Chuy ển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp quốc doanh hoạt động theo 
phương thức hoạch toán kinh doanh, đòi hỏi phải bảo toàn giữ gìn số vốn được 
nhà nước đầu tư, tự bổ sung và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn được tài trợ. 
Hiện nay nước ta đang cần rất nhiều vốn, vì vậy ngoài việc huy động vốn trong 
nước ta phải huy động thêm vốn nước ngoài. Điều đócàng làm cho việc bảo toàn 
và phát triển vốn trở nên quan trọng.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 46 trang
46 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2297 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng tư nhấn hóa và đa dạng hóa tại thị trường các sản phẩm an tòan tài chính Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ầy 
còn lại cũng phải đảm bảo giới hạn chịu lửa tối thiếu 
- Không được để vật liệu cấu kiện dễ Hoả hoạn vắt nganh qua tường ngăn 
Hoả hoạn. 
- Tường ngăn Hoả hoạn phải xây cách những lỗ hở trên mái ít nhất 5m. 
V. Đánh giá rủi ro 
 Đánh giá rủi ro là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng trong công 
tác quản lý rủi ro. Có làm tốt công công việc đánh giá rủi ro thì mới có thể thực 
hiện đựơc công tác quản lý rủi ro. Đối với người khai thác bảo hiểm việc đánh 
giá rủi ro sẽ giúp họ quyết định có nhận bảo hiểm hay không, mức phí bao nhiêu. 
Tài liệu về định giá rủi ro coi như báo cáo của họ trong hồ sơ về khách hàng, nó 
cũng là tài liệu để báo cáo cho các nhà nhận bảo hiểm và cũng là cơ sở đối chiếu 
khi giải quyết bồi thường. 
 Nếu việc điều tra đánh giá rủi ro được thực hịên một cách đầy đủ, kỹ lưỡng, 
kết hợp với bảng hưỡng dẫn tính phí hoặc sử dụng chương trình tính phí bảo 
hiểm trên máy vi tính, cán bộ khai thác hoàn toàn có thể tính toán ngay được một 
cách chính xác tỷ lệ phí. Điều này giúp cho việc chủ động, nhanh chóng trong 
khai thác, trách được tình trạng phải tham khảo, hỏi han, tốn kém mất thời giờ. 
Chương II: Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn tại Bảo Việt 
I. Thị trường bảo hiểm Việt Nam - Sự ra đời và phát triển của nghiệp vụ bảo 
hiểm Hoả hoạn 
 Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam ( gọi tắt là Bảo Việt ) được thành lập từ 
ngày 15.1.1965 theo Quyết định số 179/CP ngày 17.12.1964 của Thủ tướng 
Chính phủ, là doanh nghiệp nhà nước duy nhất hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo 
hiểm. Bảo Việt có nhiệm vụ thành lập quỹ dự trữ bảo hiểm từ sự đóng góp, tham 
gia bảo hiểm của các đơn vị sản xuất kinh doanh. 
 Từ năm 1981, Bảo Việt đã thành lập các công ty chi nhánh ở các tỉnh, địa 
phương để tiến hành các dịnh vụ bảo hiểm. Hoạt động của các chi nhánh không 
những giúp Bảo Việt triển khai bảo hiểm trên phạm vi cả nước mà còn hình 
thành một mạnh lưới đảm bảo an toàn tài chính cho toàn bộ người được bảo 
hiểm. 
 Trong hơn 30 năm qua, ở Việt nam từ "bảo hiểm " đồng nghĩa với "Bảo 
Việt " và ngược lại lúc nào người ta cũng nghĩ rằng chỉ duy nhất có một công ty 
bảo hiểm hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Điều đó có lý do của nó. Ngoài sự 
hiện diện và đóng góp của Bảo Việt đối với nền kinh tế, xã hội và với mỗi gia 
đình, trong suốt thời gian qua không thấy nói đến một tên công ty bảo hiểm nào 
khác.Với đường lối mở của của nhà nước, trong cơ chế thị trườngthì việc Nhà 
nước dộc quyền trong lĩnh vực bảo hiểm ( kể cả trên danh nghĩa) là điều khó có 
thể chấp nhận. Chính vì thế nên ngày 18-12-1993 Nghị định 100/CP của Chính 
Phủ đã ra đời cho phép các doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài được 
thành lập các công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm, môi giới bảo hiểm, mở chi nhánh 
công ty nước ngoài tại Việt Nam. 
 Tại Bảo Việt, các nghiệp vụ bảo hiểm như bảo hiểm thân tàu, bảo hiểm 
hàng hoá xuất nhập khẩu, bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu... đã được tiến 
hành từ lâu và đã trở thành những nghiệp vụ bảo hiểm truyền thống. Song đến 
năm 1989, Bảo Việt mới chính thức triển khai bảo hiểm Hoả hoạn theo Quyết 
định 06/TCQĐ của Bộ Tài chính. 
 Năm 1990, trên cả nước đã có 16 công ty bảo hiểm tiến hành nghiệp vụ 
này. Tuy nhiên nhìn chung mới chỉ bảo hiểm cho các nghành xăng, dầu còn lại 
phần lớn các tài sản, các nhà máy, xí nghiệp, công xưởng, hệ thống khách sạn từ 
Nam ra Bắc... trị giá nhiều tỷ đồng vẫn chưa được bảo hiểm. Có nhiều nguyên 
nhân cả chủ quan lẫn khách quan dẫn đến việc ngành bảo hiểm chưa triển khai 
được toàn diện. Nguyên nhân cơ bản là chúng ta đã quá quen với cơ chế bao cấp, 
Hoả hoạn và rủi ro xảy ra đã có Nhà nước bù đắp thiệt hại còn các doanh nghiệp 
thuộc các thành phần kinh tế khác thì chưa có thói quen tham gia bảo hiểm tài 
sản. Bên cạnh đó về chủ quan, công tác tuyên truyền, vận động thu hút khách 
hành của nghành bảo hiểm còn nhiều hạn chế. 
 Sau một năm thực hiện, một yêu cầu cấp bách được đặt ra là phải có quy 
định chung hướng dẫn về bảo hiểm Hoả hoạn. Vì vậy ngày 2. 5.1991, Bảo Việt 
đã ban hành Quy tắc bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt áp dụng trên cả 
nước. Nghiệp vụ này ngày càng khẳng định được vị trí quan trọng của nó đặc 
biệt là sau khi Hội đồng bộ trưởng ra quyết định số 332/ HĐBT ngày 23. 10 1991 
về việc bảo toàn, phát triển vốn kinh doanh đối với doanh nghiệp nhà nước. Bên 
cạnh đó, thông tư số 82/TC/CN hướng dẫn cụ thể việc thực hiện quyết định trên 
của HĐBT : "... Để tránh các trường hợp không bảo toàn được vốn do nguyên 
nhân khách quan như thiên tai, rủi ro trong quá trình sản xuất kinh doanh... tránh 
các trường hợp phải xử lý giảm vốn và đưa lỗ vào doanh nghiệp, các doanh 
nghiệp cần phải mua bảo hiểm tài sản để tạo nguồn bù đắp cho các thiệt hại đó 
tại các công ty bảo hiểm Việt nam. Khoản chi về bảo hiểm được hạch vào giá 
thành hoặc chi phí lưu thông của doanh nghiệp. Nhà nước sẽ không cho ghi giảm 
vốn trong trường hợp tài sản bị tổn thất vì những rủi ro mà công ty bảo hiểm 
trong nước triển khai loại hình bảo hiểm tương ứng...". 
II Các hoạt động trong bảo hiểm hoả hoạn 
 Cũng giống như bất cứ một nghiệp vụ bảo hiểm nào, nghiệp vụ bảo hiểm 
Hoả hoạn gồm các bước cơ bản sau : 
- Khai thác 
- Giám định 
- Bồi thường 
- Hạn chế tổn thất 
 Các bước này có mối liên hệ rất chặt chẽ với nhau. Kết quả của bước này 
ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả của các bước tiếp sau nó và làm thành một chu 
trình hoạt động của một nghiệp vụ. 
1. Công tác khai thác bảo hiểm 
 Đây là bước đầu tiên và không thể thiêú trong nghiệp vụ bảo hiểm. Công 
tác khai thác đóng một vai trò quyết định trong sự phát triển một công ty. Khách 
hàng sẽ không mua bảo hiểm nếu họ không biết rằng mua bảo hiểm họ sẽ được 
lợi gì. Do đó mà công việc tuyên truyền, quảng cáo trong bước này là cần thiết và 
nó càng trở nên đặc biệt quan trọng đồi với nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn - 
nghiệp vụ mà chưa có tập quán ở nước ta 
1.1 Tuyên truyền, quảng cáo, chủ động tiếp cận khách hàng 
 Hàng năm Bảo Việt kết hợp với các cơ quan, ban ngành có liên quan như : 
cảnh sát PCCC, đài truyền thanh, truyền hình, báo chí, các Bộ, nghành để tuyên 
truyền về ý nghĩa, tác dụng của bảo hiểm Hoả hoạn. Qua đó mới có thể thuyết 
phục được khách hàng mua bảo hiểm. 
 Mặt khác, công ty cử cán bộ xuống từng xí nghiệp, đơn vị kinh doanh để 
giải thích, vận động mua bảo hiểm chứ không thụ động ngồi chờ khách hàng 
hoặc chỉ gửi các công văn, quy tắc cho họ trả lời vì khách hàng rất ngại đọc. Một 
phần vì khó hiểu, một phần vì không nhận thức được hết ý nghĩa, tác dụng của 
bảo hiểm. 
 Cán bộ bảo hiểm cần chủ động đến gặp khách hàng, cùng họ đi thăm cơ 
sở sản xuất, nghiên cứu quy trình sản xuất của họ..., chỉ cho họ thấy những rủi ro 
mà họ có thể gặp phải và những hậu quả của nó. Cán bộ bảo hiểm giải thích rõ 
cho khách hàng khi tham gia bảo hiểm họ được gì và mất gì, ước tính số phí mà 
họ phải trả, giải đáp những vấn đề mà họ còn thắc mắc, chưa hiểu rõ, gây cho họ 
lòng tin và nhu cầu tham gia bảo hiểm. Kinh nghiệm cho thấy rằng, hướng tuyên 
truyền vận động nên tập trung vào những đối tượng "ăn nên làm ra ", có của ăn 
của để. Vì thế, Bảo Việt đã chú ý đến các đơn vị, doanh nghiệp lớn có khả năng 
tài chính khai thác như : Công ty liên doanh về các thiết bị viễn thông COMVIK 
đã mua bảo hiểm với số tiến bảo hiểm là 19000000 $, mức phí là 47500 $ ; công 
ty liên doanh INDOCHINA CERAMIC sản xuất vật liệu xây dựng, trang thiết bị 
nội thất đã mua với số tiền bảo hiểm là 12250000 $, mức phí là 20825 $. 
 Để tìm ra các doanh nghiệp "ăn nên làm ra" không phải là khó, cán bộ 
khai thác nên chú ý theo dõi quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng 
(báo chí, phát thanh, truyền hình...) đồng thời phải có sự phối hợp với các ngân 
hàng, cơ quan khác để nắm bắt được đối tượng. 
1.2 Đánh giá rủi ro 
 Công tác đánh giá rủi ro được tiến hành sau khi khách hàng gửi giấy yêu 
cầu bảo hiểm với mục đích giá chính xác các rủi ro có thể xảy ra với các đối 
tượng bảo hiểm. Qua đó xác định tỷ lệ phí bảo hiểm thích hợp tương ứng với các 
rủi ro mà công ty bảo hiểm nhận bảo hiểm. 
 Để có cơ sở đáng giá đúng rủi ro, thông thường công ty bảo hiểm sẽ gửi 
cho khách hàng bản phiếu điều tra các rủi ro (bảng câu hỏi). Qua phần trả lời 
khách hàng trong phiếu điều tra, các công ty bảo hiểm sẽ xác định được bậc chịu 
lửa của công trình, loại PCCC (các thiết bị PCCC được trang bị, đội cứu hoả, bảo 
vệ... ), hạng sản xuất (với đơn vị sản xuất), loại kinh doanh dịch vụ ( với đơn vị 
kinh doanh dịch vụ ), mức độ nguy hiểm với các tài sản để trong kho, cửa hàng, 
từ đó xác định mức phí thích hợp. 
 Tuy nhiên trên thực tế, để đảm bảo sự chính xác, trung thực khi đánh giá 
rủi ro, ngoài việc gửi phiếu điều tra rủi ro, các cán bộ khai thác bảo hiểm sẽ đến 
làm việc trực tiếp với khách hàng, nghiên cứu và khảo sát thực tế kỹ hơn, hướng 
dẫn khách hàng trả lời các câu hỏi trong phiếu điều tra, cùng cộng tác với cảnh 
sát PCCC đánh giá thực tế về công tác PCCC, phương tiện chuyên môn (khách 
hàng cần những phương tiện PCCC nào, bố trí ở đâu, với số lượng là bao 
nhiêu...). Cuối cùng trên cơ sở đánh giá rủi ro, cán bộ khai thác sẽ thoả thuân với 
khách hàng về tỷ lệ phí sẽ áp dụng. 
 Như vậy công tác đánh giá rủi ro có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó yêu 
cầu cán bộ bảo hiểm không những phải giỏi chuyên môn mà còn phải có sự năng 
động, tận tình và cẩn thận.Trong bảo hiểm Hoả hoạn, khâu đánh giá rủi ro là 
khâu quyết định trong việc cấp đơn bảo hiểm cũng như việc đưa ra mức phí phù 
hợp. 
1.3 Cấp giấy chứng nhận bảo hiểm (đơn bảo hiểm) 
 Đối với nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn, công ty bảo hiẻm sẽ cấp giấy 
chứng nhận bảo hiểm cho khách hàng sau khi họ đã chấp nhận mức phí. Giấy 
chứng nhận bảo hiểm Hoả hoạn bao gồm : 
 - Số đơn bảo hiểm 
 - Tên, địa chỉ người được bảo hiểm 
 - Ngành sản xuất kinh doanh 
 - Những rủi ro được bảo hiểm 
 - Tài sản dược bảo hiểm 
 - Tổng giá trị tài sản 
 - Số tiền bảo hiểm 
 - Chi phí dọn dẹp hiện trường 
 - Mức miễn thường 
 - Thời hạn bảo hiểm 
 - Phí bảo hiểm cả năm 
 Thông thường tài sản được bảo hiểm của khách hàng có nhiều loại không 
thể hiện được chi tiết trong Giấy yêu cầu bảo hiểm . Vì vậy, kèm theo Giấy 
chứng nhận bảo hiểm còn có bản danh mục tài sản. Bản này được coi như một bộ 
phận của Giấy chứng nhận bảo hiểm và có giá trị pháp lý, nó thể hiện từng hạng 
mục tài sản, số lượng, đơn giá, giá trị, số tiền bảo hiểm của từng loại đó : 
 Giấy chứng nhận bảo hiểm cần được lập thành bốn bản : Một bản trao cho 
khách hàng, một bản cho tài vụ, một bản lưu và một bản cho Tổng công ty.Hiện 
nay Bảo Việt cũng quy định phạm vi mức phân cấp khai thác cho từng công ty. 
Nếu đối tượng bảo hiểm có số tiền bảo hiểm trong phạm vi đó thì công ty chỉ cần 
gửi một bản giấy chứng nhận. Nếu vượt quá mức phân cấp, trước khi cấp giấy 
chứng nhận cho khách hàng, các công ty cần gửi hồ sơ cho Tổng công ty xem xét 
và quyết định. 
1.4 Bổ sung tài sản được bảo hiểm và theo dõi tình hình thu phí 
 Trên thực tế, có nhiều khách hàng yêu cầu sửa đổi, bổ sung tài sản được 
bảo hiểm sau khi đã được cấp giấy chứng nhận bảo hiểm. Các công ty cần xem 
xét kỹ yêu cầu thay đổi như : giá trị bảo hiểm, các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ phí 
để từ đó tính toán, điều chỉnh lại tỷ lệ phí, phí bảo hiểm cho thích hợp. Bản bổ 
sung sửa đổi cũng được lập thành bốn bản trao cho các bộ phận nói trên. 
 Ngoài ra các cán bộ khai thác cũng cần định kỳ xuống thăm các đối tượng 
bảo hiểm, kiểm tra các công tác PCCC, nêu ra các đề xuất để tăng cường công 
tác này. Đồng thời phải phối hợp với các bộ phận tài vụ để theo dõi việc đóng phí 
của khách hàng, nhắc nhở họ tái tục bảo hiểm khi thời hạn bảo hiểm sắp hết.
1.5 Hoa hồng 
 Trong công tác khai thác không thể không nói đến vấn đề hoa hồng. Đây 
là một khoản chi được tính theo tỷ lệ phần trăm so với số phí bảo hiểm. Khoản 
hoa hồng này, công ty trả cho người trực tiếp đứng ra tham gia bảo hiểm hoặc 
trả cho người môi giới nhằm động viên khuyến khích họ nhiệt tình công tác, thu 
hút thêm nhiều khách hàng tham gia bảo hiểm. Đây cũng là một hình thức tạo 
dựng mối quan hệ lâu dài với khách hàng.Từ năm 1995, để tạo tính chủ động, 
linh hoạt trong hoạt động, khoản chi hoa hồng được tính vào chi quản lý nghiệp 
vụ. 
 Có thể nói công tác khai thác có một vai trò quan trọng trong hoạt động 
kinh doanh bảo hiểm. Thực hiện tốt khâu này sẽ tạo tiền đề cho các công ty bảo 
hiểm mở rộng và chiếm lĩnh thị trường. 
2. Công tác giám định tổn thất 
 Khâu giám định tổn thất có vị trí quan trọng đối với công tác bồi thường. 
Các giám định viên bảo hiểm có nhiệm vụ xác định : nguyên nhân rủi ro có 
thuộc phạm vi bảo hiểm hay không, giá trị thiệt hại thực tế là bao nhiêu... 
2.1 Điều tra tai nạn 
 Nhận được thông báo tai nạn, giám định viên bảo hiểm sẽ xuống ngay 
hiện trường để nắm tình hình và điều tra tai nạn. Mục đích của việc điều tra tai 
nạn là thu nhập các bằng chứng và sự kiện. Trên cơ sở đó giải đáp các câu hỏi : 
tai nạn đã xảy ra như thế nào, ở đâu, khi nào, vì sao. Muốn vậy trong quá trình 
điêù tra, giám định viên phải thu thập hai loại thông tin : các tang vật và lời khai 
của nhân chứng. 
- Tang vật : Là bất cứ một việc gì có liên quan giúp cho việc xác định những sự 
việc liên quan đến tai nạn. Hầu hết các tang vật đều có thể tìm thấy ở hiện trường 
hay cũng có thể tìm thấy ở nơi sửa chữa bị hư hại. 
- Lời khai của nhân chứng : Là những lời kể, những câu trả lời của các nhân 
chứng thường là những người có mặt ở nơi hiện trường khi xảy ra tai nạn. Lời 
khai của nhân chứng cũng giúp cho việc xác định những vấn đề có liên quan đến 
tai nạn. Người bảo hiểm cần có những khả năng phân tích tìm ra những lời khai 
xác thực vì các lời khai của nhân chứng thường khác nhau và có khi mâu thuẫn 
với nhau. 
 Ngoài việc tiếp xúc, trao đổi, hỏi chuyện với các nhân chứng, giám định 
viên cần gặp gỡ, trao đổi với người được bảo hiểm, với công an PCCC. Qua đó, 
nguyên nhân Hoả hoạn, đánh giá sơ bộ và khái quát mức độ thiệt hại. 
2.2 Đề xuất các biện pháp hạn chế tổn thất 
 Thông thường sau khi gặp hoả hoạn, người được bảo hiểm rất hoang mang 
và lúng túng không biết phải làm gì. Vì vậy trên cơ sở xem xét hiện trường và 
song song với việc điều tra tai nạn, giám định viên bảo hiểm phải góp ý kiến với 
người được bảo hiểm các biện pháp hạn chế tổn thất như sau: 
 - Cách ly khu vực và tài sản bị thiệt hại. 
 - Rào kín những nơi mà người ngoài có thể đột nhập vào. 
 - Bơm rút nước cứu hoả còn đọng lại ra khỏi những nơi chứa tài sản để 
tránh tài sản hư hỏng thêm. 
 - Di chuyển các mảnh đổ vỡ, tro than để cứu tài sản, 
 Qua quá trình điều tra, các giám định viên phải tìm ra được nguyên nhân 
gây Hoả hoạn. Chú ý rằng đó phải là những nguyên nhân trực tiấp dẫn đến hoả 
hoạn. Cuối cùng các giám định viên bảo hiểm sẽ xác định mức độ thiệt hại và lập 
biên bản giám định. Biên bản giám định sẽ được trình lên công ty một bản và 
Tổng công ty một bản. 
3. Công tác bồi thường 
 Một trong những yêu cầu và cũng là một trong những phẩm chất quan 
trọng đối với người làm công tác bảo hiểm là phải quan tâm và cảm thông sâu 
sắc tới các nhu cầu và nguyện vọng của khách hàng. Phẩm chất đó phải được thể 
hiện đặc biệt rõ nét trong khâu trong khâu giải quyết bồi thường. Giải quyết bồi 
thường tốt có nghĩa là giải quyết nhanh và đúng - đây là nhiệm vụ số một của 
người làm công tác bồi thường và là một trong những biện pháp tuyên truyền có 
hiệu quả nhất, làm tăng uy tín của công ty và có ảnh hưởng tích cực tới khâu khai 
thác bảo hiểm. 
 Đảm bảo được mục đích, ý nghĩa, nhiệm vụ của công tác bồi thường, cán 
bộ công ty cần thực hiện tốt những bước sau : 
3.1 Kiểm tra hồ sơ khiếu nại và xác định trách nhiệm bảo hiểm 
 Nhận được hồ sơ đòi bồi thường, người bảo hiểm phải kiểm tra, xem xét 
hồ sơ có đầy đủ và hợp lệ không. Trường hợp hồ sơ thuộc trách nhiệm bảo hiểm 
nhưng chưa đầy đủ thì phải yêu cầu khách hàng bổ sung kịp thời và ngày trả lời 
khách hàng. Sau đó, cán bộ bồi thường xem xét đối chiếu với quy tắc bảo hiểm 
và văn bằng hướng dẫn của Tổng công ty để xác định trách nhiệm bảo hiểm. Cụ 
thể : khiếu nại có nằm trong phạm vi thoả thuận bảo hiểm không; có điểm loại 
trừ nào tác động và ảnh hưởng đến khiếu nại đó không; có điều kiện bảo hiểm 
nào bị vi phạm làm vô hiệu hoá hoặc thu hẹp phạm vi được bảo hiểm của khiếu 
nại không ? 
3.2 Xác định mức độ thiệt hại 
 Chức năng chính của công tác bảo hiểm là bồi thường những thiệt hại thực 
tế xảy ra cho người tham gia bảo hiểm nhằm đảm bảo sản xuất kinh doanh cho 
người được bảo hiểm. Xác định đúng giá trị thiệt hại mới đảm bảo việc bồi 
thường thực sự đem lại hiệu quả cho người được bảo hiểm.Việc xác định giá trị 
thiệt hại được tiến hành trên nguyên tắc : phải xác định ngay tại thời điểm và địa 
điểm xảy ra tổn thất. Trên cơ sở biên bản giám định về mức độ thiệt hại cùng các 
biên lai, chứng từ xác minh kèm theo các hồ sơ khiếu nại, cán bộ bồi thường sẽ 
xác định được mức thiệt hại thực tế của từng đối tượng bảo hiểm. 
 3.3 Xác định số tiền bồi thường 
 Nếu hồ sơ khiếu nại đã hợp lệ, đầy đủ, tổn thất đã được xác định là thuộc 
phạm vi bảo hiểm và tính toán được số tiền thiệt hại thì ta có thể tiến hành xác 
định số tiền bồi thường. 
 Số tiền bồi thường xác định dựa trên các cơ sở sau : 
 - Giá trị thiệt hại thực tế 
 - Số tiền bồi thường (là giới hạn trên của số tiền bồi thường ) 
 - Mức miễn thường : sẽ không phải bồi thường nếu tổn thất bằng hoặc nhỏ 
hơn mức miễn thường. Nếu tổn thất lớn hơn mức miễn thường thì phải trừ đi 
mức miễn thường ( trong trường hợp áp dụng mức miễn thường có khấu trừ ). 
 Trước khi tính toán số tiền bồi thường, người được bảo hiểm cần xem xét 
số tiền khách hàng đòi bồi thường là bao nhiêu. Nếu số tiền đó bằng hoặc nhỏ 
hơn mức miễn thường thì không cần tính toán mà có thể trả lời ngay cho khách 
hàng là tổn thất không được bồi thường vì nằm trong phạm vi mức miễn thường. 
Nếu tổn thất lớn hơn mức miễn thường thì phải tính chi tiết mức độ thiệt hại. 
Cụ thể : 
* Đối với bảo hiểm Hoả hoạn : 
 Số tiền bảo hiểm 
 Số tiền bồi thường = Giá trị thiệt hại ____________________ 
 Giá trị bảo hiểm 
3.4 Lập hồ sơ bồi thường, giải quyết bồi thường và khiếu nại 
 Trên cơ sở tính toán được số tiền bồi thường như trên, cán bộ bồi thường 
sẽ lập hồ sơ bồi thường và trình lên lãnh đạo Tổng công ty xét duyệt bồi thường. 
Sau khi có quyết định của lãnh đạo, cán bộ bồi thường sẽ thông báo cho khách 
hàng cụ thể về mức bồi thường, thời gian, địa điểm công ty bảo hiểm chi trả số 
tiến đó cũng như các giấy tờ cần thiết mà họ phải có. Nếu khách hàng chấp nhận 
thì việc bồi thường sẽ được chuyển cho phòng kế toán-tài vụ. 
 Trong thực tế, khâu bồi thường là khâu dễ phát sinh các tranh chấp, khiếu 
nại khi khách hàng cho rằng số tiền bồi thường là chưa hợp lý. Bởi vậy, cần xem 
xét nghiên cứu các ý kiến khiếu nại một cách khách quan. Cũng cần lưu ý là 
trước khi chính thức bồi thường, trên cơ sở những thông tin nhận được và đánh 
giá chung, cán bộ bồi thường sớm ước tính số tiền bồi thường và thông báo cho 
khách hàng biết trước để cho họ không bị bất ngờ khi công bố số tiền chính thức. 
Cần chú ý lắng nghe nguyện vọng của khách hàng, nhẹ nhàng và kiên nhẫn giải 
thích kỹ những thắc mắc của họ ngay cả khi từ chối bồi thường. 
4. Các biện pháp đề phòng Hoả hoạn 
 Mục tiêu của công tác phòng Hoả hoạn là đề phòng hoả hoạn phát sinh và 
không cho đám Hoả hoạn lan rộng. Hiện nay có hai biện pháp phòng Hoả hoạn là 
phòng Hoả hoạn bằng thiết kế xây dựng và sử dụng các biện pháp quản lý. 
+ Phòng Hoả hoạn bằng thiết kế xây dựng :nhằm cách ly các vật dễ Hoả hoạn với 
nguồn lửa. Các nguồn lửa có thể phát sinh từ các thiết bị toả nhiệt, bếp, lò sấy, lò 
sưởi, các thiết bị điện... Do vậy, việc thiết kế xây dựng cần lưu ý tới việc bố trí 
các phòng ban, kho, phân xưởng cũng như các thiết bị nội thất một cách hợp lý, 
đảm bảo độ an toàn cao. 
+ Các biện pháp quản lý : Thực hiện các biện pháp quản lý là trách nhiệm của 
người tham gia bảo hiểm. Dựa vào các quy định phòng Hoả hoạn và chữa Hoả 
hoạn của Nhà nước và địa phương, các giám đốc, thủ trưởng đơn vị cần đề ra nội 
quy, biện pháp PCCC cho cơ sở mình đồng thời có kế hoạch giáo dục, đôn đốc, 
theo dõi, kiểm tra việc chấp hành nội quy, biện pháp đó. Các cán bộ, công nhân 
phải triệt để chấp hành các nội quy PCCC cũng như các tiêu chuẩn về an toàn 
trong hoạt động công tác, sản xuất.. Cùng với cảnh sát PCCC, các công ty bảo 
hiểm sẽ hướng dẫn người tham gia bảo hiểm thực hiện tốt công tác PCCC ở các 
khu vực dễ xảy ra rủi ro, đề nghị họ có các biện pháp ngăn ngừa kịp thời và hợp 
lý. 
5. Công tác chữa Hoả hoạn 
 Trước hết cần trang bị các phương tiện thiết bị báo Hoả hoạn để xác định 
vùng xảy ra Hoả hoạn nhằm hạn chế tổn thất đến mức tối thiểu. Thành lập các 
đội cứu hoả ở các đơn vị cũng như trang bị các phương tiện dập lửa thì mới đảm 
bảo chữa Hoả hoạn có hiệu quả và kịp thời. Các công ty bảo hiểm qua việc tham 
quan các cơ sở bảo hiểm yêu cầu họ không những thực hiện các nội quy PCCC 
mà còn phải tranh bị các thiết bị chữa Hoả hoạn cần thiết. 
III. Đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn 
1. Kết quả khai thác và thực hiện doanh thu 
 Công cuộc đổi mới kinh tế của đất nước mỗi năm lại mang đến những 
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Kinh tế 
phát triển cộng với cơ chế quản lý theo hướng thị trường đã làm cho nhu cầu và 
khả năng tham gia bảo hiểm tăng. 
 Năm năm qua ( 91-95 ) là những năm khởi đầu cho nghiệp vụ bảo hiểm 
Hoả hoạn. Do có sự nỗ lực của ban lãnh đạo Tổng công ty cũng như các cán bộ 
trong công tác bảo hiểm Hoả hoạn nên kết quả nghiệp vụ này ngày càng cao.Hơn 
một năm đầu triển khai nghiệp vụ ( 89-90 ) các đơn vị tham gia còn quá ít ỏi. 
Trong số hàng vạn các xí nghiệp hoạt động trên phạm vi cả nước thì đơn vị tham 
gia bảo hiểm Hoả hoạn chỉ dừng lại ở con số trên dưới 100. Đây là những doanh 
nghiệp thực sự có nhu cầu và thường là những công ty thuộc về ngành xăng dầu, 
do vậy khả năng xảy ra rủi ro là rất lớn. 
 Nguyên nhân của tình trạng này là do bước đầu chuyển sang kinh tế thị 
trường, nhiều đơn vị còn lúng túng, kinh doanh chưa ổn định nên không có điều 
kiện tham gia bảo hiểm. Mặt khác do nước ta tồn tại quá lâu cơ chế cũ, nên khi 
chuyển sang cơ chế mới, lãnh đạo các xí nghiệp còn mang nặng tư tưởng bao 
cấp, chưa thấy rõ được trách nhiệm phải bảo toàn vốn của mình. Một phần nưã là 
về phía công ty, do đây là nghiệp vụ mới, cán bộ làm công tác bảo hiểm Hoả 
hoạn chưa nhiều, chưa có kinh nghiệm. Hơn nữa, cán bộ chưa phục vụ tận tình 
mà để khách hàng phải tự đến gõ cửa công ty. 
 Nắm bắt được tình hình như vậy, Văn phòng Tổng công ty cũng như các 
công ty địa phương đã có những nỗ lực lớn để khắc phục tình hình. Do vậy đã đạt 
được những kết quả đáng khích lệ trong những năm gần đây : 
 Nếu như năm 2000, Bảo Việt mới chỉ nhận bảo hiểm cho 1413 đơn vị thì 
đến năm 2003, số đơn vị được bảo hiểm đã lên tới 3102 đơn vị -gần gấp 3 lần. 
Còn giá trị bảo hiểm cũng tăng nhưng tăng hơn gấp 14 lần. Có thể nói giá trị bảo 
hiểm tăng nhanh như vậy một mặt là vì nền kinh tế Việt Nam trong những năm 
vừa qua đang trên đà phát triển vượt bậc. Trong thời gian đầu mở cửa, đã có 
những Công ty nước ngoài đầu tư nhưng chỉ đầu tư với mức độ rất dè dặt mục 
đích của họ là muốn thăm dò thị trường Việt Nam. Sau một thời gian nghiên 
cứu, thấy Việt Nam là nơi có cơ hội đầu tư tốt nên những dự án lớn hơn về quy 
mô đã được ký kết. 
 Doanh thu của nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn tăng nhanh, với tốc độ cao 
và khá đều. Năm sau doanh thu tăng hơn năm trước. Sở dĩ Bảo Việt đạt được kết 
quả như vậy là do những nguyên nhân chủ yếu sau : 
- Về khách quan : sự ban hành các quyết định của Bộ tài chính có liên quan đến 
vấn đề bảo hiểm đã tạo ra ảnh hưởng lớn đối với việc kinh doanh bảo hiểm của 
công ty. Điều đó được thể hiện là số đơn bảo hiểm cấp và doanh thu trong năm 
2003 tăng gần gấp đôi so với năm 2000. Những năm gần đây số đơn bảo hiểm 
và doanh thu tăng không mạnh nguyên nhân chủ yếu là do nghiệp vụ bảo hiểm 
hoả hoạn của Công ty bị mất hẳn một phần doanh thu về phía Công ty bảo hiểm 
Petrolimex và Bảo Minh. Mặc dù bị hao hụt lớn nhưng nghiệp vụ bảo hiểm hoả 
hoạn những năm gần đây vẫn duy trì được doanh thu năm sau tăng hơn năm 
trước. Đó là kết quả nỗ lực không thể phủ nhận của toàn bộ cán bộ trong nghiệp 
vụ bảo hiểm hoả hoạn. Những năm gần đây do chính sách của nhà nước ngày 
càng thông thoáng nên các Công ty bảo hiểm nước ngoài đã có thể được kinh 
doanh trên thị trường Việt Nam. Điều này tạo nên sự cạnh tranh không nhỏ đối 
với Bảo Việt. Nhưng nhờ có uy tín từ trước nên doanh thu bảo hiểm của Bảo Việt 
những năm gần đây vẫn tăng cao và nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn cũng tăng 
theo. 
- Về chủ quan : Tổng công ty đã có những cố gắng đáng kể trong việc đào tạo, 
bồi dưỡng và mở rộng đội ngũ cán bộ. Thỉnh thoảng, công ty có mở lớp hướng 
dẫn, tập huấn cho cán bộ, cộng tác viên để trau dồi thêm nghiệp vụ. Ngoài ra, các 
cán bộ nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn cũng cố gắng tìm mọi cách để mở rộng địa 
bàn tiếp thị, triển khai mạng lưới các văn phòng đại diện quận, huyện ở các địa 
phương giúp cho việc tiếp cận khách hàng được tốt hơn đồng thời giữ vững địa 
bàn hoạt động, không để mất khách hàng. Tổng công ty đã mở rộng mạng lưới 
tuyên truyền, quảng cáo thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như : đài, 
báo, tạp chí, vô tuyến truyền hình.... 
 Đi đôi với việc bồi dưỡng cán bộ, Tổng công ty đã từng bước hoàn thiện 
hơn trong việc tính phí. Việc áp dụng biếu phí linh hoạt đã đưa ra được những 
mức phí cạnh tranh, phù hợp với cơ chế thị trường. Nếu như trước đây, Baỏ Việt 
chủ trương áp dụng một tỷ lệ phí trung bình cho tất cả các ngành sản xuất kinh 
doanh, các loại tài sản khác nhau là 0,29 %, sau đó sử dụng hệ số điều chỉnh thì 
đến tháng 12 năm 1993, Tổng công ty đã đề nghị Bộ tài chính cho phép áp dụng 
phí bảo hiểm Hoả hoạn mới xây dựng trên cơ sở theo những kinh nghiệm của 
Munich Re và một số nước khác trong khu vực. Biểu phí này giảm đi 20% so với 
biểu phí cũ nhưng vẫn đảm bảo hoạt đông kinh doanh của Bảo Việt và quan 
trọng hơn nữa là vẫn được các nhà tái bảo chấp nhận. 
 Mặt khác, Tổng công ty đã có quan hệ rất tốt với Bộ tài chính, Tổng cục 
đầu tư và phát triển, các ngân hàng, cục CSPCCC... Giờ đây, Bảo Việt cũng luôn 
luôn được sự ủng hộ của các ngân hàng. Các ngân hàng chỉ cho các doanh nghiệp 
vay vốn khi họ đã tham gia bảo hiểm cho tài sản của mình. Nhiều ngân hàng đã 
buộc các đơn vị vay tiền phải xuất trình giấy tờ chứng nhận bảo hiểm thì mới cho 
vay tiền. Tổng công ty cũng đã theo dõi chặt chẽ các công trình đầu tư lớn, kịp 
thời thông báo cho địa phương. Nhiều trường hợp đã phối hợp với Tổng cục đầu 
tư và phát triển thông qua Bộ tài chính đề nghị Nhà nước cấp bổ sung vốn để 
tham gia bảo hiểm. Bảo Việt đã phối hợp chặt chẽ với một số ngành có số lượng 
tài sản lớn như bưu điện, y tế, công nghiệp để triển khai đồng bộ trong cả nước. 
 Bên cạnh đó, sự thành lập các công ty môi giới bảo hiểm, các công ty bảo 
hiểm nước ngoài cũng có những đóng góp tích cực trong việc đem lại dịch vụ 
bảo hiểm cho công ty. 
Tỷ lệ doanh thu của bảo hiểm Hoả hoạn so với doanh thu toàn công ty ngày càng 
tăng.. Năm 2003, tỷ lệ này có giảm đi một ít, nguyên nhân là do doanh thu của 
bảo hiểm Hoả hoạn tăng không đáng kể trong khi đó doanh thu của toàn Tổng 
công ty tăng (do sự tăng doanh thu của các nghiệp vụ khác như : bảo hiểm hàng 
xuất, bảo hiểm thân tàu, bảo hiểm thân xe ô tô...). 
 Tuy nhiên, đến nay bảo hiểm Hoả hoạn đã là một nghiệp vụ quan trọng 
đem lại nguồn doanh thu không nhỏ cho Bảo Việt. 
2 Tình hình chi bồi thường 
 Ta đã biết được vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác bồi 
thường trong bảo hiểm. Bồi thường chính xác, nhanh chóng là phương pháp tốt 
nhất để tạo ra sự tín nhiệm của khách hàng vào công ty. Quán triệt quan điểm đó, 
Bảo Việt đã đề ra những biện pháp về quản lý cũng như việc tiến hành công tác 
này sao cho có hiêụ quả nhất. 
 Về biện pháp quản lý, quỹ chi bồi thường chiếm tỷ lệ phần trăm đáng kể 
trong tổng số phí thu được. Hiện nay, biểu phí bảo hiểm Hoả hoạn gồm các thành 
phần như sau : 
 - Chi bồi thường thường xuyên chiếm 65%. 
 - Chi dự trữ tổn thất lớn chiếm 10% 
 - Chi đề phòng và hạn chế tổn thất chiếm 5% 
 - Chi quản lý và thuế doanh thu chiếm 15% 
 - Chi hoa hồng, cộng tác viên chiếm 5%. 
 Như vậy phần trích lập quỹ dự trữ bồi thường ( bao gồm chi bồi thường 
thường xuyên và chi dự trữ tổn thất lớn ) chiếm 75% tổng số phí. Cách hoạch 
định như vậy là rất cần thiết đối với các nhà bảo hiểm. Nó không những giúp cho 
việc nghiên cứu doanh thu bảo hiểm của nghiệp vụ có đủ khả năng chi trả bồi 
thường cho người tham gia bảo hiểm hay không, mà còn nhằm tránh sự phá sản 
hay thâm hụt lớn cho công ty bảo hiểm. Điều đó đã giúp cho Bảo Việt có khả 
năng chi trả cho những vụ tổn thât lớn. Điển hình ngày 15.7. 93, Bảo Việt đã giải 
quyết bồi thường nhanh chóng cho công ty 100% vốn nước ngoài SCANSIA. 
LTD ( Malaysia ) với số tiền bồi thường 129000 $. C ũng trong năm 93, nhà máy 
giày Hiệp Hưng đã bị ngọn lửa thiêu huỷ, ước tính thiệt hại khoảng 13,5 tỷ đồng, 
ngay lập tức Bảo Việt đã tạm ứng 5 tỷ để nhà máy kịp thời ổn định sản xuất đời 
sống cho công nhân. Ngoài ra, Bảo Việt còn bồi thường nhiều vụ Hoả hoạn lớn 
khác như bồi thường vụ Hoả hoạn chợ Đồng Xuân với số tiền bồi thường 8,2 tỷ 
đồng, nhà máy may Sông bé với số tiền bồi thường 17,5 tỷ đồng... 
 Từ năm 2002 - 2003, tình hình giải quyết bồi thường tại Bảo Việt được 
thể hiện qua bảng sau: 
Bảng : Tình hình bồi thường thực tế của nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn 
Năm Số tiền bồi thường (triệu đồng) 
(1) Quỹ bồi thường (triệu đồng) 
(2) Tỷ lệ bồi thường thực tế (%) = (1) : (2) 
2000 3424.68 17653,00 19,4 
2001 23972,76 41329,05 70,24 
2002 71918,28 107877,42 50,14 
2003 143849,34 230158,94 60,25 
 Nguồn số liệu: 
Phòng bảo hiểm Hoả hoạn và kỹ thuật - Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam 
 Nếu như trong 2 năm ( 90-91 ) không xảy ra vụ tổn thất nào thì trong các 
năm sau đã có nhiều vụ Hoả hoạn gây tổn thất lớn. Số tiền bồi thường ngày càng 
tăng do những nguyên nhân chủ yếu sau : 
- Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhiều công ty đã trang bị thêm nhiều 
những máy móc hiện đại,với dây chuyền sản xuất lớn, có khả năng tận dụng 
những nguyên vật liệu rẻ tiền hơn nhưng cũng dễ gây Hoả hoạn hơn. Khi Hoả 
hoạn thường trên một diện rộng vì quy mô sản xuất lớn. 
- Các doanh nghiệp mới chỉ đầu tư vốn vào xây dựng, sửa chữa tài sản, lắp đặt 
các máy móc mới chứ chưa để ý đến việc mua sắm các thiết bị an toàn, các biện 
pháp PCCC. 
- Thêm vào đó số doanh nghiệp tham gia bảo hiểm tăng nên số vụ bồi thường 
cũng như số tiền bồi thường tăng. 
 Ngoài ra, theo bảng trên có thể thấy công tác bồi thường của Bảo Việt 
được đảm bảo. Tỷ lệ số tiền bồi thường thực tế so với quỹ dự trữ bồi thường gần 
bằng 50 % - như vậy đảm bảo cho Bảo Việt có khả năng chi trả bồi thường cho 
khách hàng. Tuy vậy trong năm 2001, tỷ lệ này tăng vọt từ 19,4% lên 70,24 % do 
trong năm 2001 xảy ra nhiều vụ Hoả hoạn liên tiếp với mức độ tổn thất nghiêm 
trọng làm số tiền bồi thường năm 2001 tăng cao hơn hẳn so với các năm.
 Doanh thu tăng là tốt song số tiền bồi thường cũng tăng lại là một điều cần 
phải suy nghĩ. Những năm tới để đảm bảo đạt hiệu quả kinh doanh, Tổng Công 
ty cần đẩy mạnh các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất không những giảm 
thiểu số tiền bồi thường mà còn góp phần ổn định hoạt động kinh doanh. 
3 Tái bảo hiểm 
 Với đặc thù là giá trị tài sản được bảo hiểm trong bảo hiểm Hoả hoạn rất 
lớn, hay có nghĩa là hạn mức trách nhiệm của công ty bảo hiểm cao, vai trò của 
việc thu xếp tái bảo hiểm là rất quan trọng. Ngoài các hợp đồng tái bảo hiểm cố 
định (treaty), hiện nay Bảo Việt cũng thực hiện nhiều hợp đồng tái bảo hiểm tạm 
thời (falcutative) để bảo đảm có đầy đủ khả năng tài chính bồi thường cho tổn 
thất thuộc phạm vi, trách nhiệm bảo hiểm. Tái bảo hiểm cũng đóng một vai trò 
không nhỏ trong việc tạo ra một tâm lý an tâm hơn cho các nhà đầu tư nước 
ngoài vì họ sẽ được đảm bảo tài chính một cách chắc chắn hơn bởi những công ty 
tái bảo hiểm thế giới. 
 Trong phạm vi đề tài này, xin chỉ đề cập một vấn đề rất nhỏ của công tác 
tái bảo hiểm trong việc tính doanh thu thực của Bảo Việt. Như ta đ• biết , do 
trong doanh thu một phần phải tái bảo hiểm đi cho các công ty khác nên doanh 
thu của Bảo Việt sẽ bị giảm xuống, doanh thu thực của công ty chỉ là mức mà 
Bảo Việt giữ lại. Mặt khác, khi xảy ra những tổn thất, Bảo Việt chỉ phải chịu 
trách nhiệm theo tỷ lệ mà họ giữ lại. Vì vậy cách tính lợi nhuận thực của Bảo 
Việt theo " Doanh thu - Chi phí " phức tạp hơn ( vì phải xác định doanh thu và 
bồi thường trong phạm vi của Bảo Việt ).Thay thế vào phương pháp phân tích lợi 
nhuận thực, xin được phân tích chỉ tiêu doanh thu thực như sau: 
Doanh thu thực =Mức phí giữ lại +Hoa hồng tái bảo hiểm +Thuế 
Trong đó : Hoa hồng tái bảo hiểm = 7,5 - 15 % phí tái bảo hiểm . 
 Thuế = 4 % doanh thu . 
 Doanh thu thực của Bảo Việt tăng hàng năm cũng tương ứng với sự tăng 
doanh thu. Nếu như trong số 4130 đơn bảo hiểm được cấp năm 1998 với số đơn 
được tái đi là 710 thì đến năm 2003 số dơn bảo hiểm phải tái đi đã lên tới 2030 
đơn trong số 10730 đơn được cấp. Số đơn phải tái bảo hiểm trong 5 năm tăng 
hơn 8 lần trong khi tổng số đơn mà Bảo Việt cấp chỉ tăng 4 lần. Sự tăng tốc độ 
không đều này đã nói lên rằng ngày càng nhiều những doanh nghiệp mua bảo 
hiểm với những giá trị rất lớn. Một phần vì họ đã hiểu được mua bảo hiểm chính 
là công cụ hữu ích nhất giúp họ bảo toàn vốn. Phần khác nữa là vì những dự án 
đầu tư vào Việt Nam không còn là những khoản tiền nhỏ nữa, nó đã được mở 
rộng về quy mô và chất lượng. 
Chương III: Một số đề nghị nhằm nâng cao chất lượng nghiệp vụ bảo hiểm hoả 
hoạn 
Trong giai đoạn hiện nay sư tồn tại và phát triển của Bảo Việt nói chung hay 
nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn nói riêng là có một sự cố gắng nỗ lực không 
ngừng.Việc tìm ra những khiếm khuyết vạch ra đường đi đúng đắn là những việc 
cần làm ngay và là nhiệm vụ quan trong số một. 
 Sau một thời gian tìm hiểu thực tế tại Bảo Việt, qua quá trình thu thập số liệu 
cũng như phân tích tình hình thực tế hoạt động kinh doanh, với mong muốn góp 
phần nâng cao chất lượng của nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn xin mạnh dạn đưa ra 
một số biện pháp kiến nghị sau: 
1) Về công tác khai thác 
Công tác tuyên truyền quảng cáo: Có thể nói trong những năm qua khâu khai 
thác bảo hiểm vẫn còn yếu. Đẩy mạnh công tác khai thác nghiên cứu thị trường 
là rất cần thiết. Mặc dù công tác khai thác bảo hiểm không phải là kinh doanh 
thuần tuý nhưng không vì thế mà không tuyên truyền quảng cáo. Với nhiều nước 
trên thế giới, bảo hiểm đã trở thành nhu cầu và trở thành tập quán của đời sống 
nhưng với nước ta tất cả mới bắt đầu. Do vậy tuyên truyền quảng cáo là hết sức 
quan trọng với mục đích giới thiệu các loại hình bảo hiểm. ý nghĩa và tác dụng 
của nó là gây danh tiếng cho Công ty và cạnh tranh khách hàng. 
 Từ trước đến nay, Bảo Việt đã quan tâm đến hoạt động này nhưng hiệu quả 
chưa cao nhìn chung sự nhận thức về bảo hiểm Hoả hoạn còn thấp. Vì lẽ đó mà 
việc tuyên truyền nên phản ánh lại các vụ Hoả hoạn lớn và hậu quả của nó sau đó 
đưa ra những con số bồi thường cụ thể để từ đó làm nổi bật được vai trò và sự 
cần thiết của bảo hiểm Hoả hoạn. Trong cơ chế thị trường khách hàng thường rất 
khó tính, không phải họ chấp nhận tham gia bảo hiểm ngay tại Bảo Việt, nhất là 
tâm lý “của ngoại” đang được ưu thích tại Việt Nam. Vì vậy công tác này đòi hỏi 
sự kiên trì của cán bộ khai thác phải hưỡng dẫn tận tình, nêu rõ cho khách hàng 
thấy rõ sự thuận lợi khi họ tham gia bảo hiểm tại Bảo Việt mà ở các Công ty 
khác không có. Chỉ có cách thông qua mặt mạnh như vậy, Bảo Việt mới có thể 
duy trì và củng cố được các mối quan hệ cũ, xây dựng mối quan hệ cũ tốt đẹp. 
 Thu hút khách hàng qua thành phần trung gian cũng là điều quan tâm, Bảo 
Việt cần đẩy mạnh và mở rộng hơn nữa đối với các nghành quản lý chủ quan và 
nghành liên quan như Tổng cục đầu tư và phát triển, các ngân hàng thương mại, 
lực lượng cảnh sát PCCC, các Công ty dịnh vụ tư vấn về đầu tư, các doanh 
nghiệp nhà nước, tư nhân lớn...để thông qua những đối tượng này Bảo Việt giới 
thiệu sản phẩm bảo hiểm hoả hoạn với khách hàng. Ngoài ra cần quan hệ chặt 
chẽ hơn với các Công ty bảo hiểm địa phương. Đây là những tiềm năng to lớn mà 
Bảo Việt cần khai thác. 
 Hoả hoạn chợ đã trở thành nạn dịch nhưng thực tế bảo hiểm Hoả hoạn ở chợ 
chưa được khai thác là bao. Do vậy Bảo Việt cần đi sâu khai thác sức mua bảo 
hiểm của các hộ kinh doanh ở chợ, các khu vực triển lãm cũng như các hộ nhà 
dân...Ngoài ra cần phải chú ý vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thực tế số lượng 
những doanh nghiệp này ỏ nước ta là rất lớn nhưng phần lớn chưa tham gia bảo 
hiểm. Đây là phần thị trường rất hoang sơ và là điểm trọng tâm cần khai thác 
trong giai đoạn tới. 
Ngoài ra Bảo Việt nên áp dụng bảo hiểm Hoả hoạn ở những bãi đỗ xe của nhà 
nước cũng như của tư nhân thành bảo hiểm bắt buộc. 
 Về hoa hồng: Đối vơi các Công ty môi giới những cộng tác viên hoặc cá nhân 
đứng ra mua bảo hiểm cũng cần có những chính sách hoa hồng thoả đáng cho họ. 
Trong cạch tranh hai doanh nghiệp bảo hiểm có điều kiện bảo hiểm và tỷ lệ phí 
bảo hiểm như nhau người mua bảo hiểm và các môi giới sẽ đến với doanh nghiệp 
nào có tỷ lệ hoa hồng cao hơn vì vậy chính sách hoa hồng hết sức linh hoạt và 
hấp dẫn, phải căn cứ vào hiệu quả mà quyết định hoa hồng. Đối với các tổ chức 
cá nhân có liên quan hỗ trợ cho Bảo Việt dành dịnh vụ thì phải có những ưu đãi 
đặc biệt. 
 Về phạm vi bảo hiểm: Cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm có sẵn để đáp ứng 
được nhu cầu của khách hàng là một trong những nhiệm vụ được đề ra. Song 
không vì thế mà khách hàng yêu cầu gì ta cũng chấp nhận. Hết sức hạn chế 
những đối tượng có điểm chuẩn PCCC loại trung bình, kiên quyết không nhận 
bảo hiểm theo lối chọn điểm, tức là người bảo hiểm chỉ mua bảo hiểm cho những 
phân xưởng, công đoạn sản xuất có nhiều rủi ro nhất. Ngoài ra có thể bảo hiểm 
nhưng phải xem xét thận trọng khi nhận hợp đồng bảo hiểm lũ lụt đối với những 
công trình kiên cố, xây dựng bê tông cốt thép... 
 2)Công tác giám định và giải quyết bồi thường. 
 Về công tác giám định: Bảo Việt nên tổ chức những khoá học nâng cao trình độ 
chuyên môn, chất lượng phục vụ của các giám định song bên cạch đó phai duy trì 
mở rộng các mối quan hệ với các Công ty giám định, các đội ngũ chuyên gia 
trong mọi lĩnh vực. Trong khi làm công tác giám định tạo niềm tin cho khách 
hàng các cán bộ phải quán triệt quan điểm” khách quan, vô tư ” phản ánh đúng 
và toàn bộ sự việc, diễn biến gây ra rủi ro. Đồng thời phải có sự đúc kết và tổng 
hợp thành sổ tay giám định nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn để các giám định viên 
dễ dàng tra cứu và đưa ra kết luận chính xác. 
 Về công tác bồi thường: Khách hàng chỉ nhận thấy rõ tác dụng của bảo hiểm 
nhất là khi họ gặp rủi ro. Trách nhiệm của Bảo Việt lúc này là phải bồi thường. 
Khẩu hiệu “ Bồi thường nhanh chóng chính xác và công bằng “ phải hoàn toàn 
tuân theo trong mọi trường hợp vì đây là lĩnh vực tuyên truyền quảng cáo có hiệu 
quả nhất gây uy tín cho Công ty bằng sự việc cụ thể chứ không phải bằng những 
lời nói suông. Song song với việc phục vụ tốt khách hàng, Bảo Việt cần tăng 
cường bổ sung quỹ dự trữ bồi thường bằng cách đầu tư vốn nhàn rỗi như: mua 
công trái nhà nước, mua bất động sản cho vay có thế chấp. 
 Trong thực tế thủ tục về công tác bồi thường còn rất rườm rà và phức tạp và 
tốn khá nhiều thời gian. Bảo Việt cần phải có tài liệu về hưỡng dẫn giải quyết bồi 
thường cho khách hàng như hướng dẫn cụ thể khi yêu cầu bồi thường, khách 
hàng cần thiết phải làm ngay những công việc gì, phải nộp ngay những giấy tờ gì 
3) Công tác đề phòng và hạn chế tổn thất 
 Ta đã biết một nguyên nhân làm cho hoạt đông kinh doanh của nghiệp vụ 
chưa đạt hiệu quả tối ưu- đó là thực hiện chưa tốt công tác PCCC. Để làm tốt 
công tác này, Công ty cần phải kết hợp chặt chẽ hơn nữa phòng cảnh sát PCCC 
các cấp chính quyền và ban nghành để kiểm tra tình hình thực hiện PCCC ở các 
đơn vị. 
 Với các xí nghiệp sản xuất, qua việc phối hợp với công an PCCC để có yêu 
cầu cụ thể về phương tiện PCCC, lập thêm các phương an chữa Hoả hoạn cho 
các cơ sở trọng điểm. Cần cho khách hàng hiểu rằng không phải tham gia bảo 
hiểm là dồn hết trách nhiệm cho người bảo hiểm mà bản thân họ phải có trách 
nhiệm bố trí và quản lý tài sản tốt, có kế hoạch chữa Hoả hoạn được cảnh sát 
PCCC thông qua, thường xuyên tụ bảo đưỡng nhà cửa trang thiết bị. Số phí bảo 
hiểm Công ty phải trả sẽ thấp hơn nếu như công tác PCCC của đơn vị được thực 
hiện tốt theo đúng yêu cầu. 
 Ngoài ra phải hưỡng dẫn các địa phương chi tiết về phòng và hạn chế tổn 
thất vì hầu hết họ gần như không chi về khoản này. Trong điều kiện cạnh tranh 
hiện nay, việc chi đề phòng hạn chế tổn thất lại có tác dụng khuyến khích, giữ 
khách hàng rất quan trọng. Vì vậy các địa phương cần xác định rõ tỷ lệ được 
phép chi bồi thường và hạn chế tổn thất. 
 Công ty cũng cần có một khoản chi hợp lý cho công tác đề phòng hạn chét 
tổn thất ở các đơn vị tham gia bảo hiểm , coi như trợ giúp một phần cho họ trong 
việc trang bị phượng tiện PCCC, nâng cao chất lượng đề phòng hạn chế tổn thất. 
Hầu hết các vụ Hoả hoạn kiện mang nguyên nhân là do chập điện nên trước khi 
cấp đơn bảo hiểm phải kiểm tra hệ thống điện. Có thể phải chi phí để làm lại hệ 
thống điện này, nhưng chi phí đó nhỏ hơn rất nhiều so với số tiền bồi thường nếu 
có tổn thất xảy ra. 
4) Công tác tính phí 
 Hoạt động bảo hiểm Hoả hoạn và gián đoạn kinh doanh là một hình thức 
kinh doanh dịnh vụ, quỹ dùng để chi trả dịnh vụ được hình thành từ việc đóng 
góp của người bảo hiểm dưới dạng phí bảo hiểm. Vì vậy, việc tích phí phải đảm 
bảo chi trả bồi thường đảm bảo kinh doanh có lãi, đông thời phải tạo được mức 
phí có khả năng cạnh trạnh được với các công ty ở nước ngoài. Sẽ cho hoàn toàn 
đúng nếu cho rằng biểu phí bảo hiểm hoả hoạn hiện hành mà Bảo Việt áp dụng là 
hoàn thiện sự biến đổi của thị trương hoạt động của đối thủ canh tranh sẽ làm cho 
giá cả của bảo hiểm hoả hoạn thay đổi. 
 Vì vậy khi đưa ra mức phí cần phải thường xuyên xem xét , giám sát theo 
dõi tỷ lệ phí của đối thủ cạnh tranh đồng thời phải theo sat biến động của các ruỉ 
ro, tỷ lệ lạm phát. Nên tìm cách hạ phí xuống vì đây là cách cạch tranh có hiệu 
quả nhất. Tuy nhiên nó vấp phải giới hạn dưới đó là tối thiểu phí thu phải đủ trả 
cho bồi thường. Đặc biệt hạ phí cho các toà nhà xây dựng, mới xây dựng để cho 
thuê các văn phòng đại diện, các Công ty xây dựng bằng vật liệu không Hoả 
hoạn...ít nhất phải thấp hơn so với các Công ty bảo hiểm khác. Đôi khi phải chấp 
nhận hạ phí thấp hơn so với số liệu thống kê để thu hút đông đảo khách hàng trên 
cơ sở số đông bù số ít mà vẫn đảm bảo nghiệp vụ kinh doanh. 
 Theo như thoả thuận với chuyên gia của EU, trong năm tới đây EU sẽ giúp 
Bảo Việt nâng cao cải tiến sản phẩm Hoả hoạn về mẫu đơn, phạm vi bảo hiểm và 
mức phí. Tuy nhiên không vì thế mà ỷ lại áp dụng y nguyên máy móc, mà phải 
cải cách sửa đổi cho đúng phù hợp với tình hình Việt Nam. Bảo Việt cần phải 
nghiên cứu chính sách phí phân biệt với từng loại khách hàng. Đối với các khách 
hàng thường xuyên có mối quan hệ lâu dài, những khách hàng lớn cần được ưu 
tiên hơn những khách hàng mới và nhỏ. 
 Hiện nay, tỷ trọng chi phí quản lý bảo hiểm vẫn còn lớn. Để khắc phục tình 
trạng này Bảo Việt cần phải nghiên cứu những hình thức đầu tư nguồn doanh 
thu vào các hoạt động kinh doanh để tăng lợi nhuận đẻ tử đó có cơ sở giảm ty 
trọng chi quản lý. Không chỉ đơn thuần gửi tiền vào ngân hàng, kinh doanh bất 
động sản mà Bảo Việt còn góp vốn cùng kinh doanh với các tổ chức trong và 
ngoài nước. 
 Bảo Việt nên đề nghị với bộ tài chính đưa ra một hành lang phí cụ thể. Điều 
này không ngừng tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh mà còn tạo điều 
kiện cho các Công ty bảo hiểm khẳng định mình. Công ty mạnh sẽ giành được thị 
trường và khách hàng chấp nhận. 
5) Công tác cán bộ 
 Đào tạo cán bộ giỏi nghiệp vụ là vấn đề Công ty cần quan tâm. Bảo hiểm 
hoả hoạn là loại bảo hiểm cần giao dịnh với nhiều Công ty nước ngoài, nhưng do 
đây là nghiệp vụ mới cho nên cán bộ giỏi về nghiệp vụ này còn ít ỏi lại thêm 
trình độ về tiếng anh, máy tính chưa thành thạo nên khó có thể giao dịnh với 
nước ngoài. 
 Cũng cần thấy rằng cán bộ giỏi nghiệp vụ thì không những thực hiện công 
tác một cách nhanh chóng, trôi chảy mà nếu khi khách hàng thắc mắc yêu cầu gì 
cán bộ có thể giải đáp một cách rõ ràng, tạo niềm tin cho khách hàng. Một mặt 
nữa có một cán bộ giỏi nghiệp vụ có trình độ tiếng anh thành thạo, Công ty có 
khẳ năng xâm nhập thị trường nhanh chóng trực tiếp đỡ tốn kém không phải qua 
con đường môi giới. 
 Trên thực tế , trình độ của cán bộ địa phương còn rất kém vì thế Công ty cần 
tổ chức thêm những đợt tập huấn, đào tạo hưỡng dấn cán bộ ở địa phương để 
nâng cao trình độ nghiệp vụ. Ngoài ra cần phát hiện và nhin nhận đúng đắn năng 
lực, trình độ của từng cán bộ mà có chính sách đãi ngộ, sự ưu tiên thích đáng. 
6) Thúc đẩy các doanh nghiệp tham gia bảo hiểm là biện pháp để bảo toàn 
vốn 
 Tiến trình cải cách đang đặt nền kinh tế Việt Nam phải đương đầu với một 
giai đoạn mà trong đó tổng vốn được coi là bàn đạp thúc đẩy hết sức quan trọng. 
Bởi lẽ nhìn vào cơ sở hạ tầng còn rệu rã, chúng ta có thể thấy được nền kinh tế 
đang cần rất nhiều vốn để cải tạo nâng cấp đường bộ, đường sắt, sân bay...Và còn 
biét bao dự án khác. 
 Huy động vốn , giao vốn, bảo toàn vốn và phát triển vốn là sự cần thiết 
trước hết xuất phát từ cơ chế quản lý kinh tế đối với các xí nghiệp quốc doanh. 
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp quốc doanh hoạt động theo 
phương thức hoạch toán kinh doanh, đòi hỏi phải bảo toàn giữ gìn số vốn được 
nhà nước đầu tư, tự bổ sung và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn được tài trợ. 
Hiện nay nước ta đang cần rất nhiều vốn, vì vậy ngoài việc huy động vốn trong 
nước ta phải huy động thêm vốn nước ngoài. Điều đó càng làm cho việc bảo toàn 
và phát triển vốn trở nên quan trọng. 
 Giao vốn là việc xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm trong sở hữu quản lý 
và sử dụng vốn. Giao vốn tạo ra sử chủ động cho các doanh nghiệp đồng thời 
cũng gắn trách nhiệm của xí nghiệp đối với việc bảo toàn và phát triển vốn. Việc 
huy động vốn đ• là khó song việc bảo toàn và phát triển vốn là khó khăn hơn 
nhiều. Để bảo toàn và phát triển vốn, các chủ doanh nghiệp lập ra các phương án, 
kế hoạch kinh doanh sao cho thích hợp. Ngoài ra việc giao vốn các doanh nghiệp 
phải tự chủ trong kinh doanh kể cả tự chiu rủi ro và thiên tai bất ngờ ảnh hưởng 
không tốt đến khẳ năng bảo toàn vốn. Trong trường hợp này thì tham gia bảo 
hiểm là trường hợp hữu hiệu nhất. Từ khi xoá bỏ cơ chế bao cấp, chính phủ đã 
chủ trương phát triển mạnh mẽ các khâu bảo hiểm nhằm làm dảm nhẹ gách nặng 
cho ngân sách. Vì lẽ đó trong bối cảnh mới, cần nhận thức đúng vị trí nghành 
kinh doanh bảo hiểm. Nhiều doanh nghiệp hiện nay tham gia bảo hiểm vì họ chỉ 
nghĩ đơn giản là họ sẽ được bồi thường khi không may rủi ro xảy ra chứ phần lớn 
doanh nghiệp không biết rằng tham gia bảo hiểm là số vốn của họ được bảo toàn. 
Do yêu cầu bức bách đặt ra đối với bảo hiểm Hoả hoạn không chỉ dừng lại ở chỗ 
khai thác phục vụ khách hàng tốt mà còn phải nêu bật được vai trò của mình qua 
việc bảo toàn vốn. Có như vậy , các doanh nghiệp mới hiểu được đầy đủ căn kẽ 
về ý nghĩa và bản chất của bảo hiểm. 
 Điều cuối cùng muốn nói ở đây là bất kể nguồn vốn nào cũng đều là kết tinh 
của sức lao động, là tài sản của nguồn vốn cho nên mọi chính sách, chế độ, mọi 
quan hệ phải được xây dựng trên cơ sở tôn trọng giá trị của đồng vốn, giúp người 
có vốn không những bảo toàn được giá trị của nó mà làm cho no sinh lời và có 
quyền hưởng phần lợi nhuận chính đáng đó. Tôn trọng quan tâm điều đó, Bảo 
Việt với nghiệp vụ Hoả hoạn sẽ cố gắng hết sức góp phần của mình vào bảo toàn 
vốn cho các doanh nghiệp nói riêng và cho toàn bộ nền kinh tế nói chung. 
Kết luận 
 Trong những năm vừa qua, tuy bảo hiểm Hoả hoạn và gián đoạn kinh 
doanh là những nghiệp vụ còn khá mới mẻ nhưng Bảo Việt đã thu được những 
kết quả đáng kể. Điều đó không chỉ thể hiện ở sự tăng trưởng của các chỉ tiêu 
trong hoạt động kinh doanh mà còn khẳng định được do sự đóng góp của nghiệp 
vụ đối với nền kinh tế. Thông qua tác dụng làm bảo toàn vốn, tạo ra một tâm lý 
an toàn, tin tưởng cho chủ doanh nghiệp cũng như cho toàn bộ công nhân, hai 
loại nghiệp vụ này đã làm nổi bật được vai trò của mình trong công cuộc đổi mới 
đất nước. Trong công cuộc đổi mới này, bằng lợi thế về tầm quan trọng không 
thể phủ nhận, bảo hiểm Hoả hoạn tự tin hơn bao giờ hết, sẵn sàng bước vào giai 
đoạn mới- giai đoạn cạnh tranh. 
 Thực tế đã chứng minh chúng ta cần đến bảo hiểm , thực sự cần đến sự hỗ 
trợ đắc lực của bảo hiểm trong sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Vượt qua 
mọi khó khăn thử thách, bằng sự vươn lên của chính mình, chúng ta hy vọng 
rằng Bảo Việt, cùng với nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn sẽ tiếp tục lớn mạnh và 
không ngừng đi lên xứng đáng là doanh nghiệp đầu đàn của ngành bảo hiểm Việt 
Nam. 
Tài liệu tham khảo 
1. Tài liệu hướng dẫn bảo hiểm Hoả hoạn năm 2002 - Tổng công ty bảo hiểm 
Việt Nam. 
2. Hướng dẫn tính phí bảo hiểm Hoả hoạn năm 2002 - Tổng công ty bảo hiểm 
Việt Nam. 
3. Giáo trình kinh tế bảo hiểm - Trường đại học kinh tê quốc dân. 
4. Giáo trình bảo hiểm nhà nước II - Trường đại học tài chính kế toán. 
5. Tạp chí bảo hiểm số 2 năm 2003 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 Luận văn- Thực trạng tư nhấn hóa và đa dạng hóa tại thị trường các sản phẩm an tòan tài chính Việt Nam.pdf Luận văn- Thực trạng tư nhấn hóa và đa dạng hóa tại thị trường các sản phẩm an tòan tài chính Việt Nam.pdf