giúp đỡ đối với những hợp tác xã nông nghiệp mới, điển hình đang
hoạt động có hiệu quả kinh tế cao hoặc những hợp tác xã nông nghiệp có dự án tốt, có
tính khả thi về sản xuất chế biến, có điều kiện đổi mới thiết bị, xây dựng nội đồng, ứng
dụng công nghệ sinh học về giống, cây, con.. thì cần có chính sách ưu tiên, ưu đãi về lãi
suất cũng như thời hạn vay nhất định để hợp tác xã có thời gian hoàn vốn. Giai đoạn
trước mắt, tiếp tục thực hiện tốt Quyết định 67 của Thủ tướng Chính phủ về việc hỗ trợ
cho nông dân vay 10 triệu đồng trở xuống không phải thế chấp. Cần cải cách thủ tục cho
vay. Cán bộ ngân hàng phải nắm rõ cây trồng, vật nuôi của kinh tế hợp tác nông nghiệp
mới có thể tham gia thẩm định dự án một cách chính xác. Nếu thấy khả thi phải đề xuất
ngân hàng cho vay bổ sung khi chủ dự án có nhu cầu.
Hiện nay, các huyện ngoại thành, đặc biệt là các huyện Củ Chi, Hóc Môn, Bình
Chánh, phong trào chăn nuôi bò sữa phát triển rất mạnh - và là hướng sản xuất chủ yếu
trong nông nghiệp của thành phố trong tương lai. Do đó nhu cầu về vốn đối với các mô
hình kinh tế hợp tác là rất lớn. Đề nghị lãnh đạo thành phố cũng như ngân hàng cần có sự
quan tâm chỉ đạo, giúp đỡ để kinh tế hợp tác ngành chăn nuôi bò sữa phát triển tốt.
Ba là: cần xây dựng một cơ chế giám sát, kiểm tra chặt chẽ các đầu mối hỗ trợ
vốn cho nông dân sản xuất nhằm loại trừ được hai hiện tượng sau:
+ Hiện tượng lợi dụng việc hỗ trợ vốn xoay vòng ưu tiên cho người thân, dòng
họ... khiến vốn không đến được người sản xuất cần vốn.
+ Hiện tượng "ban ơn", "lót tay" xảy ra khá phổ biến, làm hao hụt số vốn khi đến
tay người vay.
Việc phát triển các hợp tác xã tín dụng, mở rộng quỹ tín dụng nhân dân phục vụ
sản xuất đang có tác dụng tích cực trong việc thu hút vốn tại chỗ để đáp ứng nhu cầu vay
vốn của các hộ nhằm phát triển sản xuất, cần được phát huy và cần có một cơ chế quản lý
thích hợp nhằm hạn chế những tiêu cực có thể xảy ra, góp phần ổn định, thúc đẩy sản
xuất ở nông thôn phát triển.
Bên cạnh những giải pháp trên về vốn, Nhà nước cũng nên tạo điều kiện cho các
tổ chức kinh tế hợp tác được tiếp nhận và thực hiện các dự án đầu tư từ các nguồn vốn,
khoản viện trợ của các nước, các tổ chức quốc tế để tăng cường khả năng vật chất đáp
ứng nhu cầu phục vụ nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh.
3.2.5. Không ngừng quan tâm phát triển hoạt động đào tạo cán bộ quản lý,
cán bộ khoa học kỹ thuật và mở mang dân trí ở nông thôn
Đây là vấn đề có ý nghĩa to lớn đối với việc tồn tại và phát triển của các hợp tác
xã. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: Cái chìa khóa của việc phát triển nông nghiệp là chỉnh đốn
Ban quản trị hợp tác xã.
Tuy trong những năm qua đã có một số cán bộ quản lý giỏi, nhưng nhìn chung
đội ngũ cán bộ HTX còn thiếu về số lượng, kém về chất lượng so với yêu cầu thực tế
đang đặt ra. Vì vậy, tăng cường công tác đào tạo đội ngũ cán bộ cho các hợp tác xã nông
nghiệp hiện nay là vấn đề cấp bách.
Mặt khác, muốn thúc đẩy kinh tế hợp tác phát triển trong nông nghiệp, phải đẩy
mạnh việc áp dụng khoa học công nghệ mới, sử dụng
các loại giống mới cho năng suất cao, sử dụng các loại phân bón hợp lý... Điều đó chỉ có
thể thực hiện khi người nông dân được mở mang trình độ dân trí thông qua việc tuyên
truyền giáo dục khoa học, kỹ thuật trên các phương tiện thông tin đại chúng để mọi tầng
lớp nông dân đều được tiếp thu và áp dụng vào việc tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu
quả. Nhưng để thực hiện được những nội dung trên, thành phố cần ưu tiên một số việc
sau đây:
+ Trích từ ngân sách của thành phố một phần kinh phí để đào tạo cán bộ và xác
định đây là khoản đầu tư cần thiết cho phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Thành phố cần xúc tiến nhanh việc hoàn thành các thủ tục để tiến hành xây dựng
trường Trung học nghiệp vụ quản lý hợp tác xã trong thời gian tới.
+ Qui hoạch đối tượng đào tạo, bồi dưỡng không chỉ cho những cán bộ quản lý,
cán bộ chuyên môn nghiệp vụ của hợp tác xã nông nghiệp hiện có mà cả cho một lực
lượng cán bộ quản lý kế cận, đặc biệt là con em của các hộ xã viên để tạo nguồn trong
tương lai.
+ Với cán bộ kế toán hợp tác xã, phải có nhiều hình thức đào tạo để sớm hoàn
thành nghiệp vụ tài chính cho họ, đồng thời cần hướng dẫn hệ thống sổ sách chứng từ và
các qui định chế độ báo cáo kiểm tra, kiểm soát các hoạt động kinh tế tài chính của hợp
tác xã cho số cán bộ này.
Việc đào tạo cán bộ cho các hợp tác xã nông nghiệp ở các huyện ngoại thành là
quan trọng và cấp bách, cần có sự giúp đỡ của thành phố và các ban ngành. Tuy nhiên, để
có cán bộ quản lý hợp tác xã giỏi cần có cơ chế lựa chọn để các nông dân, xã viên lẫn
những người có năng lực, có phẩm chất, có kinh nghiệm trở thành quản lý hợp tác xã. Cơ
chế này sẽ tạo ra những cán bộ quản lý thực sự có tâm huyết, gắn bó với hợp tác xã và
góp phần phát triển phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, nông thôn.
3.2.6. Tổ chức xây dựng, thực hiện chính sách đầu tư và bảo trợ cho nông
nghiệp
Muốn phát triển sản xuất nông nghiệp, nâng cao đời sống của nhân dân, góp
phần xây dựng nông thôn mới thì thành phố cần phải có sự đầu tư tương xứng với vị trí
và yêu cầu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Trước hết, thành phố cần tập trung đầu tư vào
lĩnh vực kết cấu hạ tầng - phục vụ sản xuất, đồng thời, phải có chính sách bảo hộ cho một
số mặt hàng quan trọng khi có sự biến động lớn trên thị trường. Đây là một vấn đề lớn,
thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng bộ thành phố đối với nông dân và nông nghiệp -
Phương án tốt nhất là Nhà nước thông qua các tổ chức kinh tế hợp tác trong nông nghiệp
làm đầu mối để thực hiện các chính sách đó.
Các huyện ngoại thành thành phố hiện nay là những vùng căn cứ địa của cách
mạng trước đây như Hóc Môn, Củ chi, Bình Chánh... vốn có truyền thống anh dũng, nơi
tập trung đông những gia đình đã có nhiều công lao đóng góp cả sức người, sức của cho
sự nghiệp cách mạng (nơi tập trung 454/649 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng; 20.199/ 38.581
liệt sĩ của toàn thành phố) [29]. Vì thế việc thực hiện đầu tư và bảo trợ cho nông nghiệp ở
ngoại thành không chỉ có ý nghĩa bảo trợ và bảo hiểm cho sản xuất nông nghiệp, tăng thu
nhập cho nông dân; mở rộng thị trường nông thôn góp phần thúc đẩy công nghiệp và
nông nghiệp phát triển mà còn có ý nghĩa to lớn về mặt xã hội: góp phần xóa dần khoảng
cách giàu nghèo giữa các vùng ngoại thành với nội thành, làm cho người dân yên tâm
bám ruộng đất sản xuất, giảm bớt sức ép về giải quyết việc làm từ ngoại thành vào nội
thành, thực hiện tốt chính sách xã hội.
Kết luận
1. Khi nghiên cứu sản xuất giá trị thặng dư tương đối, C.Mác đã chỉ ra hợp tác
giản đơn có vai trò to lớn, góp phần nâng cao năng suất lao động, bởi vì, thông qua
hợp tác lao động mà sức mạnh của lao động tập thể được phát huy; sử dụng hợp lý và
có hiệu quả hơn tư liệu sản xuất; thông qua hợp tác lao động làm nảy sinh thi đua
trong sản xuất góp phần thúc đẩy tăng năng suất lao động, hợp tác tạo nên sức mới,
sức lao động tập thể; và hợp tác lao động cho phép mở rộng hay thu hẹp không gian
một cách phù hợp theo yêu cầu của từng công việc cụ thể tạo nên hiệu quả kinh tế cao.
2. Trong sản xuất nông nghiệp do có những nét đặc thù đã làm ảnh hưởng đến
hợp tác lao động, làm cho KTHT vừa tuân theo những quy luật chung, vừa có những nét
đặc thù riêng. Những nét đặc thù của sản xuất nông nghiệp đã tạo cho người nông dân có
những ưu thế trong quá trình sản xuất của mình: Vì họ là người am hiểu, gắn bó chặt chẽ
với cây trồng, vật nuôi. Họ là người trực tiếp tổ chức thực hiện, gắn trách nhiệm đối với
toàn bộ quá trình canh tác. Mặt khác, họ còn là những người có tính tự nguyện, tự giác
cao lại được vận dụng một cách hợp lý vào sản xuất trên ruộng đất thuộc quyền sử dụng
của mình.
Nhưng trong sản xuất nông nghiệp, hộ nông dân cũng bộ lộ những hạn chế nhất
định mà họ không thể giải quyết hoặc làm không có hiệu quả: như vấn đề vốn, thủy lợi,
cung ứng vật tư, dịch vụ kỹ thuật, tiêu thụ sản phẩm... Chỉ có thông qua hợp tác giữa các
hộ với nhau mới có điều kiện phát huy những ưu thế, cũng như khắc phục những mặt hạn
chế để sản xuất nông nghiệp một cách có hiệu quả.
Như vậy, nhu cầu hợp tác trong nông nghiệp là tất yếu khách quan - nó bắt nguồn
từ yêu cầu của quá trình sản xuất nông nghiệp và từ sự hạn chế của nông dân. Mô hình
HTX nông nghiệp cũ trước đây sở dĩ không phát huy được ưu thế của hợp tác lao động
bởi lẽ nó không tôn trọng tính tự chủ và lợi ích thiết thân của người nông dân; không tuân
thủ những điều kiện cơ bản để phát huy ưu thế của hợp tác lao động và những nguyên tắc
khi tiến hành hợp tác hóa. Mô hình kinh tế hợp tác mà nòng cốt là HTX kiểu mới.
Để khắc phục được những nhược điểm của mô hình kiểu cũ, sự ra đời và phát
triển của KTHT kiểu mới trong nông nghiệp là một tất yếu. Tuy nhiên, sự phát triển của
KTHT bị tác động bởi rất nhiều các nhân tố khác nhau: Trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất, sự tác động về mặt vĩ mô của nhà nước. Mức độ phát triển của thị trường và sự
nhận thức của hộ nông dân về KTHT...
3. Từ năm 1996 đến nay, dưới sự chỉ đạo của thành phố, các huyện đã tiến hành
củng cố, chuyển đổi và đăng ký thành lập mới cho HTX theo nội dung Luật HTX quy
định. Qua quá trình chuyển đổi, một số HTX đã đứng vững, ổn định và hoạt động có hiệu
quả, một số hoạt động kém hiệu quả phải giải thể. Đặc biệt đã xuất hiện một số mô hình
mới (tuy thời gian còn ngắn để khẳng định) nhưng đó là những mô hình làm ăn có hiệu
quả và có triển vọng trong tương lai, đó là các mô hình HTX dịch vụ chăn nuôi bò sữa,
HTX trồng rau sạch... Tuy vậy, việc phát triển KTHT nông nghiệp ở các huyện ngoại
thành cũng còn gặp nhiều khó khăn về vốn sản xuất, về cơ sở vật chất kỹ thuật, về trình
độ cán bộ quản lý, do sự tác động của quá trình đô thị hóa, lao động trẻ ở nông thôn đi ra
thành phố (trung tâm) tìm kiếm việc làm ngày càng tăng...
4. Để củng cố, phát triển và nhân rộng các mô hình KTHT kiểu mới có hiệu quả
cần nắm vững nội dung định hướng phát triển nông nghiệp, đó là: phát triển KTHT phải
phù hợp với hình thức, mức độ yêu cầu cấp thiết của hộ nông dân; phát triển KTHT phải
phù hợp với quy luật kinh tế khách quan và phải có sự tác động, hỗ trợ của nhà nước;
phát triển KTHT phải trên cơ sở đảm bảo các nguyên tắc hợp tác hóa; phát triển kinh tế
hợp tác phải phù hợp với đặc điểm, điều kiện, nhu cầu của kinh tế nông nghiệp ngoại
thành thành phố Hồ Chí Minh; phải đa dạng hóa KTHT.
Trên cơ sở các phương hướng đó, cần có nhiều giải pháp để đẩy mạnh KTHT.
Đó là: từng bước tạo lập, hoàn thiện những điều kiện cho quá trình hình thành, củng cố
KTHT. Tổ chức quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống các đơn vị KTHT trên địa bàn nhằm
thực hiện nội dung phát triển theo chất lượng - hiệu quả; tiến hành tổng kết, củng cố, phát
triển nhân rộng những mô hình hợp tác trong nông nghiệp có hiệu quả; Nhà nước thực
hiện sự hỗ trợ về vốn cho các loại hình KTHT; đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ khoa học -
kỹ thuật và mở mang dân trí ở nông thôn, tổ chức xây dựng thực hiện chính sách đầu tư
bảo trợ cho sản xuất nông nghiệp.
Thực hiện tốt những phương hướng và các giải pháp ở trên, thường xuyên tổ
chức tổng kết, rút kinh nghiệm, học tập kinh nghiệm từ các tỉnh bạn và trên thế giới, nhất
định KTHT trong nông nghiệp ở ngoại thành
TP. Hồ Chí Minh phát triển mạnh mẽ nhằm đẩy mạnh kinh tế thành phố.
danh mục Tài Liệu THAM Khảo
[1]. Báo Người lao động, ngày 7-8-2000, Con số về các xã phường nghèo nhất ở thành
phố.
[2]. Báo Nhân Dân, ngày 25-5-1996, Chỉ thị của Ban Bí thư về phát triển kinh tế hợp
tác.
[3]. Báo Nhân Dân, ngày 2-10-1996, Đổi mới hợp tác xã nông nghiệp.
[4]. Báo Nhân Dân, ngày 8-8-1997, Về các hình thức tổ chức kinh tế hợp tác đa dạng
ở nông thôn.
[5]. Báo Sài Gòn giải phóng, ngày 15-9-1998, Vốn cho nông nghiệp là vấn đề bức xúc.
[6]. Báo Sài Gòn giải phóng, ngày 27-9-1999, Giải pháp phát triển toàn diện nông
nghiệp - nông thôn đồng bằng sông Cửu Long.
[7]. Nguyễn Văn Bính, Bàn về kinh tế hợp tác và hợp tác xã. Tạp chí Kinh tế và dự
báo, tháng 1/1996.
[8]. Nguyễn Văn Bính, Các hình thức kinh tế hợp tác nông nghiệp, nông thôn và vai
trò quản lý của chính quyền cấp xã. Tạp chí Cộng sản, tháng 11/1995.
[9]. Trần Ngọc Bút, Xu hướng đổi mới hợp tác xã nông nghiệp. Tạp chí Kinh tế và dự
báo, tháng 6/1996.
[10]. Trần Đức, Các loại hình kinh tế hợp tác trong nông thôn. Tạp chí Lịch sử, tháng
2/1996.
[11]. Lâm Quang Huyên, Kinh tế hộ và kinh tế hợp tác trong nông nghiệp. Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội, 1995.
[12]. Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long - lý luận
và thực tiễn. Nxb TP. Hồ Chí Minh, 1998.
[13]. Kinh tế hộ trong nông thôn Việt Nam. Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1995.
[14]. Chử Văn Lâm, Hợp tác hóa nông nghiệp Việt Nam. Lịch sử - vấn đề - triển vọng.
Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1992.
[15]. V.I. Lênin, Toàn tập, tập 38. Nxb Tiến Bộ, Mátxcơva, 1977.
[16]. V.I. Lênin, Toàn tập, tập 42. Nxb Tiến Bộ, Mátxcơva, 1978.
[17]. V.I. Lênin, Toàn tập, tập 43. Nxb Tiến Bộ, Mátxcơva, 1978.
[18]. V.I. Lênin, Toàn tập, tập 45. Nxb Tiến Bộ, Mátxcơva, 1978.
[19]. Luật Hợp tác xã. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
[20]. C.Mác - Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 22. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
[21]. C.Mác - Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993.
[22]. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
[23]. Niên giám thống kê thành phố Hồ Chí Minh 1990.
[24]. Niên giám thống kê thành phố Hồ Chí Minh 1995.
[25]. Niên giám thống kê thành phố Hồ Chí Minh 1996.
[26]. Niên giám thống kê thành phố Hồ Chí Minh 1997.
[27]. Niên giám thống kê thành phố Hồ Chí Minh 1998.
[28]. Niên giám thống kê thành phố Hồ Chí Minh 1999.
[29]. Sài Gòn - Chợ Lớn Gia Định kháng chiến 1945 - 1975. Nxb thành phố Hồ Chí
Minh, 1994.
[30]. Đào Thế Tuấn, Khảo sát các hình thức tổ chức hợp tác của nông dân nước ta hiện
nay. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
[31]. Lê Xuân Tùng - Lưu Văn Sùng, Chế độ kinh tế hợp tác xã - những vấn đề lý luận và
giải pháp thực tiễn. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
[32]. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI. Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1987.
[33]. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII. Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1991.
[34]. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII. Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1996.
[35]. Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương (khóa VII), 1993.
Mục lục
Trang
Mở đầu 1
Ch-¬ng 1: tính tất yếu và những nhân tố tác động đến sự ra
đời và phát triển kinh tế hợp tác trong nông
nghiệp
4
1.1. Những đặc trưng của kinh tế hợp tác trong nông nghiệp 4
1.2. Sù ra ®êi vµ nh÷ng ®Æc tr-ng c¬ b¶n cña kinh tế hợp tác
kiểu mới trong nông nghiệp
8
1.3. Những nhân tố cơ bản tác động đến sự hình thành và phát
triển của kinh tế hợp tác trong nông nghiệp
16
Ch-¬ng 2: thực trạng kinh tế hợp tác ở các huyện ngoại
thành thành phố hồ chí minh
24
2.1. §Æc ®iÓm t×nh hình kinh tế - xã hội 24
2.2. Thực trạng của kinh tế hợp tác ở ngoại thành thành phố Hồ
Chí Minh
27
2.3. Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế hợp tác ở các huyện
ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh
45
Ch-¬ng 3: Phương hướng và những giải pháp phát triển kinh tế
hợp tác trong nông nghiệp ở ngoại thành thành
phố hồ chí minh
53
3.1. Phương hướng phát triển kinh tế hợp tác nông nghiệp ngoại
thành thành phố Hồ chí Minh theo tư duy mới
53
3.2. Các giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế hợp tác ở các 56
huyện ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh
3.2.1. Tổ chức định hướng, điều chỉnh nhu cầu hiệp tác, từng bước
tạo lập hoàn thiện những điều kiện cho quá trình hình thành,
củng cố kinh tế hợp tác
57
3.2.2. Tổ chức quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống các đơn vị kinh tế
hợp tác trên địa bàn nhằm đạt mục tiêu chất lượng, hiệu quả
61
3.2.3. Tiến hành tổng kết, củng cố, phát triển và nhân rộng những
mô hình hợp tác trong nông nghiệp có hiệu quả
62
3.2.4. Nhà nước thực hiện sự hỗ trợ - giúp đỡ về vốn cho các loại
hình kinh tế hợp tác
63
3.2.5. Không ngừng quan tâm phát triển hoạt động đào tạo cán bộ
quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật và mở mang dân trí ở nông
thôn
66
3.2.6. Tổ chức xây dựng, thực hiện chính sách đầu tư và bảo trợ
cho nông nghiệp
67
Kết luận 69
danh mục Tài liệu tham khảo 72
phụ lục 74
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Phát triển kinh tế hợp tác ở ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh, thực trạng và giải pháp.pdf