Luận văn Tổ chức và hoạt động của thanh tra bộ tài nguyên và môi trường

Trong những năm qua, kết quả đạt được trong công tác thanh tra chuyên ngành của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường đã góp phần quan trọng vào sự phát triển bền vững của các ngành, lĩnh vực, địa phương nói riêng và của cả nước nói chung. Tuy nhiên, trước sự phát triển nhanh chóng của kinh tế - xã hội trong thời kỳ đấy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với tinh thần " Quốc gia khởi nghiệp " đã đặt ra yêu cầu nhiệm vụ rất nặng nề, cấp bách, cho ngành tài nguyên và môi trường nói chung, Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường nói riêng, đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, điều chỉnh, nhằm hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn phát triển mới. Chính vì vậy, việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn nhằm đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường là rất quan trọng và cần phải đặt ra trong chương trình tổng thể cải cách hành chính nói chung, đặc biệt là trong bối cảnh đẩy mạnh việc phân cấp giữa Trung ương và địa phương hiện nay. Trong phạm vi của luận văn tác giả đã tập trung tìm tòi, nghiên cứu để giải quyết một số vấn đề cơ bản sau: Thứ nhất, về mặt lý luận, Luận văn Trong Chương 1, dưới góc độ lý luận, luận văn đã phân tích và làm sáng tỏ những nội dung sau: Làm rõ khái niệm về tổ chức và hoạt động Thanh tra bộ và các yếu tố cấu thành của khái niệm. Phân tích, làm rõ vai trò của tổ chức và hoạt động Thanh tra bộ đối với công tác quản lý nhà nước của Bộ. Xem xét những yếu tố chính ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của Thanh tra bộ như vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nguồn nhân85 lực của đất nước và hệ thống các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động bộ máy nhà nước nói chung và tổ chức và hoạt động ngành thanh tra nói riêng. Thứ hai, nghiên cứu thực trạng về tổ chức bộ máy và cán bộ của Thanh tra bộ từ khi Luật Thanh tra năm 2010 được ban hành cho đến nay, làm rõ ưu điểm, hạn chế qua các lần kiện toàn để đánh giá mức độ phù hợp và tỉnh hiệu quả của mô hình tổ chức hiện nay. Thứ ba, nghiên cứu, tổng hợp kết quả hoạt động thanh tra trong lĩnh vực tài nguyên - môi trường của Thanh tra bộ từ năm 2012 đến năm 2016 để có cơ sở thực tiễn rút ra được những ưu điểm, hạn chế có tính hệ thống trong tổ chức và hoạt động thanh tra chuyên ngành của Thanh tra bộ. Thứ tư, trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng về tổ chức và hoạt động của Thanh tra bộ từ năm 2012 đến năm 2016; Chương 3 luận văn đã xác định quan điểm nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường; đồng thời đề xuất 3 giải pháp cơ bản cần tập trung chỉ đạo tổ chức thực hiện trong thời gian tới.

pdf97 trang | Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 1180 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tổ chức và hoạt động của thanh tra bộ tài nguyên và môi trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
môi trường các cấp, dẫn đến phiền hà cho doanh nghiệp. Trên thực tế, có những doanh nghiệp của Trung ương đóng trên địa bàn địa phương vừa chịu sự kiểm tra, thanh tra của Thanh tra bộ vừa chịu sự kiểm tra, thanh tra của Thanh tra sở và Thanh tra tỉnh. Sự chồng chéo như trên xuất phát từ lý do, nền hành chính của nước ta hiện nay có xu hướng chia cắt theo chiều ngang. Cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương có đầy đủ các quyền (nhưng cấp độ thấp hơn) gần như các cơ quan trung ương. Chính vì thế, dường như phạm vi quản lý của Bộ, ngành đối với các địa phương bị hạn chế và bị chi phối bởi cơ quan hành chính ở địa phương. Các 62 Sở hiện vẫn được coi là cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh. Đối với một số cơ quan tương đương Sở được tổ chức theo ngành dọc thì sự lệ thuộc vào địa phương cũng rất lớn. Vì thế, khoảng “giao thoa” giữa quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ vẫn còn. Tính chất của sự chồng chéo giữa hai phương thức quản lý này còn trầm trọng hơn bởi xu hướng phân quyền cát cứ, cục bộ địa phương trong giai đoạn hiện nay. Tám là, số lượng cuộc thanh tra hành chính tức là thanh tra công tác thanh tra tài nguyên và môi trường tại các địa phương còn ít dẫn đến tình trạng Bộ không nắm chắc, quản lý chặt, ít hướng dẫn các địa phương; các địa phương có thể xuất hiện những vùng trống trong thanh tra. Nguyên nhân của các hạn chế: Trong giai đoạn hội nhập, phát triển theo xu hướng kinh tế thị trường, khách thể của hoạt động thanh tra liên tục biến đổi, phát triển và mở rộng. Trong khi đó hệ thống tổ chức, các phương thức thanh tra chậm đổi mới, không đáp ứng kịp yêu cầu và sự phát triển đa dạng, phức tạp của đời sống xã hội. Đội ngũ làm công tác thanh tra chưa đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng và trình độ. Lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý nhà nước của Bộ Tài nguyên và môi trường rất rộng lớn và phức tạp bao gồm: đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, địa chất, môi trường, khí tượng, thuỷ văn, đo đạc bản đồ, quản lý tổng hợp và thống nhất về biển và hải đảo. Với tổng số nhân sự Thanh tra bộ là 61 người, để tiến hành thanh tra các lĩnh vực trên phạm vi cả nước thì rất khó hoàn thành các kế hoạch, yêu cầu đặt ra. Mặt khác đây cũng là những lĩnh vực đòi hỏi tính chính xác và yêu cầu nghiệp vụ cao. Các vi phạm về tài nguyên và môi trường ngày càng tinh vi, khó phát hiện, nhất là các hành vi xả thải gây ô nhiễm môi trường của doanh nghiệp.Trong khi đó hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị máy móc nghiệp 63 vụ để đo đạc, giám định còn thiếu và lạc hậu. Kinh phí phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra chưa được bố trí đủ so với kinh phí được phê duyệ t, nhưng chưa kịp thời đề xuất để điều chỉnh kế hoạch thanh tra, kiểm tra cho phù hợp với kinh phí được cấp. Hệ thống các văn bản pháp luật về thanh tra còn chưa thực sự hoàn chỉnh, nhiều điểm còn bộc lộ bất hợp lý, lỗi thời, không phù hợp với tình hình và yêu cầu của thực tiễn dẫn đến sự chồng chéo về thẩm quyền và hoạt động ở một số lĩnh vực gây khó khăn, phiền hà cho các cơ quan, đơn vị là đối tượng thanh tra. Hoạt động thanh tra chuyên ngành còn bị ràng buộc bởi nhiều thủ tục hành chính và chưa được sửa đổi bổ sung kịp thời như phải có Quyết định thanh tra, kiểm tra, phải thông báo trước, chỉ làm việc trong giờ hành chính làm hạn chế việc phát hiện và xử lý các vi phạm hành chính; hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm soát các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ còn chồng chéo; lực lượng thanh tra chuyên ngành môi trường từ trung ương đến địa phương còn thiếu về số lượng và chất lượng Mặt khác văn bản pháp luật thanh tra là văn bản hình thức, còn nội dung phải căn cứ vào các văn bản pháp luật về tài nguyên và môi trường. Đây là hệ thống pháp luật cực kì phức tạp và đa dạng và có nhiều biến động. Để xác định vi phạm pháp luật của đối tượng thanh tra, Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường phải căn cứ vào các luật chuyên ngành như: Luật Đất đai, Luật Khoáng sản, Luật Bảo vệ Môi trường Quyền hạn và hiệu lực thanh tra còn hạn chế. Các cơ quan thanh tra chỉ dừng lại ở quyền kiến nghị cho nên tính hiệu quả của nó thường không cao và phụ thuộc vào thái độ tiếp thu và biện pháp thực hiện các kiến nghị của các cơ quan, đơn vị được các cơ quan thanh tra kiến nghị. Sự phụ thuộc quá lớn của Thanh tra bộ vào cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp (Bộ) cả về tổ chức, nhân sự, kinh phí, trong việc xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra, trong quá trình tiến hành thanh tra cũng như giai đoạn kết thúc, kết luận và kiến nghị xử 64 lý. Điều này phần nào ảnh hưởng đến tính chủ động và độc lập trong tổ chức và hoạt động hoạt động thanh tra. Lãnh đạo các Phòng chuyên môn của Thanh tra bộ chưa phát huy được vai trò nòng cốt trong việc tham mưu cho lãnh đạo thanh tra những nội dung thuộc lĩnh vực mình được giao phụ trách, việc giải quyết một số công việc còn thụ động. Chưa chủ động triển khai công tác thanh tra, kiểm tra theo đúng thời gian trong kế hoạch được phê duyệt. Công tác khảo sát, thu thập thông tin, tài liệu phục vụ việc xây dựng kế hoạch thanh tra kiểm tra chưa được quan tâm thực hiện nên việc đề xuất kế hoạch có nội dung chưa phù hợp, thiếu tính thuyết phục và còn chồng chéo. Thời hạn các cuộc thanh tra thường kéo dài, số lượng Đoàn thanh tra không thực hiện đúng tiến độ theo quy định pháp luật và phải chuyển sang năm sau để tiếp tục thực hiện do một số nguyên nhân: Việc chuẩn bị trước khi tiến hành thanh tra còn hạn chế, việc nắm thông tin về nội dung thanh tra chưa đầy đủ, việc khảo sát xây dựng đề cương chưa được coi trọng đúng mức dẫn đến đề cương, kế hoạch thanh tra chưa xác định được trọng tâm, trọng điểm vì vậy khi tiến hành thanh tra gặp nhiều khó khăn trong khâu thẩm tra, xác minh, kết luận. Khi tiến hành thanh tra chưa tiên lượng được phần việc và tính phức tạp của nó nên không chủ động để thực hiện. Nhiều cuộc thanh tra có tình tiết phức tạp cần phải thẩm tra, xác minh hoặc liên quan đến nhiều đối tượng khác nhau, đặc biệt là những vụ việc trong lĩnh vực đất đai cần phải có thời gian để trích lục các tài liệu cũ hoặc có những cuộc thanh tra có nội dung liên quan đến chuyên môn sâu về kỹ thuật chuyên ngành nên cần tham vấn ý kiến của các nhà chuyên môn. Ngoài ra còn do những trường hợp cản trở, chống đối, bất hợp tác của đối tượng thanh tra thể hiện thông qua rất nhiều thủ đoạn tinh vi như: không cung cấp, cung cấp không đúng, không đầy đủ thông tin tài liệu, tẩu tán, tiêu hủy chứng cứ, cố tình dây dưa kéo dài thời gian làm việc, hoặc tạo ra nhiều khó khăn, cản trở hoạt động của Đoàn thanh tra 65 Tiểu kết Chương 2 Trong Chương 2, luận văn nghiên cứu về thực trạng tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường: Thứ nhất, khái quát về Bộ Tài nguyên và Môi trường để có cơ sở đánh giá về sự phù hợp và tính hiệu quả về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường. Thứ hai, phân tích, làm rõ thực trạng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức cũng như kết quả hoạt động thanh tra của Thanh tra bộ từ năm 2012 đến năm 2016. Về mặt tổ chức, qua ba lần sắp xếp về nhân sự, đến nay Thanh tra Bộ Tài nguyên Môi trường có 61 người, chia làm 7 đầu mối: Văn phòng, Phòng Thanh tra Hành chính, Phòng Tiếp dân và Xử lý đơn thư, Phòng Thanh tra Tài nguyên và Môi trường miền Trung, Phòng Thanh tra Tài nguyên và Môi trường miền Nam, Phòng Thanh tra Tài nguyên và Môi trưởng miền Bắc, Phòng Giám sát và Xử lý sau thanh tra. Về hoạt động, từ năm 2012 đến 2016, Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tiến hành 108 cuộc thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành. Thứ ba, trên cơ sở đó đánh giá chung, luận văn rút ra những nhận xét về ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong tổ chức và hoạt động thanh tra của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường. Những nguyên nhân chính đó là: bất cập văn bản pháp luật, lĩnh vực thuộc đối tượng quản lý đa dạng và phức tạp, kinh phí hạn chế, nhân sự vừa thiếu, vừa yếu. 66 Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG 3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng đã nêu rõ định hướng công tác quản lý tài nguyên - môi trường trong những năm tới là: " Tăng cường công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu phục vụ phát triển bền vững theo hướng bảo đảm tính tổng thể, liên ngành, liên vùng, đáp ứng nhiệm vụ trước mắt và lâu dài, trong đó lợi ích lâu dài là cơ bản, có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với từng giai đoạn ". Để khắc phục những hạn chế trong tổ chức và hoạt động Thanh tra bộ hiện nay cũng như nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý cần được quán triệt những nội dung sau: Thứ nhất, việc nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của Thanh tra bộ phải khắc phục được những hạn chế, bất cập hiện nay, hướng tới mục tiêu làm tăng hiệu quả của công tác thanh tra, nhằm phát huy nhân tố tích cực, kịp thời phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật và các vi phạm khác; phát hiện những sơ hở về cơ chế quản lý, những hạn chế, thiếu sót, khắc phục, phòng ngừa vi phạm và kịp thời xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về tài nguyên - môi trường; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, của Nhà nước và xã hội. Thứ hai, việc nâng cao hiệu quả và tổ chức hoạt động của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường phải có lộ trình và bước đi thích hợp trong từng 67 giai đoạn cụ thể, trên cơ sở phù hợp với tiến trình đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành thanh tra nói riêng cũng như đổi mới tổ chức và hoạt động bộ máy nhà nước nói chung. Thứ ba, quán triệt quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về công tác thanh tra; tiếp tục thể chế hóa tinh thần của Hiến pháp và các đạo luật quan trọng về tổ chức và hoạt động của ngành Thanh tra nói chung, Thanh tra bộ nói riêng; bảo đảm sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Bộ trưởng đối với công tác thanh tra về lĩnh vực tài nguyên - môi trường. Cụ thể như sau: 3.1.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả tổ chức của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường Để đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước, đòi hỏi tất yếu, khách quan của thực tiễn đặt ra, hệ thống tổ chức thanh tra phải phù hợp với yêu cầu của công tác quản lý nhà nước và điều kiện phát triển kinh tế xã hội của đất nước, nhất là trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Hệ thống tổ chức thanh tra được hiểu là cách thức tổ chức các cơ quan thanh tra do pháp luật quy định và được tổ chức thực hiện trên thực tế để thực hiện nhiệm vụ thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng. Việc đổi mới tổ chức thanh tra thực chất là việc đổi mới thành phần cơ cấu của hệ thống tổ chức thanh tra trên cơ sở đổi mới chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan thanh tra.Vì vậy, để nâng cao hiệu quả tổ chức của Thanh tra bộ trên cơ sở quán triệt những quan điểm sau: Một là, việc đổi mới tổ chức thanh tra được hiểu là việc thiết kế tổ chức thanh tra về cách thức tổ chức, số lượng và cơ cấu các cơ quan này sao cho gọn nhẹ, khoa học, phù hợp với yêu cầu cải cách bộ máy nhà nước, vận hành thông suốt từ trung ương tới địa phương, phù hợp với quy định của pháp luật. 68 Hai là, đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy, biên chế tinh gọn gắn với hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thanh tra chuyên nghiệp, trách nhiệm, kỷ cương, liêm chính, nâng cao chất lượng các mặt công tác, đăc biệt là tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra chuyên ngành và xử lý sau thanh tra trên cơ sở các quy định của Luật Thanh tra và các văn bản pháp luật có liên quan. Ba là, đổi mới tổ chức Thanh tra bộ trên cơ sở phù hợp quan điểm về xu hướng tinh gọn, hiện đại của nền hành chính. không ngừng đổi mới, phát triển Thanh tra bộ với lộ trình cụ thể, từng bước vững chắc, phù hợp với quá trình đổi mới của hệ thống chính trị, cải cách hành chính, đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động. Cụ thể: đổi mới tổ chức thanh tra phải bám sát tinh thần Nghị quyết 30c/NQ-CP của Chính phủ ngày 08/11/2011 ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011- 2020 với 05 mục tiêu, trong đó tiếp tục đặt ra mục tiêu xây dựng hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương tới cơ sở thông suốt, trong sạch, vững mạnh, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, tăng tính dân chủ và pháp quyền trong hoạt động điều hành của Chính phủ và của các cơ quan hành chính nhà nước. Mà trong đó, nhiệm vụ trọng tâm là tiến hành tổng rà soát về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và biên chế hiện có của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ để điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức, sắp xếp lại nhằm khắc phục tình trạng chồng chéo, bỏ trống hoặc trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Đây là cơ sở để ngành Thanh tra nói chung và Thanh tra bộ nói riêng tiếp tục tổng kết, rà soát, đánh giá lại tổ chức, hoạt động để xây dựng lộ trình, chiến lược cải cách phù hợp với Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước, đáp ứng yêu cầu phát triển ngành Thanh tra theo hướng tinh gọn, 69 hiệu quả, toàn diện, hợp lý, trong đó ưu tiên nâng cao hiệu quả là nội dung xuyên suốt trong định hướng đổi mới tổ chức, hoạt động thanh tra. 3.1.2. Quan điểm nâng cao hiệu quả hoạt động của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường Một là,, trong quá trình đổi mới hoạt động thanh tra cần phải hiểu rõ đó là đổi mới nội dung, hình thức và phương thức hoạt động nhằm loại bỏ hoặc khắc phục những hạn chế, bất cập đang tồn tại, thay đổi cách thức hoạt động sao cho hợp lý. Hai là, việc đổi mới hoạt động thanh tra không chỉ tiến hành trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan thanh tra mà còn phải xác định rõ trách nhiệm, thẩm quyền trong quá trình tiến hành hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng bảo đảm tính chính quy, chuyên nghiệp và hiện đại, trên cơ sở đó xây dựng, lựa chọn và sử dụng hình thức, phương thức hoạt động phù hợp. Ba là, tăng cường tính tập trung, thống nhất, chủ động và tự chịu trách nhiệm trong hoạt động của Thanh tra bộ; bảo đảm Thanh tra bộ có thực quyền, đảm bảm hoạt động thanh tra dựa trên nguyên tắc khách quan, công bằng, độc lập tương đối và từng bước được đổi mới phù hợp với yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường 3.2.1. Nhóm giải pháp tiếp tục hoàn thiện về tổ chức Thanh tra Bộ (i) Giải pháp nâng cao nhận thức Để hoàn thiện về cơ cấu tổ chức, trước hết Ban Cán sự Đảng và Lãnh đạo Bộ cần nhận thức đúng về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Thanh tra bộ. Trong mối quan hệ giữa các phương diện hoạt động của cơ quan thanh 70 tra, so với các chức năng khác như: quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; chức năng thanh tra cần phải được tập trung chú trọng đẩy mạnh trong thời gian tới hơn cả. Bởi lẽ, trong giai đoạn phát triển kinh tế thị trường, các quan hệ giữa các cá nhân, tổ chức trong xã hội phát triển đa dạng và phức tạp vì vậy các bộ, ngành cần tập trung đẩy mạnh hoạt động thanh tra; xác định thanh tra là một trong những phương thức quan trọng để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước của Bộ. (ii). Giải pháp về nâng cao năng lực thực thi công vụ cho đội ngũ thanh tra viên. Để thực hiện giải pháp nâng cao năng lực thực thi công vụ cho đội ngũ thanh tra viên hỏi phải thực hiện tổng thể những nội dung sau: Thứ nhất: đổi mới việc tuyển dụng, sử dụng và phát triển đội ngũ cán bộ, thanh tra viên vững vàng trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ. Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra thì một trong những vấn đề cần phải chú trọng là xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Xét về tính đặc thù của ngành, yêu cầu khách quan đối với đội ngũ cán bộ, thanh tra viên phải có năng lực phân tích, tổng hợp vấn đề; có khả năng phối hợp tốt, cũng như có thể độc lập trong nghiên cứu và tiến hành công vụ; có khả năng trình bày, kết luận vấn đề một cách logic, rõ ràng, mạch lạc.. cả trong trao đổi trực tiếp và trong biên tập văn bản. Thanh tra viên cũng phải thường xuyên cập nhật và nắm vững những kiến thức về pháp luật, chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước, về khoa học công nghệ phục vụ nhiệm vụ thanh tra, xem xét, kết luận vụ việc khiếu nại, tố cáo. Trong những năm qua, Thanh tra bộ đã rất quan tâm và làm tốt công tác tuyển chọn, bố trí cán bộ, công chức trong đơn vị. Tuy nhiên để đáp ứng 71 yêu cầu công việc ngày càng cao, trong thời gian tới Thanh tra bộ cần tiếp tục quan tâm thực hiện tốt công tác này, vì đây là nhiệm vụ hết sức trọng yếu, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy " Mọi việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay xấu". Thứ hai: thường xuyên có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thanh tra và cộng tác viên thanh tra. Hiện nay các chương trình đào tạo, bồi dưỡng công chức còn nặng về lý thuyết, giảng dạy còn chung chung, chưa đi sâu vào từng lĩnh vực, nội dung giảng dạy chưa xuất phát từ nhu cầu thực tế của công chức. Đổi mới chương trình đào tạo, bồi dưỡng có nghĩa là đổi mới theo hướng chuyên sâu vào các chương trình giảng dạy, đặt ra các tình huống cụ thể diễn ra trong thực tế để học viên tự giải quyết nhằm nâng cao kỹ năng giải quyết công việc của công chức, tránh tình trạng học lý thuyết suông, không gắn liền với thực tế, không được thực hành nên cảm thấy nhàm chán. Nội dung chương trình giảng dạy cần cập nhật kiến thức, thông tin trong và ngoài nước, giúp học viên có được cái nhìn thực tế mới mẻ, thực tiễn và có thể áp dụng vào việc thực hiện chức năng nhiệm vụ được giao. Đổi mới phương pháp đào tạo, bồi dưỡng, giảng dạy có vai trò rất lớn trong quá trình truyền thụ kiến thức, kỹ năng cho người đi học. Việc bồi dưỡng có thể dưới nhiều hình thức khác nhau: ngắn hạn, dài hạn, đào tạo trong nước và nước ngoài; chú ý tới việc đào tạo và bồi dưỡng các kiến thức tổng hợp và chuyên ngành cho đội ngũ thanh tra viên, các kiến thức về công tác nghiệp vụ, học hỏi các kinh nghiệm thực tế; trau dồi liên tục các kiến thức mới phù hợp với thời đại. Tổ chức các đợt tập huấn kỹ năng thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành, chia sẻ kinh nghiệm nghiệp vụ thanh tra. Tổ chức các đoàn khảo sát ngắn hạn tại một số nước trong khu vực để học tập kinh nghiệm thanh tra. 72 Cần thiết kế nội dung đào tạo không nên quá nặng về kiến thức lý luận chung mà cần chú trọng đến kỹ năng, nghiệp vụ thanh tra để phát hiện các hành vi vi phạm, nhằm kịp thời chấn chỉnh và xử lý các vi phạm pháp luật, đáp ứng yêu cầu công tác thanh tra trong giai đoạn hiện nay. Qua đó nâng cao toàn diện và đầy đủ về kiến thức và trí tuệ cho cán bộ thanh tra, có một tư duy nhanh nhạy, sắc bén, biết tổng hợp và phân tích nhanh các sự kiện và xử lý kịp thời các tình huống phát sinh trong quá trình thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo. Cần bố trí cho cán bộ, Thanh tra viên tham gia các lớp đào tạo chương trình thanh tra cơ bản và nâng cao tại trường Cán bộ thanh tra của Thanh tra Chính phủ hoặc đề xuất mở các lớp theo chuyên ngành của Bộ. Thứ ba: để nâng cao năng lực của công chức trong ngành còn có các giải pháp khác như: Khen thưởng, kỷ luật, nhằm tạo động lực để công chức phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ; kiểm tra thanh tra thường xuyên trình độ, kỹ năng của công chức, xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm của cán bộ, công chức, tránh tình trạng gửi gắm vào làm dù không có trình độ,...Tăng cường kiểm tra giám sát cán bộ thực hiện nhiệm vụ thanh tra và các đoàn thanh tra, xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật của các cán bộ thanh tra trong quá trình thực thi công vụ. Trong tình hình hiện nay, khi đi vào cơ chế thị trường, mở rộng giao lưu quốc tế, trước sự cám dỗ của tiền tài vật chất, nhiều cán bộ đã lơi lỏng tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu, né tránh tự phê bình và phê bình nên bị chủ nghĩa cá nhân lấn át. Những năm vừa qua trên thực tế đã có nhiều cán bộ thanh tra không tránh được những cám dỗ vật chất, đã lợi dụng chức vụ quyền hạn dẫn đến vi phạm pháp luật và phải chịu sự trừng phạt của pháp luật. Để giữ cho cán bộ thanh tra "là tấm gương sáng cho người ta soi mặt" như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn, ngoài các biện pháp nâng cao phẩm 73 chất đạo đức của cán bộ thanh tra như đã nêu trên, cần phải có những chế tài xử lý nghiêm minh đối với những cán bộ suy thoái đạo đức, tham nhũng, tiêu cực, có hành vi vi phạm pháp luật. (iii). Giải pháp về tăng cường sự phối hợp Phối hợp ở đây bao gồm phối hợp bên trong (giữa Thanh tra bộ với các cơ quan chuyên môn của Bộ) và phối hợp với các cơ quan bên ngoài. Với cơ quan bên ngoài Bộ, cần xây dựng, hoàn thiện các quy định, cơ chế phối hợp giữa các cấp, các tổ chức trong giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm soát trong lĩnh vực tài nguyên - môi trường, cụ thể là: Theo quy định thì hoạt động thanh tra chuyên ngành không chỉ do Thanh tra bộ tiến hành mà còn do các cơ quan được giao thực hiện quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực thực hiện như các Tổng cục, Cục thuộc Bộ. Tại khoản 1, Điều 30, Luật Thanh tra 2010 quy định: " Cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành không thành lập cơ quan thanh tra chuyên ngành độc lập. Hoạt động thanh tra chuyên ngành do người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành thực hiện theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. " Tại Điều 34, Luật Thanh tra 2010 quy định: " Người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành phải là công chức của cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, có chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với chuyên ngành, am hiểu pháp luật, có nghiệp vụ thanh tra " Như vậy, hoạt động thanh tra chuyên ngành ở các Tổng cục, Cục thuộc Bộ chủ yếu dựa vào sự lãnh đạo, chỉ đạo của người đứng đầu Tổng cục, Cục và người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành phải là công chức của cơ quan nên cũng phải chịu sự chỉ đạo trực tiếp và chịu trách nhiệm trước tập thể lãnh đạo và người đứng đầu cơ quan. 74 Trong khi đó, xét về mặt hành chính thì Chánh Thanh tra bộ và người đứng đầu các Tổng cục, Cục thuộc Bộ là ngang cấp; vì vậy nếu không quy định rõ mối quan hệ lãnh đạo giữa Chánh Thanh tra bộ và người đứng đầu các Tổng cục, Cục thuộc Bộ trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện thanh tra chuyên ngành thì rất dễ dẫn đến tình trạng chồng chéo hoặc bỏ sót nhiệm vụ. Cùng với các Tổng cục, Cục thuộc Bộ; Thanh tra Sở Tài nguyên và Môi trường các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cũng được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành. Trong khi đó, theo quy định tại Khoản 2 Điều 23 Luật Thanh tra 2010: “Chánh Thanh tra sở do Giám đốc sở bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi thống nhất với Chánh Thanh tra tỉnh”, việc quy định này đã khiến lãnh đạo Thanh tra hoàn toàn lệ thuộc vào Giám đốc Sở; đồng thời sẽ làm cho hoạt động thanh tra khó có thể độc lập, khách quan khi đối tượng thanh tra chủ yếu là cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính và chủ thể tham gia chủ yếu là người có chức vụ, quyền hạn trong bộ máy nhà nước. Mặc dù về mặt tổ chức, Thanh tra sở là một phòng ban của Sở, tuy nhiên để đảm bảo nguyên tắc của hoạt động thanh tra tuân theo pháp luật (tương tự như tính độc lập trong xét xử của tòa án) thì cần có những quy định đặc thù về mặt tổ chức thanh tra chuyên ngành. Hơn nữa, Thanh tra sở chịu sự chỉ đạo, điều hành trực tiếp của Giám đốc sở; Thanh tra bộ chỉ có nhiệm vụ, quyền hạn hướng dẫn nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành đối với Thanh tra Sở. Do đó, cần phải sửa đổi theo hướng tăng cường vai trò của Chánh Thanh tra bộ trong việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Chánh Thanh tra Sở trước khi Giám đốc sở quyết định. Theo đó, điều luật trên nên điều chỉnh “Chánh Thanh tra Sở do Giám đốc Sở bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và phải có sự đồng ý của Chánh Thanh tra bộ và Chánh Thanh tra tỉnh”; đồng thời phải quy định rõ thẩm quyền, trách nhiệm phối hợp giữa Chánh Thanh 75 tra bộ với Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động thanh tra chuyên ngành, đảm bảo hoạt động thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực tài nguyên - môi trường được đồng bộ, toàn diện, thông suất, kịp thời, hiệu quả. Tăng cường sự phối hợp giữa các đơn vị thuộc trực thuộc Bộ để thực hiện kế hoạch thanh tra, kiểm tra đã được phê duyệt, chủ động bố trí nhân sự và tạo mối liên hệ chặt chẽ với các đơn vị trong và ngoài Bộ để chuẩn bị kế hoạch chi tiết cho các bước thực hiện đối với từng nội dung thanh tra. Tạo sự phối hợp chặt chẽ đối với các địa phương trên cả nước trong công tác thanh tra, kiểm tra về tài nguyên và môi trường. Thực hiện tốt việc tổng hợp, theo dõi, nắm tình hình việc xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra của các Sở Tài nguyên và Môi trường. Tăng cường theo dõi, đôn đốc các địa phương trong quá trình thực hiện kế hoạch thanh tra, kiểm tra về tài nguyên của địa phương mình. 3.2.2. Nhóm giải pháp về nâng cao hiệu quả hoạt động Thanh tra Bộ Thứ nhất, tăng cường tính chủ động, tính độc lập tương đối trong hoạt động thanh tra. Cần trao quyền chủ động hơn nữa cho Chánh Thanh tra Bộ trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn. Việc tăng cường sự chủ động cho Chánh Thanh tra Bộ không làm giảm đi sự chỉ đạo quản lý thống nhất của Bộ trưởng mà nhằm giúp Thanh tra bộ thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước được phân cấp. Chánh Thanh tra Bộ căn cứ vào chức năng nhiệm vụ của mình và tình hình cụ thể của ngành để lập kế hoạch thanh tra sát với yêu cầu quản lý nhà nước; tăng cường thanh tra công tác quản lý nhà nước và việc chấp hành pháp luật trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, những vấn đề bức xúc, dư luận có nhiều ý kiến như: bảo vệ môi trường, khai thác tài nguyên 76 Người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước không được can thiệp vào các hoạt động nghiệp vụ của Đoàn thanh tra. Trình tự, thủ tục thanh tra đã được pháp luật quy định chặt chẽ, cụ thể, do đó các thành viên Đoàn thanh tra cần tuân thủ nghiêm nghặt trình tự, thủ tục này mà không chịu bất cứ tác động nào cho dù đó là của người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước nhằm đưa ra một kết luận thanh tra đúng đắn. Sau khi có kết luận thanh tra, người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước hoàn toàn có thể đồng ý hoặc không đồng ý với kết luận thanh tra nhưng không thể sửa kết luận thanh tra. Nên chăng có thể xem xét mở rộng phạm vi quyền hạn. Cần quy định Trưởng đoàn thanh tra được ban hành kết luận thanh tra, vì Trưởng đoàn thanh tra là người lãnh đạo đoàn và trực tiếp tiến hành cuộc thanh tra. Do đó, hơn ai hết Trưởng đoàn thanh tra là người hiểu rõ nội dung vụ việc và thấy cần kết luận như thế nào trên cơ sở quy định của pháp luật. Luật Thanh tra quy định trách nhiệm ban hành kết luận thanh tra do người ban hành quyết định thanh tra, thiết nghĩ là chưa hợp lý vì đây không phải là người trực tiếp tiến hành cuộc thanh tra. Mặt khác, trong một số trường hợp có thể Trưởng đoàn thanh tra lại không nhất trí với kết luận của người ra quyết định thanh tra. Vì thế, cần quy định Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm kết luận thanh tra để đảm bảo tính kịp thời và tính tự chịu trách nhiệm của Trưởng đoàn thanh tra. Thứ hai, tăng cường thẩm quyền cho cơ quan thanh tra Theo quy định của Luật Thanh tra hiện nay, hàng năm cơ quan có thẩm quyền thanh tra phải gửi Kế hoạch thanh tra cho đối tượng thanh tra và các cơ quan, tổ chức có liên quan. Quy định như trên có ưu điểm là đảm bảo tính công khai minh bạch, giúp đối tượng được thanh tra chủ động bố trí công việc. Tuy nhiên có hạn chế là do nắm được lịch thanh tra cụ thể, các tổ chức nhất là những doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp có liên quan đến lĩnh vực tài nguyên môi trường sẽ có những hành vi đối phó. Ví dụ: các doanh 77 nghiệp có khả năng phát thải ra môi trường cao sẽ dừng hoạt động để bảo dưỡng máy móc thiết bị, do đó ngừng việc vận hành các công trình xử lý môi trường vào đúng thời điểm thanh tra theo kế hoạch, do đó kết quả thanh tra không thu được kết quả theo yêu cầu.Thực trạng có trường hợp khi thanh tra theo kế hoạch nhưng yêu cầu phải lấy mẫu đột xuất ngoài giờ hành chính, ngày làm việc hành chính, để đảm bảo tính khách quan, chính xác, nhưng khi lấy mẫu xong, quay trở lại làm việc thì đối tượng thanh tra không phối hợp với lý do đã hết giờ làm việc hoặc không phải là ngày làm việc theo lịch thanh tra. Vì vậy, bên cạnh trình tự thủ tục thanh tra chung cần có những quy định về trình tự thủ tục thanh tra chuyên ngành đặc thù theo hướng đơn giản, nhanh gọn và đảm bảo tính bất ngờ khi tiến hành thanh tra đột xuất, phù hợp với đặc điểm của thanh tra chuyên ngành, đặc biệt trong lĩnh vực môi trường. Để hạn chế việc lạm quyền, lồng quyền, cần có quy định rõ về quyền hạn, trình tự thủ tục thanh tra đột xuất ngoài giờ hành chính. Thứ ba, giải pháp hoàn thiện chính sách. Trên thực tế cho thấy công tác thanh tra và xử lý doanh nghiệp vi phạm trong lĩnh vực tài nguyên - môi trường còn nhiều bất cập, có dấu hiệu tiêu cực giữa thành viên cơ quan thanh tra, kiểm tra và doanh nghiệp (bao che, bảo kê, hành vị "mặc cả ", "thống nhất " số lượng, mức phạt ...) đối với các vi phạm khi bị phát hiện nhằm thu lợi bất chính. Hành vi đó đã làm cho đối tượng thanh tra nhờn luật và làm giảm hiệu lực, hiệu quả của công tác thanh tra. Vì vậy, cùng với việc tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, triển khai đồng bộ các biện pháp quản lý chặt chẽ cán bộ thanh tra và hoạt động thanh tra thì việc tiếp tục hoàn thiện chế độ, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, công chức ngành thanh tra nói chung, thanh tra chuyên ngành tài nguyên - môi trường nói riêng là rất cấp thiết, vừa góp phần khắc phục lối sống thực dụng, 78 vừa động viên sự nhiệt tình hăng hái, củng cố sự đoàn kết thống nhất, nâng cao trách nhiệm, hiệu quả công tác của cán bộ thanh tra. Chính sách đãi ngộ cán bộ, công chức bao gồm cả đãi ngộ về vật chất và khuyến khích về tinh thần. Trong chính sách đãi ngộ, chính sách khuyến khích bằng lợi ích vật chất là cơ bản, chủ yếu và quan trọng nhất, như: tiền lương, thưởng; phụ cấp, khu vực, làm thêm giờ, trợ cấp khó khăn . Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, lợi ích vật chất và tinh thần phải đan xen với nhau, trong phần thưởng về vật chất có phần thưởng về tinh thần, ngay cả mức lương cũng chứa đựng sự đánh giá của xã hội đối với những cống hiến của cá nhân. Vì vậy, phải coi trọng lợi ích về tinh thần đối với cán bộ; cần kịp thời biểu dương kết hợp với khen thưởng bằng vật chất với những công chức nhiệt tình, say mê công tác, tự rèn luyện, nâng cao trình độ mọi mặt, giữ gìn phẩm chất đạo đức tốt. Ngoài ra, để đội ngũ công chức thanh tra có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao nơi làm việc phải được trang bị phương tiện làm việc cần thiết đáp ứng với yêu cầu của công việc. Cải thiện điều kiện và môi trường làm việc góp phần tăng hiệu quả hoạt động của công sở; tăng năng suất lao động của cán bộ, công chức. Tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ, công chức cập nhật được nhanh nhất các thông tin chuyên ngành, tiếp cận được tri thức mới cũng như thành tựu khoa học, công nghệ; từng bước hiện đại hoá phương tiện làm việc cho hoạt động thanh tra chuyên ngành tài nguyên - môi trường, đặc biệt là trang bị các thiết bị kỹ thuật hiện đại phục vụ cho quá trình thanh tra. Thứ tư, giải pháp đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, tăng cường cơ sở vật chất trong hoạt động của cơ quan thanh tra. Xây dựng và hoàn thiện các hệ thống cơ sở dữ liệu về thanh tra chuyên ngành; xây dựng và triển khai hệ thống xử lý đơn thư và phòng chống tham nhũng trong lĩnh vực tài nguyên - môi trường. Hiện tại, quá trình xử lý công 79 việc cụ thể trong hoạt động thanh tra của Thanh tra bộ vẫn mang tính thủ công. Công tác tổng hợp, báo cáo, lưu trữ, xử lý và khai thác các thông tin liên quan đến hoạt động thanh tra còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, việc chưa coi công nghệ thông tin là một công cụ hỗ trợ tác nghiệp cũng hạn chế nhiều đến hiệu quả hoạt động này của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường. Để góp phần cải thiện tình trạng này trong thời gian tới, Thanh tra bộ cần tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin. Cụ thể: Cần thiết lập mạng thông tin và Cổng giao tiếp điện tử các cơ quan thanh tra; số hóa cơ sở dữ liệu cán bộ, công chức ngành thanh tra; Xây dựng và áp dụng các phần mềm tin học vào hoạt động thanh tra nhằm bảo đảm tính chính xác và kịp thời trong hoạt động thanh tra; Trang bị máy tính xách tay (laptop) và các phương tiện khác cho những công chức làm công tác thanh tra; Xây dựng các quy trình trực tuyến để dễ dàng theo dõi, kiểm soát. Tiếp tục quan tâm tăng cường đầu tư trang thiết bị, phương tiện làm việc hiện đại, nhất là đối với các trang thiết bị kỹ thuật phục vụ công tác thanh tra chuyên ngành. Tăng cường đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu phục vụ cho các Đoàn thanh tra triển khai các cuộc thanh tra theo đúng kế hoạch, đảm bảo tiến độ và chất lượng; đồng thời quan tâm đầu tư cho công tác tham mưu, tổng hợp, nghiên cứu, đào tạo, bối dưỡng về công tác thanh tra nói chung, thanh tra chuyên ngành lĩnh vực tài nguyên - môi trường nói riêng. Thứ năm, giải pháp về chuyên môn, nghiệp vụ thanh tra. Với địa bàn rộng, đối tượng quản lý nhiều, lĩnh vực phức tạp, liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân vì thế Thanh tra Bộ Tài nguyên và môi trường cầntiến hành thanh tra cần có trọng tâm, trọng điểm, nhanh gọn, chính xác, tập trung vào những vấn đề nổi cộm, bức xúc được dư luận xã hội quan tâm để vừa góp phần làm ổn định tình hình, vừa kịp thời xử lý những sai phạm. Để đảm bảo chất lượng, hiệu quả cuộc thanh tra, khi tiến hành thanh tra phải 80 đúng với các quy định của pháp luật; quy chế, quy định của ngành; thanh tra có trọng tâm, trọng điểm, tránh tràn lan, giải quyết dứt điểm từng vụ việc; kết luận thanh tra đảm bảo khách quan, trung thực, làm rõ những ưu điểm, hạn chế, vi phạm; tháo gỡ những khó khăn; xử lý, giải quyết hiệu quả các vụ việc, công khai kết quả xử lý vi phạm. Đặc biệt là phải nắm chắc tình hình, kịp thời tổ chức thanh tra ngay từ khi có dấu hiệu vi phạm. Trên thực tế, trong thời gian qua, nhiều vụ việc vi phạm chỉ được phát hiện qua kênh báo chí, thậm chí chỉ phát hiện ra khi vụ việc đã gây hậu quả nghiêm trọng ( vụ Formusa) dẫn đến việc khắc phục phải kéo dài, tốn nhiều tiền của, công sức của các cấp, các ngành và ảnh hưởng lớn đến niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Nên quy định tăng thêm thời gian xây dựng báo cáo kết quả thanh tra và thời gian kết luận thanh tra. Thực tế cho thấy nhiều cuộc thanh tra chuyên ngành vừa qua đều vi phạm quy định về thời gian xây dựng báo cáo kết quả thanh tra và thời gian kết luận thanh tra. Nguyên nhân chủ yếu là do hoạt động thanh tra chuyên ngành về tài nguyên - môi trường mang tính phức tạp cao và rất nhạy cảm, việc xây dựng báo cáo kết quả cũng như kết luận thanh tra đòi hỏi phải hết sức thận trọng, khách quan, chặt chẽ, công tâm, nếu không sẽ có tác động rất lớn đến an ninh chính trị, an ninh kinh tế trong địa bàn, rộng hơn là ảnh hưởng đến cả một vùng, thậm chí là cả quốc gia. 3.2.3. Giải pháp hỗ trợ Công tác thanh tra trên lĩnh vực tài nguyên - môi trường có vai trò hết sức quan trọng giúp cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ để đạt được định hướng trên. Vì vậy, cùng với việc xác định và tổ chức thực hiện tốt các nhóm giải pháp trực tiếp nâng cao chất lượng, hiệu quả tổ chức và hoạt động của Thanh tra bộ thì cũng rất cần triển khai thực hiện tốt các nhóm giải pháp hỗ trợ sau: 81 Thứ nhất, nâng cao trách nhiệm, hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Đẩy mạnh điều tra, đánh giá tiềm năng, trữ lượng, giá trị kinh tế, thực trạng và xu hướng diễn biến của các nguồn tài nguyên quốc gia, đặc biệt là tài nguyên khoáng sản, tài nguyên nước, tài nguyên biển. Quy hoạch, quản lý và khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả và bền vững các nguồn tài nguyên quốc gia. Đổi mới công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai. Quy hoạch khai thác, bảo vệ nguồn nước, tăng cường quản lý nguồn nước theo lưu vực sông; chủ động hợp tá Thứ hai, tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các quy định của pháp luật về tài nguyên - môi trường, vì hiện nay còn có nhiều quy định chưa đồng bộ, chưa chặt chẽ, thiếu nhiều quy định chi tiết, cụ thể; quy chuẩn kỹ thuật còn bất cập; cơ chế, chính sách bảo vệ môi trường chậm đổi mới, chưa theo kịp với những thay đổi nhanh của thực tế, tính chất phức tạp của các vấn đề môi trường. Nếu không tháo gỡ được những vấn đề trên thì hoạt động thanh tra trong lĩnh vực tài nguyên - môi trường sẽ gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, hiệu quả thấp. Thứ ba, hoàn thiện hệ thống pháp luật, ban hành các chế tài đủ mạnh để bảo vệ môi trường. Chủ động xây dựng, triển khai việc thực hiện các chương trình, kế hoạch ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai cho từng giai đoạn. Nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo và ứng phó với thiên tai, giám sát biến đổi khí hậu. Nâng cao năng lực quan trắc, cảnh báo, phát hiện sớm các dấu hiệu bất thường và các sự cố về môi trường. Thứ tư, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục trong nhân dân; phát huy vai trò, trách nhiệm của mọi tổ chức, cá nhân trong việc bảo vệ môi trường; có cơ chế khuyến khích các tổ chức, cá nhân thực hiện tốt nghĩa vụ bảo vệ môi trường. Tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật về thanh tra nói 82 chung và thanh tra tài nguyên và môi trường nói riêng. Phổ biến, giáo dục pháp luật là một trong những giải pháp quan trọng giúp cho các đối tượng có tri thức pháp lý, tình cảm pháp luật đúng đắn và hành vi hợp pháp, tạo tiền đề cho việc sử dụng quyền lực nhà nước, tăng cường pháp chế, phát huy dân chủ và quyền tự do của mỗi người. Phổ biến, giáo dục pháp luật đồng thời tạo ra khả năng đổi mới các quan hệ xã hội trong môi trường quản lý nhà nước bằng pháp luật, hình thành các điều kiện và nhân tố thuận lợi cho quá trình quản lý nhà nước, quản lý xã hội; tạo ra khả năng phát hiện và loại trừ những hiện tượng tiêu cực, chống đối pháp luật diễn ra trong quá trình quản lý. Đây là những cơ sở pháp lý, thực tiễn rất quan trọng không những chỉ giúp cho Bộ thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực tài nguyên - môi trường mà còn giúp cho Thanh tra bộ có cơ sở, căn cứ trong việc chủ động xây dựng kế hoạch và nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả của công tác thanh tra chuyên ngành. 83 Tiểu kết Chương 3 Trong phạm vi Chương 3, luận văn đã tập trung giải quyết những vấn đề sau: Thứ nhất, xác định quan điểm nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường là: Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy gắn với hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; xác định rõ quan hệ giữa tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách; quyền hạn đi đôi với trách nhiệm và đề cao trách nhiệm người đứng đầu; đảm bảo sự quản lý thống nhất, thông suất, tinh gọn, hợp lý, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, khắc phục tình trạng buông lỏng, trì trệ trên một số lĩnh vực. Thứ hai, đề xuất 3 giải pháp cần tập trung chỉ đạo tổ chức thực hiện trong thời gian tới, gồm: giải pháp tiếp tục hoàn thiện về tổ chức, giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động và các giải pháp hỗ trợ. 84 KẾT LUẬN Trong những năm qua, kết quả đạt được trong công tác thanh tra chuyên ngành của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường đã góp phần quan trọng vào sự phát triển bền vững của các ngành, lĩnh vực, địa phương nói riêng và của cả nước nói chung. Tuy nhiên, trước sự phát triển nhanh chóng của kinh tế - xã hội trong thời kỳ đấy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với tinh thần " Quốc gia khởi nghiệp " đã đặt ra yêu cầu nhiệm vụ rất nặng nề, cấp bách, cho ngành tài nguyên và môi trường nói chung, Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường nói riêng, đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, điều chỉnh, nhằm hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn phát triển mới. Chính vì vậy, việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn nhằm đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường là rất quan trọng và cần phải đặt ra trong chương trình tổng thể cải cách hành chính nói chung, đặc biệt là trong bối cảnh đẩy mạnh việc phân cấp giữa Trung ương và địa phương hiện nay. Trong phạm vi của luận văn tác giả đã tập trung tìm tòi, nghiên cứu để giải quyết một số vấn đề cơ bản sau: Thứ nhất, về mặt lý luận, Luận văn Trong Chương 1, dưới góc độ lý luận, luận văn đã phân tích và làm sáng tỏ những nội dung sau: Làm rõ khái niệm về tổ chức và hoạt động Thanh tra bộ và các yếu tố cấu thành của khái niệm. Phân tích, làm rõ vai trò của tổ chức và hoạt động Thanh tra bộ đối với công tác quản lý nhà nước của Bộ. Xem xét những yếu tố chính ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của Thanh tra bộ như vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nguồn nhân 85 lực của đất nước và hệ thống các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động bộ máy nhà nước nói chung và tổ chức và hoạt động ngành thanh tra nói riêng. Thứ hai, nghiên cứu thực trạng về tổ chức bộ máy và cán bộ của Thanh tra bộ từ khi Luật Thanh tra năm 2010 được ban hành cho đến nay, làm rõ ưu điểm, hạn chế qua các lần kiện toàn để đánh giá mức độ phù hợp và tỉnh hiệu quả của mô hình tổ chức hiện nay. Thứ ba, nghiên cứu, tổng hợp kết quả hoạt động thanh tra trong lĩnh vực tài nguyên - môi trường của Thanh tra bộ từ năm 2012 đến năm 2016 để có cơ sở thực tiễn rút ra được những ưu điểm, hạn chế có tính hệ thống trong tổ chức và hoạt động thanh tra chuyên ngành của Thanh tra bộ. Thứ tư, trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng về tổ chức và hoạt động của Thanh tra bộ từ năm 2012 đến năm 2016; Chương 3 luận văn đã xác định quan điểm nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường; đồng thời đề xuất 3 giải pháp cơ bản cần tập trung chỉ đạo tổ chức thực hiện trong thời gian tới. 86 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Tài nguyên và môi trường (2015), Báo cáo chuyên đề Kết quả công tác thanh tra, kiểm tra ngành tài nguyên và môi trường, giải quyết vụ việc tồn đọng, kéo dài và các vụ việc Thủ tướng Chính phủ giao năm 2014. 2. Bộ Tài nguyên và môi trường (2012, Báo cáo tổng kết công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết đơn thư khiếu tố ngành tài nguyên và môi trường năm 2012 và phương hướng nhiệm vụ năm 2013 3. Bộ Tài nguyên và môi trường (2013), Báo cáo tổng kết công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết đơn thư khiếu tố ngành tài nguyên và môi trường năm 2013 và phương hướng nhiệm vụ năm 2014. 4. Bộ Tài nguyên và môi trường (2014), Báo cáo tổng kết công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết đơn thư khiếu tố ngành tài nguyên và môi trường năm 2012 và phương hướng nhiệm vụ năm 2015 5. Bộ Tài nguyên và môi trường (2015), Báo cáo tổng kết năm 2015 và phương hướng nhiệm vụ năm 2016. 6. Bộ Tài nguyên và môi trường (2016), Báo cáo tổng kết năm 2016 và phương hướng nhiệm vụ năm 2017. 7. Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội. 8. TS. Tạ Ngọc Hải, Khái niệm, phân loại và các đặc trưng cơ bản của tổ chức từ giác độ khoa học tổ chức nhà nước. 9. Hồ Chí Minh, Huấn thị tại Hội nghị cán bộ thanh tra lần thứ 3 năm 1960, NXB Sự thật, (1978). 10. Hồ Chí Minh, Tuyển tập, tập I, trang 502, NXB Sự Thật. H.1980. 11. Hồ Chí Minh, Về xây dựng Đảng, NXB Sự thật, (1980), Hà Nội. 12. Hồ Chí Minh, tuyển tập, NXB Sự thật, (1984), Hà Nội. 87 13. Học viện Hành chính Quốc gia (2011), Giáo trình Thanh tra và giải quyết khiếu nại hành chính, Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật. 14. Học viện Hành chính Quốc gia (2012), Giáo trình tổ chức nhân sự Hành chính nhà nước, Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật. 15. Lê Thiên Hương (2011), Thanh tra – một phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước hiệu quả trong nhà nước pháp quyền, đề tài khoa học cấp cơ sở trọng điểm. 16. Nguyễn Huy Hoàng (2004), “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Thanh tra bộ, thanh tra chuyên ngành” Luận văn thạc sỹ luật học . 17. Nguyễn Khắc Hường (chủ biên), (2004), “Tổ chức, hoạt động và mối quan hệ giữa Thanh tra bộ và thanh tra chuyên ngành - thực trạng và giải pháp” Đề tài khoa học cấp Bộ. 18. Nguyễn Thị Thương Huyền, (2009), Hoàn thiện pháp luật thanh tra trong giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến sỹ luật học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội. 19. Phạm Tuấn Khải, (1996), Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của Thanh tra Nhà nước ở Việt Nam, Luận án Phó Tiến sỹ luật học, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội 20. Ts. Phạm Tuấn Khải (2003), Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Chính phủ, NXB Công an nhân dân, Hà Nội. 21. Phạm Văn Khanh, (2003), Thực trạng tổ chức và hoạt động Thanh tra bộ, ngành, chuyên ngành ở nước ta, những vấn đề đặt ra và giải pháp, đề tài khoa học cấp cơ sở, Hà Nội. 22. Trần Đức Lượng, (2002) Hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, Đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước. 88 23. Phan Trung Lý (2010), Thanh tra chuyên ngành: khái niệm, tổ chức và hoạt động, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (12), Hà Nội. 24. Đinh Văn Minh, (2003), Phân định rõ các loại hình thanh tra-một trong những yêu cầu quan trọng trong quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra, Kỷ yếu nghiên cứu khoa học thanh tra 1992-2002, Hà Nội. 25. Đinh Văn Minh (2013), Quá trình phát triển của nhận thức, quy định của pháp luật và những vấn đề thực tiễn về thanh tra chuyên ngành, http//ww.giri.ac.vn/ qua-trinh-phat-trien-cua-nhan-thuc-quy-dinh-cua phap-luat-va-nhung-van-de-thuc-tien-ve-thanh- trahuyenganh_t104c2714n1722tn.aspx. 26. Đức Ngạn (2014), Một số vấn đề rút ra từ tổ chức và hoạt động thanh tra chuyên ngành, detail?articleid=9923&viewNewsFull=true. 27. Lê Thị Thu Oanh (2004), “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn tổ chức và hoạt động thanh tra Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ Luật học. 28. Thanh tra Chính phủ (2012), Báo cáo thực hiện Luật thanh tra 2010. 29. Nguyễn Hữu Tiếp, (2013), Một số vướng mắc trong thực hiện các quy định của Luật Thanh tra về Thanh tra chuyên ngành, Tạp chí Thanh tra (5), Hà Nội. 30. Nguyễn Thị Thục (2011), “Tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra chuyên ngành ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn thạc sỹ Luật học . 31. Bùi Thị Thanh Thúy (2015), Pháp luật về thanh tra chuyên ngành ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật, Học viện Khoa học và Xã hội. 32. Lê Thị Thúy (2013), Một số vấn đề trong quy định của pháp luật về hoạt động thanh tra chuyên ngành cần tiếp tục được nghiên cứu, điều chỉnh, m.vn/mot-so-van-de-trong-quy-dinh-cua-phap-luat-ve-hoat- 89 dong-thanh-tra-chuyen-nganh-can-tiep-tuc-duoc-nghien-cuu-dieu- chinh_t114c19n7421. 33. Thu Trang (2013) Chồng chéo thanh tra môi trường, 34. Thu Trang (2013), Tăng cường năng lực thanh tra chuyên ngành về môi trường, 35. Nguyễn Quốc Tuấn, (2005), Một số vướng mắc trong quá trình thực hiện Luật Thanh tra và giải pháp khắc phục, Tạp chí Thanh tra (8), Hà Nội. 36. Nguyễn Thiện Thuật (2008),“Tổ chức và hoạt động của các tổ chức thanh tra ở nước ta trong giai đoạn hiện nay - thực trang và giải pháp”, Luận án tiến sĩ luật học. 37. Trần Văn Truyền, (2008) “Đổi mới hệ thống tổ chức và hoạt động của ngành Thanh tra trong cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - Luận cứ khoa học phục vụ sửa đổi Luật Thanh tra và hoàn thiện pháp luật về thanh tra.”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Thanh tra Chính phủ, Hà Nội. 38. Trần Văn Truyền, (2009), Xây dựng văn hoá thanh tra và chuẩn mực đạo đức cán bộ thanh tra, Đề tài cấp Bộ trọng điểm, Thanh tra Chính phủ, Hà Nội. 39. Ths. Nguyễn Văn Tuấn (2014), Những yếu tố đặc trưng của hoạt động thanh tra chuyên ngành, trung-cua-hoat-dong-thanh-tra-chuyen-nganh_t114c19n33120. 40. Đào Trí Úc - Võ Khánh Vinh (chủ biên), (2003), Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay, NXB Công an nhân dân, Hà Nội. 41. Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, tập 8, do NXB Chính trị quốc gia ấn hành năm 1996 ngày 23-10-1996 90 42. V.I Lênin (1982), Bàn về kiểm tra và kiểm soát, NXB Sự thật, , Hà Nội. 43. Hoàng Văn Vy (2010), Luật Thanh tra cần có những quy định linh hoạt cho hoạt động thanh tra chuyên ngành, Tạp chí Thanh tra, (3), Hà Nội. 44. X-Y-Z (1959), Sửa đổi lề lối làm việc, NXB Sự thật, , Hà Nội. 45. Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội. 46. Ths. Nguyễn Thị Hải Yến (2013), “Hoạt động thanh tra chuyên ngành của cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành” Đề tài khoa học cấp cơ sở.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_to_chuc_va_hoat_dong_cua_thanh_tra_bo_tai_nguyen_va.pdf
Luận văn liên quan