Sự học dù dưới dạng nào, tại trường lớp hoặc ngoài trường lớp, có người thầy
hướng dẫn hoặc không có thầy có sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật công thông
tin hoặc chưa, đều là sự tự học hỏi chiếm lĩnh những kiến thức, kỹ năng, thái độ nói
chung là chiếm lĩnh những giá trị, bằng hoạt động học tập tích cực của chính bản
thân mình, không phải với thái độ máy móc, thụ động của người “tiêu thụ kiến thức
mà là với thái độ phân tích, tìm tòi chân lý rất chủ động của người “sản xuất kiến
thức” theo cách nói hình thành thể hiện quan điểm hiện đại về người học, là sự tự
đánh giá, tự điều chỉnh lộ trình học tập, một cách phù hợp nhất với khả năng và hoàn
cảnh của mình.
24 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2379 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Sự phát triển con người và nguồn nhân lực, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Sự phát triển con người và
nguồn nhân lực
Lời nói đầu
Trước xu thế mở cửa hội nhập với kinh tế thế giới cũng như trong quá trình
tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước vấn để phát triển nguồn nhân lực ở
nước ta đang đối mặt với nhiều thử thách gay gắt để đáp ứng những yêu cầu mới đặt
ra. Trong suốt thời gian dài, với khái nhiệm thành công của những năm kháng chiến
chống Mỹ nhiều khi chúng ta nghĩ rằng chỉ cần kích thích tính tích cực của người lao
động bằng sự động viên tính thần bằng lời kêu gọi lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã
hội là đủ thêm vào đó do quan niệm ấu chỉ về xã hội chủ nghĩa, do hiểu sai và do đó
vận dụng sai quy luật qua hệ sản xuất không phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, có thời kỳ chúng ta đã cho rằng chỉ cần tiến hành cải tạo quan hệ sản
xuất cũ, nhanh chóng thiết lập sở hữu công cộng đối với tư liệu sản xuất là sẽ nhanh
chóng có được kết quả tích cực trong kinh tế xã hội.
Thực tiễn đã diễn ra không như chúng ta nghĩ quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây và nước ta đã chứng tỏ rằng dủ về cơ bản
có công hữu hoá được tư liệu sản xuất dù có xây dựng được một nền công nghiệp
nặng với các mức độ khác nhau dù đã đưa được các kỹ thuật mới thậm chí hiện đại
vào sản xuất đi chăng nữa thì tất cả những cái đó vẫn chưa trực tiếp dẫn đến chỗ nâng
cao được hiệu quả sản xuất cùng với những cái đó điều hết sức quan trọng thậm chí
có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của xí nghiệp là nhân lực. Trước hết là
mức độ lành nghề và thái độ của người lao động đối với công việc của mình. Khi
người lao động không còn tha thiết với công việc nữa thì đó là dấu hiệu của sự khủng
hoảng chính thái độ thiếu hăng hái sản xuất của người lao động là một trong những
nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng trì trệ, sa sút trong sự phát triển kinh tế xã
hội ở nước ta vào cuối những năm 70 và đầu những năm 80. Trước tình trạng sa sút
và trì truệ này chúng ta đã ít nhiều lúng túng không biết cái nào thật sự là động lực và
do vậy không biết phải
tập trung tác động vào đâu để cho đúng để có thể khơi dậy tính tích cực ấu vào việc
thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội theo chiều hướng chúng ta mong muốn. Tất cả
tình hình đó đã buộc chúng ta phải suy nghĩa phải tìm cho ra khâu then chốt cùng với
những phương hướng mà khi tác động vào đấy có thể khơi dậy, nuôi dưỡng phát huy
tính tích cực của con người nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Từ đầu
những năm 80 chúng ta buộc phải thừa nhận tầm quan trọng của các động lực khác
ngoài động lực chính trị. Tinh thần đặc biệt là tầm quan trọng của lợi ích. Từ đó đến
nay, nhất là từ sau đại hội VI của Đảng với đường lối đổi mới, việc tìm tòi những yếu
tố kích thích tích cực của con người và thông qua đó tạo nên động lực thực sự của sự
phát triển kinh tế xã hội được quan tâm nhiều hơn. Đã có không ít bài báo, cuốn sách,
luận án đề cập đến lợi ích với tính cách là động lực. Tuy nhiên phần lớn các công
trình đều tập trung vào lợi ích kit còn vai trò của các động lực khác mới chỉ được
nghiên cứu rất ít nhất là việc vạch ra hệ thống các động lực của sự phát triển kinh tế
xã hội thì chưa được nghiên cứu bao nhiêu. Mặt khác ngay trong số các loại lợi ích
thì lợi ích chính trị, tư tưởng văn hoá.. v.v..nhất là mối quan hệ giữa các loại lợi ích
còn có ít công trình đề cập đến. Ngoài ra trong sự nghiệp đổi mới hiện nay điều rất
quan trọng là với sự lợi ích kinh tế phải xác định được những yếu tố những động lực
quan trọng khác mà khi tác động vào nó chúng ta có thể khơi dậy được tính this cực
không chỉ của từng cá nhân mà còn của cả cộng đồng.
Cùng với những điều trên đây còn một vấn đề tối quan trọng là phải sử dụng
tính tích cực của con người như thế nào cho đúng bởi vì tính tích cực của con người
có thể tác dụng xây dựng, cũng có thể kìm hãm thậm chí phá hoại sự vận động theo
hướng tiến bộ của xã hội. Vì vậy điều quan trọng chỉ là ở chỗ làm thế nào phát huy
tính tích cực của con người mà điều quan không kém mà còn là ở chỗ làm thế nào để
sử dụng được tính tích cực ấy một cách đúng đắn để thúc đẩy, quá trình vận động của
xã hội theo hướng tiến bộ.
Không nằm ngoài những vấn đề nêu trên bài tiểu luận này của em mục đích
nho nhỏ là góp phần thúc đẩy tính tích cực của con người trong quá trình công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước vì thời gian hạn chế nên bài viết của em không có
tham vọng tìm hiểu sâu sa được vấn đề đó mà chỉ là một số ý kiến nhỏ như nhận
thức, nhiệm vụ và phát huy nguồn nhân lực của con người. Vì thế em đã chọn đề tài
“Sự phát triển con người và nguồn nhân lực
Phần II: Nội dung
Chương I: Cơ sở lý luận
Trong cuộc sống của mỗi con người hay cũng như của toàn xã hội, khái niệm
về vật chất và ý thức dường như không bao giờ có thể tách rời giữa chúng có mối
quan hẹe biện chứng với nhau, vật chất dữ vai trò quyết định với ý thức và ý thức tác
động trở lại vật chất thông qua sự chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người.
Vậy vật chất là gì? ý thức là gì? Giữa chúng có mối quan hệ như thế nào đối
với “Vấn đề phát triển nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại
hoá đất nước”.
Tim hiểu về con người (nguồn nhân lực) vậy con người trong sự nghiệp công
nghiệp hoá - hiện đại hoá như thế nào? phải phát huy nguồn lực con người trong sự
nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất như thế nào vào bài viết tiểu luận này.
I. Khái niệm vật chất, ý thức, con người.
a. Theo Lê Nin khái niệm vật chất được định nghĩa như sau:
Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
cho con người trong cảm giác được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại phản ánh
và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
b. ý thức:
ý thức là đặc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người và là sự
phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người, ý thức xuất hiện phải có
hai nguồn gốc tự nhiên và hai nguồn gốc xã hội.
c. Khái niệm con người:
Từ xa xưa và cho đến bây giờ vẫn tồn tại một cách hiểu con người như là một
tồn tại thần bí, có lúc người ta lại coi con người như là “cây sậy biết nói”. Hiểu như
vậy thì chỉ thấy (hoặc nhấn mạnh) khả năng nói dường như quyết định cuộc đời. Có
khi ta thấy không hiểu nổi chính mình, nên có giả định rằng, hình như trong mỗi
người trần mắt thịt mà ta trông thấy lại có một con người bé xíu con người thần linh,
mặt ta khong trông thấy, con người “tý hon” này điều khiển con người mà ta thấy
được chỉ là một thân xác, giống như muôn loại trên trái đất. Còn cái phần khó hiểu
kia thuộc về con người “tý hon” vô hình, đầy ma lực kỹ, suy ngẫm sâu, điểm qua các
thành tựu triết học tâm lý .. vv.. dần dần thấy rằng chẳng làm gì có con người “tý
hon” trong con người thân xác mọi thứ do con người làm ra cũng từ con người thân
xác này cả. Những thân xác con người, vẫn theo các tác giả này, đâu có khác gì mấy
so với các loại động vật bậc cao, cũng vẫn phải ăn uông, sinh đẻ, sống chết, thế là họ
đưa ra lý thuyết “con người bản năng”, con người là một phần tồn tại sinh vật, hoặc
có người cho con người từ lúc hình thành tế bào trứng đến lúc hai tuổi là tồn tại sinh
vật, và theo đây mọi sự sống của con người, mọi thứ do con người tạo ra, đều bắt
nguồn từ bản năng. Đúng là con người có bản năng, nhưng bản năng ở con người
khác, khác về chất so với bản năng cả động vật. Quan sát hàng ngày về cách ăn, cách
ở, cách bảo tồn và phát triển loài ..v..v.. cũng đủ giúp chúng ta hiểu một chân lý triết
học, bản năng của con người đã được ý thức hoá. Thật khó có thể chấp nhận lý thuyết
“con người bản năng” tổng quát hơn, triết học mác xít quan niệm “trong tính hiện
thực của nó, bản chất con người là tổng hoà các quan hệ xã hội ” và “tổng hoà”. Thứ
nhất, bản chất con người không phải là cái gì có sẵn, hay là cái gì nhất thành bất biến,
mà bản chất con người là cái gì đó được hình thành nên hay bộc lộ ra trong cuộc sống
của nó. Trong cuộc sống bằng hoạt động của bản thân, con người mới chịu tác động
của các quan hệ xã hội và nhờ đó con người hội nhập vào các quan hệ đó. Toàn bộ
tồn tại khách quan chung quanh con người tác động vào con người thông qua các
quan hệ xã hội (quan hệ sản xuất,quan hệ chính trị, quan hệ giai cấp, quan hệ cộng
đồng, quan hệ nhóm….), hoặc dưới hình thức các quan hệ xã hội mà tác động vào
con người. Ngược lại, con người có tác động trở lại vào tồn tại khách quan (môi
trường tự nhiên, môi trường sinh sống, gia đình, các quan hệ, thể chế xã hội, v..v..).
Con người bao giờ cũng cùng với những người khác (nhóm, cộng đồng, giai
cấp, dân tộc..v..v..) lao động, học tập, vui chơi, đấu tranh, xây dựng chính trong quá
trình học tập lao động… này con người thiết lập nên các mối quan hệ xã hội.
II. ý thức của con người đối với sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Con người Việt Nam đi vào thế kỷ XXI trong bối cảnh chung như thế, cần tự
xây dựng cho mình một hệ thống giá trị, một thang giá trị một thước đo gí trị như thế
nào, để có thể vừa góp phần tốt nhất vào sự nghiệp xây dựng đất nước, vừa phát huy
nhiều nhất những tiềm năng của bản thân, đạt những tiến bộ đáng kể. Muốn vậy, xã
hội cần có một hệ thống những định hướng giá trị chung phù hợp với yêu cầu phát
triển của đất nước trong thời kỳ mới, làm chuẩn mực để từng con người xây dựng hệ
giá trị thích hợp với mình.
Hướng vào yêu cầu này, xuất phát từ bối cảnh chung nói trên cũng nên nếu
thêm một vài nội dung cần thiết liên quan đến vấn đề “con người Việt Nam mục tiêu
và động lực của sự phát triển kinh tế xã hội ” nói chung và đặc biệt liên quan đến vấn
đề định hướng giá trị xã hội giúp cho con người Việt Nam tiếp tục thực hiện tốt mới
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
1. Từ nhận thức về đường lối đổi mới và kết quả đổi mới trong 10 năm
qua (1986-1996)con người đã hình thành nên có ý thức.
Kể từ cuối thập kỷ 70 tức vài năm sau khi thống nhất đất nước, nước ta lâm
vào tình trạng khó khăn kéo dài và dẫn đến khủng hoảng kinh tế xã hội.
Báo cáo tại Đại hội VIII 6-1996 đã nêu, trước tình hình bế tắc nghiêm tọng đó
đại hội VI(12/1986) nhận định rằng , những nhược điểm của mô hình xây dựng chủ
nghĩa xã hội, lúc đó về căn bản chưa được khắc phục và đã đề ra những đường lối đổi
mới toàn diện mở ra bước ngoặt trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xí nghiệp ở
nước ta về con đường phát triển công nghiệp hoá hiện đại hoá trong báo cáo trên, đã
nhận định nhìn tổng quát công cuộc đổi mới 10 năm qua đã thu được những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nhiệm vụ đó Đại hội VII đề ra 5 năm (1991-
1995) đã hoàn thành về cơ bản .. quan hệ sản xuất đã được điều chỉnh phù hợp hơn
với tính chất, trình độ và yêu cầu phát triển của sức sản xuất, giải phòng và phát huy
tiềm năng trong nước, tạo thuận lợi khai thác bên ngoài nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng một cách đồng bộ hơn và có hiệu quả
hơn, có thể nói đó là sự đánh giá về sự thành công trong công cuộc đổi mới tư duy
kinh tế được thực tiễn chứng minh là hợp quy luật. Báo cáo nhấn mạnhk.
- Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội nhưng một số mặt còn chưa
vững chắc.
- Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề
cho công nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy
mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
- Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ
hơn.
Một kết quả nữ vô cùng quan trọng của 10 năm đổi mới, là những chuyển biến
tích cực về mặt xã hội, những tiến bộ nổi rõ về sự quan tâm đến con người như: Đời
sống vật chất của phần lớn nhân dân được cải thiện, trình độ dân trí và mức hưởng
thụ văn hoá của nhân dân được nâng lê. Sự nghiệp giáo dục, đào tạo chăm sóc sức
khoẻ, các hoạt động văn hoá nghệ thuật, thể dục, thể thao, thông tin đại chúng, công
tác kế hoạch hoá giá đình và nhiều hoạt động xã hội khác có những mặt phát triển và
tiến bộ. Người lao động phát huy được quyền làm chủ và tính năng động sáng tạo,
chủ động hơn trong tìm việc làm tăng thu nhập, tham gia các sinh hoạt chung của
cộng đồng hơn xã hội.. lòng tin của nhân dân vào chế độ và tiến độ của đất nước vào
Đảng và Nhà nước được nâng cao.
Trong quá trình xây dựng nưững định hướng giá trị cho con người Việt Nam
đi vào thế kỷ XXI những đánh giá về 10 năm đổi mới và những mục tiêu, phương
hướng, nhiệm vụ của nhân dân ta trong thời ký mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá hiện đại hoá, được trình bày trong đại hội VIII thực sự là một nguồn phong phú
về trí tuệ và cảm súc hết sức quý bán để chúng ta nghiên cứu và vận dụng.
Cũng tại văn kiện hội nghị VIII cho ta thấy “Đảng đã quyết định đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhằm mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội
công bằng và văn minh vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Muốn tiến hành công
nghiệp hoá hiện đại hoá thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục đào tạo phát huy
nguồn lực con người yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh bền vững.
2. Từ nhận thức về sự thay đổi trong cơ cấu xã hội, dẫn đến hình thành ý
thức của con người về sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Trong 10 năm đổi mới, thấy rõ xu hướng phân tầng xã hội, phân hoá giàu
nghèo, phân hoá giai cấp.
- Xu hướng biến động cơ cấu xã hội đang diễn ra nhanh chóng, sâu rộng, đa
dạng và không đồng đều giữa các ngành kinh tế, các vùng đất nước. Đó là xu hướng
phù hợp với quy luật phát triển, biểu hiện tính năng động xã hội và gắn liền với sự
phân tầng xã hội, phân hoá giàu nghèo, phân hoá giai cấp nhưng cũng chứa đựng
nguy cơ phân cưch, đẩy một bộ phận dân cư nghèo khổ ra lề của cuộc sống, tạo nên
những xu thế xung đột xã hội gia tăng.
Xu hướng biến động của cơ cấu xã hội tỏng quá trình đổi mới là sự chuyển
dịch ngày càng lớn, ngày càng nhah chóng, sấu sắc về cơ cấu nghề nghiệp, cơ cấu
dan cư, cơ cấu giao cấp và ngay trong bản thân từng tầng lớp xã hội, từng giai cấp.
Nhiều ngành nghề mới ra đời, nhiều lĩnh vực sản xuất mới xuất hiện, nhiều ngành
kinh doanh phi sản xuất phát triển, cùng với xu thế đo thị hoá, thị trấn hoá thu hút
dân cư đến sinh động, đã tạo ra xu thế thay đổi thành phần nghề nghiệp, thành phần
dân cư trên các địa bàn, thành phần gia cấp, một bộ phận ngày càng tăng những
người từ thành phần này chuyển sang thành phần khác để hoạt động theo hướng đạt
nhiều ưu thế hơn. Xu hướng này có ý nghĩa quan trọng, làm tăng nhanh năng lực và
hiệu quả sản xuất nhưng đồng thời cũng làm này sinh các vấn đề mới về thiếu công
bằng xã hội, cần được giải quyết thoả đáng.
Vấn đề công bằng xã hội, như một động lực của sự phát triển kinh tế xã hội,
cần được nghiên cứu một cách cơ bản hơn, để ra được những tiêu chí phù hợp với
thực tiễn, với xu thế của công cuộc đổi mới, góp phần giải quyết một số vấn đề quan
trọng nẩy sinh bởi sự phân hoá giày nghèo, thí dụ: công bằng xã hội không chỉ dựa
trên nguyên tắc phân phối theo lao động, mà còn cần phải theo vốn đóng góp vào sản
xuất, kinh doanh và còn theo những cống hiến khác.
III. Cơ sở vật chất trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất
nước.
1. Phát triển yếu tố con người (nguồn nhân lực)
* Phát triển con người toàn diện, trong sự hội nhập của con người vào xã hội
và trong sự phát huy cá nhân con người, trên bình diện tinh thần, đạo đức và vật chất
Quá trình phát triển người phải quán triệt bản chất và ý nghĩa của những giá trị
nhân văn, nhân đạo.
Nguyên tắc nhân văn, nhân đạo chỉ đạo các con đường phát triển.
Phát triển người tựu trung là gia tăng giá trị cho con người, giá trị tinh thần,
giá trị đạo đức, giá trị thể chất, vật chất.
* Cụ thể hơn, con người được xem xét như một tài nguyên, một nguồn lực,
cho nên phát triển người hoặc phát triển nguồn lực con người trở thành một lĩnh vực
nghiên cứu hết sức cần thiết trong hệ thống phát triển các loại nguồn lực, như vật lực,
tài lực, nhân lực, trong đó phát triển nguồn lực giữ vai trò trung tâm. Cũng theo
hướng này,khái niệm hai loại vốn của Ngân hàng thế giới: vốn con người và vốn vật
chất, trong đó sự phát triển vốn con người quyết định sự phát triển của vốn khác.
Công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo Đại hội VIII, lấy việc
phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững.
Quan điểm này đặt ra cho lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực phát triển nguồn
nhân lực ở nước ta nhiều nhiệm vụ to lớn và mới mẻ. Như trên đã nói, phát triển
nguồn nhân lực được hiểu về cơ bản là gia tăng giá trị cho con người, trên các mặt
như đạo đức, trí tuệ, kỹ năng, tâm hồn, thể lực… làm cho con người trở thành những
người lao động có những năng lực và phẩm chất mới và cao, đáp ứng được những
yêu cầu to lớn của sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội, của sự công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
Với ý nghĩa này, theo “Chương trình phát triển của Liên hiệp quốc”, có năm
nhân tố “phát năng” của sự phát triển nguồn nhân lực: là giáo dục và đào tạo, sức
khoẻ và dinh dưỡng, môi trường, việc làm và sự giải phóng con người. Những nhân
tố phát năng này gắn bó với nhau và tuỳ thuộc lẫn nhau, những giáo dục - đào tạo là
cơ sở của tất cả các nhân tố khác, là nhân tố thiết yếu để cải thiện sức khoẻ và dinh
dưỡng, để duy trì một môi trường có chất lượng cao, để mở rộng và cải thiện lao
động, và để duy trì sự đáp ứng về kinh tế và chính trị nhằm giải phóng con người, từ
đó giáo dục đào tạo là cơ sở cho sự phát triển bền vững. Bởi vậy cũng không lạ gì khi
tất cả các nước đều hết sức nhấn mạnh đến chính sách giáo dục trong quá trình thiết
kế những kế hoạch gia tăng tốc độ phát triển.
* Vai trò nguồn nhân lực, ngày nay được nhận thức như yếu tố năng động
nhất. Từ quản lý một doanh nghiệp, một tổ chức, đến quản lý một quốc gia mà cọi
nhẹ phát triển nguồn nhân lực, thì doanh nghiệp đó, tổ chức đó, quốc gia đó thế nào
cũng trì trệ, đối ngoại thì không đủ sức cạnh tranh, không thích ứng được với những
biến động nhanh chóng, mà đối nội thì năng suất lao động, hiệu suất công tác đều
giảm sút. Quản lý một đất nước, theo kinh nghiệm của nhiều nước phát triển, của
những nước công nghiệp mới – NIC, cho thấy ở thời đại này, sự chăm lo đầy đủ đến
con người là bảo đảm chắc chắn nhất của sự phồn vinh, thịnh vượng, sự đầu tư vào
con người là cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát triển.
Cùng ý tưởng nói trên, tháng 6 năm 1991, đại hội VII Đảng cộng sản Việt
Nam đề ra: Con người Việt Nam vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển
kinh tế – xã hội. Có thể nếu một số phát biểu khác như: “Sự phát triển nguồn nhân
lực là mục tiêu cuối cùng và cao nhất của quá trình phát triển”. Các thị trường chỉ là
phương tiện. Sự phát triển con người mới là mục đích.
* Khái phát triển nguồn lực cần được hiểu đầy đủ hơn trong ý tưởng quản lý
nguồn nhân lực. Bao gồm 3 mặt phải quản lý: phát triển nguồn nhân lực, sử dụng
nguồn nhân lực, và nuôi dưỡng môi trường cho nguồn nhân lực.
Như vậy để có thể phát huy có hiệu quả nguồn nhân lực con người, vấn đề về
phát triển nguồn nhân lực trong chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải được
tiến hành và quản lý trên cả ba mặt chủ yếu, một cách gắn bó và đồng bộ: Đào tạo, sử
dụng, việc làm, trong đó tính định hướng Việt Nam hoá, hiện đại hoá xã hội chủ
nghĩa trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực nhất thiết phải được đảm bảo bởi vai
trò quản lý Nhà nước đối với thị trường việc làm, với chế độ sử dụng, với quy hoạch
đào tạo đội ngũ nhân lực ở tầm vĩ mô. Cho đến nay vai trò này còn chưa thật rõ cho
nên rất hạn chế hiệu quả của phát triển nguồn nhân lực.
2. Giáo dục đào tạo con người (nguồn nhân lực)
Đại hội VIII chỉ rõ: Phương hướng chung của lĩnh vực giáo dục - đạo tạo
trong năm năm tới là phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá,
hiện đại hoá tạo điều kiện cho nhân dân, đặc biệt là thanh niên, có việc làm, khắc
phục những yếu kém trong giáo dục đào tạo.
Giáo dục - đào tạo, cơ sở của phát triển nguồn nhân lực, là con đường cơ bản
để phát huy nguồn lực con người, phải đáp ứng yêu cầu nhân lực của sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá về cơ cấu ngành nghề, cơ cấu trình độ, về năng lực phẩm
chất, phải giúp người học có tính cơ động cao, dễ thích nghi với những chuyển biến
nhanh chóng của kinh tế thị trường, của thị trường việc làm, thị trường sức lao động.
Theo hướng này, những nghiên cứu về nhà trường, về giáo dục - đào tạo đã
nêu một số điểm sau đây cần lưu ý.
* Trong những năm đổi mới vừa qua, đã có một số nhận thức mới về vị trí, vai
trò của giáo dục - đào tạo trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội theo đường lỗi đổi
mới …
- Giáo dục - đào tạo là một bộ phận của kết cấu hạ tầng xã hội, cần được tăng
đầu tư, đồng bộ với kết cấu hạ tầng kỹ thuật, không thể coi giáo dục chỉ là phúc lợi
xã hội.
- Giáo dục đào tạo nhân lực, chuẩn bị con người đi vào thị trường sức lao
động, trong chính sách “tạo lập đồng bộ các yếu tố của thị trường ”, phải tổ chức tốt
thị trường sức lao động, khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi
nhà đầu tư mở mang ngành nghề, tạo nhiều việc làm cho người lao động, phát triển
dịch vụ việc làm, thông tin tốt về việc làm.
Giáo dục - đào tạo chuẩn bị con người cho sự phát triển bền vững trên các lĩnh
vực, cho lợi ích hiện tại và cho lợi ích tương lai, dựa vào phát triển nội sinh (có coi
trọng ngoại lực, với tính thần để phát triển nội lực, dựa vào nội lực để phát triển ),
giáo dục đào tạo là con đường cơ bản nhất để phát triển nguồn nhân lực phục vụ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
* Về hai đặc tính của giáo dục - đào tạo.
Trách nhiệm của Nhà nước và xã hội đối vói giáo dục,
- Giáo dục có hai đặc tính, xét về mặt lợi ích đem lại cho người học, cho xã
hội, là:
+ Giáo dục cần có sự chi phí, đầu tư cho giáo dục là đầu tư “lợi ích tương lai”
(gần xa), không hưởng thụ ngay lập tức được “lợi ích đầu tư cho giáo dục có tác dụng
như là đầu tư cho phương tiện sản xuất ”, một loại phương tiện sản xuất ra sản phẩm
có tính vô hình, sản phẩm không phải thuộc loại tiêu dùng mà thuộc loại “tạo tiềm
năng”. Đó là ý nghĩa của tư tưởng “giáo dục đi trước một bước”.
+ Giáo dục đem lại cho toàn xã hội lợi ích chung, lợi ích cho toàn xã hội, gọi
là lợi ích “lan toả” để xã hội cũng được hưởng, không chỉ đối với những người chi
phí, đầu tư cho giáo dục, mà kể cả những người không trực tiếp chi gì cho giáo dục
(những người này được hưởng môi trường lễ phép, trật tự, vệ sinh ..v..v..của tre được
đi học, hưởng môi trường xã hội văn minh, lành mạnh, v..v.. do dân trí được nâng
cao, hưởng cuộc sống có chất lượng hơn, do kinh tế xã hội nhớ và dân trí, nhân lực,
nhân tài mà phát triển ). Đó là ý nghĩa của quan niệm “sự nghiệp giáo dục là sự
nghiệp công cộng”.
+ Riêng trong lĩnh vực đào tạo phát triển nguồn nhân lực, cần thấy thêm đặc
điểm là sản phẩm của giáo dục - đào tạo, những người được đào tạo, phải đối mặt với
thách thức trong thị trường sức lao động, thị trường việc làm. Nhà nước có trách
nhiệm quy hoạch, và phát triển sự nghiệp đào tạo nhân lực, phù hợp với tương lai
công nghiệp hoá - hiện đại hoá, phát triển đất nước, trong đó có những bộ phận Nhà
nước chịu trách nhiệm làm, thí dụ phần lớn trường đại học lớn (đại học công), có
những bộ phận có thể để nhân dân làm dưới sự quản lý của Nhà nước, thí dụ nhiều
trường dậy nghề (dân lập, tư thục). Nói chung người học “chi phí cho việc học, để có
năng lực lao động nghề nghiệp”, sau này, khi đi làm việc, sẽ thu hồi vốn bỏ ra, và
tiếp tục phát triển.
- Trách nhiệm của Nhà nước đối với giáo dục, đối với phát triển nguồn nhân
lực.
Vì “lợi ích trăm năm, trồng người”, trên tinh thần chăm lo đến tương lai đất
nước, và chăm lo đến lợi ích cộng đồng của toàn xã hội, đặc biệt do có tầm nhìn xa
và do trách nhiệm hoạch định chiến lược phát triển kinh tế xã hội dài hạn, Nhà nước
giữ trách nhiệm chủ yếu về sự phát triển giáo dục - đào tạo, phải đầu tư ngân sách
Nhà nước cho giáo dục - đào tạo.
3. Sự cần thiết của cách mạng khoa học công nghệ
a. Cách mạng khoa học công nghệ thúc đẩy quá trình quốc tế hoá nền sản xuất
và đời sống xã hội, là một quá trình dựa đặc biệt vào sự ứng dụng những thành tựu
của công nghệ tiên tiến như công nghệ thông tin, điện tửm viễn thông, vận tải… tạo
điều kiện làm cho giao lưu, giao tiếp về kinh tế,văn hoá giữa các dân tộc, các quốc
gia ở các vùng rất khác nhau trên toàn thế giới, trở nên ngày càng thường xuyên,
nhanh nhạy và sâu rộng, làm cho các dân tộc hiểu nhau hơn, xích lại gần nhau hơn,
cùng nhau hợp tác giải quyết những vấn đề có tính khu vực hoặc toàn cầu. Đồng thời,
với sự ứng dụng những thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ cạnh tranh kinh
tế, thương mại, khoa học công nghệ diễn ra thêm gay gắt. Một kinh nghiệm của thế
giới về hai quá trình xen kẻ nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ, (là một đặc
trưng lớn của cách mạng khoa học công nghệ hiện đại), là có nguy cơ rơi vào các
quyền lực kinh tế có tính quốc tế và toàn cầu, độc quyền về những sản phẩm khoa
học và công nghệ, sẽ làm biến dạng các tính chất phổ biến và làm biến mất tính chất
“của cải tự do” của khoa học. Điều này nhắc nhở chúng ta phải có bản lĩnh trong sự
tiếp nhận khoa học và công nghệ, không bị thiệt hại, không bị phụ thuộc một chiều
đơn thuần, đất nước ta không trở thành “bãi thải” của các sản phẩm công nghiệp lỗi
thời.
b. Trong những năm đổi mới vừa qua, ở nước ta, đã nổi lên một số ngành có
bước phát triển về chất, tạo nên những mũi đột phá góp phần có hiệu quả đưa nền
kinh tế nước ta ra khỏi khủng hoảng, như những ngành bưu chính – viễn thông, hàng
không, dầu khí, dệt may, thực phẩm, Ngân hàng, công nghiệp điện tử – tin học …
đồng thời đang hình thành dần một số ngành mũi nhọn khác, phát triển khá nhanh,
như: Chế biến nông lâm – thuỷ sản, một số nghề trong lĩnh vực cơ khí chế tạo, một
số nghề trong lĩnh vực dịch vụ như: du lịch hàng hải, thương mại, vận tải, tài chính,
kiểm toán bảo hộ lao động, pháp lý, thông tin, các dịch vụ phục vụ đời sống .. Nổi
bật lên một số công nghệ cao đã bắt đầu được ứng dụng và sẽ phát triển mạnh: công
nghệ sinh học, công nghệ tin học, công nghệ năng lượng mới…phương thức sản xuất
dựa trên nền công nghiệp “vĩ mô”, nhỏ, nhẹ, tác động nhanh, vóc dáng những khu
công nghiệp mới đang xuất hiện, Ví dụ đang hình thành nhanh chóng ba vùng trọng
điểm kinh tế: tứ giác Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Sông Bé, Bà Rịa – Vũng
Tàu, tam giác Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, các tỉnh ve biển miềm trung. Đã
thành lập 6 khu chế xuất và 10 khu công nghiệp tại 8 địa phương, đến nay, bước đầu
đã có 1,4 tỷ USD đầu tư nước ngoài, chiếm gần 7% tổng số vốn đầu tư của nước
ngoài đăng ký tại Việt Nam, như Đài Loan, Nhật Bản, Mỹ, Malaixia, v..v., với hàng
trăm xí nghiệp hiện đại, thu hút hàng vạn lao động Việt Nam vào làm việc.. trên
nhiều ngành nghề, như: dệt may, cơ khí, điện tử, điệ. Thực tiễn này là những nhân tố
mới của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá, đang phát huy tác dụng đến một số
bộ phận con người Việt Nam, phát huy ảnh hưởng đến một bộ phận khác, rất đáng để
chúng ta nghiên cứu, đúc rút kinh nghiệm, tìm ra những vấn đề có tính quy luật trong
việc phát triển tài nguyên con người, phù hợp với yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại
hoá.
c. Trên thế giới, đặc biệt ở những nước phát triển, thấy rõ xu thế là cách mạng
khoa học công nghệ tạo tiền đề cho sự chuyển dịch: từ xã hội công nghiệp sang xã
hội thông tin, từ công nghệ bằng lực sang công nghệ cao, từ kinh tế quốc gia sang
kinh tế khu vực và toàn cầu… làn sóng thứ ba, những nguồn năng lượng đa dạng và
tạo mới lại được, những phương pháp mới trong sản xuất,nwhngx “gia đình mới”,
không hạt nhân, những nhà trường được cải tổ một cách cơ bản và những tập đoàn
tạo ra những sản phẩm sẽ giao sau này trong tương lai, sự chuyển dịch trật tự của các
nguồn sức mạnh và quyền lực, theo: trí tuệ, thông tin, tiền của , tài nguyên, bạo lực,
cơ bắp. Tham khảo nhiều tài liệu trong lĩnh vực dự bào này, có thể suy ngẫm về việc
dự báo tương đối cụ thể những xu thế lớn trong cách mạng khoa học công nghệ ở
nước ta, với những đặc điểm riêng về điều kiện tự nhiên, về điều kiện kinh tế, văn
hoá, xã hội để có thể cụ thể hoá hơn nữa những định hướng giá trị nhân cách vào đầu
thế kỷ XXI.
d. Đất nước ta ngày nay đang có đồng thời cả ba nền văn mìh: văn minh nông
nghiệp, ưu thế ở vùng đồng bằng và miền núi, văn minh công nghiệp, ưu thế ở các
thành phố, một số trung tâm công nghiệp, một số thị xã, thị trấn, một số xã vùng,
đồng bằng, một số yếu tố của nền văn minh thông tin, trí tuệ đã xuất hiện ở một số
nhà máy, cơ sở kinh tế, xã hội, cơ sở nghiên cứu, thiết kê… mỗi nền văn minh đều có
những đòi hỏi nhất định và khách quan đối với con người tham gia sản xuất (như
nguồn động lực, trình độ văn hoá, trình độ nghề nghiệp của người lao động, v..v…).
Yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta ngày nay, thực hiện trong xu thế
dịch chuyển 3 nền văn minh nói trên, sẽ quy định sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất, cơ
cấu lao động dẫn đến sự chuyển dịch của các yếu tố trong nhân cách con người, tiến
lên quy định sự chuyển dịch của định hướng giá trị nhân cách…
Chương III: Giải pháp và kiến nghị
- Quản lý Nhà nước về phát triển nguồn nhân lực trên phạm vi vĩ mô phải tiến
hành đồng bộ trên cả 3 mặt: Đào tạo, sử dụng, việc làm thì mới có thể phát huy
nguồn lực con người một cách hiệu quả. Nhà nước có trách nhiệm chỉ đạo toàn diện,
đầy đủ và đồng bộ trên cả 3 mặt: Nhà nước, xã hội (đặc biết doanh nghiệp ) và lĩnh
vực sự nghiệp (giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ…), thì mới bảo đảm sự
phát triển bền vững.
Trong xã hội, việc làm có thể coi như tồn tại chủ yếu ở 3 dạng tổ chức chính:
+ các doanh nghiệp (tên gọi chung cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh, lưu
thông… thuộc mọi thành phần kinh tế, kể cả kinh tế hộ gia đình, cá thể, ở mọi lĩnh
vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ …);
+ Các cơ sở sự nghiệp, văn hoá (giáo dục - đào tạo nghiên cứu khoa học, triển
khai công nghệ, y tế, thể dục thể thao, văn học văn nghệ …);
+ Các cơ quan Nhà nước (công chức của hệ thống lập pháp, hành pháp, tư
pháp….) và các bộ máy an ninh, quốc phòng.
+ Từ đó Nhà nước có thể xác lập mối quan hệ giữa việc làm – sử dụng - đào
tạo theo ba loại hình tổ chức lao động, mô phỏng “tam giác phát triển của Liên hợp
quốc”.
+ Nhà nước cung cấp cho doanh nghiệp chính sách, thể chế (quản lý Nhà nước
trên lĩnh vực giáo dục – khoa học, đáp ứng tài chính cho giáo dục – khoa học vừa vì
sự nghiệp giáo dục khoa học chung, vừa vì nhân lực đào tạo cho Nhà nước ) và nhận
lại, trí thức, trình độ dân trí được nâng cao và nhân lực cho đội ngũ công chức, nhân
lực cho các lĩnh vực khác do Nhà nước trả lương.
+ Doanh nghiệp cần tài trợ cho khoa học – giáo dục thông qua các dự án, hợp
đồng và nhận lại: các kết quả nghiên cứu khoa học, triển khai công nghệ và nhân lực
được đào tạo. Nhà nước khuyến khích mối quan hệ trực tiếp này.
Các luồng trao đổi trên đây tạo thành một cơ chế mạnh cho phát triển nguồn
nhân lực kinh tế xã hội, thực hiện thành côn:
Tăng trưởng kinh tế nhanh;
Đảm bảo sự bền vững về mặt xã hội và sinh thái
Sự vận hành của các luồng trao đỏi trên thực chất cơ chế xã hội hóa dưới sự
quản lý và vai trò chỉ đầu tư của Nhà nước, đối với giáo dục - đào tạo, đối với nhà
trường.
- Trước những đòi hỏi của đất nước đang đổi mới đang hoà nhập vào khu vực
và thế giới, nền giáo dục của nước ta còn đang thấp cả trên 3 mặt; quy mô, chất
lượng, hiệu quả, trong đó đáng quan tâm trước hết chưa xe được rõ các cơ chế:
+ Xác định nhu cầu nhân lực theo ngành nghề đi với quy hoạch đào tạo;
+ Gắn đào tạo với sử dụng, với việc làm trong điều kiện có thị trường sức lao
động.
Xuất phát điểm để định hướng và quy hoạch công nghệ giáo dục - đào tạo
chung theo tư duy lô - gích là những căn cứ dự báo về việc làm, về việc sử dụng nhân
lực được đào tạo, mà việc này khác hẳn với thời kỳ đổi mới, nếu trước đây đó là vấn
đề của công tác hoạch hoá tập trung và bao cấp, thì ngày nay chủ yếu lại là vấn đề
của thị trường sức lao động, thị trường việc làm.
- Nhà nước tổ chức thực hiện phương hướng giải quyết vấn đề việc làm do Đại
hội VIII chỉ ra là:
Tạo việc làm nhiều hơn số lao động tăng thêm hàng năm, giảm đáng kể thất
nghiệp… bảo đảm công ăn việc làm cho dân là một mục tiêu xã hội hàng đầu, không
để thất nghiệp trở thành căn bệnh kinh niên. Giảm tỷ lệ số người chưa có việc làm ở
thành thị còn 5% và nâng thời gian sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lên 75%
vào năm 2000.
Có thể nghiên cứu đề nghị của bản báo cáo nghiên cứu tổng thể ngành giáo
dục và phân tích nguồn nhân lực VIE 89-22, cần tổ chức công tác thông tin về nhu
cầu cần việc làm, (thông tin có thể lấy ở các doanh nghiệp, các cơ quan Nhà nước ),
thông tin về sự cung ứng nhân lực được đào tạo (lấy ở các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng),
thông tin về các yêu cầu và khả năng sử dụng lao động (lấy ở các nơi sử dụng lao
động );cần thành lập một ban chỉ đạo đào tạo, sử dụng, việc làm, đặt dưới sự điều
khiển của một Phó Thủ Tướng phụ trách nguồn nhân lực, có sự tham gia của đại
diện.
Nhà nước tạo môi trường pháp lý, sử dụng các công cụ kế hoạch, các thiết chế
tài chính…, đề ra các chính sách, cơ chế , cần thiết cho sự quản lý Nhà nước trong
lĩnh vực việc làm – sử dụng - đào tạo, nhằm tạo điều kiện cho việc tạo ra việc làm
cho nguồn nhân lực, cho việc sử dụng lao động được đào tạo, và cho việc đào tạo
nhân lực, phù hợp với các chính sách tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thí dụ
Nhà nước phải có những định hướng về cơ cấu ngành nghề đào tạo, phù hợp với sự
dịch chuyển cơ cấu lao động, theo hướng tăng tỷ tọng công nghiệp và dịch vụ, đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phù hợp với nhu cầu nhân lực về ngành
nghề, về trình độ, Nhà nước phải có định hướng về đầu tư tương ứng, trong đó xác
định rõ trách nhiệm của Nhà nước, của xã hội, đặc biệt của doanh nghiệp, đối với
giáo dục - đào tạo, và trách nhiệm của nhà trường sử dụng có hiệu quả những nguồn
đầu tư.
Nhà nước đặc khuyến khích việc trao đổi trực tiếp giữa doanh nghiệp và giáo
dục - đào tạo, khuyến khích những tổ chức sản xuất, kinh doanh và cá nhân tạo thêm
việc làm, giúp đỡ tự tạo việc làm, làm dịch vụ giới thiệu việc làm, giúp đỡ tự tạo việc
làm , đào tạo nghề nghiệp, khuyến khích các nhà trường chủ động gắn với các doanh
nghiệp với các cơ sở sử dụng lao động để có kế hoạch đào tạo tương đối có căn cứ.
Phải đầu tư ngân sách Nhà nước cho giáo dục - đào tạo, ưu tiến:
+ Bảo đảm bậc phổ cập
+ Bảo đảm việc học của những đối tượng chính sách, như: dân tộc ít người,
gia đình có công với cách mạng, các vùng khó khăn, người giỏi mà nghèo..,
+ Bảo đảm việc đào tạo nguồn lực cho một số ngành mũi nhọn về khoa học
công nghệ, hình thành một số cơ sở trường trọng điểm, trung tâm chất lượng cao, kể
cả cho việc đào tạo nhân lực;
+ Có chính sách đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ ngũ giáo viên các cấp…, đội ngũ
công chức Nhà nước tinh nhuệ, …
+ Bảo đảm hệ thống trường công, giữ vai trò nòng cốt trong mọi mặt như: quy
mô, chất lượng, hiệu quả giáo dục.
- Phối hợp với các ngành hữu quan, ngành giáo dục, đào tạo cần xác định
trước hết cơ cấu ngành nghề đào tạo cần xác định trước hết cơ cấu ngành nghèe đào
tạo phù hợp với công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nói chung, để đảm bảo khả năng
thích ứng cao đối với những thay đổi nhanh chóng của nền kinh tế xã hội, cần tiến
hành đào tạo ban đầu trong hệ chính quy theo diện rộng, có tính cơ cấu kết hợp với
đào tạo tiếp tục, bồi dưỡng thường xuyên tỏng quá trình lao động của người học. Vấn
đề đào tạo lại giữ vị trí hết sức quan trọng, trong điều kiện nền kinh tế chuyển sang
kinh tế thị trường và mở cửa. Đồng thời mở rộng đào tạo nghề ngắn hạn, bồi dưỡng
những kiến thức cần thiết như ngoại ngữ, tin học, kinh doanh…
Chương IV: Kết luận
Phát huy truyền thống hiếu học và tự học của nhân dân ta, đổi mới, mở rộng
sự học, coi như một chủ trương quốc gia, tăng sức mạnh cho con người Việt Nam,
thể hiện quan điểm “giáo dục là quốc sách hàng đầu”.
Sức mạnh của con người Việt Nam, xét cho cùng, là bắt nguồn từ sự nâng cao
ý thức giác ngộ cách mạng, lòng yêu quê hương đất nước nồng nàn, từ sự gia tăng
tinh thần trách nhiệm và khả năng hành động, nhằm giải quyết các vấn đề thực tế, vì
những mục tiêu cao quý , giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, giành tự do, hạnh
phúc cho con người.
Sức mạnh đó của con người Việt Nam, như lịch sử 50 năm xây dựng và bảo
vệ đất nước vừa qua (1945-1995) đã chỉ rõ, chính là “sự gia tăng giá trị của con
người”, mà phần hết sức quan trọng là “sự học tập” vươn lên không ngừng của con
người Việt Nam, nâng cao phẩm chất và năng lực của mình trên tất cả các mặt và
bằng tất cả các cách, cần thiết cho sự duy trì và phát triển của đất nước và con người.
Những giá trị đó được tích luỹ lại, được phát huy lên, tạo nên những giá trị mới cho
xã hội đồng thời cho bản thân con người.
Sự học tập, hiểu theo nghĩa rộng, có thể xem như là mọi hoạt động làm gia
tăng giá trị trong con người, vừa thông qua hệ thống trường lớp, vừa bằng mọi biện
pháp khác, như tự học, tự thể nghiệm, tự rút kinh nghiệm… trong công tác, trong
cuộc sống, cùng tập thể, đồng đội, đồng nghiệp bàn bạc, học tập lẫn nhau… để hoàn
thành nhiệm vụ.
Chính bằng những cách đó mà trong những giai đoạn cách mạng vừa qua
Đảng và Nhà nước ta đã nâng cao khá nhanh chóng trình độ của cán bộ chính trị, lực
lượng vũ trang, cán bộ khoa học, công nghệ, nhân dân lao động.
Trong giai đoạn mới, giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá, sự học không
những cần tiếp tục được hiểu theo nghĩa rộng như thế, mà còn phải được phát triển
một cách sáng tạo, tiếp thu những tư tưởng mới về sự học của thời đại và vận dụng
thích hợp vào thực tiễn đổi mới của đất nước.
Sự học dù dưới dạng nào, tại trường lớp hoặc ngoài trường lớp, có người thầy
hướng dẫn hoặc không có thầy có sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật công thông
tin hoặc chưa, đều là sự tự học hỏi chiếm lĩnh những kiến thức, kỹ năng, thái độ nói
chung là chiếm lĩnh những giá trị, bằng hoạt động học tập tích cực của chính bản
thân mình, không phải với thái độ máy móc, thụ động của người “tiêu thụ kiến thức
mà là với thái độ phân tích, tìm tòi chân lý rất chủ động của người “sản xuất kiến
thức” theo cách nói hình thành thể hiện quan điểm hiện đại về người học, là sự tự
đánh giá, tự điều chỉnh lộ trình học tập, một cách phù hợp nhất với khả năng và hoàn
cảnh của mình.
Một quan niệm mới về sự học, được trình bày như sau: Học là một quá trình
trong đó chủ thể tự biến đổi mình, tự làm phong phú mình bằng cách thu giảm và xử
lý thông tin, từ môi trường sống xung quanh mình.
Với quan niệm như trên về sự học, vai trò của người thầy sẽ có những điều
chỉnh và phát triển theo hướng là những nhân tố hỗ trợ, hướng dẫn cho sự phát huy
cao độ tính năng động chủ quan của người học, quan hệ giữa dạy và học mang tính
hợp tác, hơn là mang tính quyền uy của người thầy và vai trò.
Ngày 19-1-1996, đồng chí Tổng bí thư Đỗ Mười đã phát biểu tại Đại học Sư
phạm Hà Nội:
“Muốn thực hiện thắng lợi công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phải gấp rút nâng
cao trình độ của mọi người trong hoàn cảnh đất nước còn nghèo, một mặt còn sử
dụng tốt các nguồn vốn ngân sách và vốn trong việc đầu tư cho giáo dục - đào tạo;
mặt khác, phải phát động một cao trào toàn dân tự giác học tập đi đôi với tổ chức, chỉ
đạo tốt, cần gì học nấy, người biết dậy người chưa biết, với tinh thần cách mạng tiến
bông, quyết tâm xoá dốt, xoá “mù” để xoá đói giảm nghèo, để làm nên giầu có ”.
Tài liệu tham khảo
- Tài liệu nghiên cứu văn kiện Đại Hội VI của Đảng: NXB sự thật Hà Nội
1982
- Tài liệu nghiên cứu văn kiện Đại Hội VIII của Đảng: NXB chính trị quốc
gia 1996
- Triết học Mác Lê Nin tập I NXB giáo dục
- Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
- Tạp chí cộng sản
- Tạp chí kinh tế
- Thời báo kinh tế
- Báo nhân dân, ngày 20-1-1996
Mục lục
Lời nói đầu .................................................................................................................2
Phần II: Nội dung .....................................................................................................6
Chương I: Cơ sở lý luận ..........................................................................................6
I. Khái niệm vật chất, ý thức, con người...............................................................6
a. Theo Lê Nin khái niệm vật chất được định nghĩa như sau: ........................6
b. ý thức: .............................................................................................................6
c. Khái niệm con người: ....................................................................................6
II. ý thức của con người đối với sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá. .....8
1. Từ nhận thức về đường lối đổi mới và kết quả đổi mới trong 10 năm qua
(1986-1996)con người đã hình thành nên có ý thức........................................8
2. Từ nhận thức về sự thay đổi trong cơ cấu xã hội, dẫn đến hình thành ý thức
của con người về sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước........ 10
III. Cơ sở vật chất trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. 11
1. Phát triển yếu tố con người (nguồn nhân lực) .......................................... 11
2. Giáo dục đào tạo con người (nguồn nhân lực) ......................................... 13
3. Sự cần thiết của cách mạng khoa học công nghệ .................................... 15
Chương III: Giải pháp và kiến nghị ................................................................... 18
Chương IV: Kết luận............................................................................................. 22
Tài liệu tham khảo ................................................................................................. 23
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Sự phát triển con người và nguồn nhân lực.pdf