Sự phát triển của kinh tế tư nhân thời gian qua đã khơi dậy một bộ phận tiềm
năng của đất nước cho phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn tiềm năng này bao gồm
trí tuệ, kinh nghiệm năng lực quản lý, khả năng kinh doanh, quan hệ xã hội, tiền
vốn, sức lao động, tài nguyên Phát triển kinh tế tư nhân đã góp phần xây dựng
cơ sở vật chất kỹ thuật, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
48 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2172 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tư nhân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bản công nghiệp, trong
đó 661 hộ theo hình thức công tư hợp doanh và 68 hộ theo hình thức xí nghiệp hợp
tác xã.
Toàn bộ lực lượng vận tải cơ giới tư nhân gồm 1.602 ôtô và 132 phương tiện
vận tải thuỷ đã chuyển thành 31 xí nghiệp công tư hợp doanh với tổng sóo 2.610
công nhân.
Như vậy miền Bắc đến cuối năm 1960 đã hoàn thành cải tạo kinh tế ngoài
quốc doanh dưới hình thức hợp tác xã và công tư hợp doanh, hoặc các đại lý, kinh
tiêu của kinh tế nhà nước.
Tuy nhiên kinh tế tư nhân vẫn tồn tại dưới hình thức kinh tế cá thể. Tỷ trọng
lao động trong khu vực kinh tế tư nhân tuy đã giảm nhiều nhưng vẫn còn chiếm
giữ một tỷ lệ đáng kể. Năm 1960: 28,7%; năm 1970: 16,4%; năm 1975: 14,8%.
Thường xuyên có khoảng 50 -80 nghìn người lao động trong khu vực này. Năm
1971: 71,5 nghìn người; năm 1974: 66,4 nghìn người; năm 1975: 64,3 nghìn
người. Cũng trong thời gian này số người buôn bán nhỏ và kinh doanh dịch vụ
cũng thường xuyên ở mức trên dưới 20 vạn người. Năm 1960 : 20 vạn người; năm
1965: 16,2 vạn người; năm 1973: 19,4 vạn người; năm 1974: 20 vạn người; năm
1975: 19 vạn người.
ở miền Nam, năm 1976 riêng ngành công nghiệp có tới 94.857 hộ tư nhân, cá
thể. Trong đó ngành chế biến lương thực và thực phẩm 29.530 hộ; dệt 17.035 hộ;
vật liệu xây dựng 5.964 hộ; hoá chất 2.413 hộ; cơ khí 23.312 hộ… Một số địa
phương có số hộ tư như cá thể sản xuất công nghiệp lớn như thành phố Hồ Chí
Minh 31.922 hộ; Quảng Nam - Đà Nẵng 10.466 hộ; Phú yên và Khánh Hoà 7.147
hộ; Ninh Thuận và Bình Thuận 7.904 hộ; Đồng Nai 6.142 hộ; Quảng Ngãi và Bình
Định 5.925 hộ.
3. Kinh tế tư nhân thời kỳ 1976 - 1985
Đất nước thống nhất, công cuộc phát triển kinh tế và cải tạo quan hệ sản xuất
được thực hiện trên phạm vi cả nước. Kế hoạch 5 năm 1976 - 1980 ngoài nhiệm
vụ khắc phục hậu quả chiến tranh, tiến hành cải tạo kinh tế miền Nam theo mô
hình kinh tế miền Bắc. Tiếp tục cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với những người sản
xuất nỏ ở miềm Bắc, đồng thời triển khai mạnh mẽ ở miền Nam.
Nhưng kinh tế tư nhân vẫn tồn tại, trong công nhgiệp vẫn có trên dưới 60 vạn
người sản xuất cá thể năm 1980: 50,3 vạn; năm 1981: 55,1 vạn; năm 1982: 60,8
vạn; năm 1983: 66,6 vạn; năm 1984: 64 vạn; năm 1985: 59,3 vạn.
Số lao động hoạt động tỏng kinh tế tư nhân hàng năm vẫn chiếm trên 20%
tổng số lao động ngành công nghiệp; năm 1980: 22,3%; năm 1984: 26%; năm
1985: 23%; năm 1986: 23,2%.
Giá trị sản lượng công nghiệp do khu vực kinh tế tư nhân tạo ra hàng năm
chiếm trên dưới 15% giá trị sản lượng toàn ngành công nghiệp.
Số lượng kinh doanh thương nghiệp những năm 1980 cũng ở mức 60 vạn.
Năm 1980: 63,7 vạn; năm 1985: 63,7 vạn; năm 1986: 56,8 vạn.
Số người kinh doanh thương nghiệp những năm 1980 cũng ở mức 60 vạn.
Năm 1980: 63,7 vạn; năm 1985: 63,7 vạn; năm 1986: 56,8 vạn.
Những số liệu trên cho thấy sức sống của kinh tế cá thể rất bền bỉ, sự hiện
diện của thành phần kinh tế này trong suốt thời gian dài như một tất yếu khách
quan, cần phải biết sử dụng mặt tích cực của nó làm cho dana giàu, nước mạnh.
II. Bước khởi động phát triển kinh tế tư nhân.
1. Bước chuyển biến về nhận thức thực tiễn.
Công cuộc cải tạo quan hệ sản xuất về xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật đạt
kết quả không cao. Thêm vào đó những namư 1977 - 1978 nông nghiệp bị thiên tai
nặng, năm 1979 xảy ra chiến tranh biên giới Tây Nam và phía Bắc, làm cho bức
tranh kinh tế đất nước ngày càng xấu đi.
Trước tình hình trên, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 6 khoá IV
họp tháng 9 - 1979 đưa ra Nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ cấp bách.
Nghị quyết là bước chuyển biến đầu tiên có ý nghĩa lớn đối với việc đưa nền
kinh tế từng bước thoát ra khỏi cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung cao độ, mở
đường cho những cải cách kinh tế trong những năm sau này.
2. Kết quả phát triển của khu vực kinh tế tư nhân những năm đầu thời kỳ đổi
mới.
Nhờ có chính sách đổi mới kinh tế tư nhân được thừa nhận và tạo điều kiện
phát triển, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế của đất nước.
Trong công nghiệp, tư nhân đã đầu tư thêm tiền vốn để mở rộng các cơ sở
hiện có, hoặc xây dựng thêm cơ sở mới. Năm 1988 khu vực này đầu tư thêm 80 tỷ
đồng, thành lập thêm 17.000 cơ sở, trong đó có 46 xí nghiệp tư nhân; 1.100 cơ sở
tiểu thủ công nghiệp và hơn 15.000 hộ cá thể. Năm 1989 số vốn đầu tư tăng thêm
102 tỷ đồng, số xí nghiệp tư nhân tăng gấp 4 lần so với năm 1988 (từ 318 xí
nghiệp tăng lên 1.284 xí nghiệp); hộ tiểu thủ công nghiệp và cá thể từ 31,85 vạn
lên 33,33 vạn, tăng 4,6%. Trong hai năm 1990 - 1991 số vốn tăng thêm mỗi năm
khoảng 100 tỷ đồng.
Năm 1989 thành phần kinh tế tư nhân thu hút thêm 39,5 nghìn lao động.
Năm 1991 so với năm 1990 tăng thêm 4.000 cơ sở và lao động tăng thêm 10 nghìn
người.
Giá trị tổng sản lượng thành phần kinh tế này năm 1989 tăng thêm 34,5% so
với năm 1998, trong đó xí nghiệp tư doanh tăng 51,9%; hộ tiểu thủ công nghiệp và
các thể tăng 34, 0%.
Tỷ trọng giá trị sản lượng công nghiệp khu vực tư nhân, cá thể chiếm trong
giá trị tổng sản lượng toàn ngành công nghiệp tăng khá đều đặn: năm 1986:
15,6%; năm 1987: 25,69%; năm 1998: 19,6%; năm 1989: 27,2%; năm 1990:
26,5%.
Trong thương nghiệp, lao động của thành phần kinh tế tư nhân phát triển
nhanh chóng: Năm 1968: 56,79 vạn người; năm 1987: 64 vạn người; năm 1988:
71,89 vạn người; năm 1989: 79,3 vạn người; năm 1990: 81,1 vạn người. Ngoài ra
còn có lực lượng thương nghiệp không chuyên tham gia hoạt động, năm 1990 có
khoảng 16 vạn nưgời.
III. Phạm vi kinh tế tư nhân
1. Các lĩnh vực kinh tế tư nhân
Việt Nam hiện có các thành phần kinh tế:
- Kinh tế nhà nước
- Kinh tế tập thể
- Kinh tế cá thể, tiểu chủ
- Kinh tế tư bản tư nhân
- Kinh tế tư bản nhà nước
- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ nam Ban chấp hành Trung ương (khoá IX) về
phát triển kinh tế tư nhân, đề cập đến kinh tế tư nhân bao gồm hai thành phần kinh
tế là kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân.
Kinh tế tư nhân hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại
hình doanh nghiệp tư nhân. Kinh tế tư nhân tham gia vào tất cả các lĩnh vực nông
nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải, thương nghiệp và các loại hình dịch vụ
khác.
2. Các loại hình tổ chức kinh doanh của kinh tế tư nhân
Loại hình tổ chức kinh doanh của kinh tế tư nhân rất đa dạng, phổ biến nhất
là hộ cá thể, tiểu chủ; loại hình công ty hiện nay chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và
và dưới hình thức: công ty tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần,
công ty hợp danh.
Trong khu vực kinh tế tư nhân, hộ kinh doanh cá thể có số lượng đông đảo,
sử dụng nhiều lao động xã hội, huy động nhiều vốn đầu tư, đóng góp tỷ trọng lớn
vào GDP. Hộ kinh doanh cá thể có tiền đề, là bước tập dượt và tích luỹ cho bước
phát triển cao hơn về hoạt động sản xuất kinh doanh là hình thức doanh nghiệp tư
nhân.
Các doanh nghiệp tư nhân đã góp phần sản xuất hàng hoá có chất lượng cao,
tham gia tích cực vào xuất khẩu hàng hoá, nhất là nông sản hàng hoá, giúp nông
dân tiêu thụ một khối lượng hàng hoá nông sản. Sự hoạt động sôi động của doanh
nghiệp tư nhân đã thúc đẩy nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Các chủ tư nhân hầu hết là các doanh nghiệp trưởng thành trong chế độ mới,
nhiều người trong số họ là cán bộ đảng viên, đã từng tham gia trong các cơ quan,
doanh nghiệp nhà nước và có một số đã trải qua thời kỳ tham gia lực lượng vũ
trang, có nguyện vọng muốn đem tài năng, trí tuệ của mình vào phát triển kinh tế
đất nước, làm giàu cho tổ quốc.
Phần II
Những vấn đề của khu vực kinh tế tư nhân hiện nay
I. Thực trạng kinh tế tư nhân
Trong những năm qua kinh tế tư nhân tăng nhanh về số lượng, vốn kinh
doanh, thu hút lao động, nhất là loại hình doanh nghiệp, công ty.
Kinh tế tư nhân phát triển rộng khắp trong các ngành nghề mà pháp luật
không cấm. Số cơ sở nhiều nhất mà pháp luật không cấm. Số cơ sở nhiều nhất là
trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, xâ dựng, tiếp đến là công nghiêp, tiểu thủ
công nghiệp.
Kinh tế tư nhân phát triển rộng rãi trong cả nước, nhưng tập trung cao ở các
đô thị, những địa phương có nhiều điều kiện thuận lợi, được chính quyền quan tâm
khuyến khích, hỗ trợ.
1. Tình hình tăng trưởng doanh nghiệp
Trong giai đoạn 1996-2000, số lượng đơn vị sản xuất, kinh doanh hoạt động
trong khu vực kinh tế tư nhân tăng lên đáng kể, số hộ kinh doanh cá thể tăng
6,02%, số doanh nghiệp tăng 45,61%, nhưng không đều qua các năm (số hộ kinh
doanh cá thể năm 1997 giảm, số doanh nghiệp năm 1998 giảm và tăng mạnh từ
năm 2000 khi có Luật doanh nghiệp).
Trong cơ cấu các hình thức tổ chức kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân,
các hộ cá thể chiếm số lượng rất lớn, đến cuối năm 2000 có 2.137.731 hộ và
29.548 doanh nghiệp.
Trong các loại hình doanh nghiệp, doanh nghiệp tư nhân chiếm số lượng lớn
nhất, tiếp đến là công ty trách nhiệm hữu hạn, sau đó là công ty cổ phần, công ty
hợp danh chiếm số lượng không đáng kể.
1.1. Đối với hộ kinh doanh cá thể
Hộ kinh doanh cá thể có số lượng lớn, phát triển rộng rãi nhiều năm nay. Số
hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp từ 1.498.611 hộ năm 1992 tăng lên
2.016.259 hộ năm 1996. Tốc độ tăng bình quân 7,68%/năm, mỗi năm tăng bình
quân 129.412 hộ.
Từ năm 1996 đến năm 2000 số lượng hộ kinh doanh cá thể tăng chậm, đến
năm 2000 mới có 2.137.731 hộ, bình quân tăng 1,47%/năm, mỗi năm tăng 30.300
hộ cá thể phi nông nghiệp. Hộ nông nghiệp ngoài hợp tác xã năm 2000 có
7.656.165 hộ. Tổng cộng năm 2000 có 9.793.787 hộ kinh doanh cá thể.
Quy mô của hộ kinh doanh cá thể nói chung rất nhỏ, sử dụng lao động trong
gia đình là chính, trung bình mỗi hộ có 1-2 lao động. Vốn kinh doanh ít. Ngoại lệ,
qua khảo sát thực tế ở các thành phố lớn, có nhiều hộ kinh doanh cá thể thuê đến
hàng chục thậm chí hàng trăm lao động như cơ sở Đức Phát (cơ sở làm bánh ngọt
ở thành phố Hồ Chí Minh) thuê tới 900 lao động.
1.2. Đối với doanh nghiệp tư nhân
* Đăng ký doanh nghiệp
Doanh nghiệp tư nhân thực hiện đăng ký kinh doanh từ khi có Luật công ty
và Luật doanh nghiệp tư nhân tăng rất nhanh. Tính chung thời kỳ 1991-2000, số
doanh nghiệp đăng ký kinh doanh tăng bình quân là 96,24%/năm. Từ 132 doanh
nghiệp năm 1991 đến hết năm 1996 có 30.897 doanh nghiệp đăng ký doanh
nghiệp. Các năm 1997-1999 số lượng doanh nghiệp đăng ký kinh doanh giảm. Từ
năm 2000 đến nay khi Luật doanh nghiệp được thực hiện, số lượng doanh nghiệp
đăng ký kinh doanh tăng rất nhanh. Sau 2 năm thực hiện Luật doanh nghiệp đến
ngày 31-12-2001 cả nước đã có 35-440 doanh nghiệp mới đăng ký hoạt động.
Năm 2000 có 14.400 doanh nghiệp mới đăng ký bằng 250% so với năm 1999.
Năm 2001 có 21.040 doanh nghiệp mới đăng ký bằng 140% so với năm 2000. Nếu
tính từ khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực thi hành đến tháng 4.2002 cả nước đã có
trên 41.000 doanh nghiệp mới thành lập. Như vậy cả nước có khoảng 97.900
doanh nghiệp.
Bảng 1: Doanh nghiệp đăng ký kinh doanh từ 1991 đến hết 9 tháng đầu
năm 2001
Đơn vị: doanh nghiệp
Năm Tổng số Tăng số
năm trước
(%)
Doanh
nghiệp
tư nhân
Công ty
TNHH
Công ty
cổ phần
Công ty
hợp
danh
1991 132 76 49 7
1992 7.241 3112,87 3.034 1.144 63
1993 7.183 84,22 5.516 2.256 41
1994 7.460 -5,52 5.493 1.943 24
1995 5.729 -23,21 3.731 1.864 34
1996 5.522 -3,91 3.679 1.801 42
1997 3.760 -17 2.617 1.117 26
1998 3.121 47,86 1.998 1.044 79
1999 4.615 212,84 2.038 2.361 216
2000 14.438 - 6.468 7.244 726 3
9 tháng
2001
9.946 - 4.589 4.912 445 -
Tổng số 39.239 25.835 1.703 3
Nguồn: Báo cáo tổng hợp tình hình và phương hướng giải pháp phát triển
kinh tế tư nhân, Ban Kinh tế Trung ương, ngày 26-11-2001.
* Về số doanh nghiệp thực tế hoạt động
Tính đến ngày 31-12-2000, cả nước có 56.834 doanh nghiệp đăng ký kinh
doanh, nhưng số doanh nghiệp thực tế hoạt động là 29-548 doanh nghiệp
(51,99%), các doanh nghiệp chưa hoạt động 9.581 doanh nghiệp (16,85%), số
doanh nghiệp giải thể chuyển sang loại hình thức khác 18.887 doanh nghiệp
(24,44%), doanh nghiệp chưa tìm thấy là 3.818 doanh nghiệp (6,72%).
Số lượng doanh nghiệp thực tế hoạt động tập trung cao ở ngành thương mại,
dịch vụ: 17.506 doanh nghiệp chiếm 59,3%; công nghiệp 6.979 doanh nghiệp
chiếm 23,6%; các ngành khác 5.034 doanh nghiệp chiếm 17,05% (số liệu đến
ngày 31-12-2000) (xem bảng 2).
Bảng 2: Số lượng cơ sở sản xuất, kinh doanh khu vực kinh tế tư nhân
đang hoạt động
Cơ sở kinh doanh Đơn
vị
Năm
1996
Năm
1997
Năm
1998
Năm
1999
Năm
2000
Năm
2001/1996
(%)
Hộ cá thể Hộ 2.016.529 1.949.836 1981.306 1.981.306 2.054.178 145,61
Tỷ trọng trong hộ % 100 100 100 100 100 100
- Công nghiệp hộ 616.855 608.250 583.352 583.352 608.314 104,69
Tỷ trọng trong hộ % 30,6 31,2 29,4 29,4 29,6
- Thương mại, dịch
vụ
hộ 1.102.619 1.022.385 1.058.385 1.058.542 1.088.606 100,61
Tỷ trọng trong hộ % 54,7 52,4 52,4 53,5 53,0
- Các ngành khác hộ 296.785 319.201 319.201 339.412 357.258 128,92
Tỷ trọng trong hộ % 14,7 16,4 16,4 17,1 17,4
Doanh nghiệp của
tư nhân
DN 20.272 21.032 21.032 20.578 22.767 145,61
Tỷ trọng trong DN % 100 100 100 100 100 100
- Công nghiệp DN 5.832 6.073 6.073 5.927 6.049 119,66
Tỷ trọng trong DN % 30,6 31,2 31,2 29,4 29,6
- Thương mại DV DN 12.695 13.010 13.010 12.494 14.234 138,67
Tỷ trọng trong DN % 54,7 52,5 52,5 53,5 53,1
- Ngành khác DN 1.745 1.949 1.949 2.157 2.484 288,48
Tỷ trọng trong DN % 14,7 16,3 17,1 17,3 17,9
2. Vốn đầu tư của kinh tế tư nhân
2.1. Vốn của hộ kinh doanh cá thể
Tổng vốn đầu tư phát triển của các hộ kinh doanh cá thể năm 2000 là 29.267
tỷ đồng tăng 12,93% so với năm 1999. Vốn đầu tư của hộ kinh doanh cá thể năm
2000 chiếm 81,54% trong tổng số vốn đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân và
chiếm 19,82% vốn đầu tư xã hội.
Bảng 3: Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm 1999-2000
Đơn vị: doanh nghiệp
TT Chỉ tiêu Đơn vị Năm
1999
Năm
2000
Tăng
so
1 Tổng số vốn đầu tư phát triển xã hội Tỷ
đồng
131.171 147.633 12,5
2 Khu vực kinh tế tư nhân Tỷ
đồng
31.542 35.894 13,8
Trong tổng số toàn xã hội % 24.05 24,31
- Doanh nghiệp của tư nhân Tỷ
đồng
5.628 6.627 17,7
+ Tỷ trọng trong toàn xã hội % 4,29 4,49
+ Tỷ trọng trong khu vực tư nhân % 17,84 18,46
- Hộ kinh doanh cá thể Tỷ
đồng
25.914 29.267 12,93
+ Tỷ trọng trong toàn xã hội % 19,76 19,82
+ Tỷ trọng trong khu vực kinh tế tư
nhân
% 82,16 81,54
Nguồn: Báo cáo tổng hợp tình hình và phương hướng, giải pháp phát triển
kinh tế tư nhân, Ban Kinh tế Trung ương, ngày 26-11-2001.
Tổng vốn dùng vào sản xuất kinh doanh của hộ kinh doanh cá thể là 63.668
tỷ đồng, chiếm 36,61% trong tổng số vốn dùng vào sản xuất kinh doanh của khu
vực kinh tế tư nhân (tính đến ngày 31-12-2000).
2.2. Vốn của doanh nghiệp tư nhân.
Vốn của doanh nghiệp tăng nhanh cả về vốn đăng ký kinh doanh, tổng vốn
thực tế sử dụng vốn đầu tư phát triển.
Trong vốn đăng ký của các loại hình doanh nghiệp tư nhân, công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần từ năm 1991 đến hết tháng 9 - 2001 đạt 50.795,
142 tỷ đồng; năm 2000 tăng 87,5 lần so với năm 1991. Trong đó doanh nghiệp tư
nhân đăng ký 11.470,175 tỷ đồng chiếm 22,58%; công ty trách nhiệm hữu hạn
đăng ký 29.064,160 tỷ đồng chiếm 57, 22%; công ty cổ phần đăng ký 10.260,770
tỷ đồng, chiếm 20,20% (xem bảng 5).
Bảng 4: Vốn đăng ký thành phần doanh nghiệp qua các năm.
Đơn vị: Triệu đồng
Năm Tổng vốn
đăng ký
Doanh nghiệp
tư nhân
Công ty
TNHH
Công ty cổ
phần
Công ty
hợp doanh
1991 158.155 24.095 52.560 81.500 -
1992 2.786.123 97.307 1.700.887 987.829 -
1993 4.288.556 1.375.187 2.304.943 608.426 -
1994 3.29.799 1.121.712 1.770.485 406.602 -
1995 3.070.176 953.985 1.916.507 199.684 -
1996 3.050.100 910.727 1.734.220 405.153 -
1997 2.548.098 701.667 1.563.862 282.569 -
1998 2769.731 652.858 1.479.724 637.149 -
1999 5.483.098 877.744 2.898.925 1.706.429 -
2000 13.831.465 2.813.544 7.985.190 3.032.731 -
9h/2001 9.510.841 1.941.349 5.656.857 1.912.635 -
Tổng 50.795.142 11.470.175 29.064.160 10.260.770 -
Nguồn: Báo cáo tổng hợp tình hình và phương hướng, giải pháp phát triển
kinh tế tư nhân, ban kinh tế Trung ương, ngày 26 - 11 -2001.
Tính từ khi có luật doanh nghiệp đến hết tháng 4 -2002 cả nước có trên
41.000 doanh nghiệp mới thành lập với tổng số vốn đăng ký tương đương 3,6 tỷ
USD.
Tổng vốn thực tế sử dụng của doanh nghiệp cũng tăng nhanh. Năm 2000 là
110.071 tỷ đồng, tăng 38,46% so với năm 1999; trong đó của công ty trách nhiệm
hữu hạn tăng 40%, doanh nghiệp tư nhân tăng 37,64%, công ty cổ phần tăng
36,7% (xem bảng 6). Năm 2000 khu vực kinh tế tư nhân đã đầu tư mau 20,3% cổ
phần của các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá.
Bảng 5: Tổng vốn thực tế sử dụng của doanh nghiệp
Đơn vị: Tỷ đồng
TT Nguồn vốn Năm 1999 Năm 2000 Tăng so năm
trước %
Tổng số 79.493,2 110.71,9 38,46
1 Doanh nghiệp tư nhân 11.828,2 16.281,1 37,64
2 Công ty TNHH 37.426,6 52.426,8 40
3 Công ty cổ phần 30.230,76 41.353,6 36,79
4 Công ty hợp doanh 7,3 10,3 41,09
Nguồn: Báo cáo tổng hợp tình hình và phương hướng, giải pháp phát triển
kinh tế tư nhân, Ban Kinh tế Trung ương, ngày 26 - 11 - 2001.
Tổng vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp tư nhân tăng cả về lượng vốn
và tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư phát triển của khu vực kinh tế tư nhân và của
toàn xã hội. Tổng vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp tăng từ 5.628 tỷ đồng
năm 1999 lên 6.627 tỷ đồng năm 2000; tăng 17,7%; tỷ trọng trong khu vực kinh tế
tư nhân tăng từ 17,84% năm 1999 lên 18,46% năm 2000; tỷ trọng trong tổng vốn
đầu tư toàn xã hội từ 4.29% năm 1999 lên 4,49% năm 2000 (xem bảng 5).
Năm 2000, tổng số vốn sử dụng của các doanh nghiệp.
3. Về lao động của khu vực kinh tế tư nhân.
Tính từ năm 1996 đến nay số lao động làm việc tỏng khu vực kinh tế tư
nhân phi nông nghiệp trong các năm đều tăng trừ năm 1997. So với tổng số lao
động toàn xã hội thì khu vực này chiếm tỷ lệ khoảng 11% qua các năm, riêng năm
2000 là 12% (xem bảng 6). Năm 2000, lao động tỏng khu vực kinh tế tư nhân, kể
cả khu vực nông nghiệp là 21.017.326 người, chiếm 65,3% lao động có việc làm
thường xuyên trong cả nước.
Trong các ngành phi nông nghiệp, số lao động khu vực kinh tế tư nhân năm
2000 là 4.643.844 lao động, tăng 20,12% so với năm 1996; bình quân mỗi năm
tăng 194.670 lao động, tăng 4,75% năm. Trong 4 năm từ 1997 đến năm 2000 riêng
khu vực này thu hút thêm 997.019 lao động, gấp 6,6 lần so với khu vực kinh tế nhà
nước.
Tính từ năm 1996 đến nay, lao động trong công nghiệp tăng nhiều hơn
ngành thương mại, dịch vụ. Năm 2000 so với năm 1996 lao động trong công
nghiệp thêm được 363.442 người, tăng 20,68%; trong khi lao động thương mại,
dịch vụ thêm được 271.476 người. Lao động công nghiệp ở doanh nghiệp tư nhân
tăng nhanh hơn ở hộ kinh doanh cá thể; năm 2000 so với năm 1996, lao động công
nghiệp ở doanh nghiệp tăng 114,02%;l lao động công nghiệp ở hộ kinh doanh cá
thể chỉ tăng được 6,4% (xem bảng 6).
Bảng 6: Lao động khu vực kinh tế tư nhân
TT Chỉ tiêu Đơn vị Năm
1996
Năm
1997
Năm
1998
Năm
1999
Năm 2000
1 Tổng số lao động Người 3.865.163 3.66.825 3.816.942 4.097.455 4.643.844
Tỷ trọng so với tổng số
lao động xã hội
% 11,2 10,3 10,3 10,9 2.121.228
1.1 Công nghiệp Người 1.757.786 1.655.862 1.623.971 1.786.509 45,68
TT trong khu vực tư
nhân
% 45,48 45,16 42,54 43,61 1.7535.824
1.2 Thương mại, dịch vụ Người 1.592.574 1.451.751 1.517.821 1.598.356 37,38
Các ngành khác % 41,2 559.212 39,77 39,00 786.792
1.3 TT trong khu vực tư
nhân
Người 514.803 15,25 675.150 712.590 16,94
2 Lao động trong doanh
nghiệp
Người 354.328 396.705 17,69 17,39 841.787
2.1 Công nghiệp Người 233.078 252.657 435.907 539.533 498.847
TT trọng trong doanh
nghiệp
% 65,78 63,85 273.819 322.496 59,26
2.2 Thương mại, dịch vụ Người 65,78 63,85 62,81 59,77 59,26
TT trọng trong doanh
nghiệp
% 17,03 20,22 62,81 59,77 22,75
2.3 Các ngành khác Người 60.314 79.998 22,86 22,3 191.507
TT trọng trong doanh
nghiệp
% 17,03 20,22 99.618 120.317 22,75
3 Lao động trong hộ kinh
doanh cá thể
Người 3.510.835 3.271.120 3.381.035 3.557.922 3.802.057
3.1 Công nghiệp Người 1.524.708 1.403.205 1.350.152 1.464.013 1.622.381
Tỷ trọng trong hộ % 43,43 42.9 39.93 41,15 42,67
3.2 Thương mại, dịch vụ Người 1.531.638 1.388.701 1.455.351 1.501.636 1.584.391
Tỷ trọng trong hộ % 43,63 42,45 43,04 42,21 41,67
3.3 Các ngành khác Người 45.489 479.214 575.532 592.273 595.285
Tỷ trọng trong hộ % 12,94 14,65 17,03 16,64 15,66
Nguồn: Báo cáo tổng hợp tình hình và phương hướng, giải pháp phát triển
kinh tế tư nhân, Ban Kinh tế Trung ương, ngày 26-11-2001.
4. Tăng trưởng sản xuất kinh doanh (GDP) khu vực kinh tế tư nhân
Tổng sản phẩm trong nước của khu vực kinh tế tư nhân tăng trưởng liên tục
trong những năm gần đây. Năm 1996 GDP khu vực kinh tế tư nhân đạt 68.518 tỷ
đồng, đến năm 2000 lên 86.929 tỷ đồng, tăng bình quân 7%/năm. Tương ứng GDP
của hộ kinh doanh cá thể từ 52.169 tỷ đồng năm 1996 lên 66.142 tỷ đồng năm
2000, tăng bình quân 7%/năm; của doanh nghiệp từ 14.780 tỷ đồng lên 20.787 tỷ
đồng, tăng bình quân 7,1%/năm. Tốc độ tăng trưởng GDP của khu vực kinh tế tư
nhân xấp xỉ tốc độ tăng GDP toàn bộ nền kinh tế (xem bảng).
Bảng 7: Tốc độ tăng GDP của khu vực kinh tế tư nhân giai đoạn 1996-
2000
Chỉ tiêu Đơn vị Năm
1996
Năm
1997
Năm
1998
Năm
1999
Năm
2000
BQ 5
năm
GDP toàn quốc Tỷ
đồng
213.833 231.264 244.596 256.272 273.582
Tăng so năm trước % 9,3 8,2 5,8 4,8 6,8 6,9
Khu vực tư nhân Tỷ
đồng
65.518 74.167 78.775 81.455 86.826
Tăng so năm trước % 10,6 8,2 6,2 3,4 6,7 7,0
- Hộ kinh doanh cá
thể
Tỷ
đồng
52.169 58.812 60.423 62.205 66.142
Tăng so năm trước % 10,6 8,9 6,4 2,9 6,3 7,0
- Doanh nghiệp DN 16.349 17.355 18.352 19.250 20.787
Tăng so năm trước % 10,6 6,1 5,7 4,9 8,0 7,1
Nguồn: Báo cáo tổng hợp tình hình và phương hướng, giải pháp phát triển
kinh tế tư nhân, Ban Kinh tế Trung ương, ngày 26-11-2001.
Năm 2000 khuvực kinh tế tư nhân chiếm 42,3% GDP cả nước. Trong đó
GDP khu vực kinh tế tư nhân phi nông nghiệp bằng 63,6% GDP của khu vực kinh
tế tư nhân và bằng 26,87% GDP cả nước.
Trong ngành nông nghiệp, năm 2000 GDP của khu vực kinh tế tư nhân
chiếm 15,4% GDP toàn quốc và chiếm 63,2% của nông nghiệp nói chung. Trong
đó kinh tế hộ gia đình chiếm 98% GDP kinh tế tư nhân trong nông nghiệp.
II. Vai trò của khu vực kinh tế tư nhân
Sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân thời gian qua khơi dậy một bộ phận
tiềm năng của đất nước cho phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn tiềm năng này là trí
tuệ, kinh nghiệm, khả năng kinh doanh, quan hệ xã hội, tiền vốn, sức lao động của
con người; tài nguyên, thông tin và các nguồn lực khác. Những nguồn lực này chủ
yếu là trong nước, nhưng cũng có một số không ít cá nhân sử dụng vốn của gia
đình ở nước ngoài gửi về.
Khu vực kinh tế tư nhân đã đóng góp quan trọng vào tăng trưởng GDP, huy
đọng vốn trong xã hội, tạo được nhiều việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, tăng
thu ngân sách cho nhà nước, sản xuất hàng xuất khẩu, tác động tích cực tới chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, xã hội.
1. Đóng góp vào tăng trưởng của tổng sản phẩm trong nước (GDP)
Tổng sản phẩm của khu vực kinh tế tư nhân nhìn chung là tăng ổn định trong
những năm gần đây. Nhịp độ tăng trưởng năm 1997 là 12,89%, năm 1998 là
12,74%, năm 1999: 7,5%, năm 2000: 12,55% và chiếm tỷ trọng tương đối ổn định
trong GDP, tuy năm 2000 có giảm chút ít so với năm 1996 (từ 28,48 % năm 1996
còn 26,7% năm 2000). Tỷ trọng GDP của khu vực kinh tế tư nhân trong tổng GDP
giảm đi chút ít do sự tham gia và đóng góp cuả khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
(FDI).
Bảng 8: Đóng góp GDP của khu vực kinh tế tư nhân
Chỉ tiêu Đơn vị Năm
1996
Năm
1997
Năm
1998
Năm
1999
Năm
2000
Tổng GDP toàn quốc Tỷ đ 272.036 313.623 361.017 399.943 444.140
1. Khu vực tư nhân - 77.481 87.475 98.625 106.029 119.337
% trong GDP toàn quốc % 28,48 27,89 27,32 26,51 26,87
2. Hộ kinh doanh cá thể Tỷ đ 57.879 65.555 73.321 78.054 87.604
Tỷ trọng hộ trong GDP % 21,28 20,9 20,31 19,52 19,72
Tỷ trọng hộ trong khu vực
kinh tế tư nhân
% 74,7 74,94 74,34 73,62 73,41
2.1. Công nghiệp Tỷ đ 9.261 10.658 11.804 12.662 15.491
Tỷ trọng trong hộ - 16,00 16,25 26,1 16,22 17,68
2.2. Thương mại dịch vụ - 17.381 19.728 22.878 24.865 27.393
Tỷ trọng trong hộ % 30,03 30,09 31,2 31,86 31,27
2.3. Các ngành khác Tỷ đ 31.237 35.169 38.639 40.527 44.720
Tỷ trọng trong hộ % 53,97 53,66 52,7 51,92 51,05
3. Doanh nghiệp của tư nhân tỷđ 19.602 21.920 25.304 27.975 31.733
Tỷ trọng trong GDP % 7,21 6,99 7,01 6,99 7,14
Tỷ trọng trong khu vực tư
nhân
% 25,3 25,06 25,66 26,38 26,59
3.1. Công nghiệp Tỷ đ 4.609 5.278 6.367 7.179 8.626
Tỷ trọng trong doanh nghiệp % 23,51 24,08 25,16 25,66 27,18
3.2. Thương mại dịch vụ Tỷ đ 7.565 8.564 10.238 11.203 12.397
Tỷ trọng trong doanh nghiệp % 38,59 39,07 40,46 40,05 39,07
3.3. Các ngành khác Tỷ đ 7.428 8.078 8.699 9.593 10.710
Tỷ trọng trong doanh nghiệp % 37,9 36,85 34,38 34,29 33,75
Nguồn: Báo cáo tổng hợp tình hình và phương hướng, giải pháp phát triển
kinh tế tư nhân, Ban Kinh tế Trung ương, ngày 26-11-2001.
2. Đóng góp và huy động các nguồn vốn trong xã hội, nộp ngân sách cho nhà
nước
Trong 10 năm gần đây, vốn đầu tư của khu vực tư nhân tăng nhanh, chiếm tỷ
lệ cao trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Năm 1999 tổng vốn đầu tư khu vực kinh
tế tư nhân đạt 31.542 tỷ đồng chiếm 24,05%; năm 2000 đạt 35.894 tỷ đồng, tăng
13,8% so với năm 1999, chiếm 24,31% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Năm 2000 vốn đầu tư của hộ kinh doanh cá thể đạt 29.267 tỷ đòng, chiếm
19,82% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; vốn đầu tư phát triển của các doanh nghiệp tư
nhân đạt 6.627 tỷ đồng, chiếm 4,49% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Tổng vốn sử dụng thực tế của khu vực kinh tế tư nhân tăng nhanh. Đối với
các doanh nghiệp tư nhân năm 1999 là 79.493 tỷ đồng, năm 2000 là 110.071 tỷ
đồng, tăng 38,5% (chưa có số liệu xác định nguồn vốn của hộ kinh doanh cá thể).
Các địa phương tăng mạnh vốn sử dụng thực tế của doanh nghiệp là Hà Nội từ
10.164 tỷ đồng (năm 1999) tăng lên 16.573 tỷ đồng (năm 2000), tăng 63,05%;
tương ứng ở thành phố Hồ Chí Minh từ 36.954 tỷ đồng tăng lên 52.353 tỷ đồng,
tăng 41,67%.
Đóng góp vào ngân sách nhà nước của khu vực kinh tế tư nhân ngày càng
tăng. Năm 2000 nộp được 5.900 tỷ đồng, ước tính chiếm 7,3% tổng thu ngân sách,
tăng 12,5% so với năm 1999; năm 2001 dự kiến nộp 6.370 tỷ đồng, tăng 7,96%.
3. Khu vực kinh tế tư nhân tạo việc làm và góp phần xoá đói giảm nghèo
Thời điểm 31-12-2000 số lượng lao động trong khu vực kinh tế tư nhân là
4.643.844 người chiếm 12% tổng số lao động xã hội, bằng 1,36 lần tổng số việc
làm trong khu vực kinh tế nhà nước. Lao động của hộ kinh doanh cá thể là
3.802.057 người, của các doanh nghiệp tư nhân là 841.787 người.
Trong 5 năm 1996 -2000 lao động trong khu vực kinh tế tư nhân tăng thêm
778.681 người (tăng 20,4%). Trong đó số lao động tỏng các doanh nghiệp tư nhân
tăng thêm 487.4259 người ( tăng 137,57%); số lao động ở hộ kinh doanh cá thể
tămg thêm 292.222 người (tăng 8,92%). Số lao động qua thực tế khảo sát ở hộ
kinh doanh các thể lớn hơn nhiều so với số đăng ký vì nhiều hộ gia đình chủ yếu
sử dụng lao động trong dòng họ, lao động mang tính thời vụ và lao động nông
nhàn không thể hiện trong báo cáo thống kê.
Việc tạo ra nhiều chỗ làm việc mới đã góp phần thu hút nhiều lao động tỏng
xã hội, nhất là số người trẻ tuổi hàng năm đến tuổi lao động chưa có việc làm, giải
quyết số dôi dư từ các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước do tinh giản biên chế và
giải thể.
4. Khu vực kinh tế tư nhân góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ
chế đổi cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Sự phát triển của kinh tế tư nhân đã đặt ra những yêu cầu mới thúc đẩy hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đã xuất hiện nhiều
doanh nhân kinh doanh thành đạt, đưa doanh nghiệp của mình phát triển, cải thiện
được đời sống người lao động, đóng góp ngày càng nhiều cho xã hội, được xã hội
tôn vinh.
Sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân góp phần thu hút được ngày càng
nhiều lao động ở nông thôn vào các ngành phi nông nghiệp, nhất là công nghiệp
đã giúp chuyển đổi cơ cấu kinh tế từng địa phương, góp phần chuyển dịch cơ cấu
kinh tế đất nước.
Trình độ sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân ngày càng tiến bộ
hơn, số lượng hàng hoá tham gia xuất khẩu ngày càng tăng. Nhiều sản phẩm của
khu vực kinh tế tư nhân được xuất khẩu uỷ thác qua doanh nghiệp nhà nước và
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Khu vực kinh tế tư nhân còn tham gia
nhiều công đoạn trong quá trình sản xuất hàng xuất khẩu. Xuất khẩu trực tiếp của
khu vựac kinh tế tư nhân đến nay đã tăng khá, 9 tháng đầu năm 2001 đạt
2.189.330.000 USD, trong đó các công ty cổ phần đạt 361.759.990 USD, công ty
tư nhân đạt 211.900.000 USD (số liệu của tổng cục Hải quan).
III. Những khó khăn, hạn chế trong sản xuất kinh doanh khu vực kinh tế tư
nhân
1. Khó khăn về vốn, hạn chế về tín dụng
Các hộ kinh doanh cá thể và doanh nghiệp tư nhân nói chung đều rất thiếu
vốn sản xuất. Đến cuối năm 2000 vốn đăng ký kinh doanh khi mới thành lập của
các doanh nghiệp tư nhân bình quân chỉ trên dưới 1 tỷ đồng. Số vốn hoạt động
kinh doanh bình quân là 3,8 tỷ đồng một doanh nghiệp.
Theo báo cáo của các địa phương đều cho rằng khu vực kinh tế tư nhân thiếu
vốn phải đi vay ở thị trường không chính thức với lãi suất cao và thời hạn ngắn, rất
khó tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại, nhất là
nguồn vốn ưu đãi của Nhà nước. Nguyên nhân chủ yếu là do các doanh nghiệp tư
nhân còn non trẻ, nên tài sản sẵn có còn ít, không đủ thế chấp cho các khoản vay
mà không cần thế chấp; nhiều doanh nghiệp tư nhân chưa biết lập dự án đầu tư,
hơn nữa thường bị các tổ chức tín dụng cho là các khách hàng nhỏ, với kiểu hoạt
động tạm thời, có thể không báo cáo đúng tình hình kinh doanh, dự án thường
không có tính khả thi cao, khó giám sát đầu tư, chi phí giao dịch cao.
Tổng dư nợ của khu vực kinh tế tư nhân (phi nông nghiệp) chiếm 23,9% tổng
dư nợ chung của ngân hàng năm 2000 và 22,6% trong 6 tháng đầu năm 2001.
Tỷ lệ nợ xấu khu vực kinh tế tư nhân nhìn chung có giảm 22,8% năm 2000
xuống 18,9% trong 6 tháng đầu năm 2001. Nhưng tỷ lệ này vẫn cao hơn tỷ lệ
chung của ngân hàng và chiếm tỷ trọng lớn trên tổng số nợ xấu của ngân hàng là
50,8% năm 2000 và 43,3% trong 6 tháng đầu năm 2001.
2. Khó khăn về đất đai, mặt bằng sản xuất kinh doanh
Hầu hết các doanh nghiệp tư nhân được thành lập và phát triển từ khi có chủ
trương đổi mới, và tăng nhanh sau khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực thi hành.
Nhà nước đã tiến hành giao quyền sử dụng đất theo Luật đất đai, do đó về cơ bản
không còn "đất vô chủ"; do các doanh nghiệp tư nhân ra đời muộn, không còn
được Nhà nước ưu đãi về đất như trước, chính vì vậy thiếu mặt bằng kinh doanh
đang là trở ngại lớn đối với các cơ sở kinh doanh.
Nhiều doanh nghiệp tư nhân phải sử dụng nhà ở, đất ở của gia đình trong khu
dân cư làm nơi sản xuất, kinh doanh nên chật hẹp, gây ô nhiễm môi trường, ảnh
hưởng tới sinh hoạt của dân cư trong khu vực, gây ra những khiếu kiện; khó mở
rộng sản xuất kinh doanh .
3. Khó khăn về môi trường pháp lý, tâm lý xã hội
3.1. Về môi trường pháp lý
- Trở ngại lớn đối với khu vực kinh tế tư nhân là môi trường pháp lý chưa
đồng bộ, chưa hoàn thiện, còn nhiều quy định chưa đầy đủ, chưa rõ ràng, dẫn tới
tình trạng các cơ quan thừa hành và các doanh nghiệp lúng túng trong việc chấp
hành pháp luật.
Một số bộ, ngành còn chậm ban hành văn bản hướng dẫn (như các ngành
nghề kinh doanh có điều kiện trong tổng thể định hướng quy hoạch, quy định cụ
thể về vốn pháp định của một số ngành nghề…) đã gây khó khăn cho việc đăng ký
và hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân.
Mặc dù các cơ quan nhà nước đã tạo điều kiện để doanh nghiệp được tham
gia đóng góp ý kiến vào nhiều văn bản, chính sách khác nhau, song nhìn chung kết
quả còn hạn chế, mới dừng lại ở mức tham khảo có giới hạn, chưa thành quy chế;
một số ý kiến, đề xuất của doanh nghiệp chưa được tiếp thu, nhiều khó khăn cho
doanh nghiệp chưa được giải quyết một cách cơ bản, triệt để (ví dụ: về quy định
tín dụng ưu đãi, vay ngân hàng, sửa đổi Luật thuế giá trị gia tăng…)
3.2. Về môi trường tâm lý xã hội
Môi trường tâm lý xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của khu vực kinh tế tư nhân. Thực tế đang nổi lên mọt số vấn đề bức xúc.
- Trong xã hội còn có phần định kiến đối với khu vực kinh tế tư nhân, chưa
nhìn nhận đúng vai trò nhà kinh doanh tư nhân trong xã hội. Do vậy còn có tâm lý
e ngại, dè dặt, sợ chệch hướng xã hội chủ nghĩa, không muốn thúc đẩy khu vực
này phát triển nhanh.
- Còn tồn tại cách nhìn nhận cho là chưa bình đẳng giữa các thành phần kinh
tế khi thực hiện chủ trương kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế
tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
4. Khó khăn của bản thân khu vực kinh tế tư nhân
Nhìn chung, khu vực kinh tế tư nhân còn gặp nhiều khó khăn trong việc duy
trì hiệ quả sản xuất, kinh doanh trong việc duy trì hiệu quả sản xuất, kinh doanh
trong khoảng thời gian dài và đảm bảo sức cạnh tranh cần thiết, nhất là khả năng
cạnh tranh trên thị trường quốc tế, do:
- Khu vực kinh tế tư nhân của ta mới ở trình độ thấp của sự phát triển, tổ
chức theo hình thức kinh tế hộ gia đình cá thể còn chiếm tuyệt đại đa số, hình thức
doanh nghiệp của tư nhân tuy đã phát triển mạnh trong thời gian gần đây nhưng
vẫn còn ở quy mô nhỏ là chủ yếu.
- Khả năng tích tụ vốn cũng như huy động nguồn vốn xã hội cho hoạt động
sản xuất, kinh doanh còn thấp, trình độ công nghệ thấp.
- Trình độ và kỹ năng quản lý còn yếu, không thu hút được nhiều lao động có
tay nghề cao được đào tạo cơ bản.
- Bản thân các doanh nghiệp Việt Nam hầu hết mới thoát thân từ cơ chế bao
cấp, nên còn chịu ảnh hưởng của tư tưởng mong chờ sự giúp đỡ, che chở của Nhà
nước.
Phần III
Tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách
để phát triển kinh tế tư nhân
I. Xây dựng và thực hiện chính sách khuyến khích, hỗ trợ kinh tế tư
nhân
1. Chính sách tín dụng đầu tư
Những năm gần đây hệ thống ngân hàng đã có những hình thức tín dụng đa
dạng và có cạnh tranh hơn nhằm thực hiện chính sách cho vay bình đẳng không
phân biệt hình thức kinh tế nhà nước hay kinh tế tư nhân.
Nhà nước cũng dành một khoảng vốn đáng kể, thông qua Quỹ hỗ trợ phát
triển (kế hoạch năm 2001 là 23.800 tỷ đồng) để vay trung hạn và dài hạn với lãi
suất ưu đãi, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư vào các lĩnh vực khuyến khích đầu tư tại các
địa bàn khó khăn, hoặc theo các chương trình kinh tế lớn của Chính phủ, không
phân biệt thành phần kinh tế.
Nghị định 05/NĐ-CP về việc bổ sung một số giải pháp điều hành kế hoạch
kinh tế - xã hội năm 2001 đã tháo gỡ được một phần khó khăn, vướng mắc về thủ
tục đầu tư cho khu vực kinh tế tư nhân.
Tuy nhiên trong khu vực này vẫn còn nhiều khó khăn trong việc tiếp cận
nguồn vốn vay từ các ngân hàng thương mại và Quỹ hỗ trợ phát triển.
2. Chính sách mặt bằng, đất đai cho kinh tế tư nhân
Luật đất đai (sửa đổi) năm 1998 đã thể hiện chính sách cấp đất ổn định, lâ dài
cho các hộ gia đình, cá nhân, tổ chức, yêu cầu tất cả các tổ chức, cá nhân, gia đình
và các thành phần kinh tế muốn sử dụng đất đai được cấp để kinh doanh phải
chuyển sang hình thức thuê đất.
Sau khi Luật đất đai (sửa đổi) năm 1998 được Quốc hội thông qua và đưa
vào thực hiện, Chính phủ đã ban hành một số nghị định, một số ngành có thông tư
hướng dẫn thi hành.
Cùng với văn bản luật, các Nghị định 17/1999/NĐ-CP, ngày 29-3-1999;
Nghị định 79/2001/NĐ-CP, ngày 1-11-2001 sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị
định 17-1999/NĐ-CP là cơ sở pháp lý thực hiện việc chuyển đổi, chuyển nhượng,
cho thuê, cho thuê lại, thừa kế quyền sử dụng đất và thế chấp, góp vốn bằng giá trị
quyền sử dụng đất.
Luật khuyến khích đầu tư trong nước quy định việc miễn giảm đáng kể tiền
thuê đất, đặc biệt đối với vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.
3. Chính sách về khoa học và công nghệ
Nhà nước có một số văn bản tạo khung pháp lý chung về chính khoa học,
công nghệ và bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp chung cho các thành phần kinh tế,
đã hỗ trợ, khuyến khích thúc đẩy việc áp dụng khoa học - kỹ thuật, chuyển giao
công nghệ mới nhằm thay thế công nghệ cũ, nâng cao trình độ công nghệ sản xuất
được những sản phẩm chất lượng ngày càng cao hơn, mẫu mã đa dạng, tăng được
năng suất lao động, khả năng cạnh tranh… đáp ứng yêu cầu thị trường trong nước
và tăng được hàng xuất khẩu .
Nghị định 45/1998/NĐ-CP quy định cụ thể về chuyển giao công nghệ,
khuyến khích chuyển giao kết quả nghiên cứu và phát triển công nghệ mới.
Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường trước đây đã ban hành các văn bản
yêu cầu máy móc và trang thiết bị cũ nhập khẩu phải còn 80% giá trị sử dụng trở
lên, mức độ sử dụng nguyên liệu và năng lượng không vượt quá 10% mức độ sử
dụng của máy móc và trang thiết bị mới tương tự và phải đáp ứng yêu cầu về môi
trường.
4. Chính sách thuế, tài chính, kế toán, kiểm toán
4.1. Chính sách thuế
Các chính sách thuế dần được ban hành và áp dụng thống nhất cho các thành
phần kinh tế trong nước. Tuy còn một số hạn chế nhưng những chính sách thuế
doanh thu, thuế lợi tức, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu… bước đầu đã xoá bỏ
được sự cách biệt giữa kinh tế tư nhân, kinh tế nhà nước và hợp tác xã. Từ năm
1999 việc áp dụng Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và
tiếp tục hoàn thiện các loại thuế khác làm cho chính sách thuế đã thể hiện rõ sự
công bằng, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, khắc phục dần sự chồng chéo
về thuế, chính sách thuế đã khuyến khích đầu tư, khuyến khích xuất khẩu.
4.2. Các quy định về tài chính, kế toán, kiểm toán.
Về chế độ tài chính: Hiện nay, Nhà nước chưa có quy định riêng về chế độ
quản lý tài chính đối với doanh nghiệp tư nhân. Trong thực tế các cơ quan nhà
nước phải vận dụng cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước để áp
dụng quản lý, thanh tra, kiểm tra tài chính đối với các doanh nghiệp của tư nhân.
Đây là vấn đề gây tâm lý không tốt đối với các doanh nghiệp vì như vậy đã
có sự can thiệp không đúng bản chất sở hữu của các cơ quan nhà nước vào doanh
nghiệp tư nhân.
Về chế độ kế toán: Ngày 23-12-1996 Bộ Tài chính đã ban hành chế độ kế
toán doanh nghiệp vừa và nhỏ kèm theo Quyết định 1177/TC-CĐKT tương đối
đơn giản hơn so với chế độ kế toán áp dụng thống nhất cho các doanh nghiệp cả
nước theo quyết định 1141/TC-CĐKT, ngày 1-11-1995 và sau đó thay thế bằng
Quyết định số 167/2000/QĐ-BTC, ngày 25-10-2000, tạo cơ sở pháp lý cho các
doanh nghiệp tổ chức thực hiện công tác kế toán, nộp báo cáo tài chính.
Chế độ kế toán đã góp phần tăng cường công tác quản lý tài chính khu vực
này. Tuy nhiên, chế độ kế toán này cũng bộc lộ một số hạn chế như: chưa tách
được các loại vốn ngắn hạn và dài hạn; các quy định về chế độ kế toán chưa đáp
ứng được yêu cầu cung cấp thông tin cho tính toán và xác định nghĩa vụ thuế;
chưa thật phù hợp với quy mô và năng lực của doanh nghiệp nên có nhiều khó
khăn trong việc thực hiện; một số chỉ tiêu quá chi tiết nhằm mục đích phục vụ
quản lý nhà nước hơn là phục vụ doanh nghiệp.
5. Chính sách về đào tạo, tiền lương, bảo hiểm xã hội
5.1. Đào tạo nghề cho lao động khu vực kinh tế tư nhân
Nhà nước có chính sách khuyến khích và hỗ trợ các cơ sở dạy nghề dân lập,
tư thục, cụ thể được quy định tại Nghị định 73/1999/NĐ-CP, ngày 19-8-1999 của
Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với hoạt động trong lĩnh vực
giáo dục, văn hoá, thể thao. Tuy nhiên việc đào tạo vẫn chưa đáp ứng được yêu
cầu lao động có tay nghề, có kỹ thuật của các doanh nghiệp. Đối với các tình miền
núi, vùng sâu, vùng xa tỷ lệ lao động được đào tạo rất thấp, phần lớn là lao động
chưa qua đào tạo.
5.2. Chính sách tiền lương
Theo quy định của Bộ luật Lao động và Bộ luật Dân sự, chế độ tiền lương,
tiền công của người lao động làm việc trong khu vực kinh tế tư nhân thực hiện trên
nguyên tắc thoả thuận trong hợp đồng lao động và được trả theo năng suất lao
động, chất lượng và hiệu quả công việc. Mức lương người lao động được trả
không thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định.
Doanh nghiệp tư nhân tham khảo thang bảng lương do Chính phủ quy định
(theo Nghị định 26/CƠ), để xây dựng hệ thống thang lương, bảng lương của doanh
nghiệp mình trên cơ sở tuân thủ các qui định của pháp luật về lao động và thoả
thuận với người lao động. Các doanh nghiệp đăng ký thang lương, bảng lương với
cơ quan lao động ở địa phương để làm cơ sở tính chế độ bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế và chi phí tiền lương (tính thuế thu nhập).
5.3. Chính sách bảo hiểm xã hội
Theo Bộ luật Lao động năm 1995:
Loại hình bảo hiểm xã hội được áp dụng bắt buộc đối với những doanh
nghiệp sử dụng 10 lao động trở lên, cho nên những doanh nghiệp có dưới 10 lao
động và các hộ kinh doanh cá thể không được tham gia.
Nhiều doanh nghiệp lợi dụng quy định này để trốn tránh trách nhiệm của
người sử dụng lao động trong việc đóng bảo hiểm cho người lao động như: ký hợp
đồng lao động ngắn hạn dưới 3 tháng với người lao động; hoặc chỉ hợp đồng
miệng; hay chỉ đăng ký lao động dưới 10 người để không phải đóng bảo hiểm xã
hội.
Việc quy định một tỷ lệ đóng cố định, thời gian đóng và đóng đến tuổi về
hưu, người lao động mới được hưởng chế độ hưu trí (đã đóng bảo hiểm 20 năm trở
lên, nam đủ 60 tuổi, nữ 55 tuổi) chưa hấp dẫn người lao động tham gia đóng bảo
hiểm xã hội.
6. Chính sách thông tin, tiếp cận thị trường
Nhà nước đã có nhiều cố gắng trong việc đáp ứng thông tin cho doanh
nghiệp về luật pháp, chính sách và tình hình thị trường. Doanh nghiệp được quyền
tiếp cận thị trường, kể cả việc ra nước ngoài để quảng bá, tiếp thị.
Đối với lĩnh vực thị trường xuất khẩu, các doanh nghiệp tư nhân đang gặp
khó khăn về khả năng tiếp cận thông tin về chính sách xuất khẩu, thông tin thị
trường, tiếp cận thị trường so với doanh nghiệp nhà nước.
Về xúc tiến thương mại, các doanh nghiệp tư nhân còn gặp phải những khó
khăn như ít được tham gia vào các đoàn doanh nghiệp ra nước ngoài, không có
điều kiện để giới thiệu, triển lãm và quảng cáo sản phẩm để xuất khẩu, thiếu kiến
thức và kinh nghiệm thương mại quốc tế, thiếu thông tin toàn diện về thị trường,
mặt hàng và đối thủ cạnh tranh.
II. Các giải pháp phát triển kinh tế tư nhân
1. Tạo môi trường thuận lợi về thể chế và tâm lý xã hội cho phát triển
của kinh tế tư nhân
- Sửa đổi, bổ sung Luật doanh nghiệp và một số quy định chưa thống nhất
giữa các văn bản pháp luật đã ban hành về những vấn đề liên quan đến kinh tế tư
nhân, theo hướng xoá bỏ phân biệt đối xủa giữa các thành phần kinh tế; đảm bảo
thể hiện đồng bộ, nhất quán các quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân,
tính cụ thể, minh bạch và ổn định của pháp luật; tiếp tục tháo gỡ các khó khăn,
vướng mắc trong luật pháp, thủ tục hành chính.
- Quy định rõ những ngành nghề, lĩnh vực kinh tế tư nhân không được phép
kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện; khi thay đổi các quyết định cần có thời
gian chuyển tiếp và chính sách bổ sung để doanh nghiệp thích ứng, giảm thiểu
thiệt hại cho người kinh doanh. Xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý
nhà nước trong đăng ký kinh doanh và quản lý hoạt động của kinh tế tư nhân.
2. Sửa đổi, bổ sung một số cơ chế, chính sách
Sửa đổi, bổ sung một số cơ chế, bảo đảm sự bình đẳng giữa các thành phần
kinh tế về cơ hội và khả năng lực chọn các điều kiện để phát triển; tiếp tục tháo gỡ
những khó khăn, vướng mắc, sửa đổi những quy định chưa phù hợp với quy mô và
trình độ kinh doanh để kinh tế tư nhân có điều kiện thụ hưởng những chính sách
ưu đãi của Nhà nước đối với các ngành, vùng, các sản phẩm và dịch vụ cần ưu tiên
hoặc khuyến khích phát triển, không phân biệt thành phần kinh tế; chú trọng tạo
điều kiện hỗ trợ những doanh nghiệp nhỏ và vừa.
2.1. Chính sách đất đai
Sửa đổi bổ sung Luật Đất đai theo hướng:
- Đất ở của tư nhân đã được cấp quyền sử dụng đất, đất đang được tư nhân
dùng làm mặt bằng sản xuất, kinh doanh do được chuyển nhượng lại một cách hợp
pháp quyền sử dụng hoặc được Nhà nước giao đã nộp tiền sử dụng đất theo quy
định của pháp luật, thì tư nhân đó được tiếp tục sử dụng mà không phải nộp thêm
tiền thuê đất cho Nhà nước khi dùng đất này vào sản xuất kinh doanh.
- Nhà nước có chính sách xây dựng những khu công nghiệp với cơ sở hạ tầng
cần thiết, có giá phù hợp để khuyến khích các doanh nghiệp, trong đó có kinh tế tư
nhân, thuê làm mặt bằng sản xuất kinh doanh.
- Có chính sách khuyến khích mạnh mẽ việc sử dụng đất ở các vùng còn
nhiều đất chưa được sử dụng, đất trống đồi núi trọc.
2.2. Chính sách tài chính tín dụng
Thực hiện chính sách tài chính, tín dụng đối với kinh tế tư nhân bình đẳng
với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
Bảo đảm để kinh tế tư nhân tiếp cận và được hưởng các ưu đãi của Nhà nước
cho kinh tế hộ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, cho đầu tư theo các mục tiêu được Nhà
nước khuyến khích.
Nhà nước hỗ trợ về xây dựng cơ sở hạ tầng chung (giao thông, điện, nước,
thông tin liên lạc…) tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển.
Sớm ban hành quy định của Nhà nước về cơ chế tài chính đối với doanh
nghiệp nhỏ và vừa, trong đó doanh nghiệp tư nhân.
Tiếp tục đổi mới chế độ kê khai và nộp thuế phù hợp với đặc điểm của các
hộ kinh doanh, doanh nghiệp nhỏ và vừa, vừa tạo thuận lợi cho người kinh doanh,
vừa chống thất thu thuế.
2.3. Chính sách lao động tiền lương
Kinh tế tư nhân phải thực hiện đúng quy định của Bộ luật Lao động về việc
ký hợp đồng lao động, tiền lương, tiền công, thời gian làm việc, bảo đảm các điều
kiện về vệ sinh an toàn lao động… bổ sung chế tài cần thiết để xử lý vi phạm.
Sớm ban hành đồng bộ các quy định về bảo hiểm xã hội để người lao động
trong hộ kinh doanh cá hể và doanh nghiệp của tư nhân đều được tham gia. Tiến
tới hình thành đa dạng về mô hình tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội
phù hợp với từng nhóm đối tượng có nhiều mức đóng, mức hưởng khác nhau.
2.4. Chính sách hỗ trợ về đào tạo, khoa học và công nghệ
Nhà nước trợ giúp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ hiểu biết đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, trình độ chuyên môn kỹ
thuật, năng lực kinh doanh cho chủ doanh nghiệp và người lao động.
Đối với chủ doanh nghiệp cần quan tâm bồi dưỡng, giáo dục phát huy tinh
thần yêu nước và trách nhiệm trước cộng đồng xã hội, có đạo đức kinh doanh, tôn
trọng chữ tín, tự giác chấp hành chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
chăm lo đời sống và điều kiện làm việc cho người lao động tại doanh nghiệp.
Phát triển các trung tâm dạy nghề của Nhà nước đặt biệt là ở khu vực nông
thôn, miền núi; khuyến khích, hỗ trợ các tổ chức và cá nhân trong, ngoài nước mở
các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng quản lý, cán bộ kỹ thuật cho doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân và dạy nghề cho người lao động.
2.5. Chính sách hỗ trợ về thông tin, xúc tiến thương mại
Có cơ chế và phương tiện đảm bảo cho khuvực kinh tế tư nhân nhận được
những thông tin cần thiết về luật pháp, chính sách, quy hoạch, kế hoạch, phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước, của ngành, các vùng; các tông tin dự báo trung hạn,
dài hạn về các ngành, các sản phẩm ở trong nước và trên thế giới; các dự án phát
triển có nguồn vốn từ ngân sách nhà nước và các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài.
Nhà nước khuyến khích và hỗ trợ kinh doanh, doanh nghiệp của tư nhân và
các hiệp hội đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại ở cả thị trường trong và
ngoài nước.
kết luận
Sự phát triển của kinh tế tư nhân thời gian qua đã khơi dậy một bộ phận tiềm
năng của đất nước cho phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn tiềm năng này bao gồm
trí tuệ, kinh nghiệm năng lực quản lý, khả năng kinh doanh, quan hệ xã hội, tiền
vốn, sức lao động, tài nguyên… Phát triển kinh tế tư nhân đã góp phần xây dựng
cơ sở vật chất kỹ thuật, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Khu vực kinh tế tư nhân đã góp phần quan trọng vào tăng trưởng GDP, huy
đọng nguồn vốn trong xã hội đầu tư vào sản xuất kinh doanh; tạo được nihều việc
làm, góp phần cải thiện đời sống nhân dân, tăng thu ngân sách cho nhà nước, tham
gia sản xuất nhiều hàng xuất khẩu, tác động tích cực đối với chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và đổi mới cơ chế kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên khu vực kinh tế tư nhân còn ở trình độ thấp của sự phát triển, chủ
yếu là loại hình kinh tế cá thể, loại hình doanh nghiệp tư nhân gần đây tuy phát
triển mạnh nhưng chủ yếu vẫn là quy mô nhỏ. Do vậy Đảng và nhà nước cần có
nhiều những chính sách dành nhiều sự quan tâm đến khu vực kinh tế này, bởi khu
vực kinh tế tư nhân là đòn bẩy để tăng trưởng kinh tế.
tài liệu tham khảo.
1. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
NXB. Chính trị quốc gia Hà Nội 1996
2. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
NXB, chính trị quốc gia Hà Nội 2001
3. Ban tư tưởng - Văn hoá Trung ương: Tài liệu nghiên cứu, các nghị quyết
Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung wong Đảng khoá IX, NXB. Chính trị
quốc gia Hà Nội 2002.
4. Trần Hoàng Kim, Lê Thụ: Các thành phần kinh tế Việt Nam, thực trạng,
xu thế và giải pháp NXB. Thống kê, Hà Nội 1992
5. TS. Hà Huy Thành: Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân -
lý luận và chính sách.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tư nhân.pdf