Luận văn Thực trạng và giải pháp trong phân bổ hạn ngạch

Nếu trong nước thiếu hàng hoá, giá hàng hoá trong nước sẽ tăng cao hơn giá thế giới gây bất lợi cho người tiêu dùng và nạn buôn lậu tăng lên. Các nhà sản xuất trong nước khi đó về sản phẩm của họ nên yên tâm sản xuất mà không phải lo ngại về vấn đề cạnh tranh do vậy cũng có thể làm yếu đi chính khả năng tự cải tiến về dây chuyền kỹ thuật công nghệ hiện đại, khả năng đào tạo cán bộ kỹ thuật giỏi của họ. Tuy hạn ngạch có tác dụng bảo hộ sản xuất trong nước, thế nhưng trong chừng mực nào đó khác nó lại làm cho khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp yếu đi. Điều này sẽ là một khó khăn rất lớn trong tương lai khi Việt Nam tham gia CEPT/ APTA. Vì khi tham gia AFTA trước mắt tác động đến nguồn thu ngân sách Nhà nước, về lâu dài, sẽ tác động đến cơ cấu thương mại và nền kinh tế, điềy này là rất quan trọng vì nó liên quan đến lựa chọn chiến lược cơ cấu thích ứnh với tình thế của nền kinh tế không còn các hàng rào bảo hộ mậu dịch.

pdf51 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3323 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng và giải pháp trong phân bổ hạn ngạch, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó thể biến doanh nghiệp trong nước trở thành độc quyền. II. Hạn ngạch xuất khẩu (export quota). 1. Khái niệm. Hạn ngạch xuất khẩu là quy định của Nhà nước về số lượng (hoặc trị giá) một mặt hàng nào đó được xuất khẩu nói chung hoặc từ một thị trường nào đó trong một thời gian nhất định (một năm). Các hình thức hạn chế xuất khẩu được áp dụng tuỳ từng nước và trong thời gian nhất định. Một số nước chỉ cho phép một số tổ chức có quyền xuất khẩu một số mặt hàng nhất định. Hiện nay ở Việt Nam chế độ cấp hạn ngạch xuất khẩu được quy định theo bởi Thủ tướng Chính phủ. Hàng năm Bộ Thương mại công bố danh mục các mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch sau khi thống nhất với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ quản lý sản xuất và được Chính phủ duyệt. Nhà nước quản lý bằng hạn ngạch xuất khẩu các mặt hàng sau : Gạo. Hàng dệt may mặc xuất khẩu vào EU, Canada và Nauy. Bộ Thương mại phân bố hạn ngạch xuất khẩu cho các Bộ, ngành, địa phương. Những mặt hàng không quản lý bằng hạn ngạch thì cơ sở xuất khẩu đăng ký với Bộ Thương mại và được cấp giấy phép không hạn chế. 2. Mục đích của Nhà nước khi áp dụng hạn ngạch xuất khẩu. Không phải lúc nào Nhà nước cũng khuyến khích xuất khẩu mà đôi khi vì quyền lợi quốc gia phải kiểm soát một vài mặt hàng xuất khẩu đặc biệt, quý hiếm, những nguyên liệu, tài nguyên của đất nước, hoặc những mặt hàng mang tính chiến lược đối với nền kinh tế. Nguyên nhân chính là do: Cấm vận buôn bán: Hiện nay có nhiều nước đang sử dụng hạn ngạch xuất như là một công cụ để cấm vận buôn bán giữa các nước với nước mình hoặc giữa các nước với nhau. Bằng cách hạn chế hoặc là không cho xuất sang một nước nào đó các nước có thể làm cho các nước khác gặp phải khó khăn về kinh tế-xã hội vì tự do thương mại đã khiến cho các nước phụ thuộc lẫn nhau. Mặt khác để bảo vệ tiềm năng, bảo vệ động vật và cây trồng, bảo vệ di sản văn hoá, đồ cổ. Khi xuất hàng hoá sang các nước phải làm sao để xuất được hàng hoá mà có kết tinh lao động trong nước và các yếu tố khác mà không làm thiệt hại đến tài nguyên của đất nước. Trong trường hợp này tốt nhất nên tập trung xuất khẩu những hàng hoá đã qua chế biến tinh, không nên xuất khẩu những hàng hoá mà chưa qua chế biến hoặc mới chỉ chế biến thô. 3. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện (Voluntary Export Restraints-ver). Trong những năm 70 và 80 các hàng rào thương mại phi thuế quan phát triển rất nhanh. Đó là các thoả thuận hạn chế xuất khẩu một số hàng hoá cụ thể sang một số thị trường cá biệt được thoả thuận tự nguyện của các nhà sản xuất. Các thoả thuận này có thể là chính thức hoặc không chính thức. Hiện nay các thoả thuận như thế bao hàm hầu hết số lượng buôn bán về ô tô, thép, hàng dệt và quần áo may sẵn giữa các nước đang phát triển. Hậu quả của hạn chế xuất khẩu tự nguyện cũng tương tự như hạn ngạch nhập khẩu nhưng có 3 sự khác biệt làm cho nó kém tác dụng hơn theo quan điểm của các nước nhập khẩu. Một là, tiền thuê hạn ngạch do hạn chế xuất khẩu tự nguyện hoàn toàn thuộc về dân cư của nước xuất khẩu. Điều đó có nghĩa là nước nhập khẩu bị thiệt và so với thuế quan thu nhập của Chính phủ chuyển cho nước ngoài. Hai là, nước nhập khẩu phải thanh toán ở mức giá nội địa đầy đủ mà không phải ở mức giá thế giới cho các hàng hoá nhập khẩu.Trong trường hợp này tương quan giữa giá xuất khẩu và giá nhập khẩu sẽ xấu đi và đường cong định giá của nước nhập khẩu dịch chuyển sang phải. Ba là, hạn chế xuất khẩu tự nguyện mang tính phân biệt đối xử nên chỉ áp dụng cho các nước cung ứng sản phẩm với chi phí thấp nhất. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện cũng có thể buộc các nhà nhập khẩu phải chấp nhận nhập khẩu của các nước có chi phí cao hơn làm tăng khoản tiền phải trả của các nước nhập khẩu và phân phối không có hiệu quả các nguồn lực của thế giới. Các nước xuất khẩu thích áp dụng hạn chế xuất khẩu tự nguyện hơn so với hạn ngạch nhập khẩu hoặc thuế quan vì thiệt hại đối với nước nhập khẩu sẽ là lợi ích đối với nước xuất khẩu (Tiền thuê quota + Pd >Pw) (Đồ thị ). Trong thương mại quốc tế khía cạnh phân biệt đối xử phụ thuộc vào sự có mặt của các nhà cung ứng thay thế và chỉ xảy ra khi các nước nhập khẩu chấp nhận và khuyến khích các nhà cung ứng này mà thôi. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện kém tác dụng hơn các hàng rào thương mại khác nhưng dưới góc độ thể chế nó được các nước nhập khẩu ủng hộ. Tăng thuế quan và hạn ngạch đều trái với quy định chung của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vì vậy áp dụng các giải pháp đều có thể bị trả đũa bằng cấm vận quốc tế. Để tránh được hậu quả đó nước nhập khẩu mua chuộc các nhà cung ứng nước ngoài bằng cách đưa ra những lợi ích hạn chế của xuất khẩu tự nguyện. Các nước xuất khẩu nhận thấy rằng không chấp nhận những đề nghị đó có thể dẫn đến những hành động đơn phương của các nước nhập khẩu và vì vậy sự so sánh không phải là giữa hạn chế xuất khẩu tự nguyện sẽ cân bằng được các lợi thế và tránh được hậu quả của các hàng rào thương mại tự nguyện sẽ cân bằng được các lợi thế và tránh được hậu quả của các hàng rào thương mại khác. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện cho phép các nhà nhập khẩu thực hiện giá cả độc quyền, họ sẽ không bán thấp hơn khi nhập khẩu bổ sung. Trong trường này tiền thuê hạn ngạch đối với một số lượng nhập khẩu cố định tăng lên. Phương thức này đã được người Nhật áp dụng nhằm hạn chế xuất khẩu ô tô sang Mỹ và vô tuyến độ nét cao đối với Cộng đồng Châu Âu (EC). Mục đích chính của xuất khẩu tự nguyện là chấp nhận các ngành công nghiệp đạt đến gần trình độ tối đa hoá lợi nhuận. III. Các loại hạn ngạch khác. Ngoài hạn ngạch xuất nhập khẩu hiện nay còn có một số loại hạn ngạch khác như hạn ngạch công nghiệp, hạn ngạch sản xuất, hạn ngạch gia công tái xuất, hạn ngạch hội chợ triển lãm. Tuy nhiên vì các loại hạn ngạch này không được áp dụng rộng rãi trừ hạn ngạch công nghiệp và hạn ngạch sản xuất. Chủ yếu có hạn ngạch xuất nhập khẩu tác động tới thương mại và dịch vụ. Hạn ngạch sản xuất: Ngoài việc trực tiếp tham gia vào thị trường và mua các sản phẩm do vậy làm tăng tổng cầu Chính phủ còn có thể làm cho giá cả của sản phẩm tăng bằng cách giảm cung. Chính phủ có thể làm điều này bằng các sắc lệnh - Chính phủ chỉ cần quy định hạn ngạch cho mỗi mặt hàng. Bằng cách ấn định hạn ngạch thích hợp giá cả có thể bị đẩy lên bất kỳ mức mong muốn nào. IV. Các hàng rào thương mại phi thuế quan khác. Nhìn chung tất cả các điều kiện áp dụng cho hàng hoá nước ngoài và nội địa đều có tác dụng như hàng rào thương mại. Tuy nhiên hầu hết các hàng rào phi thuế quan thường dẫn đến giảm các quan hệ buôn bán và thường rất khó đo lường ảnh hưởng của nó. Trong phần này chúng ta sẽ xem xét một số hàng rào phi thuế quan liên quan đến thuế quan và hạn ngạch như thế nào. Phương thức định giá của hải quan là hàng rào phi hạn ngạch dễ nhận thấy nhất. Bằng cách định giá hàng nhập khẩu ở mức giá cao hơn, nhân viên hải quan đã tăng tiền thuế phải trả. Sử dụng phương thức định giá của hải quan như là một hàng rào thương mại chỉ làm tăng chi phí nhập khẩu tương tự như thuế quan nhưng không làm tăng thu nhập cho Chính phủ của nước nhập khẩu. Nhiều khi nó mang tính chất chuyển đổi thuế hải quan. Quy định về thành phần sản phẩm có nguồn gốc địa phương cũng là một hàng rào thương mại quan trọng. Các quy định này bảo vệ các nhà sản xuất sản xuất phụ tùng nội địa tương tự như hạn ngạch nhập khẩu. Cũng do quy định về thành phần địa phương, các doanh nghiệp buộc phải thực hiện một số hoạt động có hiệu quả hơn so với thực hiện ở nước ngoài. Tuy nhiên các quy định này không khuyến khích đầu tư nước ngoài mà chỉ làm tăng hoạt động buôn bán và có thể làm tăng chi phí do hàng hoá không được kết thúc quá trinhg sản xuất tại nơi có chi phí thấp nhất. Sự ưu đãi của Chính phủ luôn luôn là khu vực màu mỡ cho sự phân biệt giữa nhà cung ứng nước ngoài và nội địa, chẳng hạn việc đấu thầu các dự án công cộng chỉ dành cho các nhà cung ứng nội địa. Hàng rào phi thuế quan này tăng cùng với sự tăng trưởng của khu vực Nhà nước. Sự ưu đãi của Chính phủ cũng tác động tương tự như thuế quan nhưng không có thu nhập. Trên thực tế đo lường ảnh hưởng của công cụ này rất khó khăn, đặc biệt là đối với những dự án lớn do không có thị trường mở để quan sát giá cả thế giới cho các dự án đó. Chính phủ có thể sử dụng các dịch vụ marketing và các dịch vụ bán lẻ riêng để tạo ra các hàng rào thương mại. Các cửa hàng bán đồ uống địa phương ở Canada với độc quyền bán rượu đã quy định giá cao hơn đối với rượu nhập khẩu nhằm khuyến khích tiêu thụ rượu nội địa mặc cho đó là những sản phẩm khác biệt. Các hàng rào phi thuế quan mang tính kỹ thuật như khác biệt về đơn vị đo trọng lượng, kích thước, ngôn ngữ trên bao bì đóng gói khó tiếp cận hơn. Quan trọng hơn nữa là những tiêu chuẩn về sức khoẻ, an toàn, môi trường...cũng đòi hỏi những chi phí bổ sung đối với các doanh nghiệp nước ngoài và gây ra những cản trở cho việc thâm nhập thị trường. Tất cả các hàng rào phi thuế quan đã miêu tả trên đây đều nhằm giảm nhập khẩu và có ảnh hưởng tương tự như thuế quan. Các nhà sản xuất nội địa được bảo hộ sẽ có lợi còn người tiêu dùng bị thiệt. Với các hàng rào phi thuế quan thu nhập của Chính phủ thường không tồn tại bởi thuế quan tương ứng đã bị ngăn chặn hoặc nguồn lợi bị phân tán do đòi hỏi về sử dụng nguồn lực đã làm chi phí của nhà cung ứng nước ngoài. Tác động đến thương mại của các hàng rào phi thuế quan thường rất lớn do những thiệt hại bổ sung thường xuất hiện. Tuy nhiên việc đánh giá tác động của chúng rất phức tạp do khía cạnh phi thương mại của giải pháp này. V. Những quy định việc xuất nhập khẩu hàng hoá quản lý bằng hạn ngạch. 1. Căn cứ để xác định danh mục, số lượng(hoặc trị giá) của mặt hàng xuất nhập khẩu quản lý bằng hạn ngạch.  Bảo vệ tài nguyên thiên nhiên môi trường, môi sinh.  Bảo vệ và phát triển sản xuất trong nước, bảo đảm nhu cầu hợp lý của sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng.  Bảo đảm hiệu quả xuất nhập khẩu(chính sách tiết kiệm tiêu dùng, sử dụng hợp lý ngoại tệ)  Bảo đảm chính sách thị trường ngoài nước và các cam kết quốc tế của Chính phủ. 2.Thủ tục ấn định hạn ngạch. Uỷ ban kế hoạch Nhà nước chủ trì, cùng Bộ Thương mại tham khảo ý kiến các Bộ hữu quan, xây dựng và trình Chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng phê duyệt danh mục số lượng (hoặc trị giá) các mặt hàng xuất nhập khẩu quản lý bằng hạn ngạch cho từng thời kỳ. Bộ trưởng Bộ Thương mại có trách nhiệm công bố danh mục nói trên. 3. Nguyên tắc và thủ tục phân bố hạn ngạch. Bộ Thương mại là cơ quan quản lý Nhà nước duy nhất có thẩm quyền phân bố hạn ngạch trực tiếp cho các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp được cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu bà phạm vi kinh doanh xuất nhập khẩu có bao gồm mặt hàng xin phân bổ hạn ngạch mới được xin hạn ngạch. Đối với hàng hoá xuất khẩu mà hạn ngạch do nước ngoài phân cho Việt Nam thì số lượng ( hoặc trị giá ) của mặt hàng cũng như thời hạn thực hiện hạn ngạch do Bộ Thương mại quyết định. Hạn ngạch về hàng hoá nhập khẩu để lắp ráp, gia công chế biến (như linh kiện điện tử, các bộ phận rời và phụ tùng xe máy, ô tô, phụ liệu thuốc lá) chỉ phân bổ cho các doanh nghiệp có cơ sở sản xuất và lắp ráp khi doanh nghiệp yêu cầu. Sau khi cân đối các yêu cầu về hạn ngạch cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước sẽ xét yêu cầu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Doanh ngiệp có nhu cầu sử dụng hạn ngạch gửi cho Bộ Thương mại đơn xin hạn ngạch theo mẫu quy định sẵn. Bộ Thương mại cấp phiếu hạn ngạch trong đó ghi số lượng (hoặc trị giá) mặt hàng, thời hạn thực hiện hạn ngạch. 4. Quản lý Nhà nước về hạn ngạch và nghĩa vụ của cả doanh nghiệp được phân bổ hạn ngạch. Bộ Thương mại có trách nhiệm phân bổ hạn ngạch công khai, đúng đói tượng theo tổng mức mà Chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng đã phê duyệt. Bộ Thương mại có trách nhiệm kiểm tra việc thực hiện hạn ngạch đã cấp. Các doanh nghiệp khi xin giấy phép xuất nhập khẩu từng chuyến hàng phải xuất trình phiếu hạn ngạch (bản chính), trường hợp uỷ thác phải có thêm hợp đồng uỷ thác. Những doanh nghiệp đã được cấp hạn ngạch, nhưng không có khả năng thực hiện hoặc thực hiện không hết hạn ngạch phải báo cho Bộ Thương mại tối thiểu 3 tháng trước khi hạn ngạch hết hạn. Nghiêm cấm việc mua bán hạn ngạch. Mọi vi phạm những quy định trên tuỳ theo mức độ, Bộ Thương mại sẽ xử lý theo một hoặc những hình thức sau đây:  Thu hồi phiếu hạn ngạch.  Không phân bổ hạn ngạch cho năm tiếp theo.  Thu hồi giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu.  Kiến nghị các cơ quan chức năng truy cứu trách nhiệm hình sự. Phần II Thực trạng và giải pháp trong phân bổ hạn ngạch. I. Thực trạng của việc phân bổ hạn ngạch ở nước ta. ở nước ta Bộ Thương mại là cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khi cấp hạn ngạch cho một doanh nghiệp nào đó. Có một số cách phân bổ hạn ngạch của Chính phủ khi phân bổ hạn ngạch cho một doanh nghiệp nào đó, liên quan đến phân bổ hạn ngạch là tiền thuê hạn ngạch. 1. Hạn ngạch nhập khẩu. Nếu hạn ngạch được bán trong các cuộc đấu giá cạnh tranh, khi đó giá cả của nó sẽ không vượt quá hiệu số (Pd-Pw) cho một đơn vị nhập khẩu. Tại bất kỳ một mức giá nào thấp hơn sẽ dư cầu về hạn ngạch vì mức rủi ro sẽ thấp hơn trong các cơ hội tìm kiếm lợi nhuận. Tại mức giá cân bằng toàn bộ thu nhập do bán các hạn ngạch nhập khẩu sẽ thuộc Chính phủ. Cách thứ 2 là Chính phủ giao toàn quyền phân phối các hạn ngạch nhập khẩu. Trong trường này những người nhận được hạn ngạch sẽ không phải bỏ ra bất cứ chi phí nào mà thu được lợi nhuận từ hạn ngạch tương ứng với tiền thuê hạn ngạch. Cách thứ 3 là có thể đòi hỏi các nhà nhập khẩu đưa ra những kế hoạch về sử dụng nguồn lực khi xin giấy phép nhập khẩu. Đơn giản nhất là phải điền vào các mẫu xin giấy phép gửi đến cơ quan có thẩm quyền và giải trình mục đích nhập khẩu, sau đó xếp hàng và chờ giải quyết theo thứ tự ưu tiên. Cũng có thể tìm ra những nhân viên có thể giải quyết cấp hạn ngạch và hối lộ họ. Phương pháp này rất tốn thời gian và không mang lại lợi ích cho nền kinh tế mà chỉ có lợi cho cá nhân vì khi có hạn ngạch nhập khẩu họ được hưởng không tiền thuê hạn ngạch đáng ra phải trả. Ví dụ: Về hạn ngạch xe máy, chỉ cần có được trong tay quota về hạn ngạch xe máy thì cho dù có bán lại hay nếu dùng để nhập xe máy rồi bán lại trong nước với giá cao hơn thì có thể thu được rất nhiều lợi nhuận vì vậy mà các cá nhân không chỉ trong nước mà còn ở nước ngoài luôn luôn tìm cách có được giấy phép quan trọng này bất chấp những quy định của Nhà nước. Một cách phân phối phức tạp hơn có thể làm lãng phí các nguồn lực là hạn ngạch nhập khẩu phân bổ trên cơ sở sản xuất nội địa hoặc khối lượng nhập khẩu năm trước. Khi đó sẽ xảy ra hiện tượng nâng cao năng lực sản xuất giả tạo nhiều hơn nhu cầu nhằm làm cơ sở để xin giấy phép nhập khẩu cho kỳ tới. Nếu hạn ngạch phân bổ căn cứ vào kim ngạch nhập khẩu năm trước thì sẽ dẫn tình trạng đổ xô vào nhập khẩu ngay từ đầu năm và điều đó gây ra chi phí dự trữ bổ sung. Sự chạy đua này cũng dẫn đến sự ưu tiên nhập khẩu từ những bạn hàng thương mại gần hơn về mặt địa lý và sẽ phải chịu những khoản phí tổn bổ sung do các hàng rào thương mại gần hơn về mặt địa lý và sẽ phải chịu những khoản phí tổn bổ sung do các hàng rào thương mại phân biệt đối xử. Với những cách phân bổ hạn ngạch nhập khẩu trên đây, các nhà nhập khẩu sẽ sẵn sàng chịu mọi phí tổn cần thiết để có được hạn ngạch nhập khẩu mà họ nhận thấy chi phí bỏ ra thấp hơn tiền thuê hạn ngạch. Với cách phân phối này một phần hoặc toàn bộ lợi ích sẽ phân tán trong những hoạt động không mang tính chất sản xuất trực tiếp làm tăng thiệt hại về phúc lợi do hạn chế thương mại. Đó là hạn ngạch nhập khẩu còn hạn ngạch xuất khẩu thì sao? Hiện nay ở nước ta việc phân bổ hạn ngạch xuất nhập khẩu chủ yếu vẫn thực hiện theo cơ chế xin cho. 1.1 Mặt hàng phân urêa. Bộ Thương mại chịu trách nhiệm điều hành nhập khẩu khoảng 1,46 triệu tấn (1996), 1,3 triệu tấn(1995), 1,479 triệu tấn(1997) theo nguyên tắc sau đây: Giao Tổng công ty vật tư nông nghiệp nhập 40% nhu cầu phần còn lại giao cho các doanh nghiệp có đủ điều kiẹen nhập khẩu, bảo đảm yêu cầu sản xuất của từng khu vực. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có trách nhiệm thông báo cho Bộ Thương mại số lượng phân bón cần nhập từng mùa để Bộ Thương mại có cơ sở điều hành. 1.2 Mặt hàng xăng dầu(trừ dầu nhờn). Cơ chế quản lý nhập khẩu để đảm bảo nhập khẩu khoảng 5,4 triệu tấn (1996), 4,6 triệu tấn (1995) ,5,7 triệu tấn (1997) như sau : Tập trung 100% xăng dầu nhập khẩu qua các doanh nghiệp chuyên doanh trong đó có Tổng công ty xăng dầu nhập khẩu khoảng 60% nhu cầu. Hạn mức nhập khẩu giao một lần trong năm kế hoạch, sau 6 tháng sẽ xem xét và điều chỉnh. 1.3 Mặt hàng xi măng. Bộ Thương mại chịu trách nhiệm điều hành nhập khẩu khoảng 1,4 triệu tấn xi măng đen (1996), 1,2 triệu tấn (1995), 0,9,triệu tấn (1997)theo hướng giao Tổng công ty xi măng nhập khẩu 40% nhu cầu và giao phần còn lại cho doanh nghiệp có đủ đieèu kiện để trong 6 tháng đầu năm lượng xi măng nhập về đạt khoảng 60% nhập khẩu. Đối với clinker và nguyên liệu sản xuất xi măng Bộ Thương mại điều hành nhận kịp thời, đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất. 1.4 Mặt hàng đường ăn. Bộ Thương mại chịu trách nhiệm điều hành nhập khẩu theo nguyên tắc Bàn với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để xác định nhu cầu và điều hành nhằm đáp ứng đủ nhu cầu của thị trường đồng thời không ảnh đến sản xuất mía đường trong nước. Chỉ định một số doanh nghiệp có khả năng am hiểu thị trường để giao nhiệm vụ nhập khẩu phần lớn nhu cầu, phần còn lại giao cho các doanh nghiệp có đủ điều kiện nhập bảo đảm nhu cầu tiêu dùng của từng khu vực. 1.5 Mặt hàng thép. Bộ công nghiệp bàn với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và thông báo cho Bộ Thương mại danh mục những chủng loại thép trong nước đã sản xuất đủ nhu cầu trên cơ sở đó Bộ Thương mại cho nhập những chủng loại trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất chưa đáp ứng nhu cầu.Bộ Thương mại chịu trách nhiệm điều hành nhập khẩu theo nguyên tắc: Các loại thép trong nước chưa sản xuất được kể cả thép chuyen dùng và phôi thép được nhập đáp ứng đủ nhu cầu của các Bộ, ngành, các địa phương đảm bảo nhu cầu sản xuất, xây dựng và kinh doanh. Thống nhất với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Công nghiệp xác định nhu cầu thép xây dựng thông dụng cần nhập khẩu; giao cho Tổng công ty thép nhập khẩu khoảng 40% nhu cầu thep xây dựng thông dụng và giao phần còn lại cho các doanh nghiệp có đủ điều kiện nhập khẩu. Nhập 1995:1,116 triệu tấn Nhập 1996: 1,5 triệu tấn Nhập 1997 : 1,4 triệu tấn 2. Hạn ngạch xuất khẩu. Gần đây nhất ở Thành phố Hồ Chí Minh đã có một số giải pháp bán đấu giá hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may cho các doanh nghiệp trong nước. Việc phân bổ hạn ngạch theo cơ chế xin cho gây ra rất nhiều điều bất cập. ở nước ta chủ yếu có 2 mặt hàng xuất khẩu quản lý bằng hạn ngạch đó là gạo và hàng dệt may. Thực trạng của việc phân bổ hạn ngạch mặt hàng này như thế nào? Đó là một vấn đề gây ra rất nhiều tranh cãi, câu hỏi xoay quanh. 2.1 Mặt hàng gạo. a. Thực trạng. Theo Thời báo kinh tế Sài Gòn 12-11-1998 bài viết của Phúc Tiến có đoạn: Cựu Bộ trưởng Thương mại Lê Văn Thiết có lần kể một địa phương “hăm” đổ gạo xuống sân Bộ Thương mại nếu không được cấp quota. Việc phân chia hạn ngạch xuất khẩu gạo còn chưa hợp lý. Nước ta là một nước xuất khẩu gạo đứng vào hàng thứ ba trên thế giới sau Mỹ, Thái Lan. Vì vậy, vấn đề xuất khẩu gạo hàng năm ở các tỉnh thành nhiều lúa là vấn đề được quan tâm rất nhiều. Nhiều năm nay các tỉnh thành nhiều lúa này vẫn yêu cầu nhiều quota, nhiều đầu mối xuất khẩu gạo. Không chỉ có các tỉnh thành nhiều lúa mà còn có các tỉnh thành ít lúa hoặc không có hạt lúa nào nhưng có nhà máy, bến cảng và doanh nghiệp quen làm hàng xuất khẩu cũng yêu cầu cấp hạn ngạch xuất khẩu gạo cho mình. Thậm chí có những địa phương, ngành không có cơ sở vật chất và doanh nghiệp không đạt yêu cầu cho xuất khẩu gạo song vẫn đòi hỏi phải được cấp hạn ngạch xuất khẩu gạo. Trong khi đó có nhiều tỉnh thành, doanh nghiệp có nhiều lúa, có nhà máy, xí nghiệp có cơ sở vật chất thì lại không được cấp hạn ngạch xuất khẩu gạo. Những tỉnh thành, doanh nghiệp dù không có nhiều lúa nhưng có cơ sở vật chất thì có thể bán ngay những hạn ngạch xuất khẩu đó cho các doanh nghiệp tỉnh thành khác với mức giá ”hợp lý”. Điều đó còn gây ra những hậu quả xấu hơn khi nhiều doanh nghiệp, tỉnh thành không có đủ điều kiện về cơ sở vật chất vẫn xuất khẩu gạo dẫn đến tình trạng dìm giá gạo xuất khẩu chung, nhiều đầu mối hàng chỉ bán gạo cho một nơi nên còn bị ép giá. Hay là có nhiều doanh nghiệp nắm quota nắm quyền làm đầu mối nhưng có nhà máy xay xát, không có kho bãi nên ký hợp đồng rồi mới chạy đi mua gạo làm xáo trộn giá cả. Tất cả những điều trên có ảnh hưởng rất xấu tới việc xuất khẩu gạo. Gạo nước ta vì chưa có khâu đánh bóng hạt gạo, tỷ lệ hạt gạo gẫy cao, độ dài còn chưa đạt tiêu chuẩn nên giá gạo xuất khẩu còn thấp. Khâu chế biến của chúng ta rất kém cộng với việc xuất khẩu gạo như trên làm cho giá cả lộn xộn, giá xuất khẩu bị dìm. Điều này gây thiệt hại rất lớn cho các doanh nghiệp có khả năng, có cơ sở vật chất tốt mà không được nhận quota. Như vậy, xét cho cùng Nhà nước nên tiếp tục phân bổ quota theo kiểu xin cho hay phân bổ theo các phương thức khác? Nếu phân bổ quota thì làm sao cho công khai và công bằng. Tại cuộc thảo luận ngày 20-10 ở Hiệp hội xuất nhập khẩu lương thực bà Trần Ngọc Sương phó giám đốc nông trường Sông Hởu nêu đề nghị một cách rất hình tượng. Xét quota và đầu mối xuất khẩu gạo cũng phải chấm như là thi hoa hậu phải đạt đủ ba vòng : Vòng số 1: Sản lượng lúa. Vòng số 2: Năng lực nhà máy. Vòng số 3: Giá trị hàng hoá , thị trường xuất, người mua. (Hay như đại diện công ty Vinafood nhận xét : Không nên coi vấn đề sản lượng là điều kiện tiên quyết được quota xuất khẩu gạo. Đã có thị trường thì không nên phân chia biên giới hạt gạo). Còn ông Nguyễn Trung Tín, chủ tịch Hiệp hội lại cho rằng vẫn phải lưu ý tiêu chuẩn sản lượng vì đó là lợi ích của các địa phương có lúa. Song ông vẫn đồng ý Nhà nước phải tính đến yếu tố hiệu quả kinh doanh thật sự trong phân chia đầu mối và và quota xuất khẩu gạo. Theo thống kê của Hiệp hội năm 1998 có đến 33 đầu mối xuất khẩu gạo, tăng 12 đầu mối so với năm trước. Song trong thực tế trong chín tháng đầu năm có năm đơn vị ngồi không chưa ký dược hợp đồng xuất khẩu nào. Còn lại số xuất khẩu trên 100.000 tấn chỉ có 9 đơn vị : Từ 50.000-100.000 : có 6 đơn vị. Từ 20.000-50.000: có 7 đơn vị. Dưới 20.000 : có 6 đơn vị. b. Giải pháp. Qua đây ta thấy rằng để thực sự xuất khẩu gạo có hiệu quả thì khi phân bổ quota cần phải căn cứ vào cơ sỏ vật chất (có đủ nhà máy, bến cảng, doanh nghiệp quen làm hàng xuất khẩu, có sản lượng lúa cao) và phải căn cứ vào khả năng khi xuất khẩu gạo của doanh nghiệp. Đối với những doanh nghiệp đầu mối chưa đủ điều kiện thì nên đưa sang diện xuất khẩu không thường xuyên. Mặt khác Nhà nước cũng cần bổ sung các đầu mối xuất khẩu gạo đủ điều kiện làm đầu mối mới. Cụ thể hơn đối với một đầu mối xuất khẩu gạo phải là doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh lương thực, có cơ sở chế biến và kho tàng đủ cho 15.000 tấn trở lên, đồng thời phải tham gia mua lúa ngay trong vụ thu hoạch và có thị trường và khách hàng ổn định. Các đầu mối này không chỉ được xuất khẩu gạo cho các đơn vị có quota trong tỉnh mình mà còn có thể xuất uỷ thác cho các đầu mối ở tỉnh khác. Chỉ có thế thì vấn đề xuất khẩu gạo mới có hiệu quả tránh được tình trạng “ ngồi mát ăn bát vàng”, kinh doanh tạm bợ chứ không đầu tư lâu dài. Về phân bổ quota Nhà nước cần bớt lại một số quota các dơn vị làm ăn thua lỗ hay xuất khẩu đạt hiệu quả thấp. Ngoài những biện pháp trên có một số doanh nghiệp lại cho rằng phải có thêm một cách phân bổ khác gần gũi với yếu tố thị trường hơn. ý tưởng vừa bán vừa đấu thầu quota được các thành viên và ban lãnh đạo Hiệp hội xuất nhập khẩu lương thực bàn đến và thảo luận. Trong các văn bản kiến nghị Hiệp hội đã đặt vấn đề Chính phủ thử nghiệm chia 80% quota gạo cho các đơn vị trung ương và tỉnh thành còn lại 20% đem bán cho tất cả các doanh nghiệp có khả năng trên cơ sở tham khảo ý kiến của Hiệp hội. Số tiền bán 20% quota xuất khẩu gạo sẽ được dùng hình thành “ Quỹ bảo hiểm xuất khẩu gạo”. Cũng có nhiều ý kiến chủ các doanh nghiệp khác như bà Trương Thị Thanh Hương giám đốc công ty lương thực An Giang cho rằng: Nên thử nghiệm đấu thầu từng phần chứ không phải bán quota từng phần, nên dành 60% quota dành cho các doanh nghiệp đầu mối, còn lại 40% dành cho các doanh nghiệp còn lại 40% dành cho các doanh nghiệp khác tham gia đấu thầu. Vấn đề bán hay đấu thầu quota xuất khẩu gạo mới chỉ được bàn đến còn khả năng đi vào hiện thực có khả thi hay không còn phải xem xét rất nhiều, Chính phủ sẽ là người quyết định cuối cùng. Tuy nhiên vấn đề này không phải không thể thực hiện được như mới đây Chính phủ đã cho thử nghiệm đấu thầu tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh về quota xuất khẩu hàng may mặc vào EU. Tất cả những giải pháp trên không nhằm chỉ mục đích công bằng trong kinh doanh mà còn qua đó góp phàn thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam phải hoạt động chuyên nghiệp hơn nhất là trên lĩnh vực xuất khẩu. Muốn vậy các Hiệp hội, doanh nghiệp phải có ý kiến đóng góp để hình thành những chính sách mới thích hợp. Nếu không sẽ làm lãng phí công sức của những người trồng lúa và vốn xã hội. 2.2 Mặt hàng dệt may. a. Những quy định chung về việc giao hạn ngạch dệt may xuất khẩu vào thị trường có quy định hạn ngạch. Việc giao hạn ngạch có thu phí được tiến hành theo nguyên tắc công khai, không phân biệt đối xử, khuyến khích xuất khẩu sản phẩm sử dụng nguyên liệu trong nước và xuất khẩu sang các thị trường không áp dụng hạn ngạch. Đối tượng được giao hạn ngạch là các doanh nghiệp sản xuất hàng đệt may đủ tiêu chuẩn làm hàng xuất khẩu, có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép đầu tư theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, có ngành hàng dệt may và đã thực hiện hạn ngạch năm trước. Căn cứ để giao hạn ngạch là số lương thực hiện năm trước của doanh nghiệp. Số lượng thực hiện được tính trên cơ sở số lượng giao chính thức, không tính hạn ngạch thưởng, điều chỉnh, bổ sung do yêu cầu đột xuất. Liên Bộ Thương mại - Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Bộ công nghiệp phân cấp cho Uỷ Ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh trực tiếp giao hạn ngạch. Dành khoảng 5% hạn ngạch hàng dệt may xuất khẩu sang EU, riêng T-shirt, Polo, Shirt(cat.4) khoảng 10% để ưu tiên và thưởng khuyến khích. Cho các doanh nghiệp xuất khẩu sử dụng vải sản xuất trong nước để làm hàng may xuất khẩu sang EU. Cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng sang các thị trường không áp dụng hạn ngạch năm trước. Theo Thông tư mới nhất số 29/1999/TTLT/BTM/BKHĐT/BCN ngày 7/9/1999 thì việc đấu thầu hạn ngạch thực hiện theo quy chế đấu thầu hạn ngạch hàng dệt may xuất khẩu vào thị trường có quy định hạn ngạch số 1405/1998/QĐ/BTM ngày 17/11/1998 (Nội dung sẽ được trình bày ở phần sau). Thủ tục đăng ký hạn ngạch. Các doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng hạn ngạch hàng dệt may xuất khẩu vào các thị trường có áp dụng hạn ngạch phải đăng ký bằng văn bản gửi về Bộ Thương mại(Vụ xuất nhập khẩu ) 21-Ngô quyền -Hà Nội. Thời gian đăng ký tuỳ theo hạn ngạch từng năm được giao. Năm 1999: Phải đăng ký : Hạn ngạch thương mại : Trước ngày 25/10/1998 Hạn ngạch công nghiệp:Trước ngày 10/4/1999 Năm 2000: Hạn ngạch xuất khẩu vào EU. Thời gian đăng ký : Hạn ngạch thương mại : Trước ngày 10/10/1999 Hạn ngạch công nghiệp : Trước ngày 10/4/2000 Quy định về việc giao hạn ngạch. Hoàn trả : Sau khi được giao hạn ngạch nếu doanh nghiệp không có khả năng thực hiện phải hoàn trả cho Bộ Thương mại hoặc Uỷ Ban nhân dân hai thành phố để hai thành phố và Bộ Thương mại cùng liên Bộ kịp điều chỉnh cho doanh nghiệp khác. Nghiêm cấm việc mua bán hạn ngạch. Điều này gây ra một số hiện tượng tiêu cực đó là nhiều doanh nghiệp có thể chuyển quyền sở hữu của mình cho các doanh nghiệp không đủ điều kiện. Doanh nghiệp sử dụng hết hạn ngạch và hoàn trả trước thời hạn quy định sẽ trừ vào số lượng hạn ngạch tương ứng năm sau. Phí hạn ngạch : Các doanh nghiệp nộp phí hạn ngạch cho một thông báo giao quyền sử dụng hạn ngạch hoặc từng lô hàng xuất khẩu. Khi nhận giấy phép xuất khẩu (E/L) tại Phòng quản lý xuất nhập khẩu khu vực doanh nghiệp phải xuất trình chứng từ nộp phí hạn ngạch cho lô hàng vào tài khoản của Bộ Thương mại số 945-01-475 tại Kho bạc Nhà nước (Thành Phố Hà Nội) Uỷ thác và nhận uỷ thác : Các doanh nghiệp được giao hạn ngạch nếu có khách hàng hoặc ký hợp đồng trực tiếp không có hiệu quả có thể uỷ thác cho các doanh nghiệp khác có đủ điều kiện trên nguyên tắc hàng phải được sản xuất tại doanh nghiệp có hạn ngạch và được Phòng quản lý xuất nhập khẩu thuộc Bộ Thương mại xác nhận bằng văn bản. Phí uỷ thác do các bên thoả thuận. Chế độ báo cáo: Các doanh nghiệp phải nghiêm chỉnh thực hiện chế độ báo cáo việc thực hiện hạn ngạch từng quý/năm theo các mẫu quy định sẵn. Thời gian báo cáo chậm nhất là ngày 10 của tháng đầu quý. b. Giải pháp. Trên đây là các quy định của Chính phủ với hàng dệt may quản lý bằng hạn ngạch. Một vấn đề hết sức đáng lưu ý đó là mặc dù Chính phủ đã có những công văn nghiêm cấm, xử lý việc mua bán hạn ngạch nhưng vẫn có một số doanh nghiệp, cá nhân vẫn bất chấp luật pháp kiếm chác lợi nhuận thông qua mua bán hạn ngạch. Điều đáng nói hơn là các giấy phép quan trọng này lại rơi vào tay những doanh nghiệp yếu kém. ở nước ta từ đầu năm 1999 tỷ lệ nhập khẩu hàng dệt may của các nước không áp dụng hạn ngạch thấp, sức mua hạn chế do hậu quả của khủng hoảng kinh tế, tài chính khu vực. Chính phủ và các Bộ, ngành liên quan đã có rất nhiều nỗ lực cố gắng đàm phán với EU, tìm kiếm thị trường mới, đề ra cơ chế chính sách phù hợp giúp các doanh nghiệp kịp thời tháo gỡ khó khăn, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế. Kết quả đạt được: Hết tháng 8 năm 1999 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may cả nước đạt 1,1 tỷ USD tăng 10.5% so với cùng kỳ năm 199, trong đó thị trường không hạn ngạch đạt 673 triệu USD chiếm 61% tổng kim ngạch tăng 17%. Thị trường có áp dụng hạn ngạch chiếm 39% tăng 3%. Mặt hàng jacket(cat.21)những năm trước đây chiếm tới 50% kim ngạch xuất khẩu vào EU, 6 tháng đầu năm nay có chiều hướng giảm. Mặc dù liên Bộ Thương mại Kế hoạch và Đầu tư Công nghiệp đã tìm mọi cách để xuất khẩu mặt hàng này như : Giảm chi phí trúng thầu, Giảm chi phí hạn ngạch, đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có khả năng xuất khẩu và đến nay qua 8 tháng đã đạt bằng số lượng xuất khẩu 8 tháng năm 199(10 triệu chiếc)chiếm 65.4%tổng hạn ngạch. Với Nhật Bản là thị trường không hạn ngạch 8 tháng qua tăng xấp xỉ 40%, thị trường thị trường Đài Loan tăng trên 30% so với cùng kỳ năm ngoái. Hàng dệt may xuất khẩu có nhiều tác động rất lớn về mặt xã hội như thu hút được nửa triệu lao động vào lĩnh vực này, sử dụng dcó nhiều tác động rất lớn về mặt xã hội như thu hút được nửa triệu lao động vào lĩnh vực này, sử dụng được nhiều nguyên liệu trong nước. Dự kiến năm 1999 hàng dệt may xuất khẩu của ta có thể đạt 1,56 -1,6 tỉ USD tăng khoảng 15%so với năm 1998. Còn các kết quả năm trước như sau: Năm Tổng số doanh nghiệp tham gia. Số loại mặt hàng. Kim ngạch xuất khẩu vào EU. Tổng kim ngạch xuất khẩu ra thế giới 1993 148 (37) 55 250 500 1994 221 (45) 66 275 550 1995 292 (80) 75 350 700 9 tháng 1996 325 (107) 74 285 ( ) Số doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong tổng số các doanh nghiệp tham gia. Theo báo Đầu tư Việt Nam các số tháng 11-1996. Trước đây Hiệp định buôn bán hàng dệt may hiữa Việt Nam và EU được ký tắt ngày 15-12-1992 và bắt đầu có hiệu lực từ 1-1-1993. Ngày 16-7-1996 Hiệp định về trao đổi mậu dịch hàng dệt may giữa Việt Nam và EU được ký chính thức tại Brũcen(Bỉ)sau gần 4 năm được ký tắt. Theo Hiệp định được ký kết trong năm năm(1993-1997) thì cứ mỗi năm số hạn ngạch của từng mặt hàng sẽ được tăng thêm từ 1.5%-2.5% so với năm trước. Tháng 8-1995 theo đề nghị của Bộ Thương mại Việt Nam EU đã chính thức chấp nhận sửa đổi Hiệp định dệt may với nội dung : tăng hạn ngạch ở 23 cat nóng từ 20-25% giảm số cat có hạn ngạch từ 105 xuống 54 tăng hạn ngạch gia công thuần tuý lên gấp đôi.Nâng mức chuyển đổi linh từ 7-8% lên 10-15%.Ước tính mức bổ sung này tăng sản lượng hạn ngạch lên thêm 2500 tấn tương ứng 100 triệu USD nâng tổng giá trị hạn ngạch vào EU là 550 triệu USD. Hiệp định hàng dệt may Việt Nam - EU đã tạo cho Việt Nam nhiều khả năng xuất khẩu sang EU hơn. Trong 3 năm qua kim ngạch hàng dệt may xuất vào EU đã tăng từ 130 triệu USD năm 1992 lên 249 triệu USD năm 1993, 285 triệu USD năm 1994 và từ 340-350 triệu USD năm 1995. Trị giá xuất khẩu 9 tháng đầu năm 1996 vào EU là 285 triệu USD tăng gấp 26% so với cùng kỳ năm 1996. Như vậy Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam - EU đã góp phần tích cực trong bước phát triển ngành công nghiệp may mặc Việt Nam. Nó đã đưa sản phẩm may mặc của Việt Nam hoà nhập vào thị trường EU. II. Kinh nghiệm áp dụng, sử dụng hạn ngạch ở các nước. ở các nước việc sử dụng đồng bộ cả thuế quan và hạn ngạch để bảo hộ sản xuất trong nước thường được tiến hành. Tuỳ theo điều kiện cụ thể về kinh tế-xã hội của các nước mà hạn ngạch hay thuế được đặt ra một cách hợp lý nhằm điều khiển kinh tế, thương mại theo đúng chiến lược, định hướng của Nhà nước. Một dẫn chứng tiêu biểu nhất đó là việc sử dụng hạn ngạch ở các nước OPEC vừa qua. Hiệp hội các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC (Oil and Petroleum Export Countries) cùng nhau thoả thuận sử dụng hạn ngạch khai thác và xuất khẩu dầu mỏ nhằm mục đích hạn chế khai thác tài nguyên thiên nhiên, tăng giá dầu trên thị trường thế giới và tăng doanh thu từ xuất khẩu dầu. Cơ sở để thực hiện quy định này là các nước OPEC có sản lượng dầu mỏ sản xuất và xuất khẩu chiếm tuyệt đại đa số sản lượng dầu mỏ của thế giới (trên 70% sản lượng dầu mỏ) vì vậy họ có thể tác động điều chỉnh tác động giá dầu thế giới. Trong năm 1999, 13 nước thành viên của OPEC đã thoả thuận giảm mức sản xuất xuống còn 27 triệu thùng một ngày và dự điịnh sẽ kéo dài hạn ngạch này tới tháng 3 năm 2000. Quyết định trên đã làm giá dầu thế giới trong năm 1999 tăng từ 27,5 USD một thùng lên mức 33 USD một thùng. Điều này có tác động rất lớn đến các nước phát triển. Các công nghệ cao ở các nước này đòi hỏi nhiều nguyên liệu, năng lượng. Vì vậy chỉ cần các nước OPEC giảm lượng dầu xuất sang thì có thể dẫn tới ảnh hưởng lớn. Đây cũng sẽ là một công cụ rất hữu hiệu khi giữa hai nước tiến hành các biện pháp trừng phạt về kinh tế hay có những xung đột. Khác với thuế quan hạn ngạch có thể hạn chế một cách chính xác lương hàng xuất nhập khẩu theo đúng quy định của Chính phủ nước đó. Tại thị trường EU, Uỷ ban liên minh Châu âu cũng đã quy định hạn ngạch cho Nhật Bản được phép xuất khẩu xe hơi vào thị trường EU là 3% tổng nhu cầu về xe hơi của thị trường này. Mức hạn ngạch này còn được duy trì tới năm 2003. ở Mỹ trong những năm gần đây giá đường thế giới thấp ở mức 4 cent một pao trong khi đó giá đường ở Mỹ vẫn trên 25 cent một pao. Tại sao vậy? Bằng việc hạn chế nhập khẩu Chính phủ Mỹ bảo hộ ngành công nghiệp đường trong nước 3 tỷ USD ngành này có thể bị đóng cửa nếu nó phải cạnh tranh với các nhà sản xuất nước ngoài có chi phí thấp, đây là một điều tốt lành cho các nhà sản xuất đường ở Mỹ. Thậm chí cũng là điều tốt lành cho một số nhà sản xuất đường nước ngoài- những người đã thành công vận động hành lang để nhận được phần lớn hạn ngạch. Nhưng cũng giống như phần lớn các chính sách cùng loại nó là điều không tốt với người tiêu dùng. Ta có số liệu cụ thể tại thị trường Mỹ năm 1989 như sau: Tổng sảnlượng đường sản xuất ở Mỹ là 13,7 tỷ pound. Tổng nhu cầu tiêu dùng đường là 17,5 tỷ pound. Giá đường tại Mỹ là 23 cent một pound. Giá cả thế giới là 12,5 cent một pound. Từ số liệu đó ta tính được hàm cung về đường của Mỹ: Qs = -7,46 + 0,92.P Trong đó Q tính bằng tỷ pound đường, P là giá tính băng cent trên một pound. Và hàm cầu của Mỹ về đường: Qd = 22,8-0,23.P Hình vẽ dưới đây mô tả tác động của hạn ngạch đường. ở mức giá thế giới 12,5 cent một pound, các nhà sản xuất của Mỹ chỉ có thể cung cấp 4 tỷ pound và tiêu dùng lại ở mức 20 tỷ pound như vậy phải nhập khẩu tới 80% nhu cầu tức là 16 tỷ pound. Khi Chính phủ Mỹ áp đặt hạn ngạch 3,8 tỷ pound đã làm giá cả trong nước tăng lên mức 23 cent một pound. P S D Pd=2 Pw=12, 13,0 4 17, Q Qua đó ta tính được: Người sản xuất trong nước được lợi 929 triệu USD, các nhà sản xuất nước ngoài được cấp hạn ngạch thu lợi 399 triệu USD và xã hội Mỹ bị mất không 635 triệu USD. Như vậy với một số hàng hoá trong nước mà chi phí sản xuất trong nước còn cao thì Nhà nước cần áp dụng hạn ngạch hạn ngạch để giảm bớt khối lượng hàng hoá nhập khẩu để cạnh tranh. Hay như là với việc nhập khẩu ô tô từ Nhật Bản trong những năm 1980. Chính quyền Reagan dưới áp lực của các nhà sản xuất ô tô trong nước đã thương lượng với Nhật về các hạn chế tự nguyện nhập khẩu, theo đó người Nhật đồng ý hạn chế sô ô tô đưa vào Mỹ. Do vậy người Nhật có thể bán được chiếc xe đó với một mức giá cao hơn mức giá thế giới và thu được lợi nhuận cao hơn từ mỗi chiếc xe. Nước Mỹ đã có thể tốt hơn đơn giản bằng cách đánh thuế nhập khẩu. III. Những kiến nghị ,biện pháp sử dụng có hiệu quả hạn ngạch. Việc sử dụng hạn ngạch chỉ có lợi cho những người được cấp hạn ngạch, còn Chính phủ sẽ không lợi gì. Ưu điểm rất lớn của hạn ngạch là có thể làm cho Chính phủ hạn chế được chính xác hàng hoá xuất nhập khẩu tuy nhiên nó làm mức giá biến động, có thể gây ra những hậu quả không lường trước được do vậy Chính phủ phải kiểm soát công cụ này. Đây cũng là nguồn gốc gây ra những tiêu cực trong việc cấp xin hạn ngạch. Dùng thuế Chính phủ sẽ có thêm nguồn thu cho ngân sách, Chính phủ có thể dùng đấu thầu hạn ngạch kết hợp với việc phân bổ hạn ngạch cho một số doanh nghiệp có đủ khả năng. Theo quy định Bộ Thương mại ban hành ngày 17/111995 thì hạn ngạch mặt hàng dệt may được phép đấu thầu hạn ngạch. 1. Những quy định chung. 1.1 Đối tượng và điều kiện tham gia đấu thầu. Các doanh nghiệp tham gia đấu thầu là các doanh nghiệp có giấy chứng đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép đầu tư theo luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có ngành hàng dệt may và đã thực hiện hạn ngạch năm trước. 1.2 Điều kiện để doanh nghiệp được tham gia đấu thầu. Doanh nghiệp trực tiếp sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu mặt hàng dệt may cam kết có đủ năng lực thiết bị sản xuất phù hợp với mặt hàng và số lượng bỏ thầu, khả năng taig chính để thực hiện khi trúng thầu. Có hồ sơ dự thầu theo đúng quy định. 1.3 Nguyên tắc đấu thầu. Công khai trong việc tổ chức đấu thầu và mở thầu. Căn cứ vào điều kiện cụ thể của từng dợt đấu thầu, Hội đồng đấu thầu quy định mặt hàng(Category), số lượng của từng mặt hàng và mức giá chào thầu của từng đợt đấu thầu. Doanh nghiệp tham gia đấu thầu được đăng ký bỏ thầu mỗi chủng loại (cat) với số lượng tối đa được quy định trong hồ sơ mời thầu. 1.4 Thành lập hợp đồng đấu thầu. Hội đồng đấu thầu gồm cấp vụ của Bộ Thương mại, Bộ Công nghiệp, Bộ kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính do lãnh đạo Bộ Thương mại làm Chủ tịch. Danh sách các thành viên chính thức của Hội đồng đấu thầu sẽ được lãnh đạo Bộ Thương mại công bố sau khi có ý kiến đề cử của các Bộ tham gia. Bộ trưởng Bộ Thương mại quyết định thành lập Hội đồng đấu thầu. Hội đồng đấu thầu có trách nhệm: chuẩn bị, tổ chức, thực hiện đấu thầu và công bố kết quả đấu thầu. 2. Trình tự thực hiện. 2.1 Chuẩn bị đấu thầu. Hội đồng đấu thầu quy định địa điểm, thời gian, mặt hàng và số lượng hạn ngạch đưa ra đấu thầu. Thông báo mời thầu . Phát hành hồ sơ thầu. Hồ sơ dự thầu gồm:  Thông báo mời thầu.  Mặt hàng.  Thị trường xuất khẩu.  Số lượng đưa ra đấu thầu, số lượng tối đa được đăng ký bỏ thầu.  Giá chào thầu.  Thời gian thực hiện đấu thầu.  Bản đăng ký tham gia dự thầu.  Bản sao giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép Đâud tư theo luật nước ngoài tại Việt Nam.  Bản giới thiệu của công ty về năng lực sản xuất thương mại.  Báo cáo tài chính công khai năm trước.  Ký quỹ dự thầu quy định.  Bản cam kết ký quỹ bảo đảm thực hiện số lượng trúng thầu. 3. Quy trình thực hiện đấu thầu. Đăng ký đấu thầu. Tiếp nhận hồ sơ dự thầu. Mở thầu và xét thầu theo quy định về thời gian, địa điểm và phương thức đấu thầu được thông báo trong hồ sơ mời thầu. Công bố kết quả đấu thầu. 4. Tiêu chuẩn xét thầu. Doanh nghiệp trúng thầu là doanh nghiệp có mức giá đăng ký cao theo thứ tự đến hết số lượng gọi thầu cho mỗi chủng loại và không thấp hơn mức giá chào thầu. 5. Trách nhiệm và quyền lợi của doanh nghiệp trúng thầu. Trong vòng một tuần kể từ ngày nhận được thông báo trúng thầu các doanh nghiệp phải nộp tiền ký quỹ bảo đảm thực hiện số lượng hạn ngạch trúng thầu bằng 30% tổng số tiền doanh nghiệp phải mua hạn ngạch trúng thầu. Tiền ký quỹ được nộp bằng”Bảo chứng Ngân hàng” của Ngân hàng nơi doanh nghiệp mở tài khoản cấp. Bảo chứng Ngân hàng này tự động hết hiệu lực khi doanh nghiệp thực hiện hết hạn ngạch trúng thầu. Nếu trong thời gian trên doanh nghiệp không nộp” Bảo chứng Ngân hàng” thì thông báo trúng thầu của lô hàng tương ứng sẽ tự động hết hiệu lực. Những lô hàng này sẽ được Hội đồng đấu thầu xử lý theo quy định. doanh nghiệp nào không thực hiện nghiêm túc điều này sẽ không được tham gia đấu thầu các đợt tiếp theo. Các doanh nghiệp trúng thầu được sử dụng hạn ngạch để ký hợp đồng với khách hàng nước ngoài. Hạn ngạch trúng thầu không được mua bán, trao đổi. Các doanh nghiệp không trúng thầu sẽ được nhận lại tiền ký quỹ dự thầu. Bên dự thầu sẽ không được nhận tiền ký quỹ bảo đảm thực hiện trong trường hợp doanh nghiệp trúng thầu nhưng không thực hiện hết hoặc rút đơn dự thầu sau thời gian quy định. Tiền mua hạn ngạch trúng thầu doanh nghiệp phải thanh toán cho từng lô hàng trước khi giao hàng. Đấu thầu hạn ngạch hàng dệt may nó giúp cho Nhà nước có thể thu được tiền thuế hạn ngạch tránh tình trạng xuất khẩu theo kiểu tạm bợ. Tác dụng tốt trên lý thuyết là như vậy nhưng đến khi thực hiện lại nảy sinh nhiều tiêu cực . Như phần trên đã nói, nếu doanh nghiệp không dùng được thì có thể bán cho doanh nghiệp khác với giá cao hơn để kiếm lợi nhuận. Như vậy nếu một doanh nghiệp có khả năng có được hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may qua đấu thầu , nếu họ bán hạn ngạch cho các doanh nghiệp khác không đủ khả năng, hay các doanh nghiệp yếu kém xin mua lại hạn ngạch thì sẽ dẫn đến bất lợi khi xuất khẩu hàng dệt may . Cũng có tình trạng là các doanh nghiệp xuất khẩu không đủ khả năng đấu thầu hạn ngạch bằng mối quan hệ quen biết hay hối lộ cho những người thuộc hội đồng đấu thầu do đó có được hạn ngạch xuất khẩu, từ đó dẫn đến giảm hiệu quả trong xuất khẩu. Như vậy khác với đấu giá hạn ngạch là bán hạn ngạch được với giá cao nhất đấu thầu hạn ngạch là biện pháp tìm các doanh nghiệp có khả năng không những về tài chính, cơ sở vật chất đầy đủ mà còn có mối quan hệ, đã quen làm công tác xuất khẩu sang các nước để giao hạn ngạch xuất khẩu. Dùng hạn ngạch thì mức nhập khẩu là cố định và Nhà nước tạo ra sự bảo hộ tuyệt đối. Nếu trong nước thiếu hàng hoá, giá hàng hoá trong nước sẽ tăng cao hơn giá thế giới gây bất lợi cho người tiêu dùng và nạn buôn lậu tăng lên. Các nhà sản xuất trong nước khi đó về sản phẩm của họ nên yên tâm sản xuất mà không phải lo ngại về vấn đề cạnh tranh do vậy cũng có thể làm yếu đi chính khả năng tự cải tiến về dây chuyền kỹ thuật công nghệ hiện đại, khả năng đào tạo cán bộ kỹ thuật giỏi của họ. Tuy hạn ngạch có tác dụng bảo hộ sản xuất trong nước, thế nhưng trong chừng mực nào đó khác nó lại làm cho khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp yếu đi. Điều này sẽ là một khó khăn rất lớn trong tương lai khi Việt Nam tham gia CEPT/ APTA. Vì khi tham gia AFTA trước mắt tác động đến nguồn thu ngân sách Nhà nước, về lâu dài, sẽ tác động đến cơ cấu thương mại và nền kinh tế, điềy này là rất quan trọng vì nó liên quan đến lựa chọn chiến lược cơ cấu thích ứnh với tình thế của nền kinh tế không còn các hàng rào bảo hộ mậu dịch. Kết luận Qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu về hạn ngạch chúng ta có thể thấy hạn ngạch là một trong những công cụ hết sức quan trọng trong công tác điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu ở nước ta, đồng thời hạn ngạch còn là một công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước. Vì thế nghiên cứu tác động của hạn ngạch tới thương mại và dịch vụ là một đề tài rất hay, cũng thông qua sự tìm tòi, phân tích tìm hiểu về đề án giúp cho em có được những kiến thức thực tế hết sức cần thiết để có thể chuẩn bị tốt cho quá trình làm luận văn sau này. Tài liệu tham khảo 1.Giáo trình Kinh Tế thương mại.Chủ biên: PGS.PTS NGUYễN DUY BộT PGS.PTS ĐặNG ĐìNH ĐàO 2. Cẩm nang thương mại và dịch vụ. Chủ biên: PGS.PTS ĐặNG ĐìNH ĐàO 3. Tạp chí thương mại: 20/1998; 23,24/1995; 14,17/1996; 8,9/1999. 4. Thời báo Kinh tế Sài Gòn 40/1998. 5. Hệ thống chính sách thương mại Việt Nam. Nhà xuất bản chính trị 1995. 6.Việt Nam thương mại thời mở cửa. Tổng cục thống kê 1996. 7.Niên giám thống kê 1998. Nhà xuất bản thống kê. 8.Các Thông Tư Liên Tịch số 20,số 29,số 3 TM/XNK ngày 25/1/1996 quyết định số 14/05/1998/QĐ Bộ Thương mại ngày 17/11/1998, quy định số 295 ngày 9/4/1992,QĐ số 864/TTG ngày 30/12/1995. 9.Việt Nam và tiến trình hội nhập với các khối kinh tế thế giới. Nhà xuất bản chính trị quốc gia. 10. Kinh tế học vi mô của ROBERT S.PINDYCK DANIEL L.RUBìNELD 11. Tạp chí con số và sự kiện số 14,17/1996. 12.Thương mại quốc tế lý thuyết và chính sách.Chủ biên:Thạc sỹ. Trần hoè Mục lục Lời nói đầu .............................................................................................................. 1 Phần I ...................................................................................................................... 3 Phần cơ sở lý luận ................................................................................................ 3 I. Hạn ngạch nhập khẩu (Import quota)............................................................ 3 1. Khái niệm. ............................................................................................... 3 2. Nhà nước áp dụng biện pháp quản lý nhập khẩu bằng hạn ngạch chủ yếu là nhằm một số mục đích. ................................................................................ 3 3. Các mặt hàng được cấp hạn ngạch nhập khẩu. ......................................... 5 4. So sánh tác động của hạn ngạch nhập khẩu và thuế quan tới thương mại, dịch vụ. ............................................................................................................... 6 II. Hạn ngạch xuất khẩu (export quota). ......................................................... 17 1. Khái niệm. ............................................................................................. 17 2. Mục đích của Nhà nước khi áp dụng hạn ngạch xuất khẩu. .................... 18 3. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện (Voluntary Export Restraints-ver). .......... 18 III. Các loại hạn ngạch khác. ......................................................................... 20 IV. Các hàng rào thương mại phi thuế quan khác. ......................................... 21 V. Những quy định việc xuất nhập khẩu hàng hoá quản lý bằng hạn ngạch. .. 22 1. Căn cứ để xác định danh mục, số lượng(hoặc trị giá) của mặt hàng xuất nhập khẩu quản lý bằng hạn ngạch. .................................................................... 22 2.Thủ tục ấn định hạn ngạch. ..................................................................... 23 3. Nguyên tắc và thủ tục phân bố hạn ngạch. ............................................. 23 4. Quản lý Nhà nước về hạn ngạch và nghĩa vụ của cả doanh nghiệp được phân bổ hạn ngạch. ............................................................................................ 24 Phần II ................................................................................................................... 25 Thực trạng và giải pháp trong phân bổ hạn ngạch. ............................................. 25 I. Thực trạng của việc phân bổ hạn ngạch ở nước ta. ..................................... 25 1. Hạn ngạch nhập khẩu. ........................................................................... 25 2. Hạn ngạch xuất khẩu. ............................................................................ 29 II. Kinh nghiệm áp dụng, sử dụng hạn ngạch ở các nước. .............................. 38 III. Những kiến nghị ,biện pháp sử dụng có hiệu quả hạn ngạch. ................... 41 1. Những quy định chung. ......................................................................... 42 2. Trình tự thực hiện. ................................................................................. 43 3. Quy trình thực hiện đấu thầu. ................................................................ 44 4. Tiêu chuẩn xét thầu. .............................................................................. 44 5. Trách nhiệm và quyền lợi của doanh nghiệp trúng thầu. ........................ 44 Kết luận ................................................................................................................. 47 Tài liệu tham khảo ................................................................................................. 48

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf61417_1739.pdf
Luận văn liên quan