Luận văn Thực hiện pháp luật về người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Điều đó có nghĩa rằng, việc đảm bảo sự bình đẳng trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội đối với người khuyết tật nói riêng, các tầng lớp dân cư khác nói chung là nhiệm vụ quan trọng trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước Việt Nam. Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể làm suy giảm về thể chất, thần kinh hay trí tuệ trong một thời gian dài và cùng với các rào cản xã hội mà họ tiếp cận xã hội rất khó khăn. Bộ phận dân cư này luôn cần được sự trợ giúp của gia đình, nhà nước và xã hội. Thực hiện pháp luật về người khuyết tật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật về người khuyết tật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế tác động và điều chỉnh những quan hệ pháp luật liên quan đến người khuyết tật.

pdf94 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 12586 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực hiện pháp luật về người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
số người khuyết tật được điều tra về những chính sách đối với người khuyết tật người tàn tật thì còn tới 77,2% số người không biết. Trong số biết chỉ có 6,4% biết rõ, 16,5% mới chỉ nghe và biết tên. Hiểu biết ít nên các hoạt động chăm sóc, hỗ trợ người tàn tật ở cộng đồng chưa được thực hiện tốt. Nhiều gia đình và bản thân người tàn tật luôn tự coi mình là đối tượng được hưởng tình thương, lòng hảo tâm hỗ trợ theo kiểu ban ơn, làm phúc khi trợ giúp và nhận trợ giúp. Chưa thấy được quyền và nghĩa vụ của mình là gì trong hoà nhập cộng đồng xã hội. 3.2.2. Hoàn thiện pháp luật về người khuyết tật Theo số liệu thống kê của Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, hiện nay, cả nước có khoảng 5,3 triệu người khuyết tật tồn tại ở các dạng tật khác nhau, chiếm 6,64% dân số cả nước và dự báo đến năm 2020 sẽ tăng lên khoảng 9 % dân số trong khi tỷ lệ chung của thế giới là vào khoảng 10% (Số liệu của Tổ chức Y tế thế giới). Trong những năm tới số lượng người khuyết tật có xu hướng tăng do những nguyên nhân về tai nạn giao thông, tai nạn lao động tăng, ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng. Những năm gần đây, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, đời sống của đại bộ phận người khuyết tật đã có nhiều chuyển biến tích cực cả về mặt vật chất và tinh thần . Tuy vậy, việc hoà nhập với đời sống cộng đồng, tiếp cận các dịch vụ xã hội của người khuyết tật còn gặp nhiều khó khăn. Người khuyết tật ở các dạng tật khác nhau như khuyết tật vận động; khuyết tật nghe, nhìn; khuyết tật thần kinh... rất khó tiếp cận với các phương tiện giao thông công cộng, phương tiện thông tin đại chúng và hệ thống cơ sở hạ tầng khác. Việc học văn hoá và học nghề, tìm việc làm trên thực tế người khuyết tật còn gặp rất nhiều trở ngại. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân, mọi quyền lực của Nhà nước đều thuộc về nhân dân, điều đó có nghĩa rằng, việc bảo đảm sự bình đẳng trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội đối với người khuyết tật nói riêng và mọi tầng lớp dân cư khác là nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Việt Nam. Người khuyết tật là bộ phận dân cư do khuyết tật nên phải chịu khó khăn trong cuộc sống sinh hoạt, lao động và tham gia hoạt động xã hội. Bộ phận dân cư này cần được trợ giúp của gia đình, xã hội mà đặc biệt là của nhà nước. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật trong đó quan trọng nhất là ban hành Luật về Người khuyết tật thay thế Pháp lệnh về người tàn tật năm 1998 giải quyết một số vấn đề mang tính cấp thiết sau đây: Thứ nhất: Những vấn đề liên quan đến người khuyết tật được quy định ở nhiều văn bản pháp lý khác nhau trong khi ”Pháp lệnh người tàn tật” biểu hiện một số hạn chế nhất định. Thực tiễn cho thấy, các quan hệ kinh tế, chính trị văn hoá xã hội và các chế độ chính sách trợ giúp đối với người khuyết tật được quy định chưa tập trung và thiếu tính đồng bộ trong các văn bản pháp lý khác nhau. Bộ luật dân sự quy định: ”Việc giúp đỡ người già, trẻ em, người tàn tật trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự được khuyến khích”. Bộ Luật Lao động quy định về cơ sở dạy nghề cho người tàn tật, quyền làm việc của người tàn tật và những nghĩa vụ của người sử dụng lao động trong việc sử dụng người lao động là người tàn tật. Luật dạy nghề thì có quy định về mục tiêu dạy nghề cho người tàn tật, khuyết tật. Luật Thanh niên lại có quy định Nhà nước cần có chính sách cho thanh niên khuyết tật, tàn tật trong việc học văn hoá, học nghề và giải quyết việc làm. Ngoài ra, nhiều vấn đề khác liên quan đến người khuyết tật còn được quy định trong Luật giáo dục, Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật Công nghệ thông tin, Luật trợ giúp pháp lý, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Thể dục thể thao, Luật Giao thông đường bộ...vv. Hệ thống các văn bản dưới Luật của Chính phủ, của các bộ ngành và các địa phương, tổng hợp chung có hàng trăm văn bản có quy định liên quan đến lĩnh vực người khuyết tật. Thực tế này dẫn đến hiện tượng các cơ quan quản lý nhà nước gặp nhiều khó khăn cho việc tổ chức thực hiện các chính sách bảo đảm và bảo vệ quyền lợi cho người khuyết tật. Ngày 30 tháng 7 năm 1998, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh Người tàn tật. Nội dung của Pháp lệnh quy định trách nhiệm của gia đình, Nhà nước và xã hội đối với người tàn tật, quyền và nghĩa vụ của người tàn tật trên các lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ, khám bệnh, chữa bệnh, hỗ trợ nuôi dưỡng, học văn hoá, học nghề và việc làm, hoạt động văn hoá, thể dục thể thao và sử dụng công trình công cộng đối với người tàn tật. ”Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho người tàn tật thực hiện bình đẳng các quyền về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và phát huy khả năng của mình để ổn định đời sống, hoà nhập cộng đồng, tham gia các hoạt động xã hội”. Để thực hiện các quy định của Pháp lệnh về người tàn tật, các luật chuyên ngành liên quan, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện như: Nghị định số 55/1999/NĐ-CP ngày 10/7/1999 quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Người tàn tật; Nghị định 116/2004/NĐ-CP ngày 23/4/2004 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 81/NĐ- CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ Luật Lao động về lao động là người tàn tật; Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007 về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội, Chỉ thị số 01/2006/CT-TTg ngày 09/01/2006 về đẩy mạnh thực hiện các chính sách trợ giúp người tàn tật trong tình hình phát triển kinh tế và xã hội hiện nay... Đồng thời đã phê duyệt và thực hiện Đề án trợ giúp người tàn tật giai đoạn 2006-2010 (Quyết định số 239/2006/QĐ-TTg ngày 24/10/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt), lồng ghép các mục tiêu, dự án hỗ trợ người khuyết tật vào các chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo, đề án chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, chương trình giáo dục... Qua 10 năm thực hiện Pháp lệnh, các Nghị định của Chính phủ và các Thông tư hướng dẫn, Nhà nước đã thiết lập hành lang pháp lý và môi trường xã hội tương đối thuận lợi cho người khuyết tật hoà nhập cộng đồng, góp phần cải thiện đời sống, làm thay đổi tích cực nhận thức xã hội đối với người khuyết tật, đồng thời tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia trợ giúp người khuyết tật có hiệu quả thiết thực: Theo tổng hợp từ các địa phương trong cả nước đã có 805.892 người tàn tật được trợ cấp (trong đó có 183.109 người được hưởng trợ cấp xã hội chiếm 52,78% người tàn tật nặng thuộc gia đình nghèo và 622.783 người tàn tật là thương, bệnh binh và người hưởng chính sách như thương binh); trên 200 ngàn lượt người tàn tật được chỉnh hình phục hồi chức năng, cung cấp dụng cụ chỉnh hình miễn phí và trên 10 ngàn người tàn tật được cung cấp các phương tiện trợ giúp (xe lăn, xe đẩy,...) đã có 46/64 tỉnh/thành phố có mạng lưới phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng; có 260.000 trẻ khuyết tật được giáo dục hoà nhập ở các trường và 6.000 trẻ khuyết tật học ở các cơ sở giáo dục chuyên biệt; 19.000 người tàn tật được học nghề và bình quân mỗi năm có khoảng 10.000 người tàn tật được giới thiệu việc làm thông qua trung tâm dịch vụ việc làm. Các tổ chức của người khuyết tật cũng ngày càng mở rộng ở các tỉnh, thành phố như: Hội bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ côi, Hiệp hội SXKD của người tàn tật, Hội người mù... Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Pháp lệnh vẫn còn một số vấn đề bất cập như: Văn bản hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh chưa đồng bộ, chậm, việc tổ chức thực hiện các văn bản hướng dẫn ở địa phương chưa thống nhất điều đó dẫn tới cuộc sống của người khuyết tật còn gặp nhiều khó khăn. Còn một số quan hệ kinh tế, văn hoá xã hội liên quan đến người khuyết tật mới nảy sinh trong quá trình phát triển chưa được điều chỉnh bằng các văn bản luật, hoặc mới chỉ được điều chỉnh ở các văn bản dưới luật, tính pháp lý không cao như: quy định về sử dụng lao động là người tàn tật, quy định hành lang tiếp cận các công trình công cộng... Bên cạnh đó một số quy định chưa đồng bộ, đầy đủ. Cụ thể như chỉ quy định hành vi bị nghiêm cấm mà không quy định chế tài, hoặc quy định chính sách nhưng lại không quy định nguồn lực tài chính, hệ thống tổ chức thực hiện. Trách nhiệm nhà nước, gia đình và xã hội với người tàn tật chưa được quy định rõ ràng; chưa theo kịp tiến trình đổi mới của đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Mặt khác, người khuyết tật chưa tiếp cận được các dịch vụ xã hội cơ bản đặc biệt người khuyết tật ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, người khuyết tật là phụ nữ và người cao tuổi bị khuyết tật. Nhằm khắc phục những hạn chế của Pháp lệnh Người tàn tật, hệ thống hoá toàn bộ những quy định liên quan tới người khuyết tật trong những văn bản pháp luật hiện hành, đồng thời nâng cao hiệu lực pháp lý của những quy phạm pháp luật đối với người khuyết tật cần nhanh chóng ban hành Luật Người khuyết tật. Thứ hai: Ban hành Luật Người khuyết tật góp phần vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền của người khuyết tật - điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về người khuyết tật. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X chỉ rõ “Từng bước xây dựng chính sách bảo trợ xã hội đối với toàn dân, theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm", mở rộng và phát triển sự nghiệp bảo trợ xã hội, tạo lập nhiều hệ thống và hình thức bảo trợ xã hội cho những người có công với cách mạng và những người gặp khó khăn. Nghiên cứu bổ sung chính sách, chế độ bảo trợ xã hội phù hợp với quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, quản lý xã hội". Hiến pháp các năm 1946, 1959, 1980, 1992 đều khẳng định người tàn tật là công dân, thành viên của xã hội, có quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân, được chung hưởng thành quả xã hội. Vì tàn tật, người tàn tật có quyền được xã hội trợ giúp để thực hiện được quyền bình đẳng và tham gia tích cực vào các hoạt động của xã hội, đồng thời vì tàn tật, họ được miễn trừ một số nghĩa vụ công dân. Hiến pháp năm 1992 khẳng định: " Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em tàn tật được học văn hoá và học nghề phù hợp”(Điều 7) "Người già, người tàn tật, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa được Nhà nước và xã hội giúp đỡ."(Điều 67) [29]. Như trên đã trình bày, Nhà nước ta đã ban hành Pháp lệnh về người tàn tật năm 1998 và nhiều văn bản luật khác cũng đã điều chỉnh một số vấn đề liên quan tới người khuyết tật, song những quyền mang tính đặc thù của người khuyết tật chưa được quy định, những hành vi bị nghiêm cấm khi đối xử với người khuyết tật chưa được khẳng định, những chính sách và cơ chế thực hiện chính sách đối với người khuyết tật cũng chưa được quy định đầy đủ và cụ thể. Do vậy, việc ban hành Luật Người khuyết tật là thực hiện quy định của Hiến Pháp, thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và góp phần vào việc hoàn thiện hệ thống Pháp luật của Nhà nước trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay. Thứ ba: Ban hành Luật Người khuyết tật bảo đảm thực hiện các cam kết quốc tế trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Trên phạm vi thế giới hầu hết các nước đã có Luật dành riêng cho người khuyết tật. Ngày 13 tháng12 năm 2006, Liên Hợp quốc đã thông qua Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật, đến nay đã có trên 117 quốc gia ký tham gia Công ước này và Việt Nam là nước thứ 118 tham gia ký Công ước. Tại khu vực Châu á - Thái Bình Dương đã bước vào năm thứ 5 của thập kỷ thứ II về người khuyết tật với 7 lĩnh vực ưu tiên trong "Khuôn khổ hành động thiên niên kỷ Biwako hướng tới một xã hội hoà nhập, không vật cản vì quyền của Người khuyết tật". Việt Nam đã cam kết với không chỉ 7 lĩnh vực ưu tiên mà thêm một lĩnh vực nữa là ”Nâng cao nhận thức xã hội với các vấn đề của người khuyết tật”. So sánh hệ thống Luật pháp, quy định về các lĩnh vực liên quan đến người khuyết tật của Việt Nam và Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật cho thấy còn nhiều điều khoản quy định trong Công ước chưa được quy định trong luật của Việt Nam hoặc đã có quy định nhưng ở các văn bản hướng dẫn của Chính phủ, Bộ ngành, địa phương hiện nay cần điều chỉnh cho phù hợp với thông lệ quốc tế. Xuất phát từ tình hình thực tiễn trên cần thiết phải ban hành Luật Người khuyết tật thay thế cho Pháp lệnh về người tàn tật. Các quy định mới của dự thảo Luật Người khuyết tật sau khi ban hành sẽ có tác động trực tiếp, tích cực đến sự phát triển và hoà nhập vào đời sống cộng đồng xã hội của Người khuyết tật. Biểu hiện hoạt động tích cực hoàn thiện chính sách an sinh xã hội của nhà nước, tạo dựng sự ổn định bền vững của xã hội nhằm phát triển mạnh mẽ nền kinh tế đất nước trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Việc thực hiện những quy định trong luật Người khuyết tật sẽ tạo những bước chuyển tích cực không chỉ trong nhận thức của toàn xã hội mà tác động tới đời sống của khoảng 6 triệu người khuyết tật ở nước ta hiện nay. Thứ tư: Thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển và hoà nhập cộng đồng xã hội của Người khuyết tật đồng thời tạo dựng hành lang pháp lý bảo vệ và là cơ sở thực hiện chính sách trợ cấp và nuôi dưỡng đối với người khuyết tật Trên cơ sở nhận thức Người khuyết tật là bộ phận dân cư yếu thế trong xã hội, do khuyết tật họ gặp rất nhiều trở ngại trong cuộc sống, trong việc tiếp cận và hoà nhập vào đời sống cộng đồng xã hội. Sau khi được ban hành với những quy định xác định trách nhiệm cụ thể của gia đình, nhà nước và xã hội sẽ tác động mạnh mẽ đến cuộc sống của người khuyết tật. Dự thảo luật xác định tr nhiệm của nhà nước trong việc xõy dựng và thực hiện cỏc chớnh sỏch về chăm súc sức khoẻ, giáo dục, dạy nghề và tìm việc làm. Ngoài ra dự thảo luật cũng đã xác định trách nhiệm trong việc bảo đảm việc tiếp cận của người khuyết tật trong nhà ở, công trình công cộng, công nghệ thông tin và truyền thông và các dịch vụ xã hội khác. Theo số liệu thống kê hiện nay với 6,34% dân số là người khuyết tật và dự tính đến năm 2020 có khoảng 10% dân số. Với điều kiện kinh tế xã hội của nước ta hiện nay thì cần đẩy mạnh hoạt động xã hội hoá trong việc chăm sóc người khuyết tật. dự thảo luật đề cao vai trò của các tổ chức xã hội, vai trò của gia đình trong việc hỗ trợ người khuyết tật thực hiện các quyền mang tính chất đặc thù của người khuyết tật. Những hoạt động mang tính xã hội hoá về phục hồi chức năng hướng về cộng đồng, hình thức giáo dục hoà nhập là có sở thay đổi nhận nhận thức xã hội và thúc đẩy sự hoà nhập xã hội của người khuyết tật. Dự thảo quy định cụ thể những hành vi bị nhiêm cấm trong việc đối xử, ứng xử với người khuyết tật. Lần đầu tiên luật pháp hoá những quy định này là cơ sở tạo dựng hành lang pháp lý bảo vệ người khuyết tật. Trên cơ sở xác định người khuyết tật ở bất kỳ dạng tật nào cũng đề là những người yếu thế trong xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của họ rất dễ bị sâm phạm hoặc nhà nước nếu không có chính sách cụ thể người khuyết tật rất khó thực hiện các quyền và lợi ích đó. Cũng bởi là những người yếu thế và chiếm số lượng lớn trong xã hội, do vậy dự thảo Luật xác định nhữg hành vi nghiêm cấm thường xuất hiện trong thực tiễn cuộc sống, đó là những hành : Công bố hình ảnh, thông tin tình trạng khuyết tật mà không được sự đồng ý của người khuyết tật hoặc người giám hộ của người đó; kỳ thị phân biệt đối xử với người khuyết tật; Lôi kéo, dụ dỗ hoặc ép buộc người khuyết tật thực hiện hành vi trái pháp luật hoặc đạo đức xã hội; cản trở việc kết hôn, sinh con, nuôi con hợp pháp của người khuyết tật… Dự thảo Luật chặt chẽ trong việc quy định nghiêm cấm người khuyết tật lợi dụng sự kkhuyết tật của mình để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Với những quy phạm pháp luật như vậy, khi đi vào thực tiễn cuộc sống sẽ là cơ sở bảo đảm cho người khuyết tật được bảo vệ tốt hơn. Trách nhiệm xã hội, nhà nước và gia đình cũng được nâng cao nhằm bảo đảm cho người khuyết tật sống hoà nhập đời sống cộng đồng xã hội. Nhiều chính sách của nhà nước được xây dựng làm thay đổi căn bản thực trạng người khuyết tật và đời sống của người khuyết tật hiện nay.Thúc đẩy nhận thức xã hội, trách nhiệm của các cơ quan trong bộ máy nhà nước trong việc bảo đảm quyền tiếp cận của người khuyết tật. Thể hiện bản chất tốt đẹp của nhà nước, của chế độ xã hội, biểu hiện một âx hội văn minh, cơ sở của ổn định xã hội và phát triển đất nước, cơ sở thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế và tham gia công ước quốc tế về người khuyết tật. Từ những phân tích như trên kiến nghị việc hoàn thiện pháp luật về quyền của người khuyết tật mà cụ thể là xây dựng Luật về người khuyết tật có bố cục và nội dung cơ bản như sau: - Chương I. Những quy định chung: Gồm các điều quy định về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng; giải thích từ ngữ; dạng khuyết tật và hạng khuyết tật; quyền và nghĩa vụ của người khuyết tật; chính sách của Nhà nước; xã hội hóa hoạt động trợ giúp người khuyết tật; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và cá nhân; trách nhiệm của gia đình; tổ chức của người khuyết tật và tổ chức vì người khuyết tật; quỹ trợ giúp người khuyết tật; ngày Người khuyết tật Việt Nam; hợp tác quốc tế; những hành vi nghiêm cấm; khen thưởng và xử lý vi phạm. - Chương II. Chăm sóc sức khoẻ: Gồm các điều quy định về phát hiện sớm, can thiệp sớm người khuyết tật; khám bệnh, chữa bệnh đối với người khuyết tật; trách nhiệm của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; cơ sở chỉnh hình phục hồi chức năng; phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng. - Chương III. Giáo dục: Gồm các điều quy định về chính sách giáo dục đối với người khuyết tật; các phương thức giáo dục người khuyết tật bao gồm giáo dục hoà nhập, giáo dục bán hoà nhập và giáo dục chuyên biệt; các chính sách, chế độ đối với cán bộ, giáo viên, giảng viên và nhân viên hỗ trợ giáo dục người khuyết tật; trách nhiệm của cơ sở giáo dục và trung tâm hỗ trợ giáo dục hoà nhập trong việc tạo điều kiện về bảo đảm cơ sở vật chất và thực hiện giáo dục đối với người khuyết tật. - Chương IV. Học nghề và việc làm: Gồm các điều quy định về các chính sách học nghề, trách nhiệm của cơ sở dạy nghề trong việc bảo đảm các điều kiện dạy nghề đối với người khuyết tật; quy định về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân trong việc tuyển dụng, bố trí việc làm, bảo đảm các điều kiện làm việc và các chính sách của Nhà nước nhằm tạo việc làm cho người khuyết tật. Trong chương này cần thiết quy định trách nhiệm của doanh nghiệp nhận tỷ lệ bắt buộc là người khuyết tật nếu không phải đóng quỹ trợ giúp người khuyết tật - Chương V. Văn hoá, thể thao và giải trí: Gồm các điều quy định chính sách, trách nhiệm của nhà nước, xã hội và các cơ sở văn hoá, thể thao trong việc bảo đảm các điều kiện để người khuyết tật tiếp cận và tham gia các hoạt động văn hoá, thể thao và giải trí. - Chương VI. Nhà ở và công trình công cộng, tham gia giao thông, công nghệ thông tin và truyền thông: Gồm các điều quy định về các điều kiện trong việc phê duyệt thiết kế đầu tư xây dựng mới, lộ trình cải tạo công trình công cộng nhằm bảo đảm các điều kiện tiếp cận và sử dụng của người khuyết tật; phương tiện giao thông và các chính sách, biện pháp bảo đảm người khuyết tật tiếp cận giao thông, tiếp cận công nghệ thông tin và truyền thông. - Chương VII. Bảo trợ xã hội: Gồm các điều quy định về các chính sách trợ cấp xã hội đối với người khuyết tật, gia đình người khuyết tật, người nhận nuôi dưỡng và chăm sóc người khuyết tật; chính sách nuôi dưỡng tập trung trong cơ sở chăm sóc người khuyết tật; chính sách hỗ trợ mai táng; cơ sở chăm sóc người khuyết tật. - Chương VIII. Trách nhiệm của cơ quan Nhà nước đối với công tác người khuyết tật: Gồm các điều quy định về cơ quan quản lý nhà nước về người khuyết tật và trách nhiệm của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ, cơ quan ngang Bộ, uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. - Chương IX. Điều khoản thi hành: Gồm các điều quy định về áp dụng pháp luật, hiệu lực thi hành và hướng dẫn thi hành. 3.2.3. Tổ chức triển khai thực hiện pháp luật về người khuyết tật 3.2.3.1. Công tác tập huấn nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ công chức là giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động áp dụng pháp luật Trong những năm qua Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội đã thường xuyên tổ chức tập huấn cho Chánh, phó Giám đốc các cơ sở bảo trợ xã hội, các Trưởng phòng Bảo trợ xã hội thuộc Sở Lao động- Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố, Trưởng phòng Tổ chức Lao động và xã hội, Lãnh đạo các đơn vị trực thuộc Bộ, nội dung hướng dẫn triển khai Pháp lệnh về người tàn tật. Các Vụ chức năng chuyên môn của Bộ tuỳ theo chức năng nhiệm vụ cũng đã tổ chức các lớp tập huấn chuyên đề kỹ năng bảo vệ, chăm sóc người tàn tật tại trung tâm và cộng đồng; Tập huấn về kỹ năng phòng ngừa thương tích cho cán bộ, nhân viên và trẻ em tại các cơ sở bảo trợ xã hội; Tập huấn về quản lý vốn vay hỗ trợ việc làm v.v... Một số Bộ, ngành Trung ương và các địa phương, các tổ chức đoàn thể như Bộ Xây dựng đã tổ chức tập huấn cho các đơn vị trong ngành và các đơn vị có liên quan tại Hà Nội, Hải Phòng, Ninh Bình, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ (đối tượng tham gia tập huấn bao gồm các cán bộ quản lý thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, Sở Xây dựng, Sở Giao thông Công chính, Sở Lao động- Thương binh và Xã hội, các Công ty Tư vấn Xây dựng, các Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội, Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Xây dựng, các chủ đầu tư, ban quản lí dự án đầu tư xây dựng công trình, Văn phòng Kiến trúc sư, Hội Kiến trúc sư, các hội hỗ trợ người tàn tật ở các tỉnh như Hội Cựu chiến binh, Hội Bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ côi, Hội Cứu trợ trẻ em tàn tật, hội Chữ thập đỏ, Hội Nạn nhân chất độc da cam, hội Phụ nữ, thanh niên, các Hội người tàn tật…); Bộ Giao thông vận tải đã biên soạn và tổ chức tập huấn trên toàn quốc cho nhân viên phục vụ xe khách trong đó có dành 01 chương hướng dẫn phục vụ người khuyết tật, Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Hội Bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ côi, Hiệp hội sản xuất kinh doanh của người tàn tật, Hội cựu chiến binh. Hội liên hiệp phụ nữ trong cả nước hàng năm đều tổ chức các lớp tập huấn cán bộ, triển khai các hoạt động vì người tàn tật. 3.2.3.2. Kiểm tra, theo dõi, giám sát đánh giá, sơ tổng kết hoạt động thực hiện pháp luật về người khuyết tật Chính phủ, Bộ, ngành cơ quan Trung ương và các địa phương thực hiện tương đối tốt và đồng bộ công tác chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh về người tàn tật và các quy định. Các Bộ, ngành và các địa phương hàng năm ban hành hàng trăm công văn, quyết định cá biệt để xử lý và hướng dẫn xử lý những vấn đề bức xúc, hoặc tháo gỡ những khó khăn. Công tác phối hợp giữa các Bộ, ngành cơ quan cũng đã được thực hiện tương đối tốt. Đây là điều kiện quan trọng góp phần thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về người tàn tật. Hàng năm nhiều cơ quan, Bộ, ngành tổ chức các đoàn kiểm tra thực hiện Pháp lệnh về người tàn tật ở các địa phương: Các đoàn giám sát của Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội, các đoàn của các Bộ, ngành, các đoàn thuộc Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội. Tổng hợp thống kê, khảo sát, đánh giá thực trạng người tàn tật và tình hình thực hiện chính sách, giải pháp được đặc biệt quan tâm. Hàng năm Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội đều có văn bản chỉ đạo và hướng dẫn các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổng hợp thống kê về tình hình thực hiện các chế độ chính sách đối với người tàn tật. Để có cơ sở cho xây dựng và thực hiện chính sách, năm 2004 đã tiến hành đánh giá về trẻ em tàn tật, năm 2005 khảo sát thực trạng người tàn tật ở 8 tỉnh, làm cơ sở cho xây dựng đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2006-2010; năm 2006 Tổng cục Thống kê đã lồng ghép các chỉ tiêu đánh giá khuyết tật vào cuộc điều tra mức sống dân cư; năm 2007 Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã chỉ đạo các địa phương tiến hành thống kê đối tượng và thực hiện thống kê thí điểm ở 8 tỉnh, đồng thời đã tiến hành tổng rà soát đối tượng bảo trợ xã hội trong đó có người tàn tật nặng thuộc diện hưởng trợ cấp xã hội... Nhìn chung công tác tổng hợp báo cáo đã được thực hiện thường xuyên và liên tục. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa tiến hành tổng rà soát, thống kê người tàn tật, do vậy chưa có công bố chính thức về tỷ lệ người tàn tật, công tác quản lý các đối tượng hưởng chính sách đã được làm nhưng chưa đầy đủ, làm thủ công, gián đoạn đã dẫn đến còn sự khác biệt về các con số báo cáo dẫn đến khó khăn cho các cơ quan quản lý. Để thực hiện đầy đủ các hoạt động thực hiện pháp luật về người khuyết tật và đưa ra giải pháp mang tính khả thi cần có đánh giá chính xác kết quả thực hiện Quyết định số 239/2006/QĐ- TTG ngày 24/10/2006 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt đề án trợ giúp người tàn tật giai đoạn 2006- 2010(Sau đây gọi chung là đề án 239). Trên cơ sở đó kiến nghị chương trình Quốc gia nhằm hỗ trợ người khuyết tật trong giai đoạn mới. Các chỉ tiêu cụ thể bao gồm: - Có ít nhất 80% các tỉnh, thành phố có tổ chức tự lực của người khuyết tật. Đây là con số nằm trong đề án 239. Có thể thấy rõ khi các tổ chức tự lực của người khuyết tật được thành lập thì minh chứng cho sự phát triển của các tổ chức của người khuyết tật. Trong đề án của giai đoạn mới cần thiết phải có sự can thiệp từ phía nhà nước nhằm bảo đảm sự thống nhất trong tổ chức và tạo thuận lợi cho việc huy động các nguồn lực hỗ trợ hoạt động hoà nhập của người khuyết tật. Trong quá trình thực hiện pháp luật về người khuyết tật cần nâng cao vai rò vị trí của người khuýet tật bởi thực sự họ chính là nhóm người yếu thế nhất trong xã hội cần thiết có sự hỗ trợ từ phía nhà nước. - Có ít nhất 80% phụ nữ khuyết tật được hỗ trợ dưới các hình thức khác nhau. Sự hỗ trợ được hiểu là cả về tư vấn tiếp cận chính sách cũng như hỗ trợ cơ sở vật chất, vay vốn... - Nhà nước cần thiết xây dựng đề án quốc gia nhằm phát hiện sớm, can thiệp sớm nhằm ngăn ngừa và hạn chế nguy cơ khuyết tật của người dân. Theo số liệu thống kê của Bộ Y tế thì hiện nay tỷ lệ khuyết tật bẩm sinh có tỷ lệ tương đối cao, nguyên nhân thực tế hoạt động can thiệp sớm và phát hiện sớm ngành Y tế nước ta chưa được quan tâm đúng mức - Đẩy mạnh hoạt động chăm sóc sức khoẻ cho người khuyết tật mà cụ thể là hoạt động phục hồi chức năng, chỉnh hình. Khi những hoạt động này đẩy mạnh cũng chính là những biện pháp phục hồi chức năng lao động đối với người khuyết tật trong lao động và vui chơi giải trí. - Bảo đảm khoảng 80% số trẻ khuyết tật được tham gia học tập dưới mọi hình thức. Chú trọng hình thức giáo dục hoà nhập đối với trẻ khuyết tật - Thúc đẩy hoạt động dạy nghề và tạo việc làm cho người khuyết tật. để thực hiện giải pháp là nhà nước cần thiết lập cơ chế xác định trách nhiệm của các doanh nghiệp trong việc nhận người khuyết tật vào làm việc nếu không có biện pháp khả thi và chặt chẽ yêu cầu đóng góp nguồn tài chính trong trường hợp không nhận đủ số lao động theo quy định vào làm việc. - Xây dựng lộ trình nhằm bảo đảm quyền tiếp cận của người khuyết tật trong tham gia giao thông, tiếp cận công nghệ thông tin và các dịch vụ vui chơi giải trí khác. 3.2.4. Phối hợp các ngành trong việc đảm bảo thực hiện pháp luật về người khuyết tật Thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích và làm cho các quy phạm pháp luật điều chỉnh những vấn đề liên quan tới người khuyết tật đi vào thực tiễn cuộc sống. Kết quả của Hoạt động này liên quan chặt chẽ tới sự phối hợp, kết hợp của các chủ thể trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật mà đặc biệt là sự phối hợp của các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Để bảo đảm thực hiện pháp luật về người khuyết tật thì Chính phủ cần phải là cơ quan thống nhất quản lý nhà nước về công tác người khuyết tật trong phạm vi toàn quốc. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với công tác người khuyết tật trong cả nước. Uỷ ban nhân dân các cấp và vai trò của Sở Lao động- Thương binh và Xã hội, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với công tác người khuyết tật; lồng ghép công tác người khuyết tật vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; bảo đảm các điều kiện để người khuyết tật thực hiện quyền và trách nhiệm của mình; tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân tham gia hỗ trợ người khuyết tật. Khi xác định trách nhiệm của của cơ quan quản lý nhà nước các cấp cần phải đẩy mạnh hoạt động phân cấp trong các hoạt động cụ thể. Nâng cao vai trò trách nhiệm của chính quyền địa phương tránh hiện tượng vừa chồng chéo vừa trùng lặp nhiệm vụ- yếu tố cản trở hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước về người khuyết tật. Để thực hiện hoạt động này cần phân nhiệm vụ cụ thể theo hướng: 1. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có trách nhiệm sau đây: a) Xây dựng và trình cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền văn bản quy phạm pháp luật, chương trình, đề án, kế hoạch về công tác người khuyết tật; b) Chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ và Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về người khuyết tật; chương trình, đề án, kế hoạch về công tác người khuyết tật; c) Quy định thủ tục, hồ sơ, thời gian và quy trình thực hiện trợ giúp xã hội tại cộng đồng; quy trình, thủ tục, hồ sơ tiếp nhận và điều kiện dừng nuôi dưỡng trong cơ sở bảo trợ xã hội; tiêu chuẩn nghiệp vụ đối với cán bộ, công chức, nhân viên chăm sóc người khuyết tật; d) Nghiên cứu trình Chính phủ ban hành quy định về chế độ, chính sách đối với người làm công tác người khuyết tật; cán bộ, công chức, nhân viên chăm sóc, nhân viên chỉnh hình phục hồi chức năng người khuyết tật, cán bộ chuyên trách của tổ chức người khuyết tật. đ) Đào tạo nghiệp vụ cán bộ, công chức, nhân viên làm công tác người khuyết tật và chăm sóc người khuyết tật tại gia đình và trong cơ sở bảo trợ xã hội; e) Xây dựng và thực hiện các chương trình nâng cao nhận thức về người khuyết tật và công tác người khuyết tật; g) Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về người khuyết tật; h) Thực hiện hợp tác quốc tế về người khuyết tật; i) Phối hợp với Bộ Y tế thực hiện giám định, cấp giấy chứng nhận khuyết tật cho người khuyết tật; k) Xây dựng trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án trợ giúp người khuyết tật; l) Thực hiện điều tra, thống kê, xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu, số liệu và thông tin, định kỳ công bố báo cáo về người khuyết tật; m) Quy hoạch và quản lý hệ thống cơ sở chỉnh hình, phục hồi chức năng và cơ sở bảo trợ xã hội. 2. Bộ Y tế có trách nhiệm sau đây: a) Hướng dẫn và tổ chức thực hiện chăm sóc sức khoẻ người khuyết tật tại các cơ sở y tế và cộng đồng; c) Quy định quy trình xác định dạng khuyết tật, hạng hạng tật; chủ trì thực hiện xác định dạng khuyết tật, hạng khuyết tật và cấp giấy chứng nhận khuyết tật cho người khuyết tật; d) Thực hiện quản lý nhà nước về chỉnh hình phục hồi chức năng và các cơ sở chỉnh hình phục hồi chức năng thuộc ngành; đ) Chủ trì và phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định cụ thể hoạt động chỉnh hình, phục hồi chức năng người khuyết tật; đào tạo về chỉnh hình, phục hồi chức năng; thực hiện chương trình phòng ngừa khuyết tật; hướng dẫn thực hiện phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng đối với người khuyết tật. 3. Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm sau: a) Thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục đối với người khuyết tật; b) Quy định thống nhất ngôn ngữ ký hiệu và chữ nổi Braille trên phạm vi toàn quốc; c) Đào tạo giáo viên, nhân viên hỗ trợ và biên soạn chương trình, tài liệu, giáo trình và sách giáo khoa áp dụng cho học sinh là người khuyết tật; chỉ đạo nghiên cứu, sản xuất và cung ứng các thiết bị dạy học phù hợp với từng dạng khuyết tật và hạng khuyết tật; d) Chủ trì và phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế thực hiện chương trình giáo dục đặc biệt đối với trẻ em khuyết tật; đ) Phối hợp với Bộ Y tế, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội thực hiện đào tạo về các chuyên ngành chỉnh hình, phục hồi chức năng. 4. Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về công tác văn hoá, thể thao và giải trí đối với người khuyết tật; chỉ đạo, hướng dẫn và thực hiện các hoạt động nâng cao đời sống văn hoá, tinh thần người khuyết tật. 5. Bộ Xây dựng có trách nhiệm chủ trì và phối hợp với các Bộ, ngành liên quan ban hành và tổ chức thực hiện quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về xây dựng bảo đảm cho người khuyết tật tiếp cận và sử dụng; trình Chính phủ lộ trình cải tạo nhà ở và công trình công cộng theo quy định tại khoản 4 Điều 28 Luật này. 6. Bộ Giao thông - Vận tải có trách nhiệm chủ trì và phối hợp với các Bộ, ngành ban hành và thực hiện quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về kết cấu hạ tầng giao thông, các công cụ hỗ trợ và chính sách ưu tiên người khuyết tật tham gia giao thông công cộng; giảm, miễn cước phí, miễn phí vận chuyển xe lăn, xe đẩy phục vụ người khuyết tật tham gia giao thông. 7. Bộ Thông tin và Truyền thông có trách nhiệm ban hành và hướng dẫn thực hiện các quy chuẩn tiếp cận công nghệ thông tin đối với người khuyết tật; chỉ đạo, hướng dẫn các cơ quan thông tin đại chúng thực hiện tuyên truyền phổ biến chính sách, pháp luật đối với người khuyết tật và công tác người khuyết tật. 8. Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì và phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng các quy định khuyến khích nghiên cứu, sản xuất và ứng dụng các sản phẩm hỗ trợ người khuyết tật sử dụng. 9. Bộ Tài chính bố trí ngân sách thực hiện các chính sách, chương trình, đề án, dự án trợ giúp người khuyết tật, điều tra, khảo sát và thống kê người khuyết tật cho các Bộ, ngành và địa phương theo phân cấp ngân sách nhà nước hiện hành. 10. Bộ Kế hoạch và Đầu tư bố trí ngân sách thực hiện các dự án Nhà nước đầu tư chăm sóc, nuôi dưỡng, chỉnh hình phục hồi chức năng người khuyết tật; phối hợp Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội điều tra, khảo sát và thống kê người khuyết tật. 3.2.5. Xác định vai trò, trách nhiệm của chính quyền địa phương, của các tổ chức người khuyết tật và đẩy mạnh xã hội hoá chăm sóc người khuyết tật để thực hiện pháp luật về người khuyết tật 3.2.5.1. Xác định trách nhiệm và nâng cao vai trò của chính quyền địa phương Pháp luật hiện hành xác định rõ trách nhiệm của chính quyền địa phương trong thực hiện pháp luật về người khuyết tật. Không thể phủ nhận vai trò của chính quyền địa phương trong thời gian vừa qua, tuy nhiên, nhìn vào các báo cáo của Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội cho thấy nếu địa phương nào quan tâm tới người khuyết tật thì ở nơi đó người khuyết tật có điều kiện hơn trong việc hoà nhập đời sống cộng đồng xã hội. Chính quyền cấp xã có vai trò hết sức quan trong trong việc thực hiện các chính sách liên quan đến người khuyết tật. Khi tổng kết việc thực hiện Nghị định 67/2007/ NĐ- CP cho thấy việc rà soát, điều tra các đối tượng thuộc diện bảo trợ xã hội trong đó có người khuyết tật ở các địa phương có nơi còn bỏ sót hoặc thiếu chính xác. Nguyên nhân có từ phía đội ngũ cán bộ công chức, các nguồn lực để thực hiện và có nguyên nhân từ sự thiếu chỉ đạo của lãnh đạo chính quyền cấp cơ sở. Để thực hiện tốt hoạt động thực hiện pháp luật cần thiết đẩy mạnh việc phân cấp cho chính quyền cấp cơ sở. Thực hiện hoạt động này vừa xác định vai trò, vị trí vừa xác định trách nhiệm của chính quyền các cấp trong việc thực hiện pháp luật về người khuyết tật. 3.2.5.2. Nâng cao vai trò vị trí của tổ chức người khuyết tật Đối với công tác thực hiện pháp luật về người khuyết tật cần đẩy mạnh hoạt động xã hội hoá công tác chăm sóc người khuyết tật. Có nhiều nguyên nhân tuy nhiên những nguyên nhân căn bản đó là tạo môi trường mở rộng không chỉ có trách nhiệm từ phía nhà nước và gia đình. Nguồn lực của đất nước hiện nay có hạn trong khi nhu cầu chăm sóc người khuyết tật đa dạng liên quan tới việc chăm sóc phục hồi chức năng, học nghề , dạy nghề và bảo đảm quyền tiếp cận trong giao thông, tiếp cận công nghệ thông tin và các dịch vụ xã hội khác nhau. Muốn thực hiện hoạt động này cần đẩy mạnh hoạt động các tổ chức của người khuyết tật và tổ chức của người khuyết tật. Trong những năm vừa qua hoạt động của các tổ chức vì người khuyết tật hoạt động khá hiệu quả, hàng chục nghìn người khuyết tật được hỗ trợ xe lăn, xe đẩy, hàng chục ngàn người được hỗ trợ chỉnh hình phục hồi chức năng hoà nhập cộng đồng. Có được kết quả như vậy có sự đóng góp rất lớn của các tổ chức vì người khuyết tật trong và ngoài nước. Đối với các tổ chức của người khuyết tật, do người khuyết tật thành lập và tự quản lý hoạt động bước đầu đã có nhiều kết quả, tuy nhiên cần nhìn nhận rằng ở nước ta hiện vẫn chưa có tổ chức đầu mối ở cấp Quốc gia của người khuyết tật do vậy chưa tập hợp lực lượng đông đảo người khuyết tật trong phạm vi toàn quốc, mưới chỉ có các hội người khuyết tật riêng lẻ đối với từng dạng khuyết tật như Hội người mù, Hội nạn nhân chất độc màu da cam, điều này vừa khó khăn trong việc kiến nghị cũng như giám sát quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật về người khuyết tật. Hoạt động thực hiện pháp luật về người khuyết tật là hoạt động liên quan tới trách nhiệm của nhiều chủ thể khác nhau, chỉ khi nào các tổ chức của người khuyết tật và vì người khuyết tật hoạt động mạnh mẽ và thống nhất mới tạo dựng nguồn lực cần thiết trong việc bảo vệ và bảo đảm quyền tiếp cận của người khuyết tật. Phát triển các tổ chức của người khuyết tật liên quan tới trách nhiệm từ phía các cơ quan trong bộ máy nhà nước, trong việc tạo dựng hành lang pháp lý cho các tổ chức của người khuyết tật hoạt động. Việc khuyến khích thành lập Hiệp hội sản xuất kinh doanh dành cho người khuyết tật như trong thời gian vừa qua có tác động mạnh mẽ tới khả năng hoà nhập xã hội của người khuyết tật. Những chính sách tương tự cần tiếp tục mở rộng như là những giải pháp căn bản nhằm thúc đẩy hoạt động thực hiện pháp luật về người khuyết tật. 3.2.5.3. Đẩy mạnh công tác xã hội hoá, huy động nguồn lực của các tổ chức xã hội trong hoạt động chăm sóc người khuyết tật Xã hội hoá là chủ trương chung của Đảng và nhà nước ta không chỉ trong công tác chăm sóc người khuyết tật. Là bộ phận dân cư yếu thế trong xã hội cần thiết huy động nguồn lực của các tổ chức trong và ngoài nước thì công tác bảo vệ người khuyết tật mới đạt hiệu quả. Thực hiện chủ trương này nhà nước cần thiết phải có chiến lược cụ thể và khả thi với mục tiêu là khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước tài trợ, giúp đỡ về tài chính và kỹ thuật tham gia hoạt động trợ giúp người khuyết tật với các hình thức phù hợp. Trong hoạt động chăm sóc sức khoẻ cần đẩy mạnh hoạt động phục hồi chức năng cả về vận động cũng như các loại khuyết tật khác nhằm bảo đảm người khuyết tật còn khả năng có thể tham gia lao động và tích cực hoà nhập đời sống cộng đồng. Lĩnh vực phát hiện sớm và can thiệp sớm tình trạng khuyết tật hiện nay ở nước ta chưa quan tâm đúng mức trong khi tỷ lệ khuyết tật bẩm sinh hiện rất cao. Thực tế cho thấy gia đình nào có người khuyết tật thì vô cùng vât vả và gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống. Thực hiện hoạt động xã hội hoá trong lĩnh vực này đòi hỏi nhà nước cần huy động các nguồn lực từ các thành phần kinh tế trong hoạt động chăm sóc người khuyết tật trong đó đặc biệt quan trọng là phát hiện sớm và can thiệp sớm đối với người khuyết tật. Trong những năm vừa qua nhiều tổ chức quốc tế cũng đã tham gia hỗ trợ bước đầu trong công tác sàng lọc trẻ sơ sinh, những hoạt động này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc hạn chế các nguy cơ xảy ra khuyết tật, nhiều trẻ em đã thoát khỏi tình trạng khuyết tật khi được can thiệp sớm. Tuy nhiên thực tiễn hoạt động phát hiện sớm và can thiệp sớm chưa được đẩy mạnh dưới góc độ xã hội hoá và thực tiễn cho thấy các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và đặc biệt là cơ sở y tế chuyên khoa phụ sản chưa thực hiện đầy đủ hoạt động xét nghiệm ban đầu với tất cả các trẻ sơ sinh vì vậy tỷ lệ khuyết tật bẩm sinh chiếm tỷ lệ tương đối cao so với các quốc gia trong khu vực. Quy định trách nhiệm của tất cả các cơ sở y tế trong phòng ngừa khuyết tật là giải pháp khả thi trong điều kiện kinh tế xã hội của nước ta hiện nay. Trong lĩnh vực giáo dục cần thiết nghiên cứu mô hình giáo dục hoà nhập phù hợp với khả năng và đặc điểm của từng dạng khuyết tật. Chủ trương này đòi hỏi chủ trương xã hội hoá cao trong công tác nghiên cứu mô hình trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục, nhiệm vụ của trung tâm là phát hiện sớm và can thiệp nhằm lựa chọn phương thức giáo dục phù hợp, tư vấn tâm lý tình cảm giáo dục hướng nghiệp và cung cấp chương trình, nội dung, thiết bị tài liệu phù hợp đặc thù của từng dạng và hạng trẻ khuyết tật. Các chính sách xã hội hoá cần áp dụng và mở rộng mô hình trung tâm bảo trợ xã hội không chỉ do nhà nước thiết lập. Ngoài việc hỗ trợ những chính sách ưu đãi về thuế và hỗ trợ kỹ thuật cần tạo sự bình đẳng trong việc thụ hưởng các chính sách của đối tượng bảo trợ xã hội ở trung tâm bảo trợ xã hội trong hay ngoài công lập. Huy động mọi nguồn lực của các tổ chức Quốc tế trong công tác chăm sóc người khuyết tật và nhanh chóng phê chuẩn Công ước về quyền của người khuyết tật mà nước ta đã ký tham gia năm 2006. Kết luận Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Điều đó có nghĩa rằng, việc đảm bảo sự bình đẳng trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội đối với người khuyết tật nói riêng, các tầng lớp dân cư khác nói chung là nhiệm vụ quan trọng trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước Việt Nam. Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể làm suy giảm về thể chất, thần kinh hay trí tuệ trong một thời gian dài và cùng với các rào cản xã hội mà họ tiếp cận xã hội rất khó khăn. Bộ phận dân cư này luôn cần được sự trợ giúp của gia đình, nhà nước và xã hội. Thực hiện pháp luật về người khuyết tật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật về người khuyết tật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế tác động và điều chỉnh những quan hệ pháp luật liên quan đến người khuyết tật. Đất nước ta đang trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, với mục tiêu tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội, chính vì lẽ đó, việc chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khuyết tật là yêu cầu quan trọng. Hơn lúc nào hết cần phải tổ chức tốt hoạt động thực hiện pháp luật về người khuyết tật với hệ thống pháp luật đồng bộ, không rào cản đối với người khuyết tật nói riêng và hoạt động thực hiện hệ thống pháp luật nói chung. Thực trạng người khuyết tật và công tác thực hiện pháp luật về người khuyết tật cho thấy mặc dù đã có nhiều tiến bộ trong quá trình tổ chức thực hiện song đời sống của người khuyết tật vẫn gặp nhiều khó khăn, việc tiếp cận đầy đủ và hoà nhập đời sống xã hội của họ vẫn còn nhiều rào cản. Thực tế này đòi hỏi phải có sự đổi mới trong nhận thức cũng như thực hiện pháp luật về người khuyết tật trong giai đoạn hiện nay. Những giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về người khuyết tật hướng đến việc xác định trách nhiệm từ phía nhà nước cũng như vai trò của các tổ chức xã hội, đó là những chủ thể quan trọng trong quá trình thực hiện pháp luật về người khuyết tật. Để thực hiện pháp luật trước hết cần nâng cao nhận thức của toàn xã hội về người khuyết tật. Phải nhận thức được họ là nhóm người yếu thế trong xã hội và có nhiều nguyên nhân dãn tới tình trạng bị khiếm khuyết bộ phận cơ thể hoặc suy giảm chức năng nào đó và họ cần được bình đẳng trong quá trình hội nhập đời sống cộng đồng xã hội. Điều kiện về tổ chức thực hiện pháp luật về người khuyết tật trong đó có sự phối hợp, kết hợp giữa các ngành trong triển khai có ý nghĩa quan trọng đối với hiệu quả thực hiện pháp luật. Trong nội dung này thì trách nhiệm của chính quyền địa phương có ý nghĩa là tác động trực tiếp tới quyền và những chính sách bảo trợ xã hội thường xuyên của người khuyết tật. Hiệu quả của quá trình thực hiện pháp luật liên quan tới việc nhà nước có chính sách như thế nào đối với vị trí và vai trò của các tổ chức của người khuyết tật và tổ chức của người khuyết tật cúng như những chính sách đẩy mạnh hoạt động xã hội hoá trong công tác bảo vệ và chăm sóc người khuyết tật. Để thực hiện tốt hoạt động thực hiện pháp luật đòi hỏi nhà nước cần từng bước xây dựng chính sách bảo trợ xã hội đối với toàn dân trong đó đặc biệt quan tâm tới những nhóm dân cư yếu thế trong đó có người khuyết tật đồng thời mở rộng và phát triển và tạo lập nhiều hệ thống và hình thức bảo trợ xã hội cho những người gặp khó khăn trong hoà nhập đời sống cộng đồng xã hội trong đó có người khuyết tật. Danh mục tài liệu tham khảo 1 Nguyễn Thị Báo (2007), Hoàn thiện pháp luật về quyền của người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sỹ Luật học, Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. 2 Vũ Ngọc Bình (2001), Trẻ em tàn tật và quyền của các em, Nxb Lao động- Xã hội, Hà Nội. 3 Bộ Giao thông- Vận tải (2008), Báo cáo thực trạng người khuyết tật tiếp cận giao thông công cộng. 4 Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2003), Báo cáo điều tra đánh giá sơ bộ 5 năm (1998- 2003) thực hiện pháp luật về người tàn tật. 5 Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2005), Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật - Văn phòng điều phối các hoạt động hỗ trợ người khuyết tật (NCCD). 6 Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2007), Thông tư số 09/2007/TT-BLĐTBXH ngày 23 tháng 7 năm 2007 hướng dẫn một số điều của Nghị định 67/2007/NĐ- CP về chính sách trợ giúp các đối tượng Bảo trợ xã hội. 7 Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2008), Báo cáo kết quả thực hiện Pháo lệnh về người tàn tật và đề án trợ giúp người tàn tật giai đoạn 2006-2010. 8 Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2008), Thông tư số 26/2008/TT-BLĐTBXH ngày 10/11/2008 về sửa đổi, bổ sung một số điểm của thông tư số 09/2007/TT- BLĐTBXH hướng dẫn một số điều của Nghị định số 67/2007/NĐ- CP. 9 Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2008), Báo cáo Quốc gia lần thứ ba và thứ tư Việt Nam thực hiện Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật, quyền của trẻ em giai đoạn 2002- 2007, Hà Nội. 10 Bộ Lao động -Thương binh và Xã hội (2009), Báo cáo điều tra tình hình thực hiện pháp luật về người tàn tật Việt Nam. 11 Chính phủ (1999), Nghị định số 55/1999/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 1999 quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh về người tàn tật. 12 Chính phủ (2000), Nghị định số 07/2000/NĐ- CP ngày 09 tháng 3 năm 2000 về chính sách cứu trợ xã hội. 13 Chính phủ (2007), Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13 tháng 4 năm 2007 về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội. 14 Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, tập 3, Nxb Sự thật, Hà Nội. 15 Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội 16 Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. 17 Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội. 18 Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 19 Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 20 Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 21 Đại học Quốc Gia Hà Nội - Khoa luật (2005), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 22 Vũ Công Giao (2001), Cơ chế của Liên hợp quốc về nhân quyền, Luận văn thạc sỹ luật học, Trung tâm khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia, Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật, Hà Nội. 23 Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Khoa Nhà nước và pháp luật (2004), Tài liệu học tập và nghiên cứu môn lý luận chung về nhà nước và pháp luật, tập I, Lưu hành nội bộ. 24 Học viện Chính trị –Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Nhà nước và pháp luật (2008), Thông tin nhà nước và pháp luật. 25 Học viện Hành chính quốc gia (2006), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật. 26 Hội trợ giúp người khuyết tật Việt Nam (2008), (Bản dịch VNAH), Luật người khuyết tật của một số nước trên thế giới (Mỹ, Trung Quốc, Malaysia, Nhật Bản). 27 Kết quả Khảo sát người tàn tật năm 2005 (2006), Nxb Lao động- Xã hội, Hà Nội. 28 Phân tích tình hình trẻ em khuyết tật ở Việt Nam (2004), Nxb Lao động Xã hội, Hà Nội. 29 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2001), Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992. 30 Tổ chức Lao động quốc tế ILO (2006), Hướng tới cơ hội việc làm bình đẳng cho người khuyết tật thông qua hệ thống pháp luật. 31 Trường Đại học Luật Hà Nội (2001), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật. 32 Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (1998), Pháp lệnh về người tàn tật số 06/1998/PL- UBTVQH10 ngày 30 tháng 7 năm 1998. 33 Nguyễn Thị Hoàng Yến (2004), Các biện pháp tổ chức giáo dục hoà nhập giúp trẻ em khuyết tật thính giác vào lớp 1, Luận án tiến sỹ giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội. 34 PGS.TS Nguyễn Thị Hoàng Yến (2009), Từ thực tiễn đào tạo cán bộ, giáo viên giảng dạy người khuyết tật kiến nghị về dự án xây dựng Luật người khuyết tật, Khoa Giáo dục đặc biệt, ĐHSP Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf17_0667.pdf
Luận văn liên quan