Thanh toán không dùng tiền mặt với ưu thế nhanh chóng, chính xác, an toàn, hiệu
quả, đã và đang trở thành một trong những vũ khí sắc bén mà các Ngân hàng có thể sử
dụng để chiến thắng trong môi trường cạnh tranh. Vì vậy, mở rộng và phát triển thanh toán
không dùng tiền mặt nói riêng, các dịch vụ Ngân hàng nói chung đã trở thành tất yếu
khách quan để đáp ứng yêu cầu đổi mới của nền kinh tế, nhanh chóng hoà nhập với tiến
trình phát triển chung của thế giới.
67 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 8716 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh Nam Định, thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
toán phổ biến và thường
xuyên trong cuộc sống hàng ngày của dân cư. Điều đó chứng tỏ, bên cạnh những ưu điểm
của Séc là làm giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông, giảm chi phí trong các khâu in ấn
tiền, kiểm đếm, vận chuyển, bảo quản tiền… thì thanh toán bằng Séc vẫn còn hạn chế:
Mức thu nhập của đại bộ phận những người dân còn thấp, phạm vi thanh toán Séc còn hẹp
nên tính khuyến khích sử dụng Séc bị hạn chế, thời hạn hiệu lực thanh toán Séc dài gây
khó khăn trong việc kiểm soát và hạn chế sự thúc đẩy quá trình luân chuyển vốn. Mặt
khác, khách hàng có thể lợi dụng phát hành Séc khống hoặc phát hành quá số dư (trong
trường hợp Séc không được bảo chi) để chiếm dụng vốn hợp lý.
Nhưu vậy, để đẩy mạnh thanh toán bằng Séc trong dân cư cần có nhiều biện pháp,
trong đó cần phải bổ sung quy định chặt chẽ về hạch toán Séc để đảm bảo quyền lợi cho
các bên tham gia, giúp cho việc kiểm soát được dễ dàng, đả bảo an toàn tài sản trong khâu
thanh toán.
2.3.2.2. Hình thức thanh toán bằng Uỷ nhiệm chi – chuyển tiền.
Uỷ nhiệm chi là hình thức thanh toán được ưa chuộng nhất trong các hình thức
thanh toán không dùng tiền mặt. Nó được áp dụng rộng rãi trong thanh toán tiền hàng hoá,
dịch vụ hay chuyển tiền của người sử dụng dịch vụ thanh toán trong cùng một tổ chức
cung ứng hay giữa các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
Bảng số 2.8. Tình hình thanh toán bằng Uỷ nhiệm chi tại chi nhánh Ngân hàng Công
thương tỉnh Nam Định.
Đơn vị: triệu đồng.
Chỉ tiêu
Năm 2003 Năm 2004 So sánh 2004/2003
Số tiền
Tỷ
trọng
Số tiền
Tỷ
trọng
Số tiền Tỷ trọng
Thanh
toán bằng
Uỷ nhiệm
chi
1.258.956 61,89% 2.440.307 91,41% +1.181.351 +93,84%
Thanh
toán
không
dùng tiền
mặt
2.034.336 100% 2.669.681 100% +635.345 +31,23%
Nguồn: Báo cáo các phương tiện thanh toán tại chi nhánh Ngân hàng
Công thương tỉnh Nam Định năm 2003 – 2004.
Qua số liệu trên ta thấy, tại chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh Nam Định Uỷ
nhiệm chi là hình thức thanh toán không dùng tiền mặt được ưa chuộng nhất vì tính thuận
tiện, an toàn của nó, ít phiền hà trong thủ tục phát hành, phạm vi thanh toán trên toàn quốc
và phí hợp lý.
Năm 2004, tỷ trọng thanh toán bằng Uỷ nhiệm chi tăng mạnh so với năm 2003 là
93,84%; đạt 2.440.307 triệu đồng và chiếm tới 91,41% trong tổng thanh toán không dùng
tiền mặt tại chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh Nam Định.
Sở dĩ Uỷ nhiệm chi là hình thức thanh toán không dùng tiền mặt được khách hàng
ưa chuộng nhất là bởi vì:
+) Uỷ nhiệm chi có tính an toàn cao. Người phát hành là người ra lệnh chi tiền từ tài
khoản của mình, và họ chỉ có thể lập Uỷ nhiệm chi khi trên tài khoản có đủ số dư. Điều
này đảm bảo tính an toàn cho cả Ngân hàng và khách hàng, tránh trường hợp khách hàng
phát hành quá số dư khi sử dụng Séc.
+) Uỷ nhiệm chi rất đơn giản khi sử dụng và đơn giản khi phát hành. Mẫu Uỷ
nhiệm chi có thể được Ngân hàng bán rất đễ dàng và không cần quản lý chặt chẽ để chống
mất cắp, ngoài ra, người phát hành cũng có thể tự lập Uỷ nhiệm chi trên giấy theo mẫu mà
không cần mua của Ngân hàng.
+) Uỷ nhiệm chi không bị giới hạn trong phạm vi thanh toán mà có thể thanh toán
trong toàn quốc.
Mặt khác, việc áp dụng công nghệ thông tin vào thanh toán càng làm cho quá trình
thanh toán diễn ra nhanh chóng, chính xác và an toàn hơn.
Séc chuyển tiền hiện không còn được sử dụng tại chi nhánh Ngân hàng Công
thương tỉnh Nam Định bởi không có khách hàng nào có nhu cầu sử dụng Séc chuyển tiền.
Sở dĩ như vậy là do:
+) Phạm vi sử dụng của Séc chuyển tiền quá hạn hẹp, chỉ được sử dụng trong cùng
một hệ thống Ngân hàng.
+) Rủi ro dễ xảy ra bởi khách hàng có thể làm mất Séc.
+) Thời hạn thanh toán quy định là 30 ngày nên dù không có nhu cầu khách hàng
cũng phải rút tiền truớc ngày Séc hết hiệu lực. Ngoài ra, khách hàng phải đến đúng Ngân
hàng cùng hệ thống với Ngân hàng phục vụ mình thì mới được rút tiền, điều này rất gây
bất tiện cho khách hàng.
Chính vì những hạn chế như trên mà Séc chuyển tiền đã không còn được sử dụng
tại chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh Nam Định.
2.3.2.3. Các hình thức thanh toán khác.
Công cụ thanh toán không dùng tiền mặt ở chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh
Nam Định được khách hàng sử dụng chủ yếu là Séc và Uỷ nhiệm chi, còn các hình thức
thanh toán khác như: Uỷ nhiệm thu, thư tín dụng, thẻ thanh toán được sử dụng rất ít, cụ thể
như sau:
Hình thức thanh toán Uỷ niệm thu tại chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh Nam
Định chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng thanh toán không dùng tiền mặt. Năm 2003, phát
sinh 2 món Uỷ nhiệm thu với doanh số phát sịnh là 50 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 0,0025%
trong tổng thanh toán không dùng tiền mặt. Năm 2004, Uỷ nhiệm thu có 9 món, doanh số
phát sinh là 354 triệu đồng, chiếm 0,017% trong tổng thanh toán không dùng tiền mặt. Còn
những năm trước nữa như năm 2002 và năm 2001 không có món Uỷ nhiệm thu nào phát
sinh.
Nguyên nhân có thể là do thanh toán bằng Uỷ nhiệm thu phức tạp, nó có được chi
trả hay không phụ thuộc cả vào thiện chí và khả năng thanh toán của người trả tiền. Uỷ
nhiệm thu nói chung chỉ đuợc sử dụng để thanh toán các hàng hoá, dịch vụ cung cấp
thường xuyên và cố định như trả tiền điện, nước, điện thoại… vì thế mà giá trị bình quân
thấp so với các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt khác.
Đối với thư tín dụng (L/C), năm 2004 tại chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh
Nam Định mở 312 L/C nhập khẩu với giá trị 21.914.196 USD. Sở dĩ phương thức thanh
toán bằng L/C chiếm tỷ trọng nhỏ trong thanh toán không dùng tiền mặt là bởi vì đây là
phưong thức thanh toán phù hợp với những hợp đồng mua – bán, xuất – nhập khẩu có khối
lượng lớn giữa các quốc gia với nhau, song đối với nèn kinh tế tỉnh nhà còn chưa đủ lớn
mạnh để hội nhập với nền kinh tế trên thế giới và trong khu vực thì phương thức này sẽ ít
được sử dụng.
Đối với thẻ thanh toán: Đây là một dịch vụ hoàn toàn tự động và mới được triển
khai tại chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh Nam Định từ năm 2004 nên còn mới lạ
với đa số người dân. Chính vì thế hình thức thanh toán này được sử dụng rất ít.
2.3.3. Những điều kiện để áp dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền
mặt tại chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh Nam Định.
Để áp dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng phát triển và
hiện đại hơn tại chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh Nam Định thì cần có một số điều
kiện cơ bản sau:
* Điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ.
Đây là một điều kiện rất quan trọng bởi thanh toán không dùng tiền mặt gắn liền với
công nghệ Ngân hàng hiện đại. Cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ có hiện đại thì các hình
thức thanh toán không dùng tiền mặt mới trở nên an toàn, thuận tiện, hiệu quả và hấp dẫn
khách hàng hơn. Tuy nhiên, những công nghệ mới (như máy ATM) luôn đòi hỏi chi phí đầu
tư ban đầu và chi phí vận hành lớn, do đó, Ngân hàng cần phải cân nhắc kỹ trước khi quyết
định đầu tư.
* Điều kiện vè con người.
Để có thể vận hành những máy móc, thiết bị và công nghệ hiện đại thì đòi hỏi đội
ngũ CBCNV Ngân hàng phải có trình độ chuyên môn cao, đạo đức nghề nghiệp tốt thì mới
đảm bảo thanh toán không dùng tiền mặt an toàn, hiệu quả. Ngoài ra, CBCNV Ngân hàng
còn cần phải có thái độ nhiệt tình, cởi mở khi giao dịch với khách hàng. Có như vậy mới
tạo hình ảnh đẹp về Ngân hàng, củng cố niềm tin và tạo tâm lý an tâm cho khách hàng khi
sử dụng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt nói riêng và các sản phẩm dịch vụ nói
chung của Ngân hàng.
Tuy nhiên, bên cạnh những yêu cầu về trình độ nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp, thái
độ phục vụ của CBCNV Ngân hàng thì yếu tố khách hàng cũng hết sức quan trọng. Hiện
nay, ở Việt Nam nói chung và ở tỉnh Nam Định nói riêng, người dân đa phần có thói quen
sử dụng tiền mặt trong thanh toán. Thay đổi thói quen là rất khó, song với sự nỗ lực của
ngành Ngân hàng cũng như việc nâng cao nhận thức xã hội trong tiến trình hội nhập và phát
triển hứa hẹn tương lai không xa, việc thanh toán không dùng tiền mặt sẽ trở nên phổ biến
hơn.
* Tham gia vào hệ thống các phương thức thanh toán vốn giữa các Ngân hàng.
Vì thanh toán không dùng tiền mặt là cách thức thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ
bằng cách trích từ tài khoản người chi trả chuyển vào tài khoản của người thụ hưởng (nếu
người chi trả và người thụ hưởng có mở tài khoản tại cùng một tổ chức cung ứng dịch vụ
thanh toán), hoặc bằng cách bù trừ lẫn nhau thông qua vai trò trung gian của các tổ chức
cung ứng dịch vụ thanh toán (trường hợp người chi trả và người thụ hưởng khác tổ chức
cung ứng dịch vụ thanh toán), cho nên, để thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt trong
trường hợp khác tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán thì Ngân hàng cần phải tham gia vào
hệ thống các phương thức thanh toán vốn giữa các Ngân hàng. Ngoài ra, trong thanh toán
không dùng tiền mặt các Ngân hàng cần phải có mối quan hệ chặt chẽ, thống nhất với nhau
theo đúng các quyết định, quy định của Chính phủ và của Ngân hàng Nhà nước.
2.4/ Nhận xét về hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt tại chi nhánh Ngân
hàng Công thương tỉnh Nam Định.
2.4.1. Kết quả đạt được.
Do sự quan tâm chỉ đạo của Ban Giám đốc cũng như những nỗ lực cố gắng của toàn
thể CBCNV trong việc mở rộng và phát triển thanh toán không dùng tiền mặt, trong thời
gian qua, hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt của chi nhánh Ngân hàng Công
thương tỉnh Nam Định đã đạt được những kết quả nhất định:
+) Thanh toán không dùng tiền mặt luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng thanh toán.
+) Tổ chức cung cấp dịch vụ thanh toán cho khách hàng với chất lượng tốt, quá
trình xử lý nghiệp vụ được thực hiện nhanh gọn, kịp thời, chính xác, không để xảy ra sai
sót, do vậy luôn được khách hàng tin cậy.
+) Thái độ phục vụ khách hàng của CBCNV Ngân hàng được nâng cao, thể hiện ở
sự tận tình, chu đáo, cởi mở khi giao dịch, tiếp xúc với khách hàng, mang lại cảm giác dễ
chịu, thoải mái và yên tâm cho khách hàng.
+) Chi nhánh đã duy trì và tiếp tục thực hiện hiện đại hóa công nghệ Ngân hàng
nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu thanh toán không dùng tiền mặt của khách hàng, kịp thời
khai thác thông tin giao dịch hàng ngày trên mạng hiện có.
+) Bên cạnh đó, Ngân hàng luôn thực hiện nghiêm chỉnh các quy chế về chứng từ,
thanh toán, quỹ tiền mặt và khả năng thanh toán, tạo nên được niềm tin đối với khách
hàng.
Trên đây là một số kết quả mà chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh Nam Định
đã đạt được trong công tác thanh toán không dùng tiền mặt, trên cơ sở đó, chi nhánh tiếp
tục phát huy những thế mạnh của mình, tạo thuận lợi cho việc mở rộng và phát triển hoạt
động thanh toán không dùng tiền mặt ở địa phương trong những năm tiếp theo.
2.4.2. Tồn tại.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt ở
chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh Nam Định vẫn còn những tồn tại, hạn chế sau:
+) Đối tượng thanh toán qua Ngân hàng còn hẹp, chủ yếu là các doanh nghiệp quốc
doanh, công ty cổ phần, các cơ quan Nhà nước; khu vực tư nhân chưa hoặc rất ít người sử
dụng các hình thức thanh toán qua Ngân hàng, trong khi đây là thị trường rộng chiếm 70%
thu nhập quốc dân.
+) Thủ tục thanh toán còn phức tạp, chưa thuận tiện. Các thể thức thanh toán còn
hạn chế, chưa đa dạng để phù hợp với nền kinh tế thị trường.
+) Hệ thống cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho hoạt động thanh toán không dùng
tiền mặt có mặt còn lạc hậu, chưa thể hiện được đây là một phương thức thanh toán hiện
đại của nền kinh tế.
+) Môi trường pháp lý về thanh toán không dùng tiền mặt chưa hoàn chỉnh nên việc
phân định trách nhiệm của các bên tham gia thanh toán chưa có cơ sở để xử lý khi có tranh
chấp hoặc mất mát tài sản.
Đó là những mặt còn bất cập trong thanh toán không dùng tiền mặt ở chi nhánh
Ngân hàng Công thương tỉnh Nam Định. Để khắc phục những vấn đề này, Ngân hàng cần
tìm hiểu, nghiên cứu những nguyên nhân tồn tại, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm để có thể
đưa ra các giải pháp tác động tích cực, hữu hiệu đến việc mở rộng và phát triển thanh toán
không dùng tiền mặt tại Ngân hàng.
2.4.3. Nguyên nhân tồn tại.
a/ Nguyên nhân khách quan.
- Do mặt bằng xã hội chưa cao về mọi mặt, trình độ phát triển của nền kinh tế còn ở
mức thấp… làm cho nhận thức của người dân bị hạn chế, đã ảnh hưởng không nhỏ đến
công tác thanh toán không dùng tiền mặt. ảnh hưởng từ thời kỳ bao cấp cùng với những rủi
ro mà thời kỳ này mang lại khiến người dân yên tâm hơn khi sử dụng tiền mặt, mặc dù họ
biết rằng sẽ không an toàn, hoặc có thể bị mất tiền hoặc bị tiền giả.
- Các văn bản pháp luật đang trong quá trình sửa đổi, hoàn thiện. Các văn bản về
thanh toán không dùng tiền mặt đã được ban hành nhưng nhìn chung vẫn còn nhiều vấn đề
bất cập, chưa thực sự phù hợp với nhu cầu sử dụng của người dân.
- Thu nhập của đại bộ phận người dân còn thấp so với yêu cầu sử dụng thanh toán
không dùng tiền mặt.
b/ Nguyên nhân chủ quan.
Có thể kể đến một vài nguyên nhân dẫn đến những tồn tại trong hoạt động thanh
toán không dùng tiền mặt ở chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh Nam Định như sau:
- Ngân hàng vẫn còn coi nhẹ hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, chưa coi
việc mở rộng và phát triển thanh toán không dùng tiền mặt là một chiến lược quan trọng
mang tính cấp thiết, nên các biện pháp tác động chưa thiết thực.
- Công tác tuyên truyền, quảng cáo các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt
chưa được coi trọng. Ngân hàng chưa chủ động tìm dến với khách hàng, chưa khơi dậy
những nhu cầu còn tiềm ẩn trong dân chúng.
- Trình độ tiếp cận công nghệ hiện đại của đội ngữ CBCNV Ngân hàng còn thấp,
chưa đáp ứng được yêu cầu chung trong thanh toán.
- Thái độ phục vụ của CBCNV Ngân hàng đã được cải thiện nhưng vẫn còn một số
cá nhân, bộ phận có thái độ không cởi mở, thân thiện với khách hàng, không tận tình giúp
đỡ, hướng dẫn trong việc lập và làm thủ tục thanh toán, gây tâm lý ngại sử dụng các công
cụ thanh toán không dùng tiền mặt ở khách hàng.
Qua việc nhìn nhận vấn đề một cách khách quan, thẳng thắn chỉ ra những hạn chế,
tồn tại, nghiên cứu những nguyên nhân tồn tại, chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh
Nam Định cần phải nhanh chóng có những biện pháp hữu hiệu để đẩy nhanh, đẩy mạnh
hơn nữa các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt nói riêng cũng như hoạt động kinh
doanh nói chung, từ đó xây dựng Ngân hàng Công thương tỉnh Nam Định trở thành một
Ngân hàng vững mạnh và phát triển ổn định.
Như vậy, để mở rộng và phát triển hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt thì chi
nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh Nam Định cần kịp thời nắm bắt và vận dụng các thành
tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin vào hoạt động Ngân hàng. Trên cơ sở những
kết quả đạt được và những bài học kinh nghiệm được rút ra, chi nhánh Ngân hàng Công
thương tỉnh Nam Định cần phải xây dựng những biện pháp cụ thể, hữu ích, phù hợp với
điều kiện cụ thể và tình hình chung của đất nước. Từ đó có những chiến lược để xây dựng
và hoàn thiện bộ máy tổ chức cũng như công nghệ thanh toán qua Ngân hàng; cùng với
tỉnh Nam Định và cả nước xây dựng hệ thống Ngân hàng Việt Nam trong sạch, vững
mạnh, nâng cao giá trị đồng Việt Nam trên trường quốc tế, góp tiếng nói chung vào tiến
trình hội nhập và phát triển của cả nước.
Chương 3
Một số giải pháp góp phần mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi
nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh Nam Định
3.1. Mục tiêu, phương hướng hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng Công
thương tỉnh Nam Định trong thời gian tới.
Bối cảnh nền kinh tế đang trong xu thế hội nhập, một mặt tạo nhiều cơ hội cho các
Ngân hàng thương mại cũng như các doanh nghiệp hoạt động, nhưng mặt khác cũng tạo ra
nhiều thách thức đối với nền kinh tế nước ta. Tỉnh Nam Định so với cả nước vẫn là một
tỉnh kinh tế chậm phát triển , thu nhập bình quân đầu người còn thấp, môi trường đầu tư
còn gặp nhiều khó khăn. Do đó đòi hỏi đội ngũ cán bộ công nhân viên Chi nhánh Ngân
hàng Công thương tỉnh Nam Định phải nỗ lực phấn đấu hết mình cả về chuyên môn
nghiệp vụ và phong cách ứng xử văn minh vì sự phát triển phồn thịnh của chi nhánh nói
riêng và của Ngân hàng công thương Việt Nam nói chung.
Xác định rõ khó khăn cơ bản trên, Chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh Nam
Định đã đề ra những mục tiêu, phương hướng hoạt động trong thời gian tới như sau:
Tiếp tục bám sát Nghị quyết XVI Đại hội Đảng bộ tỉnh Nam Định, sự chỉ đạo của
Uỷ ban nhân dân tỉnh, bám sát định hướng phát triển ba vùng kinh tế trên địa bàn tỉnh để
chủ động đầu tư mở rộng thị phần của Ngân hàng công thương tỉnh Nam Định.
Đẩy mạnh công tác huy động vốn, đa dạng hoá các loại hình tiền gửi dân cư, giao
chỉ tiêu cho từng điểm huy động vốn để phấn đấu, tích cực tiếp thị để khai thác các nguồn
tiền gửi của các tổ chức kinh tế – xã hội, tăng cường công tác tuyên truyền, quảng cáo về
các tiện ích Ngân hàng, mở rộng mạng lưới, nâng cao chất lượng phục vụ. Gắn với hiện
đại hoá công nghệ Ngân hàng để huy động tối đa nguồn vốn trong dân, nhất là nguồn vốn
trung dài hạn cả Việt Nam đồng và ngoại tệ, phấn đấu tăng trưởng nguồn vốn huy động từ
18%-20% so với năm 2004.
Tập trung nguồn vốn đẩy mạnh sản xuất công nghiệp, đặc biệt là những ngành kinh
tế mũi nhọn có tính đột phá như du lịch, dịch vụ, xuất khẩu. Trên cơ sở đó, lựa chọn các
dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh khả thi của mọi thành phần kinh tế để tiếp
tục cho vay phát triển ngành nghề, chuyển dịch cơ cấu kinh tế phục vụ ba chương trình
kinh tế của tỉnh. Khai thác triệt để tiềm năng, nguồn lực và lợi thế để tăng cường dư nợ với
tốc độ cao và đảm bảo chất lượng. Không có nợ quá hạn mới phát sinh, phấn đấu tăng
trưởng dư nợ lành mạnh từ 15%-18% so với năm 2004.
Nâng cao trình độ thẩm định của các chi nhánh bộ tín dụng để có thể làm tốt công
tác tư vấn cho khách hàng. Thực hiện tốt công tác phân loại khách hàng để có chính sách
phù hợp. Tiếp tục làm tốt hơn nữa công tác thanh toán, kể cả thanh toán trong nước và
quốc tế, thực hiện tốt chế độ kiểm toán tài chính, thu hút khách hàng ngày càng nhiều
nhằm mở rộng thị phần trong kinh doanh đối ngoại và nâng cao uy tín của Ngân hàng.
Tăng cường và phát huy vai trò kiểm tra, kiểm soát nội bộ, nâng cao chất lượng
kiểm soát tín dụng, thanh toán, hạn chế đến mức thấp nhất những sai sót trong nghiệp vụ
để ngăn ngừa những rủi ro sai phạm trong hoạt động tín dụng cũng như trong các hoạt
động chuyên môn khác.
Thường xuyên nâng cao trách nhiệm và phong cách giao dịch của cán bộ kho quỹ,
thực hiện nghiêm túc các quy định trong thu chi, vận chuyển và bảo quản tiền.
Triển khai hoàn thiện và đưa vào sử dụng chương trình dịch vụ rút tiền tự động qua
máy ATM tạo bước đột phá trong lĩnh vực công nghệ hiện đại trên địa bàn tỉnh Nam Định.
Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡngcán bộ cả về trình độ chuyên môn nghiệp vụ,
tin học và ngoại ngữ, lý luận chính trị; chú trọng nâng cao phẩm chất đạo đức của người
cán bộ Ngân hàng. Sắp xếp, bố trí, phân công nhiệm vụ cho phù hợp với năng lực, trình độ
cán bộ, tạo điều kiện cho cán bộ phát huy được hiệu quả trong công tác. Cải cách thủ tục
hành chính, tạo sự bình đẳng giưa Ngân hàng và khách hàng cùng song hành trên con
đường kinh doanh ngày càng phát triển và có hiệu quả hơn.
Phấn đấu nâng cao mức thu nhập để không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh
thần cho cán bộ công nhân viên.
Như vậy, với những mục tiêu, phương hướng cụ thể mà Ngân hàng đã đặt ra, tin
rằng Chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh Nam Định sẽ trở thành một Ngân hàng trong
sạch, vững mạnh, góp phần không nhỏ vào xây dựng tỉnh nhầngỳ một giàu đẹp và văn
minh hơn.
3.2. Định hướng để phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh
Ngân hàng Công thương tỉnh Nam Định.
Giai đoạn chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm (2001-2010) của Đảng và
nhà nước ta là giai đoạn có tính chất quyết định cho quá trình phát triển mới của nền kinh
tế Việt Nam trong vòng xoáy khách quan của các chuyển động hội nhập và toàn cầu hoá.
Các nguồn vốn vận động trong từng quốc gia cũng như giữa các quốc gia ngày càng đa
dạng hơn, do đó vấn đề an ninh tài chính cũng phức tạp hơn. Tuy nhiên, do tác động của
công nghệ mới và mặt tích cực của quá trình hội nhập chắc chắn sẽ góp phần đơn giản hoá
các công cụ và phương thức luân chuyển vốn đáp ứng nhu cầu đầu tư và lưu thông hàng
hoá. Trong bối cảnh đó, nền kinh tế Việt Nam nói chung, Ngân hàng Việt Nam nói riêng
đang vận động để chuyển mình theo kịp với dòng chảy mạnh mẽ của nền kinh tế – tài
chính thế giới.
Việc hoàn thiện, nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt ngày
cang đòi hỏi phải đẩy mạnh, đẩy nhanh tốc độ thanh toán cũng như mở rộng các tiện ích,
bảo đảm quá trình thanh toán thuận tiện và an toàn, giảm thiểu chi phí thanh toán.
Trên cơ sở đó đã mở rộng phạm vi thanh toán không dùng tiền mặt ra bộ phận dân
cư có thu nhập khá. ở thành thị, đó là những người có thu nhập ổn định từ tiền lương, tiền
công hoặc kinh doanh hộ gia đình. ở khu vực nông thôn tập trung vào những người co thu
nhập cao, ở những nơi có mạng lưới Ngân hàng hoạt động. Dần dần hình thành thói quen
sử dụng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt trong dân cư, đồng thời mở rộng phạm vi
thanh toán không dùng tiền mặt ra các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp này
chiếm một tỷ trọng không nhỏ trong nền kinh tế thị trường Việt Nam. Vì vậyphải tạo nhu
cầu cũng như thói quen thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực này. Làm như vậy
sẽ giảm đáng kể khối lượng tiền mặt trong lưu thông, góp phần làm trong sạch đồng tiền
Việt Nam, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn cũng như hàng hoá trong nền kinh tế.
Để có thể mở rộng phạm vi thanh toán không dùng tiền mặt, đòi hỏi tất yếu phải
hoàn thiện hơn nữa các hình thức thanh toán truyền thống, phát triển các sản phẩm, dịch vụ
mới, hiện đại, tiện ích hơn, đáp ứng các nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Vì vậy cần
đầu tư mở rộng vào một số vấn đề sau:
- Séc và thẻ điện tử phải có phạm vi thanh toán rộng, thuận tiện cho dân cư,
- Sử dụng các phương tiện thanh toán điện tử thay thế dần dần các chứng từ giấy,
góp phần đơn giản hoá quy trình, thủ tuch thanh toán, tiết kiệm thời gian công sức cho cả
Ngân hàng và khách hàng,
- Tăng cường uỷ nhiệm thanh toán định kỳ dài hạn, phối kết hợp với các tổ chức có
nguồn thu thường xuyên, lớn bằng tiền mặt như Kho bạc nhà nước, thuế, bảo hiểm, điện,
nước… Các đơn vị này cần sẵn sàng nối mạng và tham gia chương trình thanh toán điện
tử, chấp nhận thanh toán thẻ, khuyến khích khách hàng thanh toán không dùng tiền mặt
rộng rãi trong dân cư,
- Thành lập các trung tâm thanh toán Séc, thanh toán thẻ để đẩy nhanh tốc độ thanh
toán trong nền kinh tế.
Trên đây là một số định hướng để phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi
nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh Nam Định. Để thực hiện những định hướng trên cần
phải có những giải pháp nhất định. Qua thời gian thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng Công
thương tỉnh Nam Định kết hợp với kiến thức được học trong nhà trường, em mạnh dạn đề
xuất một số giải pháp nhằm mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt tại chi nhánh.
3.2.1. Hiện đại hoá công nghệ thanh toán.
Trong việc thực hiện chiến lược đầu tư cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Chi nhánh
Ngân hàng Công thương tỉnh Nam Định với các Ngân hàng trong cùng địa bàn và trong
toàn quốc để đảm bảo thống nhất trong triển khai thực hiện cơ chế thanh toán và các
phương thức thanh toán mới. Đổi mới phương thức giao dịch dựa trên công nghệ hiện đại
không chỉ là thuần tuý vè kĩ thuật mà còn là vấn đề văn hoá giao tiếp. Để phát triển một
nghiệp vụ thanh toán mới, Ngân hàng phải xây dựng một hệ thống cơ sở vật chất hoàn
thiện và đội ngũ cán bộ công nhân viên giàu kinh nghiệm, thái độ phục vụ tận tình, cởi mở,
phục vụ khách hàng chu đáo hơn.
Hiện đại hoá công nghệ là giải pháp bắt buộc mang ý nghĩa quyết định sự tồn tại và
phát triển của Ngân hàng trong xu thế cạnh tranh ngày càng gay gắt. Thế nhưng hiện đại
hoá công nghệ thường gắn liền vưói năng lực tài chính nên đòi hỏi nhu cầu vốn lớn. Vì
vậy, Ngân hàng cần phải tập trung cố gắng phát huy những thế mạnh của mình để tạo
nguồn vốn lớn, từ đó có thể từng bước hiện đại hoá công nghệ trong một tương lai không
xa.
3.2.2. Thực hiện tốt các quy định mới về thanh toán không dùng tiền mặt.
Hai năm gần đây những cơ quan chức năng đã chỉnh sửa và ban hành hàng loạt các
Nghị định, quyết định mới thay thế cho các Nghị định, quyết định không còn phù hợp với
xu hướng phát triển thanh toán không dùng tiền mặt hiện nay.
Nghị đinh số 64/2001/NĐ- CP ngày 20/09/2001 thay thế cho Nghị định số 91/CP
ngày 25/11/1993, Quyết định 226/2002/QĐ-NHNN ngày 26/03/2002 thay thế cho Quyết
định 22/QĐ/NH1 ngày 21/02/1994, Nghị định159/2003/NĐ- CP ngày 10/12/2003 thay thế
cho Nghị định 30/CP ngày 09/05/1996 và Thông tư số 07/TT- NH1 ngày 27/12/1996. Tất
cả các văn bản pháp quy mới này đòi hỏi Ngân hàng phải tìm hiểu và nắm rõ. Đặc biệt là
Nghị định159/2003/NĐ- CP ngày 10/12/2003 về cung ứng và sử dụng Séc bắt đầu có hiệu
lực từ ngày 01/04/2004. Trên cơ sở đó, Ngân hàng thực hiện đúng, đầy đủ các quy định để
tránh những sai sót đáng tiếc có thể xảy ra.
3.2.3. Nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt.
Yếu tố quyết định đến quá trình mở rộng và phát triển hoạt động thanh toán không
dùng tiền mặt đó là khách hàng phải mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng và thanh toán
qua Ngân hàng. Đây là cơ sở để Ngân hàng triển khai, cung cấp các dịch vụ tốt nhất cho
khách hàng. Vì vậy, khách hàng phải chủ động thu hút khách hàng mở tài khoản tìên gửi
và có quan hệ thanh toán với Ngân hàng, tạo thói quen sử dụng dịch vụ Ngân hàng trong
mọi lĩnh vực đời sống kinh tế- xã hội.
Ngân hàng từng bước thu hút khách hàng bằng chính những tiện ích mà Ngân hàng
mang lại thông qua sự quảng bá, sự thuận lưọi, nhanh chóng trong quá trình cung cấp sản
phẩm, dịch vụ cụ thể cho khách hàng.
Tạo sự đơn giản về mặt giao dịch, từ đó chất lượng dịch vụ sẽ được nâng cao. Ngân
hàng cũng nên công khai niêm yết phí dịch vụ, in và hướng dẫn cho khách hàng các bản
hướng dẫn sử dụng các công cụ thanh toán mà Ngân hàng cung ứng.
Dựa vào cơ sở vật chất có sẵn, phát triển nâng cao chất lượng các dịch vụ, đa dạng
hoá các sản phẩm sao cho phù hợp với xu hướng phát triển chung, đảm bảo tham gia có
hiệu quả vào các hệ thống thanh toán liên Ngân hàng củaNHNN.
3.2.4. Đào tạo, nâng cao và hoàn thiện chuyên môn cũng như đạo đức nghề
nghiệp của cán bộ công nhân viên Ngân hàng.
Do người dân chưa có thói quen sử dụng các tiện ích của Ngân hàng và theo ho sử
dụng các dịch vụ của Ngân hàng còn phiền phức. Do đó, Ngân hàng phải làm sao để khách
hàng tin tưởng vào mình, tin vào các lợi ích trong việc mở tài khoản thanh toán. Để làm
được điều này, cán bộ công nhân viên Ngân hàng ngoài việc hoàn thành nhiệm vụ thì còn
làm tốt công tác tư vấn, hướng dẫn người dân sử dụng các sản phẩm dịch vụ của Ngân
hàng mình. Bên cạnh đó phải đi sâu, tiếp cận các đối tượng có thu nhập ổn định, thường
xuyên có các khoản thanh toán đều kỳ cho các doanh nghiệp, các tổ chức cung ứng dịch vụ
như điện, nước, điện thoại, bảo hiểm nhân thọ hàng tháng…
Ngân hàng phải thực hiện kế hoạch phát triển nguồn nhân lực trên cơ sở đẩy mạnh
đào tạo toàn diện đội ngũ cán bộ công nhân viên Ngân hàng. Trong đó chú trọng đào tạo
nâng cao trình độ chuyên ngành tin học để có khả năng tiếp thu và ứng dựng các công
nghệ phần mềm hiện đại trong lĩnh vực kế toán, thanh toán. Trong kế hoạch đào tạo chung
của ngành cần tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ, tổ chức các đoàn đi học tập, khảo sát ở
các Ngân hàng bạn.
Bản thân đội ngũ cán bộ công nhân viên Ngân hàng phải thấ rõ những tác dụng mà
thanh toán không dùng tiền mặt mang lại. Họ phải là những người đi tiên phong trong việc
sử dụng thanh toán không dùng tiền mặt để khuyến khích sự tin tưởng của khách hàng,
khách hàng sẽ an tâm hơn khi sử dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trong
thanh toán. Mặt khác, khi bản thân đội ngũ cán bộ công nhân viên hiểu được sự mở rộng,
nâng cao và phát triển thanh toán không dùng tiền mặt là một trong những yếu tố quan
trọng ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành công, phát triển ổn định của Ngân hàng thì bản
thân sẽ không ngừng nỗ lực, phấn đấu và học tập nhằm nâng cao trình độ kĩ thuật nghiệp
vụ, đổi mới tác phong, thái độ giao dịch với khách hàng để đáp ứng được những đòi hỏi
ngày càng cao của nền kinh tế.
Thanh toán không dùng tiền mặt luôn tạo mối quan hệ trực tiếp giữa nhân viên
Ngân hàng với khách hàng, vì thế thái độ và phong cách phục vụ rất quan trọng. Nhận thức
được vấn đề này Chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh Nam Định trong những năm qua
luôn quan tâm hướng dẫn các nhân viên có thái độ niềm nở, nhiệt tình với khách hàng, tạo
cho khách hàng cảm giác thoải mái và an tâm khi đến với Ngân hàng. Nhưng để có kết quả
tốt hơn nữa, Ngân hàng nên yêu cầu các nhân viên của mình luôn trau dồi đạo đức nghề
nghiệp, học hỏi các quy tắc xử sự với khách hàng trong mọi tình huống, tránh gây căng
thẳng và khó chịu ở khách hàng.
Ngoài ra Ngân hàng cần có những quy định chặt chẽ về tác phong làm việc của đội
ngũ cán bộ công nhân viên Ngân hàng như: luôn đúng giờ, luôn mặc đồng phục theo đúng
quy định… để tạo hình ảnh đẹp về Ngân hàng.
Ngoài ra để mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt tại chi nhánh Chi nhánh Ngân
hàng Công thương tỉnh Nam Định thì chi nhánh cần phải chú ý đến năng lực tài chính, uy
tín của khách hàng, thực hiện tốt công tác Marketing; tuyên truyền, quảng cáo về hình ảnh
của chi nhánh cũng như các dịch vụ mà chi nhánh có thể cung cấp; mở rộng và phát triển
thêm mạng lưới chi nhánh ra ngoài thành phố Nam Định để thu hút thêm dân cư có giao
dịch với Ngân hàng...
3.3. Một số kiến nghị.
3.4.1. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước, Chính phủ và các ban ngành có liên
quan.
3.4.1.1. Kiến nghị chung về hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt.
Xã hội càng phát triển, thu Ngân hàngập của người dân ngày càng tăng, nhu cầu và
khối lượng dịch vụ được sử dụng ngày càng lớn. Do đó, nếu không triển khai đồng bộ các
biện pháp mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt thì khối lượng thanh toán trực tiếp
bằng tiền mặt ngày càng tăng, sẽ gây thêm nhiều áp lực cho xã hội, nhất là cho các Ngân
hàng, ảnh hưởng đến văn minh của xã hội và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Chính vì
thế, cần đưa chính sách thanh toán không dùng tiền mặt thành một chính sách Nhà nước
chứ không chỉ ở phạm vi của ngành. Khi đưa thanh toán không dùng tiền mặt thành chính
sách Nhà nước thì việc bắt buộc mở và sử dụng tài khoản trong kinh doanh sẽ trở thành
nguyên tắc, từ đó Nhà nước dễ kiểm tra việc chấp hành Thuế của mọi thành phần.
Cần phải quy định một số khoản bắt buộc thanh toán qua Ngân hàng, bắt đầu từ các
doanh nghiệp và tư nhân. Hầu như các đối tượng này đều có mở tài khoản tại Ngân hàng,
nhưng do nhiều lý do khác nhau vẫn thường xuyên thanh toán bằng tiền mặt. Vì vậy,
Chính phủ nên quy định một số khoản thanh toán ở một mức độ nào đó phải bắt buộc
thanh toán qua Ngân hàng, ví dụ như đối với những khoản thanh toán có nguồn gốc từ việc
chi tiêu công, các khoản chi mà nguồn tiền được lấy từ NSNN như: Thanh toán xây dung
cơ bản, thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ phục vụ công cộng....mà các khoản thanh toán đó
có nguồn gốc từ chi tiêu công thì nên bắt buộc thanh toán qua Ngân hàng. Vì như vậy Nhà
nước có thể kiểm soát chặt chẽ được những chi tiêu của mình để nhằm tránh những thất
thoát lãng phí và tránh được tiêu cực xảy ra như tham ô hối lộ…Ngoài ra đối với các đoíi
tượng có mức thu nhập ổn định theo tháng, theo kỳ, việc trả lương sẽ qua tài khoản cá
nhân. Chẳng hạn với thu nhập ổn đinh 5 triệu đồng/ tháng trở lên phải mở tài khoản cá
nhân, thanh toán chuyển khoản qua KBNN và các NHTM. Các khoản: Tiền điện, tiền
nước, phí điện thoại.... có tính chất định kỳ nên được thanh toán qua Ngân hàng.
Hoàn thiện các văn bản pháp quy có liên quan đến quyền và trách nhiệm của chủ tài
khoản trước pháp luật trong việc sử dụng các phương tiện thanh toán, đảm bảo an toàn,
tiện lợi và nhanh chóng. Sớm ban hanh Luật thanh toán để xử lý tổng thể phạm vi, đối
tượng thanh toán; các chủ thể tham gia thanh toán.... Khẩn trương hoàn thành việc xây
dựng và đưa vào vận hành hệ thống thanh toán tập trung, hiện đại; đẩy nhanh và mở rộng
giao dịch một cửa ở tất cả các chi nhánh NHTM chỉ thực hiện thanh toán thẻ do Ngân hàng
mình phát hành. Tập trung vào phát triển các loại hình dịch vụ thẻ như: Thẻ ATM, thẻ
thanh toán, thẻ tín dụng ....
Ngân hàng Nhà nước cần rà soát lại các chế độ, thể lệ về thanh toán, đặc biệt là về
thanh toán bằng hình thức thư tín dụng trong nước. Khách hàng từ lâu đã rất ít sử dụng
công cụ thanh toán này vì quy định khá phức tạp, khó hiểu, nó không phù hợp với nhu cầu
trong nước. Vì vậy nên loại bỏ hẳn, nếu không thì cần phải có quy định riêng về TTD
trong nước đẻ tạo cho khách hàng sự thuận lợi khi sử dụng công cụ thanh toán này.
Bộ Tài chính nên xem xét miễn giảm thuế các hoạt động dịch vụ của NHTM hiện
nay, tạo điều kiện cho Ngân hàng tích luỹ tài chính, đầu tư phát triển dịch vụ, đồng thời bù
đáp các chi phi tốn kém mà phí dịch vụ thu được không đủ để bù đắp.
Nghị định 64/2001/NĐ-CP có đề cập đến việc sử dụng chứng từ điện tử nhưng hiện
nay chứng từ điện tử vẫn chưa được áp dụng có hiệu quả và rộng rãI. Vì vậy để việc sử
dụng chứng từ điện tử thay chứng từ giáy có hiệu quả, NHNN càn sớm ban hành các quyết
định hướng dẫn cụ thể, chi tiết về chứng từ điện tử, đặc biệt trong lĩnh cực thanh toán quốc
tế.
3.4.1.2. Các kiến nghị về Séc.
Để tạo lập cơ sở pháp lý cho việc sử dụng Séc tại Việt Nam và phát triển dịch vụ
thanh toán không dùng tiền mặt trong dân cư, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã ban
hành các Nghị định, Thông tư như: Nghị định 30/CP ngày 09/05/1996 về quy chế phát
hành và sử dụng Séc, Thông tư 07/TT-NHNN ngày 27/12/1996 nhằm hướng dẫn thực hiện
Nghị định 30/CP. Gần đây nhất, vào ngày 10/12/2003 Chính phủ ban hành Nghị định
159/2003/NĐ-CP về cung ứng và sử dụng Séc, Nghị định này có hiệu lực từ ngày
01/04/2004.
Nhưng theo số liệu thống kê của NHNN về thực tế sử dụng Séc cho thấy thanh toán
bằng Séc chỉ chiếm 5% số món cũng như số tiền trong tổng TTKDTM. Cuối năm 2002 cả
nước có khoảng 586.540 tài khoản cá nhân với số dư tiền gửi là 7.208 tỷ đồng, nhưng phần
lớn các tài khoản này không hoạt động.
Qua việc tìm hiểu và nghiên cứu về Séc trong thời gian qua, em xin đưa ra một số
kiến nghị như sau:
* Thời hạn hiệu lực của Séc.
Theo Nghị định 30/CP thời hạn xuất trình của Séc là 15 ngày, nhưng ở Nghị định
159/2003/NĐ-CP thì thời hạn xuât trình của Séc là 30 ngày, 30 ngày có thể là dài vì như
thế sẽ không khuyến khích người thụ hưởng nhanh chóng nộp Séc vào Ngân hàng để thanh
toán.
Trong xu hướng phát triển hiện nay, đặc biệt trong phát triển trung hạn cần điều
chỉnh thời hạn thanh toán Séc xuống từ 10 - 12 ngày trong nửa cuối của thập niên, tiến tới
chỉ còn 8 ngày từ năm 2010. Có như vậy mới nhanh chóng đẩy nhanh tốc độ thanh toán
Séc qua Ngân hàng, từ đó đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, mang lại hiệu quả kinh tế
cho cả khách hàng và Ngân hàng.
* Mẫu Séc.
Mẫu Séc hiện nay có kích cỡ khá nhỏ so với yêu cầu nên việc ghi đầy đủ nội dung
của tờ Séc với nhiều người dân là khó khăn. Do đó, tờ Séc cần được thay thế về kích cỡ, về
các yếu tố trên tờ Séc; đặc biệt nên in những quy định cơ bản về nội dung tờ Séc lên bìa
của quyển Séc để khách hàng tiện trong sử dụng hơn. Mẫu Séc mới phải phù hợp và đơn
giản hơn để mọi đối tượng khách hàng đều có thể sử dụng dễ dàng, ví dụ như người phát
hành Séc chỉ cần ghi 3 dòng quan trọng nhất là số tiền, tên người (đơn vị) thụ hưởng và ký
tên người ký phát, còn các tiêu chí khác được in sẵn hoặc coi là phụ.
* Địa điểm xuất trình Séc.
Theo Nghị định 159/2003/NĐ-CP tại chương 4 điều 26 khoản 3 quy định, địa điểm
xuất trình để yêu cầu thanh toán Séc là địa điểm ghi trên tờ Séc, nếu không ghi thì địa
điểm thanh toán sẽ là địa chỉ của người thực hiện thanh toán hoặc là tại trụ sở chính của
người thực hiện thanh toán. Đây là một quy định gây khó khăn cho Ngân hàng, không phù
hợp với thực tế. Vì thế nên điều chỉnh khoản 3 này thành: địa điểm xuất trình để yêu cầu
thanh toán là địa điểm ghi trên Séc, nếu không ghi thì địa điểm thanh toán sẽ là địa chỉ của
người thực hiện thanh toán hoặc bất kỳ chi nhánh nào của người thực hiện thanh toán.
* Quyền lợi của người thụ hưởng Séc.
Theo quy định, nếu chữ ký của người ký phát không đúng với chữ ký mẫu đăng ký
tại nơi mở tài khoản thì tờ Séc không có hiệu lực, điều này làm ảnh hưởng đến quyền loqị
của người thụ hưởng vì người thụ hưởng không biết được người ký phát có ký đúng chữ
ký mẫu đã đăng ký hay không.
Quy định này đúng với thông lệ quốc tế, nhưng tại Việt Nam chưa tạo lập được điều
kiện để kiểm tra chữ ký của người phát hành; do vậy, trước mắt cần phảI bổ sung thêm
điều khoản về các hành vi bị nghiêm cấm tại điều 44 chương 9 như sau: Cấm cố ý phát
hành tờ Séc có chữ ký khác với chữ ký đã đăng ký tại Ngân hàng (tại tổ chức thực hiên
thanh toán).
* Một số kiến nghị khác.
Cần tiến hành ban hành Luật Séc để chuẩn hoá việc sử dụng Séc ở Việt Nam theo
thông lệ quốc tế.
Nhanh chóng thành lập trung tâm thanh toán bù trừ Séc để điều phối các quan hệ
thanh toán Séc.
Cần phải có những quy định rõ ràng để xử lý việc vi phạm những quy định trong
thanh toán Séc, vi phạm thế nào thì bị xử phạt hành chính, vi phạm như thế nào thì bị truy
cứu trách nhiệm hình sự; đồng thời phải quy định rõ mức phạt đối với tong hành vi vi
phạm cụ thể cả về số tiền phạt cũng như lãI suet phạt là bao nhiêu.
Riêng đối với Séc bảo chi, trong Nghị định quy định người phát hành phảI đến
Ngân hàng làm thủ tục chuyển số tiền định phát hành Séc bảo chi lưu ký vào một tài khoản
nhất định. Nhưng với trình độ khoa học công nghệ hiện nay, việc quản lý, theo dõi hoàn
toàn trên máy tính và đã có quy chế về chứng từ điện tử thì không cần thiết phải làm như
vậy. Việc quản lý số dư tài khoản tiền gửi của khách hàng có thể được thực hiện trên cùng
một tài khoản bằng cách khoá số dư trên tìa khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng để
đảm báo Séc bảo chi, điều này sẽ giúp Ngân hàng đỡ công đoạn phải có bút toán chuyến
khoản mà đồng thời vẫn quản lý được Séc bảo chi.
3.4.1.3. Kiến nghị đối với Uỷ nhiệm chi – Séc chuyển tiền.
Uỷ nhiệm chi là phương tiện gắn liền với chuyển tiền diện tử trong cùng hệ thống
hoặc trong hệ thống thanh toán điện tử liên Ngân hàng. Nhìn chung, phương tiện này được
khách hàng ưa dùng vì thời gian thanh toán nhanh, nhưng để nó hoàn thiện hơn các Ngân
hàng phải nhanh chóng là thnàh viện trực tiếp hoặc gián tiếp của hệ thống thanh toán điện
tử liên Ngân hàng, thì mới đáp ứng được nhu cầu, đòi hỏi ngày một cao của các khách
hàng.
Uỷ nhiệm chi là phương thức thanh toán chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng phương
tiện thanh toán. Vì vậy, để hình thức thanh toán này ngày càng phát triển và hoàn thiện thì
cần phải điều chỉnh một số vấn đề sau:
Khi đơn vị mua đã lập UNC để thanh toán, nếu trên tài khoản không còn tiền hoặc
không đủ tiền thì Ngân hàng không nên trả lại UNC mà cho thanh toán ngay số tiền còn
trên tài khoản và giữ lại để theo dõi, đồng thời có các quy định về tính phạt chậm trả, phạt
phát hành quá số dư.
Cần quy định cụ thể các hình thức xử phạt khách hàng nếu khách hàng có vi phạm,
về phát hành quá số dư thì mức phạt được tính theo công thức:
(Số tiền trên UNC- số dư tài khoản)*Số ngày chậm trả*Lãi suất nợ quá hạn
360 ngày
Với các khoản phải thanh toán thường xuyên, đều đặn như: Tiền điện, tiền nước,
phí điện thoại.... của các doanh nghiệp nên quy định bắt buộc phải thanh toán qua Ngân
hàng bằng UNT. Như vậy, hàng tháng thay vì phải đến nơi cung cấp các dịch vụ điện,
nước, điện thoại.... để trả tiền, khách hàng chỉ cần uỷ nhiệm cho Ngân hàng tự động trích
chuyển từ tài khoản của mình để thanh toán cho các tổ chức cung ứng dịch vụ nói trên, khi
đó, lượng tiền mặt trong lưu thông giảm đi rất nhiều.
UNC là do người mua lập để trả tiền cho người bán, do đó, để đảm bảo quyền lợi
của người bán nên quy định: Người mua phải lập UNC gửi đến Ngân hàng chậm nhất là 2
ngày sau khi nhận được hàng để trả tiền cho người bán.
Còn đối với Séc chuyển tiền, nên rút ngắn hiệu lực của Séc chuyển tiền xuống còn
15 ngày để đảm bảo chứng từ được luân chuyển nhanh chóng.
3.4.1.4. Kiến nghị đối với Uỷ nhiệm thu.
ở chi nhánh NHCT tỉnh Nam Định hai năm gần đây hình thức thanh toán bằng UNT
hầu như rất ít được sử dụng. Để hình thức thanh toán này phát huy được ưu điểm của mình
và được khách hàng sử dụng nhiều hơn thì hình thức thanh toán bằng UNT, thì cần phải có
những quy định đối với các tố chức cung ứng hàng hoá, dịch vụ về việc sử dụng UNT,
chẳng hạn quy định khi người bán và người mua tiến hành giao dịch cần ký thoả thuận với
nhau là sẽ thanh toán bằng UNT qua Ngân hàng.
Để khuyến khích khách hàng sử dụng UNT. Bộ Tài chính nên xem xét giảm Thuế
giá trị gia tăng cho các đối tượng tham gia thanh toán hàng hoá, dịch vụ bằng UNT.
3.4.1.5. Kiến nghị đối với Thẻ thanh toán.
Phương thức thanh toán này mới được áp dụng tại chi nhánh NHCT tỉnh Nam Định
nên hầu như chưa được sử dụng rộng rãi; tuy nhiên, qua một số thăm dò, thử nghiệm, kết
quả đạt được rất khả quan, khuyến khích phát triển một thị trường đầy hứa hẹn. Dưới đây
là một số kiến nghị chung cho phương thức Thẻ thanh toán hiện đang sử dụng tại Việt
Nam:
Tăng số các Ngân hàng phát hành Thẻ thanh toán để khách hàng có nhiều cơ hội lựa
chọn hơn; đa dạng hoá các loại Thẻ thanh toán như: Thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ, thẻ rút tiền
mặt, thẻ phát hành Séc.... ; có các mức quy định tối thiểu khác nhau về số tiền mở tài
khoản sử dụng Thẻ để phù hợp với các mức thu nhập khác nhau của người dân; từ đó
khuyến khích, thu hút người dân sử dụng Thẻ ngày càng nhiếu hơn.
Nhanh chóng xây dựng, phát triển thêm nhiều cơ sở chấp nhận thanh toán Thẻ, đặc
biệt là ở những thành phố có nhiều khách du lịch như: Huế, Đà Lạt, Nha Trang, Quảng
Ninh....
Hệ thống Ngân hàng cần phải mạnh dạn đột phá phát triển cơ sơ hạ tầng, kỹ thuật
phục, cho việc mở rộng và phát triển Thẻ, tạo thuận lợi cho việc sử Thẻ của người dân,
giúp cho người dân nhận thấy thanh toán bằng Thẻ là thuận tiện, nhanh chóng, an toàn và
hiệu quả.
NHNN cần bổ sung các văn bản pháp lý quy định việc cung cấp dịch vụ ATM
nhằm tạo một hành lang pháp lý chung về xử lý các giao dịch tại máy ATM, cơ chế thanh
toán bù trừ giữa các Ngân hàng thành viên, thống nhất quy trình xử lý nghiệp vụ, hạch
toán kế toán....
Khẩn trương thành lập một trung tâm xử lý giao dịch ATM dể có thể kết nối các
máy ATM, xử lý chuyển mạch các giao dịch ATM của các Ngân hàng khác nhau. Thực
hiện thanh toán liên Ngân hàng với các dịch vụ hiện đại như: Internet Banking, Home
Banking.... nhằm tăng khả năng ưu việt của các công cụ thanh toán.
3.4.1.6. Kiến nghị đối với Thư tín dụng.
Đây là hình thức thanh toán ít được sử dụng trong thanh toán không dùng tiền mặt ,
bởi các quy định về Thư tín dụng rất phức tạp, khó hiểu, khó thực hiện, đặc biệt là Thư tín
dụng trong nước. Do đó cần phải có các quy định mới về Thư tín dụng, tạo điều kiện thuận
lợi cho khách hàng sử dụng hình thức thanh toán này một cách có hiệu quả, ngoài ra nên
xây dựng một văn bản riêng về Thư tín dụng nội địa.
3.4.2. Kiến nghị với Ngân hàng Công Thương Việt Nam.
- Cần phải đầu tư vốn cho việc mua sắm các trang thiết bị, đặc biệt là các máy tính
với công suất và hiệu năng sử dụng cao để trang bị cho các chi nhánh Ngân hàng của
mình. Trên cơ sở đó, hiện đại hoá nghiệp vụ Ngân hàng, đổi mới và hoàn thiện hệ thống
thanh toán. Lựa chọn các giải pháp đầu tư sao cho có hiệu quả nhất, trên cơ sở hệ thống kỹ
thuật mới theo hướng mở để có thể ghép nối và phát triển thuận lợi các hình thức thanh
toán không dùng tiền mặt trong hiện tại cũng như trong tương lai.
- Dựa trên các quyết định, quy định, thông tư… của Chính phủ, NHNN; chi nhánh
NHCT tỉnh Nam Định cần có những cải tiến quy trình nghiệp vụ, đưa ra các quy định về
thanh toán không dùng tiền mặt phù hợp với tình hình thực tế, đặc điểm hoạt động của hệ
thống Ngân hàng mình.
- Đẩy nhanh, đẩy mạnh việc áp dụng các chứng từ điện tử vào các hình thức thanh
toán hiện có.
- Đảm bảo hệ thống thanh toán Ngân hàng phải thực hiện được các yêu cầu sau
nhằm tạo lợi thế cạnh tranh trong hoạt động của hệ thống NHCT:
+ Thời gian thanh toán nhanh.
+ Phải là hệ thống thanh toán mở dựa trên nền tảng công nghệ thâng tin hiện đại.
+ Chi phí thanh toán thấp.
+ Đảm bảo quá trình thanh toán chính xác, an toàn và ổn định.
+ Giảm thiểu rủi ro đến mức tối đa có thể trong thanh toán.
- Tăng cường giám sát, kiểm tra và kịp thời ngăn chặn các hành vi vi phạm nhằm
hạn chế rủi ro, thất thoát do công tác thanh toán gay ra đối với bất cứ nguyên nhân chủ
quan, khách quan nào.
- Khẩn trương đưa vào vận hành hệ thống thanh toán tập trung, hiện đại; mở rộng
giao dịch một cửa ở tất cả các chi nhánh từ Trung ương đến địa phương.
- Phải tuyên truyền, quảng cáo các hoạt động thanh toán của Ngân hàng và những
tiện ích của việc mở tài khoản và thanh toán qua tài khoản. Đây phải
là việc làm thường xuyên, liên tục, tích cực, chứ không phải qua loa, đại khái, mang tính
chất hình thức.
- Phải quan tâm đến đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ
cho các CBCNV Ngân hàng. Đặc biệt chú ý đến việc đào tạo tốt cán bộ tiếp thị có đủ kiến
thức để phân tích, tiếp cận thị trường, có được những đối sách thích hợp với từng đối
tượng khách hàng.
- Phát triển nhanh, mạnh hình thức thanh toán thẻ, mở rộng mạng lưới đặt máy
ATM, đảm bảo việc phục vụ 24/24 giờ.
- Tham gia vào thanh toán điện tử liên hàng của NHNN, từ đó phát triển, mở rộng
và hoàn thiện các công cụ thanh toán của mình.
3.4.3. Kiến nghị với chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh Nam Định
Để khuyến khích mọi người sử dụng các dịch vụ thanh toán qua Ngân hàng, chi
nhánh NHCT tỉnh Nam Định cần phải có một số giải pháp sau:
- Tổ chức thăm hỏi, tặng quà cho các khách hàng có giao dịch thanh toán thường
xuyên với Ngân hàng vào những dịp quan trọng như ngày Tết, ngày thành lập Ngân
hàng…
- Phối hợp với các cơ quan chức năng Nhà nước trên địa bàn để thúc đẩy sự chấp
nhận các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt một cách rộng rãi, phổ biến trong dân
chúng.
- Cử cán bộ xuống tận các vùng nông thôn trong địa bàn Tỉnh để tuyên truyền, vận
động bà con gửi tiền vào Ngân hàng, sử dụng các dịch vụ Ngân hàng cung cấp.
- Tập trung nguồn vốn, tự thân vận động trang bị cho Ngân hàng mình đầy đủ cơ sở
vật chất kỹ thuật hiện đại, đặc biệt là hệ thống máy tính.
- Rút ngắn khoảng cách chênh lệch trình độ với các Ngân hàng bạn trên cùng địa
bàn bằng việc tập trung hoá, hiện đại hoá công nghệ thanh toán và công nghệ thông tin;
cần thiết phải có một đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao để có thể xử lý kịp thời
các sự cố khi xảy ra.
- Nên công khai niêm yết các quy định mới, cách thức mở tài khoản, dịch vụ
chuyển tiền điện tử ....với giá phí cụ thể để khách hàng có cơ hội tìm hiểu và lựa chọn.
- Với phương châm khách hàng là thượng đế, các CBCNV Ngân hàng cần thực hiện
tốt chính sách chăm sóc khách hàng, có thái độ đón tiếp niềm nở, phục vụ tận tình, chu
đáo, gây thiện cảm với khách hàng bởi khi khách hàng đã tín nhiệm thì họ sẽ là người
quảng cáo tốt nhất cho Ngân hàng.
Như vậy, thanh toán trong nền KT-XH nói chung, thanh toán không dùng tiền mặt
qua các hệ thống Ngân hàng nói riêng ở Việt Nam đang là vấn đề dược quan tâm, nhất là
các tổ chức thanh toán trong thương mại điện tử đã phát triển không biên giới. Vì vậy, cần
tìm mọi giải pháp hưu hiệu nhằm đáp ứng công tác thanh toán nói chung và thanh toán
không dùng tiền mặt nói riêng nhanh chóng, an toàn, hiệu quả, giảm thiểu rủi ro. Chỉ có
thể đặt các giải pháp về thanh toán trong tổng thể giai pháp chung của Quốc gia, lúc đó
Ngân hàng mới thự sự thành trung tâm thanh toán đối với mọi thành phần kinh tế, thu hút
được toàn bộ nguồn vốn của nền kinh tế và của dân cư; tạo nguồn lực để đầu tư phát triển
nền kinh tế Việt Nam, nâng cao năng lực cạnh tranh khi mở cửa thị trường tài chính theo
Hiệp định AFTA và Hiệp định thương mại Việt-Mỹ.
luận
Những năm gần đây, ở Việt Nam công tác thanh toán không dùng tiền mặt đã có
nhiều đổi mới, tốc độ thanh toán được nâng lên rõ rệt, thu hút rộng rãI các tổ chức kinh tế
và dân cư đến với dịch vụ thanh toán của Ngân hàng; các NHTM không đơn thuần chỉ
cạnh tranh về các sản phẩm truyền thống như: Tiền gửi, tiền vay, lãi suất…nữa mà cao hơn
là cạnh tranh về các dịch vụ Ngân hàng trong đó có thanh toán không dùng tiền mặt.
Thanh toán không dùng tiền mặt với ưu thế nhanh chóng, chính xác, an toàn, hiệu
quả, đã và đang trở thành một trong những vũ khí sắc bén mà các Ngân hàng có thể sử
dụng để chiến thắng trong môi trường cạnh tranh. Vì vậy, mở rộng và phát triển thanh toán
không dùng tiền mặt nói riêng, các dịch vụ Ngân hàng nói chung đã trở thành tất yếu
khách quan để đáp ứng yêu cầu đổi mới của nền kinh tế, nhanh chóng hoà nhập với tiến
trình phát triển chung của thế giới.
Trong thời gian thực tập tại chi nhánh NHCT tỉnh Nam Định, em đã được tiếp cận
phần nào với các nghiệp vụ thanh toán nói chung và thanh toán không dùng tiền mặt nói
riêng, qua đó rút ra các ưu, nhược điểm của các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt,
từ đó mạnh dạn đề xuất một số giải pháp góp phần mở rộng thanh toán không dùng tiền
mặt tại chi nhánh NHCT tỉnh Nam Định.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh Nam Định, thực trạng và giải pháp.pdf