Thực hiện công cuộc đổi mới, nhất là sau hơn 12 năm tái lập tỉnh từ 1997 đến
nay trong điều kiện còn gặp nhiều khó khăn, song Đảng bộ và nhân dân thành phố Vĩnh
Yên đã tranh thủ thời cơ phát huy lợi thế, vận dụng sáng tạo các chủ trương chính sách
của Đảng và Nhà nước đoàn kết vượt qua thách thức khó khăn, đã thu được nhiều kết
quả đặc biệt quan trọng, kinh tế liên tục phát triển, năm sau cao hơn năm trước, an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội được ổn định và giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần
ngày càng được nâng cao; bộ máy nhà nước trong hệ thống chính trị của thành phố ngày
càng được nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý. Có được kết quả như vậy, có sự lãnh
đạo đúng đắn, toàn diện trên các lĩnh vực của Thành uỷ Vĩnh Yên, trong đó có lãnh đạo
CCHC nhà nước của thành phố.
96 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2979 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thành ủy Vĩnh Yên - Tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo cải cách hành chính nhà nước trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ửa" đối với các ngành kho bạc, tài chính, thuế, xây dựng cơ
bản, công an… Thiết lập đường dây điện thoại nóng tại các cơ quan hành chính. Thực
hiện cơ chế "Một cửa liên thông" giữa các cơ quan liên quan ở lĩnh vực thu hút đầu tư,
cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Thực hiện tiêu chuẩn hoá bộ phận "một cửa" ở tất cả các ngành, các cấp, bố trí các bộ,
công chức có đủ tiêu chuẩn về trình độ, năng lực, phẩm chất làm việc ở bộ phận "một
cửa".
- Cải cách tổ chức bộ máy:
Tiến hành rà soát, điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ từng cơ quan để khắc phục sự
chồng chéo, bảo đảm một nội dung công việc chỉ giao cho một cơ quan phụ trách và
chịu trách nhiệm. Đánh giá hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp, từng bước
chuyển sang hoạt động theo cơ chế tự chủ tự chịu trách nhiệm về tổ chức, biên chế và
kinh phí không dựa vào ngân sách nhà nước. Tổ chức thực hiện có hiệu quả những quy
định về phân cấp giữa các cấp chính quyền địa phương theo Nghị quyết 08/2004 của
Chính phủ và các quy định của Nhà nước, trước mắt tập trung vào các lĩnh vực bức xúc,
có quan hệ nhiều với người dân và doanh nghiệp như: đất đai, xây dựng, thu hút đầu tư,
quản lý ngân sách, đô thị, tổ chức cán bộ…
Đẩy mạnh xã hội hoá các lĩnh vực: giáo dục, y tế, văn hoá thông tin, thể dục thể
thao, khoa học và công nghệ. Gắn cải cách tổ chức bộ máy với bố trí sắp xếp đội ngũ
cán bộ, công chức, viên chức theo hướng tinh, gọn, nâng cao chất lượng hiệu quả quản
lý và điều hành.
- Xây dựng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức:
Tiếp tục đổi mới công tác tuyển dụng công chức, viên chức trên cơ sở công khai,
dân chủ để tiếp nhận được những người thực sự có năng lực chuyên môn nghiệp vụ,
phẩm chất đạo đức tốt và tư tưởng chính trị vững vàng vào làm việc trong các cơ quan
của Đảng và Nhà nước. Tiến hành rà soát, đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức trên cơ sở xây dựng tiêu chuẩn, chức danh cho cán bộ phù hợp với loại
hình công việc và vị trí công tác, gắn việc xây dựng và thực hiện tiêu chuẩn đạo đức, lối
sống trong cán bộ đảng viên theo tinh thần Chỉ thị số 14-CT/TU ngày 05/8/2005 của
Ban Thường vụ Tỉnh uỷ. Tiến hành quy hoạch và xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao trình độ năng lực đội ngũ cán bộ hiện có. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu cán
bộ, công chức để từng bước chuyển sang quản lý cán bộ, công chức bằng hệ thống tin
học ở các cơ quan HCNN từ thành phố đến cơ sở.
- Chú trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện phẩm chất đạo đức,
tác phong văn hoá ứng xử của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Tích cực đào tạo,
bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng hành chính tin học, ngoại ngữ đồng thời cử
cán bộ, công chức, viên chức đi đào tạo sau đại học, đào tạo ở nước ngoài, nhất là đối
với các ngành kinh tế, ngoại ngữ và khoa học kỹ thuật. Tập trung đào tạo bồi dưỡng
nâng cao trình độ mọi mặt cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã bảo đảm tiêu chuẩn
quy định. Thực hiện tốt các chế độ, chính sách của Nhà nước đối với cán bộ, công chức,
viên chức. Bổ sung, sửa đổi chế độ chính sách ưu tiên, khuyến khích về vật chất và tinh
thần đối với người có tài, có trình độ cao (tiến sĩ, thạc sĩ, chuyên gia giỏi). Có cơ chế
chính sách thoả đáng để phát triển nguồn nhân lực của địa phương.
Tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, thực hiện tốt chế độ thanh tra, kiểm
tra công vụ ở các cấp, trong đó có chế độ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn
vị.
- Cải cách tài chính công:
Thực hiện các tốt quy định của Chính phủ về chế độ tư chủ, tự chịu trách nhiệm
về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan hành chính và
trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và
tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công. Khuyến khích phát triển các cơ sở
cung ứng dịch vụ ngoài công lập. Gắn việc khoán chi hành chính với thực hành tiết
kiệm, chống tham nhũng, lãng phí trên cơ sở thực hiện tốt pháp lệnh về quy chế dân chủ
ở xã, phường, dân chủ trong các cơ quan doanh nghiệp.
- Cải cách hành chính công:
Tiếp tục thực hiện tốt việc khoán chi ngân sách đối với các phòng, ban, đơn vị
sự nghiệp xã, phường với tinh thần thực hành tiết kiệm tạo điều kiện để cán bộ công
chức, viên chức, tập thể kiểm tra, giám sát quá trình quản lý vốn, tài sản nhà nước theo
Nghị định 130/NĐ-CP ngày 17/10/2005 của Chính phủ về chế độ tự chủ tự chịu trách
nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với cơ quan nhà nước.
Đẩy mạnh xã hội hoá trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thông tin, thể dục,
thể thao, khoa học - công nghệ, phát huy trách nhiệm và tính sáng tạo chủ động của các
ngành này nhằm đáp ứng nhu cầu của nhân dân đồng thời tạo động lực cho đội ngũ cán
bộ, công chức.
Bố trí đủ nguồn tài chính và nhân lực cho việc thực hiện các nhiệm vụ CCHC;
hàng năm HĐND - UBND thành phố tiến hành cân đối đủ kinh phí để thực hiện các
chương trình, nội dung, nhiệm vụ về CCHC bảo đảm hiệu quả.
- Hiện đại hoá nền HCNN:
Đổi mới phương thức quản lý, điều hành của các cơ quan HCNN các cấp; tăng
cường quản lý bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình thanh tra, kiểm tra
và giám sát. Xúc tiến mạnh việc hiện đại hoá công sở và nâng cao chất lượng quản lý,
điều hành của các cơ quan HCNN theo hướng hiện đại. Thực hiện tốt việc áp dụng hệ
thống quản lý, điều hành của các cơ quan quản lý HCNN theo hướng hiện đại. Thực
hiện tốt việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO - 9001 - 2000
trong lĩnh vực CCHC.
Thực hiện tốt Quy chế 129/2007/QĐ-TTg ngày 02/8/2007 của Thủ tướng Chính
phủ về việc thực hiện quy chế văn hoá công sở tại các cơ quan HCNN góp phần xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của thành phố chuyên nghiệp, hiện đại phù
hợp với các quy định và chủ trương hiện đại hoá nền HCNN.
Đẩy mạnh việc ứng dụng tin học hoá trong các hoạt động quản lý nhà nước tại
các phòng, ban của thành phố và các xã, phường tiến tới tất cả các cơ quan hành chính
áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý hành chính. Thực hiện cơ chế "Một cửa liên
thông" trên mạng về các lĩnh vực cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và cấp giấy
chứng nhận đầu tư; từng bước xây dựng "tỉnh điện tử" để nâng cao hiệu lực, hiệu quả
chỉ đạo điều hành tập trung, thống nhất của hệ thống cơ quan hành chính các cấp.
3.2. NHỮNG NHÓM GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH
ĐẠO CỦA THÀNH UỶ ĐỐI VỚI CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC HIỆN
NAY
3.2.1. Tăng cường công tác tư tưởng nhằm nâng cao nhận thức cho cán bộ
đảng viên và nhân dân về công tác cải cách hành chính và thành uỷ lãnh đạo cải
cách hành chính nhà nước
Công tác tư tưởng là một bộ phận cấu thành quan trọng trong toàn bộ hoạt động
của Đảng; là vũ khí sắc bén, nhằm tuyên truyền cổ vũ tập hợp nhân dân xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân theo Đảng làm cách mạng, giáo dục chính trị tư tưởng cho đảng
viên và toàn thể nhân dân thực hiện tốt đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước. Bất kỳ một đảng viên cầm quyền nào cũng đều phải làm công việc
giáo dục đảng viên của mình, đề ra những biện pháp thích hợp tuyên truyền giáo dục
mọi tầng lớp nhân dân thực hiện chính sách pháp luật của Nhà nước.
Với vị trí vai trò và tầm quan trọng của công tác tư tưởng nêu trên. Để tăng
cường công tác tư tưởng nhằm nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân,
về công tác CCHC, Thành uỷ xác định tiếp tục nâng cao chất lượng công tác thông tin
tuyên truyền phổ biến để cán bộ công chức, viên chức, doanh nhân, người dân nhận
thức đúng về nội dung, nhiệm vụ, vai trò của CCHC với yêu cầu nền hành chính phải
phục vụ nhân dân, vì nhân dân; cán bộ công chức, viên chức là công bộc của nhân dân,
có trách nhiệm với nhân dân. Đồng thời tăng cường giáo dục kiến thức pháp luật cho
người dân để người dân hiểu sâu hơn về thẩm quyền giải quyết của các cơ quan nhà
nước, hạn chế tới mức thấp nhất việc người dân yêu cầu cơ quan nhà nước giải quyết vụ
việc không đúng chức năng thẩm quyền, nhất là trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
giải quyết các chế độ chính sách xã hội. Cần tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến
thông tin để mọi cán bộ, công chức và người dân nhận thức đúng về cải cách bộ máy
Nhà nước và CCHC. Tăng cường công tác phổ biến, quán triệt các quy định của Đảng,
trước hết là đối với người đứng đầu các cơ quan, tổ chức về công tácCCHC và Đảng
lãnh đạo CCHC nhằm tạo được sự chuyển biến thực sự trong nhận thức và hành động.
Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của các cấp uỷ, tổ chức đảng, trước hết là
người đứng đầu cấp uỷ về công tác CCHC và Đảng lãnh đạo CCHC.
Đẩy mạnh việc học tập, quán triệt về chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà
nước trong nội bộ cán bộ, công chức từ thành phố đến cơ sở về CCHC; về vai trò và
chức năng quản lý nhà nước; về xây dựng bộ máy nhà nước nói chung và bộ máy
HCNN nói riêng, trong tình hình mới, điều kiện mới; về vị trí, vai trò, ý nghĩa, tác dụng
của công tác CCHC và vai trò, trách nhiệm của cấp uỷ trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức
thực hiện công tác CCHC; về trách nhiệm của các tổ chức đảng, uỷ ban kiểm tra, của
cán bộ, đảng viên đối với công tác kiểm tra, giám sát đối với cCHC và sự lãnh đạo của
cấp uỷ Đảng các cấp đối với CCHC… nhằm góp phần nâng cao được nhận thức về chủ
trương, quan điểm về CCHC, để từ đó có ý thức và hành động đúng trong đội ngũ cán
bộ, công chức nhà nước của thành phố.
Phải làm cho mọi người thông suốt CCHC không phải là công việc chỉ riêng của
các cơ quan nhà nước và cũng không phải chỉ tự cơ quan nhà nước làm được, bởi vì nó
tác động trực tiếp đến mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội. Do vậy, phải huy
động cho được mọi lực lượng xã hội tham gia theo một chương trình kế hoạch cụ thể,
có bước đi thích hợp với từng địa phương, đơn vị, tập trung chỉ đạo hướng vào các nội
dung trọng yếu trong từng thời gian nhất định.
Trước mắt, cần thực hiện một số biện pháp cụ thể như sau:
- Mở chuyên mục xung quanh chủ đề về CCHC trên các phương tiện thông tin
đại chúng của thành phố.
- Mở hộp thư để nhân dân góp ý kiến cho các cơ quan hành chính về công tác
CCHC.
- Biên soạn tài liệu, phát hành, phổ biến rộng rãi chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước, biện pháp tổ chức thực hiện của Uỷ ban nhân dân thành phố, tài liệu
khoa học, tài liệu trao đổi kinh nghiệm cho cán bộ công chức về CCHC.
- Nghiên cứu biên soạn chương trình bồi dưỡng kiến thức CCHC cho thủ trưởng
các đơn vị, chuyên viên chuyên trách của các đơn vị và cộng tác viên của Ban chỉ đạo
CCHC thành phố.
- Nghiên cứu biên soạn, bổ sung chuyên đề CCHC vào chương trình học của các
đối tượng tại Trung tâm bồi dưỡng chính trị của thành phố.
- Lập các trang thông tin điện tử để tuyên truyền, phổ biến nâng cao nhận thức về
công tác CCHC. Thiết lập hệ thống cơ sở dữ liệu về công tác CCHC và sự lãnh đạo của
Thành uỷ đối với CCHC.
- Kiểm tra kiến thức về CCHC đối với các đối tượng thi tuyển công chức của
thành phố.
3.2.2. Nhóm giải pháp tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của
thành uỷ đối với cải cách hành chính nhà nước
Đây là nhóm giải pháp rất quan trọng và rộng, ảnh hưởng đến hiệu quả trong
lãnh đạo CCHC. Như chúng ta đã biết, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước được thể
hiện ở hai điểm chủ yếu: Nội dung lãnh đạo và phương thức lãnh đạo. Sự lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước chính là sự thống nhất biện chứng giữa nội dung và phương
thức. Phương thức lãnh đạo xuất phát từ nội dung, phụ thuộc vào nội dung, phục vụ cho
nội dung. Nội dung lãnh đạo quyết định phương thức lãnh đạo. Nội dung lãnh đạo là
những vấn đề ít biến động hơn so với phương thức lãnh đạo. Hay nói cách khác nội
dung lãnh đạo là những vấn đề tương đối ổn định, vì đây là những vấn đề được xác định
gắn với mục tiêu nhiệm vụ của chủ thể lãnh đạo. Nói như vậy không có nghĩa là chỉ nói
tới đổi mới phương thức lãnh đạo mà không thực hiện nội dung lãnh đạo. Đổi mới
phương thức lãnh đạo có nghĩa là nó xuất phát chính từ yêu cầu của đổi mới nội dung
lãnh đạo. Nội dung lãnh đạo của Đảng được đổi mới phải luôn gắn với điều kiện hoàn
cảnh lịch sử nhất định. Chẳng hạn, nội dung lãnh đạo của Đảng khi Đảng nắm chính
quyền có những điểm mới khác so với lúc chưa nắm được chính quyền, hay khi có sự
tất yếu chuyển đổi từ kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường thì nội dung lãnh
đạo của Đảng cũng sẽ phải có những đổi mới. Trong quá trình chuyển đổi đó, Đại hội
lần thứ VI và các Đại hội tiếp theo, Đảng ta khẳng định rõ sự cần thiết phải đổi mới nội
dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Trong điều kiện nhà nước pháp quyền XHCN của dân do dân, vì dân ở nước ta
hiện nay, đòi hỏi phải không ngừng đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước đây là một nhân tố đặc biệt quan trọng quyết định thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Từ lý luận trên về đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước, việc tiếp tục đổi mới nội dung phương thức lãnh đạo đối với CCHC nhà nước là
tất yếu nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy Nhà nước. Hoạt động của
bộ máy HCNN tác động mạnh mẽ đến sản xuất kinh doanh, an ninh và quốc phòng,
thúc đẩy kinh tế phát triển, giữ gìn ổn định chính trị, trật tự xã hội, bảo vệ quyền con
người. Do vậy muốn đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển, phải đẩy mạnh CCHC, phải làm cho bộ máy nhà nước trong
sạch, vững mạnh, thực sự chăm lo lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân, xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN của dân do dân, vì dân.
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, CCHC nhà nước nói chung,
của thành phố Vĩnh Yên nói riêng đã có những tiến bộ và kết quả quan trọng, đồng thời
còn nhiều hạn chế yếu kém cần phải nhanh chóng khắc phục.
Để sớm khắc phục những hạn chế yếu kém trong CCHC Nhà nước của thành phố
Vĩnh Yên đồng thời xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý. Thành uỷ tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo đối với
CCHC cụ thể như sau:
* Về đổi mới nội dung lãnh đạo
Một là: Lãnh đạo các cơ quan chính quyền thành phố cụ thể hoá chủ trương nghị
quyết của Thành uỷ về CCHC thành mục tiêu, chương trình kế hoạch cụ thể và tổ chức
kiểm tra giám sát việc tổ chức thực hiện của Uỷ ban nhân dân thành phố.
Trên cơ sở nghị quyết chương trình hành động của Thành uỷ về CCHC UBND
thành phố phải cụ thể hoá thành chương trình, đề án, quyết định trước khi thông qua
Hội đồng nhân dân thành phố xem xét có nghị quyết (nếu thấy cần thiết) phải tổ chức
lấy ý kiến của các cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân thành phố và UBND các
xã, phường để khi ban hành thực hiện được ngay. Đồng thời, Thành uỷ tăng cường kiểm
tra, giám sát việc tổ chức thực hiện.
Hai là: Lãnh đạo các cơ quan hành chính của thành phố xây dựng quy chế hoạt
động và duy trì hoạt động theo quy chế; xây dựng củng cố tổ chức bộ máy HCNN.
Đây là nội dung lãnh đạo rất quan trọng cần tiếp tục đổi mới đảm bảo cho hoạt
động quản lý điều hành của bộ máy hành chính được thông suốt hiệu quả, đối với quan
điểm đường lối đổi mới của Đảng, quy định của pháp luật, yêu cầu UBND thành phố và
các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành phố thường xuyên bổ sung các quy định cụ
thể về chức năng nhiệm vụ, trách nhiệm phù hợp với điều kiện cụ thể và các văn bản
quy phạm của Nhà nước.
Tiếp tục rà soát, bố trí sắp xếp bộ máy các cơ quan chuyên môn cho phù hợp.
Đặc biệt hiện nay Đảng đang có chủ trương thí điểm nhất thể hai chức danh bí thư, Chủ
tịch, do vậy cần nghiên cứu sắp xếp các cơ quan chuyên môn trong hệ thống của Đảng
và chính quyền sao cho phù hợp và hoạt động có hiệu quả, ví dụ như sáp nhập Văn
phòng cấp uỷ và Văn phòng UBND, sáp nhập Ban Tổ chức cấp uỷ và phòng Nội vụ của
UBND…
Ba là: Đổi mới việc xây dựng đội ngũ cán bộ công chức của bộ máy chính quyền
thành phố đảm boả đội ngũ cán bộ trong sạch, vững mạnh, có đạo đức cách mạng, có
tâm huyết, trí tuệ và năng lực chuyên môn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn
hiện nay.
Trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ, có thể thực hiện phương châm cách mạng
hoá, trẻ hoá, trí thức hoá, chuyên môn hoá đội ngũ cán bộ. Cơ cấu về tuổi đời, trình độ
văn hoá, chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ các cấp cần hợp lý. Trong công tác
nhân sự, thực hiện mở rộng dân chủ, chấp nhận cạnh tranh tuyển chọn, đề bạt. Mọi cán
bộ chuẩn bị đề bạt đều phải trải qua tổ chức khảo sát, tiến hành giới thiệu dân chủ, bình
xét dân chủ, nếu không được đa số ủng hộ thì không đề bạt.
Bốn là: Lãnh đạo nâng cao chất lượng các tổ chức đảng trong các cơ quan
HCNN, phát huy vai trò tiên phong gương mẫu của các đảng viên trong các cơ quan
HCNN.
Phát huy nhân tố lãnh đạo, hạt nhân chính trị của các tổ chức đảng, tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan HCNN đặc biệt là vận động gương mẫu, tổ chức
thực hiện các chương trình, nghị quyết về CCHC nhà nước.
* Về đổi mới phương thức lãnh đạo
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là nhiệm vụ trọng tâm, triệt để chống
thực hiện cơ chế mệnh lệnh hành chính, quan liêu. Đối với Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc, nhiệm
vụ này càng đòi hỏi phải được xem xét, đổi mới mạnh mẽ; cần được nghiên cứu bài bản,
khoa học có trao đổi, học tập các thành phố trong cả nước, thống nhất quan điểm lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, tạo điều kiện thuận lợi và chủ động cho các thành phần kinh tế
phát triển. Đồng thời, sớm phát hiện, nghiên cứu những vấn đề thực tiễn nảy sinh những
vấn đề mới trong sản xuất để xác định phương thức lãnh đạo tốt hơn.
Một là: Xây dựng các chủ trương nghị quyết lãnh đạo của tập thể đổi mới công
tác kế hoạch hoá trong việc xây dựng chương trình công tác Thành uỷ về lãnh đạo
CCHC. Trong chương trình công tác toàn khoá, phải căn cứ vào yêu cầu thực tế, từ định
hướng nhiệm vụ trọng tâm để xây dựng chương trình phù hợp, thiết thực; nhất là xác
định thứ tự ưu tiên, số lượng các Nghị quyết chuyên đề của Thành uỷ. Những chương
trình liên quan đến CCHC cần được chuẩn bị chu đáo, thận trọng, tập trung vào các vấn
đề trọng tâm cần giải quyết có tính kế thừa khoá trước. Việc xây dựng các đề án chuẩn
bị cho Hội nghị Ban Thường vụ, Ban Chấp hành Thành uỷ cần lựa chọn những vấn đề
lớn, cấp bách, chiến lược, những vấn đề mới do thực tiễn đòi hỏi, tránh sa vào các vấn
đề mang tính cụ thể, vụn vặt. Trong nhiệm kỳ tới Thành uỷ cần sơ kết, tổng kết thực
hiện chương trình tổng thể CCHC giai đoạn 2006-2010 để sớm có những quyết định
đúng đắn, điều chỉnh bổ sung kịp thời.
Quy trình chuẩn bị ra nghị quyết, Thành uỷ, Ban Thường vụ Thành uỷ, xin ý
kiến Thường trực Thành uỷ cần tiếp tục đổi mới. Trước hết cần quy định rõ hơn, cụ thể
hơn nội dung cần trình Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, Thường trực Thành uỷ (trong
quy chế làm việc của Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố); theo hướng rút ngắn bớt thời
gian chuẩn bị, ra nghị quyết nhưng vẫn đảm bảo chất lượng trên cơ sở thảo luận dân
chủ, phát huy trí tuệ tập thể; tập trung vào những vấn đề trọng tâm, trọng điểm, chiến
lược, trình Ban Thường vụ Thành uỷ ra nghị quyết, quyết định và xin ý kiến Thường
trực. Qua thực tiễn cho thấy, không nên có nhiều nghị quyết, với những nội dung không
thực sự quan trọng dẫn đến hình thức, nghị quyết không đi vào cuộc sống, tồn đọng
nghị quyết trong quá trình thực hiện ở địa phương, cơ sở. Các nghị quyết, văn bản chỉ
đạo của Thành uỷ, Ban Thường vụ cần gắn gọn, rõ ràng, cụ thể, dễ hiểu, dễ nhớ để thực
hiện, tránh dài dòng chung chung, nặng về lý luận không sát thực tế… Các định hướng,
quan điểm CCHC của Thành uỷ là sản phẩm của trí tuệ của các cấp, các ngành, hợp ý
Đảng, lòng dân, đáp ứng yêu cầu đổi mới. Trong điều kiện, đội ngũ cán bộ, công chức
phần nhiều đã trải qua thời kỳ bao cấp, tiếp cận với kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế
còn hạn chế, bất cập, đội ngũ cán bộ trẻ lại chịu tác động mạnh của mặt trái kinh tế thị
trường, nhiều người chạy theo lợi ích tầm thường, xa dân, thiếu kinh nghiệm thực tiễn,
bản lĩnh yếu… nên việc xây dựng một quyết định đúng không đơn giản; đòi hỏi Thành
uỷ phải có phương pháp, quy trình xây dựng nghị quyết khách quan, toàn diện, phát
huy được những mặt tích cực, hạn chế những khó khăn. Tránh áp đặt chủ quan, duy ý
chí, thiếu tinh thần trách nhiệm, xuôi chiều trong quá trình thảo luận ra nghị quyết, đảm
bảo phát huy cao độ trí tụê, sáng tạo của từng đồng chí trong Ban Chấp hành và tập thể
Thành uỷ, Ban Thường vụ ban hành các kế hoạch, đề án, quyết định được ngay. Điều
này đòi hỏi nghị quyết Thành uỷ phải có chất lượng tốt dễ cụ thể hoa, không chung
chung, có giải pháp đúng để chính quyền tổ chức thực hiện.
Hai là: Tiếp tục đổi mới việc lãnh đạo các tổ chức đảng trong các cơ quan
HCNN. Tăng cường sự lãnh đạo và duy trì tốt mối quan hệ phối hợp công tác giữa
Thành uỷ (trực tiếp là Ban Thường vụ) đối với Đảng uỷ chính quyền. Trọng tâm là lãnh
đạo chính quyền cụ thể hoá, thể chế hoá nghị quyết về CCHC của Thành uỷ, triển khai
thực hiện trên địa bàn thành phố. Tiếp tục nghiên cứu đổi mới phương thức lãnh đạo
của Thành uỷ đối với Hội đồng nhân dân, UBND, phòng, ban, ngành nhằm tăng cường
sự lãnh đạo của Thành uỷ, vừa phát huy tính chủ động, sáng tạo của chính quyền. Điều
này phải được thường xuyên xem xét, điều chỉnh, bổ sung quy chế làm việc. Ban Chấp
hành Đảng bộ thành phố, quan hệ phối hợp công tác giữa Ban Thường vụ Thành uỷ với
các chi Đảng bộ trực thuộc. Đây là nội dung rất khó, còn nhiều vướng mắc ở nhiều nơi.
Từ quy định trênv ăn bản đến thực thi trên thực tế còn một khoảng cách lớn. Tình trạng
bao biện, làm thay, lấn sân chính quyền; không phát huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảng
uỷ; hoặc ngại, né tránh trách nhiệm, trì trệ công việc còn phổ biến. Từ thí điểm mô hình
nhất thể hoá chức danh Bí thư cấp uỷ kiêm Chủ tịch UBND các cấp ở huyện, xã, cần
tổng kết, đánh giá và có thể thí điểm cả ở cấp tỉnh để rút kinh nghiệm, trước khi xem xét
có áp dụng trong phạm vi cả nước hay không? và những điều kiện để thực hiện phương
án này.
Thành uỷ cần lắng nghe, tôn trọng ý kiến của các cấp uỷ trực thuộc, các phòng,
ban, ngành trước khi ra quyết định. Lĩnh vực CCHC thường khó, nhạy cảm liên quan
trực tiếp đến nghĩa vụ và quyền lợi của dân. Do vậy, Thành uỷ, Ban Thường vụ Thành
uỷ cần tôn trọng và lắng nghe ý kiến, nhất là những ý kiến phản biện, ý kiến chưa thống
nhất, trên cơ sở đó đưa ra các vấn đề cần thảo luận. Trong một số trường hợp, có thể bỏ
phiếu để các uỷ viên Ban Chấp hành, uỷ viên Ban Thường vụ thể hiện quan điểm. Ý
kiến cá nhân, sau đó mới quyết định. Tránh tình trạng quyết định vội vàng thiếu cân
nhắc, gây khó khăn cho quá trình triển khai thực hiện nghị quyết. Ngược lại, những vấn
đề đã rõ đúng thẩm quyền thì Thành uỷ, Ban Thường vụ quyết định ngay không cần hội
họp nhiều gây lãng phí, mất thời cơ. Những nội dung tuy có những ý kiến trái ngược
nhau, chưa thống nhất nhưng đã được tập thể Thành uỷ, Ban Thường vụ quyết định thì
phải tuân thủ thực hiện theo quy định của Điều lệ Đảng. Bên cạnh đó, cần tiếp tục đổi
mới; nâng cao chất lượng các hội nghị, cuộc họp theo hướng giảm bớt thủ tục, nghi thức
rườm rà, coi trọng chất lượng. Muốn vậy, các văn bản dự thảo, nội dung cần thảo luận,
các báo cáo giải trình, đề án… cần gửi đến các thành viên dự họp để nghiên cứu trước,
các ý kiến thảo luận cần gắn gọn, tập trung vào vấn đề chính; quan điểm, thái độ rõ ràng
trước những vấn đề còn chưa thống nhất. Trong một số trường hợp, có thể áp dụng hình
thức mở rộng thành phần dự họp để giảm bớt số cuộc họp. Chẳng hạn, UBND thành
phố báo cáo Thường trực Thành uỷ về nội dung chuẩn bị trình Ban Thường vụ Thành
uỷ có thể mời mở rộng đến các phòng, ban, ngành liên quan, nhất là cơ quan chủ trì
chuẩn bị dự thảo, lĩnh hội ý kiến.
Các nghị quyết của Thành uỷ về CCHC phải được quán triệt trong Đảng bộ và
phải được Thành uỷ chỉ đạo các chi Đảng bộ trực thuộc xây dựng nghị quyết, cụ thể hoá
nghị quyết vào điều kiện thực tế của địa phương, đơn vị mình; xây dựng chương trình,
kế hoạch tổ chức thực hiện. Những nghị quyết lớn, giải quyết các vấn đề trọng tâm,
quan trọng, có tính chiến lược về CCHC Thành uỷ phỉa chỉ đạo các phòng, ban, ngành
của Thành phố, phối hợp, hỗ trợ, giúp đỡ các xã, phường xây dựng nghị quyết, chương
trình, kế hoạch và phải được các đồng chí uỷ viên Ban Thường vụ Thành uỷ phụ trách
chỉ đạo, góp ý trực tiếp.
Thành uỷ tiếp tục lãnh đạo Đảng bộ xã, phường đổi mới phương thức lãnh đạo
đối với CCHC của địa phương, trên cơ sở theo dõi, nắm bắt chắc tình hình, đặc điểm
của từng xã, phường. Chỉ đạo Đảng uỷ, UBND các xã, phường xây dựng các nghị
quyết, đề án, dự án lớn, cụ thể thực hiện nghị quyết Thành uỷ. Qua thực tiễn cho thấy,
việc triển khai thực hiện nghị quyết về CCHC của Thành uỷ bằng các đề án, dự án cụ
thể của từng địa phương, là cách làm hay, hiệu quả. Bởi vì với từng dự án sẽ có mục
tiêu, bước, giải pháp rõ ràng, quy định trách nhiệm của đơn vị thực hiện.
Nhằm thực hiện đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Thành uỷ đối với
CCHC ở thành phố Vĩnh Yên hiện nay, cần thực hiện tốt một số nội dung sau đây:
- Các cấp uỷ đảng thành phố phải coi nhiệm vụ CCHC là một nhiệm vụ trọng
tâm, thường xuyên. Lãnh đạo tổ chức quán triệt và thực hiện tốt chủ trương Nghị quyết
của Đảng, văn bản chỉ đạo của Nhà nước về CCHC.
- Thành uỷ và UBND thành phố rà soát, hoàn chỉnh quy chế làm việc của mình
nhằm tránh những chồng chéo, trùng lắp trong chức năng, nhiệm vụ, tăng cường được
sự lãnh đạo của Thành uỷ và quản lý, điều hành của UBND thành phố; quy định rõ vấn
đề gì cấp uỷ cần bàn và quyết định, vấn đề gì do cơ quan chính quyền quyết định và
chịu trách nhiệm.
- Các cuộc họp của Ban Thường vụ Thành uỷ cũng như Thành uỷ không thảo
luận, bàn sâu công việc thuộc phạmvi quản lý, điều hành của UBND; dành thời gian đi
sâu kiểm điểm vai trò, trách nhiệm của từng cấp uỷ viên trong việc thực hiện các nghị
quyết, chỉ thị của Thành uỷ, các lĩnh vực, công tác được phân công đặc biệt là CCHC.
Đồng thời Thành uỷ chỉ đạo các cơ quan tham mưu cải tiến nội dung báo cáo phục vụ
yêu cầu lãnh đạo của Thành uỷ và quản lý, điều hành của UBND đối với CCHC.
- Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với CCHC đopì hỏi phải
có quyết tâm chính trị và bản lĩnh lãnh đạo của cấp uỷ các cấp, mà đặc biệt là người
đứng đầu cấp uỷ các cấp. Do đó, người đứng đầu cấp uỷ các cấp uỷ có vai trò quyết
định, có trách nhiệm làm chuyển biến nhận thức của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
các cấp thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình và nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp
uỷ đối với CCHC.
Chủ động phối hợp với Thủ trưởng cơ quan xây dựng chương trình, kế hoạch
CCHC cho các giai đoạn và tổ chức thực hiện tốt kế hoạch đề ra… Lãnh đạo các tổ
chức đoàn thể triển khai tốt các hoạt động tuyên truyền, nâng cao nhận thức về CCHC
đến từng đoàn viên, hội viên.
- Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ CCHC. Các đảng bộ,
chi bộ có trách nhiệm theo dõi, phát hiện những bất hợp lý về thể chế, cơ chế, chính
sách, thủ tục hành chính, tổ chức bộ máy… báo cáo kịp thời với cơ quan có thẩm quyền
xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật.
- Hàng qúi, 6 tháng, năm các Đảng bộ, chi bộ cần tổ chức sơ kết, tổng kết, đánh
giá kết quả lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ CCHC.
- Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cán bộ, đảng viên đối với công tác
CCHC. Lựa chọn đội ngũ cán bộ, đảng viên tâm huyết để thực hiện các nhiệm vụ
CCHC.
- Với cấp phường xã cấp uỷ đảng cần tập trung lãnh đạo để đổi mới lề lối làm
việc, tiếp dân, các công việc có liên quan đến lợi ích của nhân dân đều phải được giải
quyết nhanh, đúng, minh bạch và công khai, cần chấm dứt tình trạng đùn đẩy trách
nhiệm, và tình trạng giải quyết công việc sai thẩm quyền.
- Tổng kết, làm rõ hơn nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với CCHC
nhà nước trong giai đoạn hiện nay, sớm ban hành hệ thống văn bản quy định cụ thể về
nguyên tắc, nội dung và cơ chế Đảng lãnh đạo đối với CCHC nhà nước trên địa bàn
thành phố.
Ba là: Đổi mới hoạt động kiểm tra giám sát của Thành uỷ đối với cơ quan nhà
nước. Thành uỷ lãnh đạo các cấp uỷ, chính quyền từ thành phố đến cơ sở, các cơ quan
chuyên môn của thành phố. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong hệ thống chính trị,
cán bộ, đảng viên trong cơ quan, thông qua công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành
các nghị quyết Trung ương của Tỉnh uỷ về CCHC. Thành uỷ kịp thời biểu dương các
cấp uỷ, cơ quan, đơn vị thực hiện tốt, sáng tạo, hiệu quả cao các nghị quyết của cấp trên
về CCHC. Đồng thời, nhắc nhở, uốn nắn những cơ sở thực hiện tốt, hời hợt, hình thức,
hiệu quả kém, gây bức xúc trong nhân dân. Đặc biệt, thông qua kiểm tra, giám sát nhằm
phát hiện những vấn đề mới nảy sinh cần được nghiên cứu để bổ sung cho quá trình
lãnh đạo, chỉ đạo của Thành uỷ trong lĩnh vực CCHC. Côngt ác kiểm tra, giám sát của
Thành uỷ phải được duy trì thường xuyên, không thể "khoán trắng" cho Uỷ ban Kiểm
tra. Không ngừng cải tiến phương pháp kiểm tra, giám sát theo hướng: kiểm tra giám sát
tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lồng ghép với nghị quyết,
quyết định về CCHC hoặc kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện nghị quyết chuyên đề
về CCHC… Trong quá trình kiểm tra, giám sát phải tăng cường lắng nghe ý kiến từ cơ
sở, từ thực tiễn, thực hiện nghiêm túc, tránh hình thức. Đồng thời Thành uỷ chỉ chỉ đạo
các cấp uỷ trực thuộc tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của cấp uỷ mình theo quy
định.
- Thành uỷ lãnh đạo thông qua xây dựng các mô hình, điển hình, thực hiện thí
điểm những vấn đề mới liên quan đến nội dung, phương thức lãnh đạo CCHC của
Thành uỷ. Qua đó, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm để tiếp tục lãnh đạo nhân rộng các
mô hình, điển hình tiên tiến, không chỉ cho mỗi cấp uỷ, mỗi cơ quan, đơn vị và rút kinh
nghiệm của cả thành phố, coi đó là những bài học quý trong công tác lãnh đạo các lĩnh
vực khác. Đây là giải pháp quan trọng không thể thiếu trong quá trình lãnh đạo CCHC
của Thành uỷ.
3.2.3. Nhóm giải pháp kiện toàn củng cố tổ chức, bộ máy chính quyền các
cấp của thành phố
- Tiếp tục lãnh đạo và tiến hành rà soát, điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của các
phòng ban, ngành và chính quyền các xã, phường theo chỉ đạo của Chính phủ và của
tỉnh cho phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước trên địa bàn thành phố.
- Xây dựng quy chế phân công giữa các ngành phân cấp giữa các cấp và phối
hợp phân công, phân cấp giữa các phòng, ban với UBND các xã, phường phù hợp với
yêu cầu đổi mới cơ chế phân cấp quản lý hành chính giữa cấp huyện và xã, phường.
- Phân tích rõ thẩm quyền và trách nhiệm của UBND, Chủ tịch UBND các cấp;
trưởng các phòng, ban thuộc UBND thành phố với Chủ tịch UBND các xã, phường của
tập thể và cá nhân trong cơ quan hành chính cấp thành phố và xã, phường.
- Phân tích rõ thẩm quyền và trách nhiệm của UBND, Chủ tịch UBND các cấp;
trưởng các phòng, ban thuộc UBND thành phố với Chủ tịch UBND các xã, phường của
tập thể và cá nhân trong cơ quan hành chính cấp thành phố và xã, phường.
- Điều chỉnh một số công việc mà các phòng, ban đảm nhiệm theo hướng khắc
phục sự chồng chéo, trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ, chuyển một số công việc cho
các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính hoặc doanh nghiệp thực hiện dưới hình thức dịch
vụ công.
- Nghiên cứu tách tổ chức hành chính với tổ chức sự nghiệp công để hoạt động
theo các cơ chế riêng, phù hợp, có hiệu quả.
- Sắp xếp, tổ chức lại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành phố theo
hướng trách nhiệm rõ ràng, phân công rành mạch, bộ máy gọn nhẹ, tăng cường tính
chuyên nghiệp trong thi hành công cvụ.
- Cải tiến phương thức quản lý, lề lối làm việc của cơ quan hành chính. Xác định
rõ các nguyên tắc làm việc và quy chế phối hợp trong sự vận hành bộ máy hành chính.
Định rõ phận sự, thẩm quyền và trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị về kết
quả hoạt động của bộ máy do mình phụ trách; loại bỏ những việc làm hình thức, không
có hiệu quả thiết thực, giảm hội họp giảm giấy tờ hành chính. Tăng cường trách nhiệm
và năng lực của cơ quan hành chính trong giải quyết công việc của cá nhân và tổ chức.
- Từng bước hiện đại hoá các cơ quan công quyền của chính quyền thành phố.
Triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động chỉ đạo, điều hành của hệ
thống HCNN; áp dụng các công cụ, phương pháp quản lý tiên tiến, hiện đại trong các cơ
quan HCNN. Tăng cường đầu tư cho các cơ quan hành chính của thành phố có trang
thiết bị hiện đại, cơ quan hành chính cấp xã phường trên địa bàn thành phố có trụ sở và
phương tiện làm việc bảo đảm nhiệm vụ quản lý địa bàn; mạng tin học diện rộng của
thành phố được thiết lập tới cấp xã, phường.
3.2.4. Tiếp tục cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong Đảng bộ
thành phố, đồng thời phát huy vai trò của nhân dân và các đoàn thể chính trị xã
hội trong cải cách hành chính nhà nước
- Tiếp tục cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng của Đảng bộ, nâng cao
năng lực lãnh đạo và sự chỉ đạo của Đảng bộ.
Trong lịch sử Đảng ta mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân luôn được củng cố và
tăng cường, là một yếu tố đóng vai trò quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Từ khi ra đời đến nay Đảng ta đã tỏ rõ là một Đảng cách mạng chân chính, hết
lòng phấn đấu vì lợi ích của cả dân tộc và nhân dân. Nhân dân gắn bó với Đảng, theo
Đảng làm cách mạng, dũng cảm vượt qua mọi khó khăn gian khổ hy sinh để thực hiện
mục tiêu cách mạng cao cả mà Đảng đã đề ra.
Trong lãnh đạo, các cấp uỷ đảng, tổ chức cơ sở đảng phải thực hiện tốt phương
châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", tổ chức thực hiện nghiêm quy chế dân
chủ ở cơ sở, đảm bảo phát huy những sáng kiến của nhân dân. Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VIII cũng đã chỉ rõ: "chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân
dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Cũng do nhân dân hưởng ứng
đường lối đổi mới, dũng cảm phấn đấu vượt qua biết bao khó khăn thử thách mà công
cuộc đổi mới đạt được thành tựu hôm nay". Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X tiếp tục
nhấn mạnh: "Sự tin tưởng, ủng hộ giúp đỡ của nhân dân là cội nguồn sức mạnh, là cái
gốc của thắng lợi, là tài sản quý báu của Đảng". Xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN ở Việt Nam không thể thiếu được sự tham gia tích cực của mỗi người dân Việt
Nam - Chủ nhân của lịch sử. Lịch sử gần 80 năm qua của Đảng ta cho thấy mối quan hệ
hai chiều. Nhân dân cần có Đảng lãnh đạo để làm cách mạng, xây dựng đời sống ấm no
hạnh phúc. Đảng cần có dân để có sức mạnh về vật chất, về tinh thần và trí tuệ. Là
người làm nên và quyết định thành công của cách mạng.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội đóng vai trò rất lớn đối với
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của
Đảng đã đánh giá: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân có vait rò rất
quan trọng trong việc tập hợp, vận động đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại
diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, đưa các chủ trương chính sách của
Đảng, Nhà nước, các chương trình kinh tế, văn hoá xã hội, quốc phòng, an ninh vào
cuộc sống, góp phần xây dựng sự đồng thuận trong xã hội.
Mặt trận và các thành viên của Mặt trận có vai trò to lớn trong việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Vai trò đó thể hiện ở 4 nhiệm vụ cơ bản là: (1) Giới thiệu những người có đức, có tài
tham gia ứng cử vào các cơ quan quyền lực nhà nước ở Trung ương và địa phương
thông qua các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân ba cấp, từ đó
hình thức các cơ quan hành pháp, tư pháp; (2) Thực hiện sự phản biện xã hội đối với
chính sách, pháp luật của Nhà nước; tham gia đóng góp ý kiến để sửa đổi những quy
định của hệ thống pháp luật, đồng thời trực tiếp trình các dự thảo văn bản luật ra cơ
quan nhà nước có thẩm quyền; (3) Thực hiện giám sát hoạt động của đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức, cũng như các cơ quan nhà nước trong thực hiện chức năng nhiệm
vụ được giao; (4) Vận động nhân dân và các hội viên chấp hành nghiêm chỉnh chính
sách và pháp luật của Nhà nước, tăng cường pháp chế XHCN.
Từ lý luận và thực tiễn vai trò của nhân dân và các đoàn thể chính trị xã hội trong
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Việc
lãnh đạo CCHC nhà nước trong giai đoạn hiện nay vấn đề vô cùng quan trọng là phải
phát huy vai trò của nhân dân và các đoàn thể chính trị xã hội. Nó đảm bảo thực hiện tốt
cải cách thể chế hành chính trong đó có các nội dung cải cách về ban hành các văn bản
quy phạm pháp luật, cải cách thủ tục hành chính; cải cách tổ chức bộ máy hành chính;
đổi mới nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, cải cách tài chính công.
Trong cải cách thể chế hành chính, cần tổ chức lấy ý kiến của nhân dân trước khi
ban hành các chỉ thị, nghị quyết, nhất là những chủ trương có liên quan trực tiếp đến lợi
ích của nhân dân. Đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị thực hiện sự phản
biện xã hội đối với các văn bản quy phạm pháp luật, tham gia đóng góp ý kiến để sửa
đổi các văn bản đó kể cả các văn bản về cải cách thủ tục hành chính.
Trong việc đổi mới nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Nhiều nơi
nhân dân tích cực tham gia giới thiệu những đảng viên có phẩm chất, năng lực vào các
cơ quan lãnh đạo của Đảng và chính quyền, phát hiện, tố cáo những cán bộ, đảng viên
yếu kém, thoái hoá biến chất để Đảng xem xét xử lý, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị xã hội thực hiện giám sát các hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức và các
cơ quan nhà nước, đồng thời có nhiệm vụ giới thiệu những người có đức, có tài tham
gia ứng cử vào các cơ quan quyền lực của Nhà nước.
3.2.5. Nhóm giải pháp tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh uỷ, Uỷ ban
nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đối với sự lãnh đạo của Thành uỷ trong cải cách hành
chính nhà nước
Cải cách hành chính ở nước ta được tiến hành từ sau khi có đường lối đổi mới cơ
chế hoạt động quản lý nhà nước của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986). Cải cách nền
HCNN luôn là công việc khó khăn và chậm chạp. Qua hơn 20 năm tiến hành CCHC nhà
nước, như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa X) đã khẳng định: "Cải cách hành
chính đã đạt được kết quả bước đầu quan trọng, góp phần vào thành tựu chung của đất
nước"; tuy nhiên nghị quyết cũng nêu rõ: "Nền hành chính nhà nước vẫn còn hạn chế
yếu kém".
Một trong những nguyên nhân dẫn đến hạn chế mà Nghị quyết Trung ương 5
(khóa X) đã nêu là: "Sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ đảng thiếu thống nhất, chưa
kiên quyết".
Thành phố Vĩnh Yên là tỉnh lỵ của tỉnh Vĩnh Phúc, trong quá trình lãnh đạo
CCHC nhà nước gặp nhiều khó khăn, đòi hỏi Thành uỷ phải tích cực tranh thủ sự lãnh
đạo, chỉ đạo, giúp đỡ của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Vĩnh Phúc góp phần quan trọng trong
việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khsoa X) về đẩy mạnh CCHC nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước, cụ thể như sau:
- Tỉnh uỷ cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện lý luận, tổng kết thực tiễn để rút ra
những kinh nghiệm quý về lãnh đạo CCHC trong giai đoạn hiện nay, đảm bảo đẩy
mạnh CCHC nhà nước giai đoạn hiện nay. Đảm bảo đẩy mạnh CCHC nhà nước góp
phần thúc đẩy kinh tế phát triển, giữ vững ổn định chính trị, trật tự xã hội, chăm lo lợi
ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân.
- Tỉnh uỷ, UBND tỉnh cần tiếp tục nghiên cứu đề ra các chủ trương cơ chế chính
sách đặc thù ưu tiên cho thành phố Vĩnh Yên với quan điểm "Phát triển Vĩnh Yên là
phát triển tỉnh Vĩnh Phúc", như đào tạo nhân lực, nguồn cán bộ; đầu tư trang bị đảm bảo
hiện đại hoá nền HCNN, đầu tư các trang thiết bị làm việc, đầu tư công nghệ thông tin
cho hoạt động của bộ máy hành chính và bộ phận một cửa liên thông. Có chính sách ưu
tiên phân bổ, điều tiết ngân sách cho thành phố…
Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Vĩnh Phúc thường xuyên kiểm tra việc triển khai thực hiện
CCHC của thành phố để kịp thời tháo gỡ những khó khăn vướng mắc và chỉ đạo các sở,
ban, ngành của tỉnh giúp đỡ Vĩnh Yên thực hiện tốt chương trình CCHC.
Muốn vậy, Thành uỷ Vĩnh Yên phải thường xuyên xin ý kiến chỉ đạo của Tỉnh
uỷ, UBND tỉnh trong quá trình lãnh đạo CCHC; chủ động tổ chức các cuộc hội thảo để
tranh thủ ý kiến của các sở, ban, ngành của tỉnh về các giải pháp lãnh đạo CCHC. Đồng
thời thường xuyên sơ tổng kết rút kinh nghiệm, phát hiện sớm những vấn đề phát sinh
từ thực tiễn đề xuất với tỉnh xem xét quyết định. Bên cạnh đó, chỉ đạo các phòng, ban,
ngành của Thành phố tích cực tranh thủ sự chỉ đạo giúp đỡ của các sở, ngành theo
ngành dọc trên từng lĩnh vực.
Thành phố Vĩnh Yên là thành viên tham gia hiệp hội đô thị của Việt Nam, Thành
uỷ cần tăng cường tổ chức các đoàn cán bộ lãnh đạo, quản lý liên quan đến CCHC đi
tham quan học tập trao đổi kinh nghiệm của các thành phố thị xã trong hiệp hội trên các
lĩnh vực CCHC như triển khai thực hiện một cửa điện tử, cải cách hành chính công.
KẾT LUẬN
Thực hiện công cuộc đổi mới, nhất là sau hơn 12 năm tái lập tỉnh từ 1997 đến
nay trong điều kiện còn gặp nhiều khó khăn, song Đảng bộ và nhân dân thành phố Vĩnh
Yên đã tranh thủ thời cơ phát huy lợi thế, vận dụng sáng tạo các chủ trương chính sách
của Đảng và Nhà nước đoàn kết vượt qua thách thức khó khăn, đã thu được nhiều kết
quả đặc biệt quan trọng, kinh tế liên tục phát triển, năm sau cao hơn năm trước, an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội được ổn định và giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần
ngày càng được nâng cao; bộ máy nhà nước trong hệ thống chính trị của thành phố ngày
càng được nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý. Có được kết quả như vậy, có sự lãnh
đạo đúng đắn, toàn diện trên các lĩnh vực của Thành uỷ Vĩnh Yên, trong đó có lãnh đạo
CCHC nhà nước của thành phố.
Trong những năm qua, Thành uỷ Vĩnh Yên lãnh đạo công cuộc CCHC trên địa
bàn thành phố Vĩnh Yên một cách toàn diện và sâu rộng đối với các yếu tố cấu thành
của nền hành chính thành phố. Thành uỷ luôn quan tâm, lãnh đạo công tác phổ biến,
quán triệt các văn bản của Đảng và Nhà nước, các văn bản của Trung ương và của tỉnh
cũng như của thành phố về CCHC, chủ động ban hành và kiểm tra, tổng kết, đánh giá
việc thực hiện Nghị quyết, chương trình, kế hoạch về CCHC trên địa bàn thành phố.
Thực tế đến nay, Thành uỷ đã lãnh đạo việc rà soát, và hoàn thiện hệ thống văn bản
pháp luật, rà soát và cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa trong giải quyết
công việc liên quan đến công dân và tổ chức; hoàn chỉnh các cơ quan chuyên môn thuộc
UBND thành phố trên cơ sở rà soát chức và phân công rõ ràng nhiệm vụ các cơ quan
HCNN; đổi mới và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chưc;s cải cách tài chính
công và hiện đại hoá nền hành chính thành phố.
Trong quá trình lãnh đạo CCHC, Thành uỷ Vĩnh Yên đã rút ra được những kinh
nghiệm bổ ích. Trước hết phải nắm vững và nhận thức đầy đủ sâu sắc chủ trương đường
lối nghị quyết của Đảng, Chính phủ, các nghị quyết, quyết định chương trình của Tỉnh
uỷ, UBND tỉnh Vĩnh Phúc về CCHC nhà nước trong từng giai đoạn. Trên cơ sở đó vận
dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của thành phố để đề ra và lãnh đạo thực hiện tốt
công tác CCHC của Thành phố. Tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Thành uỷ mà
trước hết là Ban Thường vụ, Thường trực Thành uỷ là yếu tố rất quan trọng. Xác định
đúng và rõ vị trí vai trò và tầm quan trọng của CCHC trong từng giai đoạn, đảm bảo
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước, thực hiện đúng đường lối
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Để phấn đấu hoàn thành các mục tiêu, chương trình CCHC trong chương trình
tổng thể CCHC nhà nước mà Chính phủ đã phê duyệt đồng thời thực hiện thắng lợi nghị
quyết Trung ương 5 (khóa X) về tiếp tục CCHC, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý
của bộ máy nhà nước, góp phần vào sự phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống
nhân dân của Thành phố Vĩnh Yên, đòi hỏi Thành uỷ các cấp uỷ đảng trong thành phố
đề cao hơn nữa vai trò, trách nhiệm và không ngừng nâng cao hơn nữa vai trò lãnh đạo,
sức chiến đấu của mình. Trong đó tăng cường sự lãnh đạo đối với CCHC là nhiệm vụ
rất quan trọng. Từ những kinh nghiệm đã có, trước yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình
mới phải tìm cách tạo bước chuyển biến mới về chất, năng lực lãnh đạo, nhất là lãnh
đạo CCHC của Thành uỷ.
Để tăng cường lãnh đạo CCHC của Thành uỷ Vinh Yên những năm tới cần thực
hiện đồng bộ, có hiệu quả 5 nhóm giải pháp: (1) Tăng cường công tác tư tưởng nhằm
nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về công tác CCHC và Thành uỷ
lãnh đạo CCHC nhà nước; (2) Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của
Thành uỷ đối với CCHC nhà nước; (3) Kiện toàn củng cố bộ máy tổ chức, chính quyền
các cấp của thành phố; (4) Phát huy vai trò nhân dân và các đoàn thể chính trị xã hội
trong CCHC nhà nước; (5) Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh
Vĩnh Phúc đối với sự lãnh đạo của Thành uỷ trong CCHC nhà nước. Tăng cường công
tác kiểm tra, giám sát của Thành uỷ, của các chi, đảng bộ trực thuộc, từ quá trình chuẩn
bị ban hành nghị quyết đến tổ chức thực hiện, sơ kết, tổng kết. Tăng cường kỷ luật
đảng, kỷ luật của Nhà nước trong việc tổ chức thực hiện các nghị quyết về CCHC. Xây
dựng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao;
phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội tham gia quá
trình lãnh đạo CCHC của Thành uỷ.
S ự lãnh đạo của Đảng đối với CCHC nhà nước có ý nghĩa quyết định thực hiện
thắng lợi lý tưởng của Đảng ta, mục tiêu của sự nghiệp cách mạng. Sự lãnh đạo của
Thành uỷ Vĩnh Yên đảm bảo cho hoạt động của các cơ quan HCNN được hiệu lực và
hiệu quả, tạo điều kiện tốt nhất đảm bảo thực hiện quyền và lợi ích của nhân dân thành
phố, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội của thành phố và của
tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn mới.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thanh Bình (2001), Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
2. Lê Đức Bình (2003), Xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
3. Đậu Thế Biểu (1991), "Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị", Tạp
chí Cộng sản.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1977), Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung
ương tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Sự thật, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V,
tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V,
tập 3, Nxb Sự thật, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện hội nghị Đại hội đại biểu toàn quốc
giữa nhiệm kỳ (khóa VII), Lưu hành nội bộ.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa VII, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (196), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Các nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa IX, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 51, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 54, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
19. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng - lý luận và thực tiễn (2008), Nxb Lao
động, Hà Nội.
20. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2004), Giáo trình xây dựng Đảng, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Khoa Luâtn - Đại học Quốc gia Hà Nội (2006), Giáo trình Lý luận chung về nhà
nước và pháp luật, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
22. Đinh Văn Mậu - Phạm Hồng Thái, Nhập môn hành chính nhà nước, Nxb Thành
phố Hồ Chí Minh.
23. Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt (1995), Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
24. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.
25. Quốc hội (1995), Bộ luật Dân sự, Hà Nội.
26. Quốc hội (1997), Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, Hà Nội.
27. Quốc hội (1998), Luật Khiếu nại, tố cáo, Hà Nội.
28. Quốc hội (1998), Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hà Nội.
29. Quốc hội (1999), Luật Công đoàn, Hà Nội.
30. Quốc hội (2001), Hiến pháp (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
31. Quốc hội (2001), Luật Tổ chức Chính phủ, Hà Nội.
32. Quốc hội (2003), Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấpi, Hà
Nội.
33. Sở Tư pháp Vĩnh Phúc (2003), Các văn bản về cải cách hành chính nhà nước, Lưu
hành nội bộ.
34. Trường Đại học Luật Hà Nội (1998), Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Hà Nội.
35. Vũ Huy Từ (chủ biên), Hành chính học và cải cách hành chính, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
36. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong điều
kiện Đảng cầm quyền (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Hoàng Trọng Tuyển (1997), Hành chính học đại cương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
38. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hoá - Thông tin,
Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 88_56.pdf