Pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan có vai trò quan
trọng trong hoạt động hải quan. Nó góp phần quan trọng ổn định an ninh kinh tế, phát
triển kinh tế đối ngoại của đất nước. Tuy nhiên, hiệu quả, giá trị của nó phụ thuộc vào
việc đảm bảo thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan đó
là những phương thức, biện pháp đưa pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
hải quan vào cuộc sống hiện thực.
Trong giai đoạn hiện nay, dưới sự tác động tiêu cực của mặt trái nền kinh tế thị
trường dẫn đến sự phân tầng xã hội đang diễn ra gay gắt, sự phân hóa giàu nghèo,
truyền thống đạo đức dân tộc đang có nguy cơ bị xói mòn những tác động trên dẫn
đến tình trạng vi phạm pháp luật đặc biệt là vi phạm pháp luật hải quan có chiều hướng
gia tăng. Trước tình hình đó đòi hỏi phải đảm bảo thực hiện pháp luật, pháp luật hải
quan và pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan. Bởi ngành Hải
quan có vai trò quan trọng góp phần thực hiện công cuộc đổi mới đất nước và quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế.
98 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4970 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vi phạm hành chính năm 2002:
Khoản 1 Điều 66 Luật Hải quan quy định: "Chi cục trưởng hải quan cửa khẩu,
Chi cục trưởng hải quan địa điểm làm hải quan ngoài cửa khẩu, Đội trưởng đội kiểm
soát hải quan được quyết định khám người, khám phương tiện vận tải, nơi cất giấu hàng
hóa, tạm giữ người, phương tiện vận tải, hàng hóa theo quy định của pháp luật xử lý vi
phạm hành chính" [26].
Trong khi đó, Điều 45, 46, 47, 48, 49 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
năm 2002 quy định thẩm quyền thực hiện các biện pháp ngăn chặn hành chính trên đây
gồm: "Chi cục trưởng hải quan, Đội trưởng đội kiểm soát thuộc cục hải quan, Đội
trưởng đội kiểm soát chống buôn lậu và Hải đội trưởng hải đội kiểm soát trên biển
thuộc Cục Điều tra chống buôn lậu Tổng cục Hải quan" [38]. Đối với trường hợp tạm
giữ người theo thủ tục hành chính nếu cấp trưởng vắng mặt thì cấp phó được ủy quyền
có quyền ra quyết định tạm giữ người; thủ trưởng, nhân viên hải quan có thẩm quyền
quyết định tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm nếu có căn cứ cho rằng không tạm giữ
ngay thì tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có thể bị tẩu tán tiêu hủy.
Hoặc như quy định về xử phạt đối với hành vi vi phạm quy định về khai hải
quan khi xuất khẩu, nhập khẩu hành ký tại khoản 1, 2 Điều 11 Nghị định 138/2004/NĐ-
CP quy định về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan không phù hợp
với khoản 2 Điều 44 của Luật Hải quan (như đã phân tích ở phần trên).
Các hình thức xử phạt, mức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
của pháp luật hiện nay còn quá nhẹ, chưa đủ mức độ răn đe, trừng phạt buộc các chủ thể
phải tự giác tuân thủ cao pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
trong môi trường trực khai hải quan, tự tính thuế, giảm tối thiểu kiểm tra thực tế hàng
hóa nhưng cá nhân tổ chức không dám vi phạm pháp luật.
Nhiều quy định trong Luật Hải quan còn chưa được bảo vệ bằng các chế tài
hành chính (chưa được quy định tại Nghị định 138/2004/NĐ-CP ngày quy định về việc
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan) như: điểm a, khoản 1 Điều 16 quy
định "nộp, xuất trình chứng từ thuộc hồ sơ hải quan; khoản 2 Điều 20 quy định "phải
khai đầy đủ, chính xác, rõ ràng theo nội dung trên tờ khai hải quan", khoản 1 Điều 34
quy định "hàng hóa là quà biếu, quà tặng phải được làm thủ tục hải quan"… và còn
nhiều quy định khác nữa.
- Hoạt động giải thích pháp luật xử lý vi phạm hành chính tuy đã triển khai
nhưng chưa được thật sự chú trọng và hiệu quả chưa cao; việc làm sáng tỏ nội dung, ý
nghĩa các qui định pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan để
mọi cá nhân, tổ chức hiểu đúng đắn và thực hiện tốt cần phải có một kế hoạch triển khai
cụ thể. Hoạt động này đồng thời là cơ sở cho việc tuyên truyền và giáo dục pháp luật.
Hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật xử lý vi phạm pháp luật
hành chính nói chung và pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan nói
riêng còn mang tính hình thức, chưa đi vào chiều rộng, chiều sâu, và đặc biệt chưa có một
kế hoạch triển khai cụ thể về hoạt động này.
- Công chức làm công tác tham mưu xử lý vi phạm pháp luật hành chính trong lĩnh
vực hải quan cho các cấp có thẩm ra quyết định xử phạt hiện nay còn thiếu, phần lớn kiêm
nhiệm các công việc khác. Qua số liệu thống kê cho thấy trong số 372 cán bộ làm công tác
xử lý trong toàn ngành, chỉ có 100 cán bộ làm chuyên trách công tác xử lý, chiếm 26,88%,
còn 272 cán bộ làm kiêm nhiệm nhiều công việc khác, chiếm 73,12%. Mặt khác, cơ chế
luân chuyển cán bộ dẫn đến cán bộ làm công tác xử lý thường biến động do đó tính chuyên
sâu chưa cao.
Cán bộ, công chức đã được đào tạo, am hiểu pháp luật, nhưng chưa được đào tạo
cơ bản về công tác tố tụng hành chính, hình sự, hạn chế về kinh nghiệm chuyên môn nên
lúng túng khi xử lý các vụ việc phức tạp (có 297 cán bộ làm công tác xử lý có trình độ
đại học trở lên, chiếm 79,84% số cán bộ làm công tác xử lý, trong số đó chỉ có 135 cán
bộ có trình độ đại học Luật).
- Việc sắp xếp bộ máy thực hiện xử lý vi phạm hành chính tại Cục Hải quan địa
phương còn chưa hợp lý, không có bộ phận chuyên sâu về thực hiện pháp luật xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan. Do đó, việc đề ra phương hướng nhiệm vụ
cho công tác thực hiện pháp luật xử lý vi phạm pháp luật hành chính còn chưa cụ thể,
sát thực, phù hợp với thực tế và có hiệu quả.
- Việc phối hợp triển khai thực hiện pháp luật xử lý vi phạm pháp luật hành
chính nói chung và xử lý vi phạm pháp luật hành chính trong lĩnh vực hải quan nói
riêng còn thiếu hiệu quả. Ví dụ, khi có vụ việc vi phạm hành chính về hải quan tại cửa
khẩu cần sự phối kết hợp giữa ba ngành hải quan, công an, biên phòng thì việc triển
khai còn chậm, thiếu nhịp nhàng, mang nặng hành chính thủ tục.
- Về điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật: còn chưa xây dựng được hệ thống thông
tin theo dõi tình hình vi phạm và công tác xử lý vi phạm hành chính trong toàn ngành
một cách đồng bộ nên còn gặp khó khăn trong việc xác định các tình tiết "vi phạm nhiều
lần" "tái phạm", tính "hệ thống" của hành vi vi phạm … để làm căn cứ xử phạt hoặc
phối hợp để áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt, chưa thông
tin kịp thời các hành vi, thủ đoạn mới về vi phạm pháp luật hải quan để kịp thời phát
hiện, ngăn chặn các hành vi vi phạm tương tự xảy ra trong toàn ngành.
Tại một số Chi cục Hải quan, điều kiện về mặt bằng, phương tiện làm việc (như
máy tính, thậm chí cả tủ hồ sơ …) còn thiếu, chưa đảm bảo phục vụ công tác thực hiện
pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan một cách tốt nhất.
2.2. Giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực hải quan ở Việt Nam hiện nay
Thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan về lâu
dài đòi hỏi phải đồng thời thực hiện nhiều giải pháp, trước mắt tập trung vào các giải
pháp sau đây.
2.2.1 Giải pháp hoàn thiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực hải quan ở Việt Nam
Một là, pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan phải thể chế
hóa các chủ trương chính sách của Đảng, phù hợp với Hiến pháp và pháp luật.
Hệ thống pháp luật hải quan nói chung, hệ thống pháp luật về xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực hải quan nói riêng từ trước đến nay đã và đang bám sát, cụ
thể hóa các chủ trương đường lối của Đảng cũng như chính sách pháp luật của Nhà
nước. Hiện nay, Việt Nam đang hội nhập kinh tế, quốc tế một cách sâu rộng thì pháp
luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan càng phải phát huy yếu tố thể chế
chủ trương, chính sách của Đảng, phù hợp với Hiến pháp và pháp luật một cách nghiêm
túc và triệt để.
Hai là, pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan phải đáp
ứng yêu cầu cải cách hành chính, hiện đại hóa hải quan.
Hiện đại hóa hải quan là một tất yếu của sự phát triển, là nhu cầu tự thân của
ngành hải quan cũng như đòi hỏi khách quan của quá trình mở cửa, hội nhập nền kinh tế
Việt Nam với thế giới và khu vực. Hiện đại hóa hải quan gồm nhiều cấu phần khác nhau,
trong đó có cải cách, hiện đại hóa thể chế, chính là hiện đại hóa hệ thống pháp luật hải
quan mà hệ thống pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan là một bộ
phận không thể tách rời. Đây có thể khẳng định là nhiệm vụ đầu tiên, quan trọng nhằm
bảo vệ hệ thống pháp luật hải quan hiện đại, minh bạch mặt khác, là cơ sở để triển khai
các nội dung khác của hiện đại hóa hải quan như hiện đại hóa bộ máy quản lý nhà nước,
hiện đại hóa trang thiết bị, khoa hộc, công nghệ.
Xuất phát từ nguyên tắc xây dựng hệ thống pháp luật về hải quan đảm bảo: tính
minh bạch, rõ ràng; tính ổn định; tính dự báo; tính linh hoạt luôn cập nhật các chuẩn
mực và thông lệ quốc tế tiên tiến nhất thì các quy định theo các hiệp ước quốc tế, cam
kết quốc tế phải được chi tiết hóa thành các điều trong Luật Hải quan, các điều khoản
luật phải được xây dựng ở mức độ chi tiết nhất có thể để tránh phải ban hành quá nhiều
văn bản hướng dẫn. Đồng thời với việc bổ sung các nội dung về quản lý hải quan hiện
đại, thủ tục hải quan điện tử thì hệ thống pháp luật pháp luật xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực hải quan cũng phải xây dựng theo hứng hiện đại hóa, đưa được các quy
định sửa đổi, bổ sung của luật vào các quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực hải quan.
Ba là, pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan phải đủ mạnh
và nghiêm khắc để bảo vệ, phòng ngừa, hạn chế vi phạm các quy định pháp luật hải
quan.
Với vai trò là bộ phận cấu thành của pháp luật hải quan, pháp luật xử lý vi phạm
hành chính về hải quan có nhiệm vụ đảm bảo cho hệ thống pháp luật hải quan được
thực hiện ở mức cao, có các chế tài xử phạt rõ ràng, phát huy hiệu lực, hiệu quả, có tính
phòng ngừa, răn đe và để tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Qua thực tiễn công tác xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan cho
thấy các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan đều xâm phạm đến chính
sách xuất nhập khẩu hàng hoá, gian lận thuế, buôn lậu… ảnh hưởng xấu đến môi trường
kinh doanh trong nước cũng như kinh tế đối ngoại. Vì vậy pháp luật xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hải quan phải thực sự đóng vai trò là bảo vệ an ninh quốc gia, an
ninh kinh tế.
Bốn là, pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan phải tiếp tục
kế thừa, giữ vững các thành tựu lập pháp về hành vi, nguyên tắc, thủ tục xử lý vi phạm
hành chính nói chung, cũng như quy định xử phạt vi phạm hành chính về hải quan đã
được thời gian qua kiểm nghiệm là đúng đắn, chính xác, phù hợp với thực tiễn, có hiệu
lực hiệu quả và tính ổn định cao.
Đây được coi là các quy định quan trọng, là nguồn trực tiếp của pháp luật xử lý
vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan, được biết trong thời gian tới (dự kiến năm
2007), Quốc hội sẽ ban hành Bộ luật xử lý vi phạm hành chính thay thế cho pháp lệnh xử lý
vi phạm hành chính năm 2002 hiện hành, đây sẽ là một trong những bộ luật quan trọng
nhất mang cả tính lý luận và thực tiễn.
Năm là, pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan phải
thường xuyên được hoàn thiện một cách linh hoạt, kịp thời và đồng bộ nhằm đáp ứng
tính đa dạng của các loại hình kinh doanh xuất nhập khẩu, đáp ứng được các nguyên tắc
tụ do thương mại và bảo đảm sự bình đẳng của các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành
phần kinh tế tham gia xuất nhập khẩu; đồng thời, phải được xây dựng theo định hướng
"mở" để tiếp tục hoàn thiện và phát triển.
Sáu là, pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan phải bảo đảm
được thống nhất, minh bạch, đơn giản, cụ thể, dễ hiểu, dễ thực hiện và áp dụng. Hiện
nay hệ thống các văn bản xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan gồm có
Nghị định 138/2004/NĐ-CP quy định về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực hải quan; Thông tư 14/2005/TT-BTC ngày 16/02/2005 của Bộ trưởng Bộ Tài chính
ban hành hướng dẫn nghị định trên. Thực hiện chủ trương xây dựng pháp luật của quốc
hội, Chính phủ cần phải cụ thể hóa các nội dung có thể được trong luật, nghị định, hạn
chế đến mức thấp nhất ban hành thông tư cũng như văn bản hướng dẫn dưới luật hoặc
nghị định, thì các văn bản về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan cũng
cần phải được tổng kết đánh giá trong quá trình thực hiện để đưa ra những nội dung
thực hiện mang tính ổn định, thống nhất trong một văn bản có tính pháp lý cao hơn,
tránh tình trạng phải hướng dẫn quá nhiều nội dung của nghị định tại thông tư. Thực
hiện được nội dung này, một mặt để minh bạch, công khai hóa các quy định về xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan, mặt khác cũng thể hiện được tinh thần cải
cách hành chính, cải cách thể chế trong giai đoạn hiện nay.
Pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan phải phù hợp với
các chuẩn mực của các điều ước quốc tế liên quan đến lĩnh vực quản lý nhà nước về hải
quan mà Việt Nam ký kết gia nhập.
2.2.2. Giải pháp về tuyên truyền, phổ biến pháp luật xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hải quan
Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật nhằm xây dựng ý thức pháp luật
dưới dạng lòng tin, thói quen, động cơ của hành vi tích cực pháp luật của con người.
Thực hiện pháp luật đòi hỏi phải triển khai mạnh mẽ công tác tuyên truyền và giáo dục
pháp luật; huy động lực lượng của các đoàn thể chính trị, xã hội, nghề nghiệp, các
phương tiện thông tin đại chúng tham gia các đợt vận động thiết lập trật tự kỷ cương và
các hoạt động thường xuyên xây dựng nếp sống và làm việc trong cơ quan nhà nước và
trong xã hội. V.I. Lênin từng chỉ rõ: Tuyên truyền là cần thiết và chúng ta không nên sợ
phải lặp đi lặp lại,…và nếu chúng ta nghĩ rằng chúng ta đã quá chú ý nhiều đến việc
tuyên truyền, thì cần nói rằng chúng ta còn phải làm việc đó nhiều hơn gấp trăm lần nữa.
Do vậy, việc tăng cường hoạt động tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan đòi hỏi phải tiến hành các biện pháp sau:
Nâng cao hiểu biết pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
cho đội ngũ cán bộ, công chức ở mọi cấp, mọi vị trí thông qua việc đào tạo phổ biến,
giáo dục tại cơ quan, đơn vị một cách thường xuyên, với nhiều hình thức khác nhau phù
hợp với điều kiện của từng cấp, từng cơ sở, khu vực địa bàn hoạt động; kết hợp cả đào
tạo, giáo dục, bồi dưỡng tại chỗ với cử đi đào tạo, giáo dục ở các cơ sở, trung tâm trong
nước, nước ngoài với nhiều cấp độ, loại hình, thời hạn.
Đẩy mạnh, tăng cường thông tin, tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật xử
lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan cho các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt
động hải quan, các cơ quan nhà nước có liên quan bằng đa phương tiện truyền thông
bằng nhiều hình thức, như: báo cáo viên pháp luật, báo hình, báo viết, báo điện tử, trang
thông tin hải quan, xuất bản, phát hành các tập luật lệ, "tờ rơi" về các loại hình thủ tục
xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh, quá cảnh. Huy động nhân dân, các cộng đồng hưởng
ứng, tự giác thực hiện các quy định của pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực hải quan; tăng cường vai trò của các hình thức dân cư biên giới mang tính tự quản,
động viên nhau thực hiện tốt pháp luật về xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa qua biên giới,
chống buôn lậu và gian lận thương mại, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và các hoạt động
khác nhằm huy động tinh thần làm chủ và trách nhiệm công dân trong việc tham gia
quản lý trật tự an toàn xã hội, phòng chống vi phạm hành chính.
Chủ động trong việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật bằng khuyến khích việc
tham gia, góp ý kiến của mọi pháp nhân, công dân, báo chí… tạo thành dư luận xã hội
lên án mạnh mẽ đối với các hành vi vi phạm pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực hải quan coi thường kỷ cương, phép nước, gây mất trật tự an toàn xã hội, đe
doạ hoặc gây thiệt hại đến tính mạng, tài sản của nhân dân. Đồng thời, kịp thời động
viên, nêu gương khen thưởng xứng đáng đối với các tổ chức, cá nhân dũng cảm tham
gia phối hợp cùng các lực lượng chuyên trách của Nhà nước đấu tranh chống hành vi vi
phạm pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
Hỗ trợ các trung tâm tư vấn, sự trợ giúp pháp lý; tăng cường giao lưu, thảo luận
trao đổi, gặp gỡ, đối thoại trực tiếp giữa đại diện hải quan với đại diện mọi pháp nhân
về quan điểm mới của nhà nước và việc tháo gỡ vướng mắc khi thực hiện pháp luật xử
lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan từ đó nắm bắt được thực trạng để từng
bước bổ sung, hoàn thiện pháp luật.
Các cấp ủy Đảng, chính quyền, mặt trận, các ngành chức năng ở địa phương
tăng cường chủ động các biện pháp, hình thức tuyên truyền, vận động các doanh nghiệp,
cá nhân kinh doanh xuất nhập khẩu ở địa phương chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật xử
lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan và các quy định pháp luật khác có liên
quan.
Để thực hiện có hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật cần phải kết
hợp chặt chẽ với việc tăng cường xử lý nghiêm minh, có hiệu quả mọi vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hải quan. Phải nhận thức rõ mục đích của việc xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hải quan là để bảo đảm kỷ cương, phép nước, bảo vệ lợi ích chung,
bảo vệ sự tôn nghiêm và công bằng của pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực hải quan, răn đe và phòng ngừa vi phạm. Việc xử lý nghiêm minh nhưng phải chính
xác, tùy tính chất, mức độ, hiệu quả mà áp dụng các chế tài hành chính thật chính xác;
không phân biệt đối tượng vi phạm là cán bộ, công chức hải quan, công chức ngành hữu
quan hay là cá nhân, doanh nghiệp, đúng theo quan điểm của Đảng "mọi vi phạm đều
phải được xử lý ", "bất cứ ai vi phạm đều phải đưa ra xét xử theo pháp luật không được
giữ lại để xử lý "nội bộ". Không làm theo kiểu phong kiến: dân thì chịu hình pháp, quan
xử theo "lễ". Khi thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
cần phải kết hợp giáo dục thuyết phục và cưỡng chế, coi trọng thuyết phục trong xử
phạt vi phạm hành chính:
V.I. Lênin đã từng khẳng định: Chuyên chính vô sản thành công vì nó biết kết
hợp giữ thuyết phục và cưỡng chế..., trước hết phải thuyết phục và sau đó mới cưỡng
bức, dù thế nào đi nữa trước hết chúng ta cũng phải thuyết phục rồi mới cưỡng bức.
Để nâng cao vai trò của thuyết phục và kết hợp chặt chẽ giữa thuyết phục và
cưỡng chế trong thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
thì cần phải tiến hành thuyết phục một cách tích cực, thường xuyên vào ý thức và hoạt
động của con người chính là giáo dục pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
hải quan đến từng người dân. Cũng có thể thông qua công tác giải quyết khiếu nại tố
cáo, xem xét những kiến nghị của công dân trong quá trình xử lý vi phạm hành chính.
Thông qua các quyết định giải quyết khiếu nại đúng đắn với những tình huống, vụ việc
cụ thể của cơ quan hành chính có thẩm quyền, những bản án, quyết định đầy tính thuyết
phục của Tòa án hành chính sẽ có tác dụng rất lớn trong việc giáo dục pháp luật đối với
quần chúng nhân dân.
Trong những trường hợp người vi phạm pháp luật xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực hải quan thì cán bộ, công chức hải quan có thẩm quyền xử lý phải giải
thích để người vi phạm hiểu rõ sai phạm của họ, chỉ ra những tác hại của việc vi phạm,
nhấn mạnh đến ý nghĩa nhân đạo của việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính
sẽ có tác dụng lớn trong việc giáo dục ý thức pháp luật cho công dân.chính vì thế người
cán bộ công chức hải quan khi làm công tác xử lý không những phải có trình độ chuyên
môn mà cần phải có phẩm chất đạo đức tốt, có thái độ đúng mực và đôi khi cần phải
biết tiếng dân tộc hay ngoại ngữ …
Một vấn đề không kém phần quan trọng trong việc tiến hành giáo dục pháp luật
xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan cần đảm bảo tính công khai của các
văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành và cần phổ biến rộng rãi kịp thời trong nhân
dân.
2.3.3. Giải pháp kiện toàn về tổ chức bộ máy
Bộ máy tổ chức ngành hải quan nằm trong tổng thể bộ máy hành chính nhà
nước, do đó cũng là đối tượng của cải cách hành chính nhà nước. Những năm qua, theo
chủ trương của Đảng, cải cách nền hành chính nhà nước đã tiến hành đồng bộ trên cả ba
lĩnh vực: thể chế hành chính, bộ máy hành chính và xây dựng đội ngũ công chức hành
chính, hiện đại hóa nền công vụ hành chính. Bên cạnh những thành tựu đạt được, công
cuộc cải cách hành chính cũng bộc lộ nhiều tồn tại yếu kém. Nghị quyết Hội nghị lần thứ
bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII), và mới đây, nghị quyết đại hội Đảng
lần thứ IX đã chỉ rõ những yếu kém đó. Đối với bộ máy hành chính những yếu kém đó
thể hiện:
Cải cách hành chính tiến hành chậm, thiếu kiên quyết, hiệu quả thấp.
Thủ tục hành chính phiền hà, còn nhiều bất cập, hiệu lực, hiệu quả quản lý, chỉ
đạo điều hành thấp, kiểm tra, đôn đốc chưa có sự phối hợp chặt chẽ, nhiều nhiệm vụ,
công tác lớn đề ra được thực hiện không đến nơi, đến chốn, chỉ nói mà không làm, trên
và dưới, trung ương và địa phương hành động không thống nhất gây khó khăn cho phát
triển kinh tế- xã hội, giảm động lực phát triển.
Bộ máy cồng kềnh, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, cơ chế vận hành chồng
chéo, trùng lắp có quá nhiều đầu mối bất hợp lý, nhiều tầng nấc trung gian, trách nhiệm
tập thể và cá nhân không rõ ràng, lãng phí, quan liêu còn khá phổ biến. Tình trạng tham
nhãng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, coi thường phép nước, bất
chấp pháp luật kỷ cương, nạn buôn lậu hối lộ, buôn lậu diễn ra rất nghiêm trọng cả
trong bộ máy và ngoài xã hội.
Quản lý cán bộ, công chức chậm đổi mới, thiếu chặt chẽ, chưa đáp ứng được
yêu cầu tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của nhà nước. Công tác
tuyển chọn, đào tạo, sắp xếp, sử dụng, đánh giá cán bộ công chức còn nhiều thiếu sót,
còn dựa vào quan niệm cũ, định kiến và theo cảm tính; thiếu quy hoạch, không sâu sát,
không đúng quy trình, chưa dân chủ. Không ít cán bộ công chức vừa kém về đạo đức,
phẩm chất, vừa yếu về năng lực, trình độ chuyên môn và kỹ năng nghiệp vụ. Nhiều cán
bộ, đảng viên, công chức vi phạm pháp luật và điều lệ Đảng chưa được xử lý thật kiên
quyết.
Đối với tổ chức, bộ máy ngành hải quan, những yếu kém đó được biểu hiện:
Bộ máy tổ chức còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc trung gian; nhiệm vụ thiếu rõ ràng, cụ
thể,thậm chí chồng chéo, việc đổi mới tổ chức, bộ máy chưa theo kịp, bám sát đường
lối đổi mới, mở cửa, chưa bắt kịp tốc độ phát triển của xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh,
đầu tư nước ngoài, du lịch, yêu cầu kinh tế đối ngoại nhất là, chưa bám sát, quán triệt
sâu sắc chủ trương cải cách hành chính thu gọn và giảm các đầu mối trung gian, chưa
cá thể hóa trách nhiệm người đúng đầu bộ máy, trách nhiệm của cán bộ, công chức
đứng đầu các cấp, chức trách ở từng loại hình nghiệp vụ hải quan. Tình trạng chấp
hành kỷ luật, kỷ cương hành chính còn bị coi nhẹ, buông lỏng; không làm đúng quy
trình nghiệp vụ hoặc còn cố ý làm trái để vụ lợi, tiêu cực, hạn chế đến hiệu quả, chất
lượng công việc dẫn đến vi phạm kỷ luật, pháp luật tạo ra ảnh hưởng xấu cho việc
thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan.
Hoạt động triển khai quy định về tổ chức, bộ máy và quản lý cán bộ công chức
còn chậm so với yêu cầu đề ra; một số đơn vị mới được thành lập vẫn chưa ổn định tổ
chức để hoạt động; một số đơn vị hải quan cấp cơ sở có lúc, có nơi thực hiện quy trình
thủ tục hải quan chưa nghiêm. Triển khai chế độ làm việc theo chuyên viên còn lúng
túng, quản lý còn lỏng lẻo, công việc bị chậm trễ, thói quen đùn đẩy, dựa dẫm, trông
chờ chỉ đạo từ cấp trên còn tồn tại, biểu hiện khá nặng, chưa đáp ứng yêu cầu cải cách
hành chính; vẫn còn biểu hiện tâm tư dao động, chán nản thiếu quyết tâm trước yêu cầu
cải cách, chuyển đổi chế độ làm việc có cấp trung gian sang chế độ chuyên viên.
Từ thực trạng trên, ta thấy muốn đảm bảo thực hiện pháp luật xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực hải quan, bộ máy tổ chức hải quan cần đổi mới theo các định
hướng sau:
Một là, đảm bảo một bộ máy gọn nhẹ, nhiệm vụ, quyền hạn được luật định rõ
ràng, cá thể hóa vai trò, trách nhiệm cá nhân trong việc thực hiện pháp luật xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan.
Cấp Tổng cục: Tiếp tục rà soát, tinh giản, thu gọn đầu mối, sáp nhập để thành
các đơn vị tham mưu, giúp việc có tính tổng hợp, đa chuyên môn đồng thời, thành lập
thêm các đơn vị mới để thực hiện nhiệm vụ chính trị trong tình hình mới như cần phải
có bộ phận chuyên sâu, có đủ kinh phí, trang thiết bị hiện đại phục vụ cho việc tuyên
truyền pháp luật hải quan nối chung, pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
hải quan nói riêng, tìm ra các giải pháp để thực hiện pháp luật hải quan tương đối hiệu
quả trong đời sống xã hội.
Vụ Pháp chế – Tổng cục Hải quan cần phải đi khảo sát thậm chí trực tiếp tham
gia xử lý các vụ vi phạm hành chính để đề xuất xây dựng luật cho phù hợp chặt chẽ,
nghiêm minh. Cần nghiên cứu, trả lời, chỉ đạo nhanh các vụ việc xảy ra tại các Cục Hải
quan địa phương khi gặp vướng mắc.
Cấp cơ sở: Tiến hành rà soát thu gọn đầu mối trung gian (như phòng, tổ, đội)
quản lý đa nghiệp vụ. Thành lập tổ, đội chuyên về công tác xử lý, nghiên cứu đưa ra các
giải pháp tuyên truyền pháp luật hải quan cũng như pháp luật xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực hải quan phù hợp với từng địa phương. Phòng thanh tra cần phát huy hơn
nữa vai trò của mình trong việc giải quyết đơn thư, khiếu nại tố cáo. Đặc biệt, đơn thư
khiếu nại, tố cáo về các quyết định xử lý vi phạm hành chính phải giải quyết nhanh,
nghiêm minh,đúng quy trình, thủ tục đảm bảo sự công bằng.
2.2.4. Giải pháp kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức ngành hải quan
Công tác quản lý cán bộ, công chức hải quan còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng
yêu cầu quản lý của Đảng, Nhà nước, đó là:
1) Một bộ phận cán bộ công chức hải quan chưa ngang tầm nhiệm vụ
được giao, chưa đủ sức để góp phần tích cực vào việc chống lại thách thức
được Đảng chỉ ra khi hội nhập quốc tế, nhận thức còn "nông cạn", lệch lạc,
thiếu sâu sắc, chưa đầy đủ về nhiệm vụ chính trị nhất là: về vai trò "gác cửa"
an ninh chính trị, chủ quyền, an ninh kinh tế, bảo vệ lợi ích dân tộc, chống
vận chuyển hàng cấm, ma túy, chống buôn lậu, gian lận thương mại, cải cách
thủ tục hải quan, thu thuế hàng hóa xuất nhập khẩu; 2) chất lượng đội ngũ
cán bộ công chức còn nhiều hạn chế, ý thức hiểu biết pháp luật, trình độ
nghiệp vụ không đồng đều, có mặt còn hạn chế, non yếu, chưa phù hợp chức
danh, tiêu chuẩn; một số chưa được đào tạo nghiệp vụ, chính trị tư tưởng hoặc
kiến thức đã bị lạc hậu, năng lực tổ chức thi hành pháp luật chưa theo kịp yêu
cầu đổi mới; một số vào ngành với động cơ không đúng đắn, cơ hội vụ lợi, tiêu
cực, tham nhũng…; đồng lương chưa đảm bảo cuộc sống nên đã bị sa sút về
chính trị,tư tưởng, đạo đức, phẩm chất, thoái hóa, biến chất, vi phạm pháp luật,
sa ngã trước tiền, hàng hoặc móc nối, tiếp tay với chủ hàng xấu để tham
nhũng, trốn thuế, gian lận, tiêu cực, buôn lậu, chiếm đoạt tiền, ngân sách của
Nhà nước, làm giảm tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, tạo ra hình
ảnh xấu trong dư luận xã hội và đối ngoại; 3) những biểu hiện sa sút về phẩm
chất đạo đức của cán bộ, công chức hải quan chưa được kịp thời chấn chỉnh;
các hành vi tham nhũng, vi phạm pháp luật chưa được xử lý kịp thời, nghiêm
minh; vẫn còn tình trạng cố tình gây phiền hà, tiêu cực, vi phạm pháp luật.
Việc bổ nhiệm luân chuyển còn chưa tuân thủ triệt để các nguyên tắc bổ
nhiệm, luân chuyển; còn mang nặng tính chất cảm tính, chưa có chiến lược
về xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức [22, tr. 21-29].
Đây là giải pháp hết sức quan trọng bởi chỉ khi đội ngũ cán bộ, công chức được
bố trí sắp xếp hợp lý, có trình độ chuyên môn cao về lĩnh vực mình được phân công thì
khi đó mới thực hiện công việc một cách có hiệu quả, tạo niềm tin cho các đối tượng
tham gia hoạt động hải quan và họ tự giác tuân thủ, chấp hành một cách tích cực pháp
luật hải quan nói chung, pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan nói
riêng. Vậy chúng ta phải có biện pháp gì?
- Sắp xếp đội ngũ cán bộ, công chức phải hợp lý: quán triệt nghiêm túc quy
định về luân chuyển cán bộ, công chức để tạo điều kiện phát huy tài năng, quy hoạch
sắp xếp lại đội ngũ cán bộ công chức hải quan phù hợp giai đoạn mới. Cán bộ, công
chức làm công tác xử lý có thể cũng phải luân chuyển theo quy định chung nhưng cũng
phải chú trọng, xem xét về đặc thù đào tạo của mỗi cán bộ, công chức cho phù hợp.
Thực tế cho thấy, nếu luân chuyển cán bộ không hợp lý có khi sẽ trở thành tai hại, hiệu
quả công tác bị giảm sút có ảnh hưởng đến chất lượng chuyên môn của cán bộ gây nên
những hậu quả khó lường. Nếu đưa một cán bộ công chức được đào tạo chuyên ngành
luật đi xử lý các vụ vi phạm về thuế, liên quan đến tài chính thì sẽ gặp khó khăn vướng
mắc và phải mất rất nhiều thời gian, công sức thì công chức đó mới thích nghi. Hoặc
nếu điều chuyển một cán bộ được đào tạo lĩnh vực tài chính sang làm công tác tham
mưu xử lý thì cũng gặp không ít khó khăn … Vì vậy, trường hợp cần phải luân chuyển
số cán bộ công chức này thì trước khi luân chuyển, bắt buộc cán bộ cũ phải có chương
trình, kế hoạch bồi dưỡng cho cán bộ mới (người kế cận thay thế công việc của mình).
Chỉ khi nào người kế cận thực sự đảm bảo được công việc được giao, thì người cũ mới
được luân chuyển. Và nên bố trí từ hai cán bộ làm công tác tham mưu xử lý trở lên ở
một đơn vị một, chuyên sâu về thuế, tài chính; một, chuyên sâu về luật để bổ sung cho
nhau khi thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan.
- Phải năng cao trình độ nhận thức của người làm công tác quản lý, người đứng
đầu các đơn vị có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính là một trong những công việc
quan trọng của việc thực hiện nhiệm vụ chính trị.
- Chú trọng công tác giáo dục và bồi dưỡng cho cán bộ công chức trong ngành,
đặc biệt là công chức làm công tác tham mưu xử lý, về tinh thần trách nhiệm, ý thức tận
tâm, tận tụy với công việc. Để họ có nhận thức đúng đắn và đầy đủ về công việc xử lý
vi phạm hành chính, bên cạnh những tiêu chuẩn chung cần xây dựng tiêu chuẩn đạo đức
nghề nghiệp và phải đào tạo cho họ kiến thức chuyên môn nghiệp vụ chuyên sâu về
pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan.
- Tăng cường tổ chức tập huấn, đào tạo chuyên sâu cho các công chức hải quan
ở các khâu nghiệp vụ về các kỹ nag phát hiện hành vi vi phạm, kỹ năng lập biên bản,
điều tra xác minh làm rõ hành vi vi phạm, thiết lập hồ sơ làm căn cứ xử lý, xác định các
hành vi vi phạm, khả năng và kiến thức pháp luật thực hiện tố tụng hành chính tại tòa
hành chính…
- Từng Cục Hhải quan địa phương rà soát, xây dựng phương án bố trí hệ thống
tổ chức lực lượng chuyên trách về cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành
chính.
- Cần quan tâm hơn về chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức làm công
tác xử lý vi phạm hành chính đặc biệt là những người có nhiều thành tích xuất sắc. Bên
cạnh việc thực hiện chính sách tài chính theo quy định, cần có sự động viên khích lệ
bằng vật chất cụ thể dưới các hình thức khác theo tinh thần của quyết định
136/2001/QĐ-TTg ngày 17/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt tổng thể cải
cách hành chính nhà nước giai đoạn từ 2001-2010, đó là: thực hiện chế độ tiền thưởng
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và các chế độ đãi ngộ khác ngoài tiền lương đối với cán
bộ, công chức (phần III, mục 3.2), đồng thời phải có đầu tư thích đáng cho việc hoàn
thiện, nâng cao trình độ pháp luật, trình độ về các lĩnh vực khác có liên quan của những
người làm công tác xử lý.
2.2.5. Giải pháp tăng cường phối kết hợp giữa lực lượng hải quan với các
lực lượng khác, các ngành, các cấp và các tổ chức chính trị xã hội, đoàn thể quần
chúng đảm bảo phát huy sức mạnh tổng hợp thực hiện pháp luật xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực hải quan
Tổ chức tốt sự phối hợp với các cơ quan chức năng quản lý các lĩnh vực thuế
nội địa, ngân hàng, quản lý thị trường với co quan tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân
dân để chống gian lận thương mại; thực hiện kiểm tra sau thông quan, đôn đốc thu đòi
thuế nợ đọng; xác định ranh giới giữa xử lý hành chính và xử lý hình sự các vụ vi phạm
pháp luật hải quan; phối hợp cung cấp thông tin liên quan đến vi phạm hành chính, xử
lý vi phạm hành chính…
Phối hợp với cơ quan hữu quan (kho bạc, ngân hàng, thuế nội địa, quản lý thị
trường, các tổ chức vận tải)để xây dựng mạng lưới thông tin diện rộng, nắm "lai lịch"
doanh nghiệp cũng như xuất xứ, hành trình của những chuyến hàng, để khi cần có thể
có được những thông tin đầy đủ, chính xác kịp thời trong trường hợp nghi ngờ hay phải
kiểm tra xác suất vào từng thời điểm, phục vụ cho yêu cầu chống buôn lậu và kiểm tra
sau thông quan.
Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, đại biểu Hội đồng
nhân dân các cấp, các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể quần chúng đẩy mạnh việc
kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan chức năng trong việc thực hiện pháp luật
xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan, cũng như kiến nghị các biện pháp xử
lý kịp thời.
Đặc biệt chú trọng phối hợp giữa ngành hải quan với cơ quan báo chí, báo hình
trong việc tuyên truyền pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan,
phát hiện những nội dung pháp luật còn bất cập, thiếu sót, những hành vi tiêu cực tham
những, gây phiền hà, ách tắc, vòi vĩnh của cán bộ công chức hải quan và công chức các
ngành hữu quan trong khi xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan.
Khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp, mọi tầng lớp nhân dân nói lên ý kiến
của mình và lắng nghe ý kiến của họ trong quá trình thực hiện pháp luật xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực hải quan, đồng thời kiên quyết chống mọi hành vi lợi dụng
quyền tự do, dân chủ để luồn lách, buôn lậu, vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải
quan.
Duy trì chế độ kiểm tra định kỳ, đột xuất của Tổng cục đối với các Cục Hải
quan và của các Cục Hải quan địa phương đối với các đơn vị cơ sở để kịp thời khắc
phục, chấn chỉnh các sai sót trong công tác thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hải quan.
Hoàn thiện hệ thống thông tin về xử lý vi phạm hành chính về hải quan từ
Tổng cục đến các Chi cục. Nâng cấp phần mềm theo dõi các hành vi vi phạm mới phát
sinh và quản lý việc xử phạt để kịp thời cập nhật, báp cáo và khai thác thông tin về xử
lý vi phạm hành chính trong toàn ngành được khoa học, dễ dàng, thuận tiện làm cơ sở
cho việc phân luồng hàng hóa và theo dõi hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp
phục vụ công tác nghiệp vụ khác.
2.2.6. Giải pháp về đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật
Trước hết, phải rà soát lại cơ sở hạ tầng trang thiết bị của các đơn vị phục vụ
cho công tác thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan: Đây
là yêu cầu được ưu tiên trong việc phát triển ngành, trước tiên là cơ sở vật chất như nhà
làm việc, nhà ở, hệ thống nhà công vụ phải đầy đủ theo đúng yêu cầu và quy chuẩn,
đảm bảo những yêu cầu có tính đặc thù của ngành. Mục tiêu phải đạt được là trụ sở của
cơ quan hải quan các cấp phải khang trang, thực sự là cơ quan công quyền của Nhà
nước; có đủ diện tích để bố trí nơi làm việc cho cán bộ, đủ diện tích để bố trí lắp đặt hệ
thống máy móc phục vụ kiểm tra, giám sát hàng hóa xuất nhập khẩu, phương tiện, hành
khách xuất nhập cảnh đáp ứng các yêu cầu đòi hỏi của nhiệm vụ trong tình hình mới,
trong điều kiện hội nhập và phát triển. Phải khắc phục được nhược điểm hiện nay là các
công trình mới xây dựng nhưng hiệu quả sử dụng chưa cao, bộc lộ nhiều bất hợp lý
trong bố trí quy trình nghiệp vụ.
Để có cơ sở cho việc đầu tư cần phải tiến hành xây dựng định mức, quy chuẩn
về tiêu chuẩn của Trụ sở làm việc đối với từng cấp Hải quan. Trên cơ sở phân loại các
cửa khẩu, địa điểm thông quan từ đó đưa ra tiêu chuẩn trụ sở và những đặc thù về trụ sở
tại các loại cửa khẩu điểm thông quan. Việc xây dựng định mức, quy chuẩn này đảm
bảo các tiêu chí về yêu cầu chung trong xây dựng trụ sở của Nhà nước và yêu cầu đặc
thù của ngành về tính khoa học trong phân luồng hàng hóa làm thủ tục, trong bố trí
trang bị máy móc, thiết bị kiểm tra, giám sát. Căn cứ vào các quy định của Nhà nước,
xuất phát từ đặc thù của ngành về tính khoa học trong phân luồng hàng hóa làm thủ tục,
trong bố trí trang bị máy móc, thiết bị kiểm tra, giám sát. Căn cứ vào các quy định của
Nhà nước, xuất phát từ đặc thù của ngành, việc tiến hành quy chuẩn các nội dung cụ thể
của trụ sở làm việc là rất cần thiết và phải làm sớm.
Rà soát các phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ: máy soi, camera, công cụ phục vụ
kiểm hóa… đối chiếu yêu cầu nhiệm vụ đến năm 2010, xác định nhu cầu mua sắm,
trang bị; hoàn chỉnh quy chế quản lý, sử dụng: phải tiến hành việc quy hoạch, rà soát về
nhu cầu mua sắm trang thiết bị kỹ thuật để phục vụ việc hiện đại hóa và tự động hóa
nhằm hạn chế các hành vi vi phạm trong lĩnh vực hải quan.
Trang bị đồng bộ máy soi hiện đại, quy trình nghiệp vụ hoàn chỉnh cho một số
cửa khẩu các trang bị này phải đạt độ chuẩn ngang tầm với một số nước phát triển trong
khu vực. Hệ thống máy soi kiểm tra hàng hóa: 100% cửa khẩu, cảng biển, sân bay, địa
điểm làm thủ tục hải quan được trang bị máy soi hành lý của khách xuất nhập cảnh.
Trang bị hệ thống máy camera quan sát: phục vụ hoạt động giám sát hàng hóa
được lắp đặt trên toàn bộ hệ thống cảng biển quốc tế, sân bay quốc tế và một số điểm
cần thiết theo yêu cầu riêng.
Các thiết bị phục vụ kiểm tra khác như: cân, thước đo, máy đếm… trang bị hoàn
chỉnh tại các cửa khẩu quốc tế và điểm thông quan nội địa.
Phương tiện chuyên dùng trong lĩnh vực chống buôn lậu đáp ứng yêu cầu của
tình hình mới: trang bị tàu biển, ca nô phục vụ hoạt động chông buôn lậu trên biển. Dự
kiến hình thành 3 Hải đội chống buôn lậu trên biển do Tổng cục Hải quan quản lý. Bố
trí số lượng phương tiện cho 1 Hải đội dự kiến: tàu tuần tra kiểm soát tốc độ cao là 6
chiếc; 1 máy bay trực thăng loại nhỏ; 1 tàu chở hàng, 2 tàu chở dầu, 6 canô. Trang bị hệ
thống máy ngửi phát hiện ma túy, chất nổ tại tất cả các sân bay quốc tế, cửa khẩu đường
bộ quốc tế, cảng biển quốc tế có hoạt động xuất nhập cảnh của khách.
Tăng cường trang thiết bị cho lượng kiểm tra phòng chống ma túy của Hải quan:
hiện đại hóa các phương tiện phục vụ công tác chỉ đạo, kiểm tra của lãnh đạo ngành và
tác chiến nghiệp vụ đảm bảo thông tin kịp thời, chính xác và bí mật. Đầu tư xây dựng
mạng, cơ sở dữ liệu về tội phạm ma túy, quản lý tiền chất, có khả năng kết nối từ Tổng
cục Hải Quan xuống các địa phương, giữa hải quan và Công an, Bộ đội biên phòng,
giữa Hải quan Việt Nam và Hải quan các nước. Lực lượng này phải được trang bị đầy đủ
kiến thức và công cụ hỗ trợ như máy ngửi ma túy loại hiện đại, các chất thử, áo chống đạn,
súng đặc biệt, công cụ thông tin liên lạc hiện đại, máy quay chuyên dụng. Các thiết bị
khác phục vụ nhiệm vụ chống buôn lậu: Ngoài những trang thiết bị thông thường như
ôtô, xe máy, bộ đàm, máy quay chuyên dụng, áo giáp, lực lượng chống buôn lậu cần
được trang bị thêm những thiết bị chuyên dùng hiện đại như máy bay trinh sát loại nhỏ,
các thiết bị theo dõi tinh vi, máy tính có tốc độ cao.
Kết luận chương 2
Qua thực trạng thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải
quan từ năm 2002 đến nay về các mặt thủ tục hải quan; kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải
quan; xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh hàng hóa, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh phương
tiện vận tải. có thể khẳng định việc thực hiện đã đạt được những hiệu quả nhất định, nội
dung của pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan đã được thực hiện
tương đối nghiêm chỉnh trong thực tiễn đời sống xã hội, đảm bảo pháp luật xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan đi vào đời sống xã hội, phát huy vai trò trong
việc xử lý các vụ vi phạm hành chính về hải quan góp phần giảm các vụ vi phạm hành
chính, ổn trật tự xã hội, an ninh kinh tế.
Tuy nhiên, nếu nhìn nhận một cách toàn diện việc thực hiện pháp luật xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan hiện nay vẫn còn có một số hạn chế nhất định.
Một số nội dung của pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan chưa
được thực sự đảm bảo thi hành trong đời sống xã hội bởi hệ thống pháp luật xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan xử lý vi phạm hành chính nói chung, pháp luật
xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan nói riêng còn nhiều bất cập, chưa tạo
lập được môi trường xã hội đảm bảo cho việc thực hiện pháp luật… Để đảm bảo thực
hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan trong thời gian tới còn
cần phải củng cố kiện toàn nhiều mặt. Đặc biệt việc phát huy những kết quả đạt được,
khắc phục những nguyên nhân hạn chế là cần thiết. Để từ đó, đưa ra những giải pháp cơ
bản đảm bảo thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan có
hiệu quả trong thời gian tới.
Xuất phát từ vị trí, vai trò và ý nghĩa của pháp luật xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực hải quan, cùng với thực trạng thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hải quan trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, việc
đảm bảo thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan là một
yêu cầu tất yếu khách quan.
Căn cứ vào đặc điểm, tình hình cụ thể của ngành hải quan, luận văn đã bước
đầu xây dựng những giải pháp cơ bản nhằm đảm bảo thực hiện pháp luật xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực hải quan ở Việt Nam hiện nay trong thời gian tới. Các giải
pháp cơ bản được xác định là:
Giải pháp hoàn thiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải
quan ở Việt Nam.
Giải pháp về tuyên truyền, phổ biến pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực hải quan.
Giải pháp kiện toàn về tổ chức bộ máy.
Giải pháp kiện toàn đội ngũ cán bộ công chức ngành hải quan.
Giải pháp tăng cường phối kết hợp giữa lực lượng hải quan với các lực lượng
khác.
Giải pháp về đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật.
Kết luận
Pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan có vai trò quan
trọng trong hoạt động hải quan. Nó góp phần quan trọng ổn định an ninh kinh tế, phát
triển kinh tế đối ngoại của đất nước. Tuy nhiên, hiệu quả, giá trị của nó phụ thuộc vào
việc đảm bảo thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan đó
là những phương thức, biện pháp đưa pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
hải quan vào cuộc sống hiện thực.
Trong giai đoạn hiện nay, dưới sự tác động tiêu cực của mặt trái nền kinh tế thị
trường dẫn đến sự phân tầng xã hội đang diễn ra gay gắt, sự phân hóa giàu nghèo,
truyền thống đạo đức dân tộc đang có nguy cơ bị xói mòn… những tác động trên dẫn
đến tình trạng vi phạm pháp luật đặc biệt là vi phạm pháp luật hải quan có chiều hướng
gia tăng. Trước tình hình đó đòi hỏi phải đảm bảo thực hiện pháp luật, pháp luật hải
quan và pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan. Bởi ngành Hải
quan có vai trò quan trọng góp phần thực hiện công cuộc đổi mới đất nước và quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế.
Thực tiễn thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
trong những năm qua đã đạt được những thành tựu quan trọng nhất định. Tuy nhiên, để
bảo đảm thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan, việc
thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan còn phải bổ sung,
kiện toàn, hoàn thiện cho phù hợp với thực tiễn hiện nay.
Luận văn đã tập trung làm rõ những vấn đề cơ bản về pháp luật xử lý vi phạm
hành chính, thực hiện pháp luật, thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực hải quan nói riêng, bao gồm: những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật; khái
niệm, đặc điểm, nội dung của pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải
quan; khái niệm đảm bảo thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
hải quan tìm ra những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực hải quan; thực trạng thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hải quan hiện nay; rút ra một số nguyên nhân, kinh nghiệm về việc
thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan. Kết quả trên,
bước đầu đã cung cấp những luận cứ khoa học phục vụ việc tiếp tục nghiên cứu, xây
dựng những vấn đề về giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực hải quan được tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh trong hoạt động hải quan
và đời sống xã hội. Để góp phần thực hiện nhiệm vụ nói trên, luận văn đã dành một
phần nội dung đáng kể trình bày về các giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan trong thời gian tới.
Bảo đảm thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
trong thời gian tới, cần triển khai hoàn thiện hệ thống pháp luật xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hải quan cho phù hợp với tình hình thực tế, kịp thời thể chế hóa bộ
luật xử lý vi phạm hành chính sắp được ban hành; Tăng cường tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan cho các đối tượng
tham gia hoạt động hải quan, cho toàn xã hội; kiện toàn bộ máy tổ chức ngành hải quan
và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hải quan có đủ năng lực trình độ chuyên môn
nghiệp, có phẩm chất đạo đức trong sáng lành mạnh. Việc kết hợp đồng bộ các giải
pháp trên đảm bảo cho pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan được
tuân thủ, chấp hành, sử dụng và áp dụng một cách nghiêm minh, ổn định chính trị, phát
triển kinh tế… góp phần cùng các ngành khác trong cả nước thực hiện thắng lợi mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Bộ luật hình sự (1999), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Bộ Tài chính (2003), Báo cáo tổng kết đánh giá Luật Hải quan sau 20 tháng thực hiện,
ngày 15-10, Hà Nội.
3. Bộ Tài chính (2004), Quyết định số 810 ngày 16/3 về kế hoạch cải cách, phát triển và
hiện đại hóa ngành Hải quan giai đoạn 2004 - 2006, Hà Nội.
4. Bộ Tài chính (2004), Kế hoạch cải cách phát triển và hiện đại hóa Hải quan giai đoạn
2004 - 2006 (ban hành kèm theo Quyết định 810/QĐ-BTC, Hà Nội.
5. Chính phủ (1945), Ngày 10 tháng 9 năm 1945, (tên gọi đầu tiên của Hải quan Việt
Nam ngày nay) được thành lập bởi Sắc lệnh số 27/SL ngày 10/9 về việc thành
lập Sở Thuế quan và Thuế gián thu, Hà Nội.
6. Chính phủ (2000), Chỉ thị số 22/2001/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 27/10
về chiến lược phát triển xuất - nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ thời kỳ 2001-
2010, Hà Nội.
7. Chính phủ (2001), Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg ngày 4/4 của Thủ tướng Chính phủ
về quản lý xuất khẩu, nhập khẩu thời kỳ 2001- 2005, Hà Nội.
8. Chính phủ (2001), Nghị định số 101/2001/NĐ-CP ngày 31/12 quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Hải quan về thủ tục hải quan, chế độ kiểm tra,
giám sát hải quan, Hà Nội.
9. Chính phủ (2001), Nghị định 102/2001/NĐ-CP ngày 31/12 quy định chi tiết về kiểm tra
sau thông quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, Hà Nội.
10. Chính phủ (2002), Nghị định 107/2002/NĐ-CP ngày 23/12 quy định phạm vi địa
bàn hoạt động hải quan, Hà Nội.
11. Chính phủ (2003), Chiến lược phát triển hệ thống pháp luật của Việt Nam đến 2010,
(Dự thảo 8/2003, Tờ trình Bộ Chính trị về Dự thảo Chiến lược, các Phụ lục I,
II đính kèm), Hà Nội
12. Chính phủ (2004), Nghị định 138/2004/NĐ-CP ngày 17/6/ quy định về việc xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5 của Bộ Chính
trị (khóa IX) về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2001, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
20. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ chí Minh (2004), Giáo trình Lý luận chung về Nhà
nước và pháp luật, Hà Nội.
21. Hỏi đáp về pháp luật hải quan (2003), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Nguyễn Đức Kiên (2002), "Ngành hải quan gắn công tác xây dựng Đảng bộ trong
sạch, vững mạnh với chống quan liêu, tham nhũng", Kiểm tra, (3), tr. 21-29.
23. V.I. Lênin (1977), Về pháp chế xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội.
24. V.I. Lênin (1969), Toàn tập, Tập 33, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
25. V.I. Lênin (1978), Toàn tập, Tập 45, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
26. Luật Hải quan (2001), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Luật Hải quan sửa đổi, bổ sung (2005), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Tổng cục Hải quan (2002), Báo cáo tổng kết công tác Hải quan năm 2002, Hà Nội.
29. Tổng cục Hải quan (2003), Báo cáo tổng kết công tác Hải quan năm 2003, Hà Nội.
30. Tổng cục Hải quan (2004), Chiến lược phát triển Hải quan đến năm 2010, Đề tài
khoa học cấp Bộ, mã số 01-N2004, Chủ nhiệm đề tài: Trương Chí Trung, Hà
Nội.
31. Tổng cục Hải quan (2004), Báo cáo tổng kết công tác Hải quan năm 2004, Hà Nội.
32. Tổng cục Hải quan (2005), 60 năm Hải quan Việt Nam (1945 - 2005), Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
33. Tổng cục Hải quan (2005), Báo cáo tổng kết công tác Hải quan năm 2005, Hà Nội.
34. Tổng cục Hải quan (1/2006), Các văn bản Luật Hải quan và Luật thuế xuất khẩu,
thế nhập khẩu sửa đổi bổ sung năm 2005, Hà Nội
35. Trường Đại học Luật Hà Nội (1996), Giáo trình lý luận về Nhà nước và Pháp luật,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
36. Trường Đại học Luật Hà Nội (1998), Giáo trình Luật Hành chính, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
37. Trường Đại học Tổng hợp (1997), Giáo trình Lý luận chung Nhà nước và pháp luật,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
38. ủy ban Thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Hà Nội.
39. Viện Ngôn ngữ học - Trung tâm Từ điển học (1998), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà
Nẵng, Đà Nẵng
40. Xây dựng Hải quan thành lực lượng biên phòng trên mặt trận kinh tế đáng tin cậy
(2005), Nxb Tài chính, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 151_5257.pdf