Tỷ giá hối đoái có vai trò cực kỳquan trọng trong thanh toán quốc tế. Nó ảnh
hưởng trực tiếp tới ngoại thương và các quan hệ kinh tế đối ngoại. Chính vì vậy việc
lựa chọn và thực hiện chính sách tỷ giá hối đoái phải đảm bảo mục tiêu và tính khoa
học của nó. Chính sách tỷ giá góp phần ổn định và phát triển kinh tế xã hội đất nước.
Trong những năm vừa qua Việt Nam đã có những bước đi khá đúng đắn trong việc
thực hiện chính sách tỷ giá, góp phần không nhỏ vào sự tăng trưởng và ổn định nền
kinh tế nước ta. Chúng ta đã thành công bước đầu trong việc xây dựng một tỷ giá linh
hoạt và hợp lí. Tuy nhiên trong cơ chế tỷ giá của nước ta hiện nay vẫn còn những tồn
tại cần khắc phục. Sự can thiệp của NHNN vào tỷ giá tuy có giảm nhưng nhìn chung
vẫn còn khá nặng. Điều đó đã hạn chế vai trò của thị trường trong việc xác định tỷ giá
hối đoái. Trong bài viết này cũng đã đề cập đến những giải pháp đối với Việt Nam
hiện nay để có thể tiến hành tự do hoá tỷ giá thành công.
35 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3250 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tỷ giá hối đoái - Mối quan hệ với cán cân thanh toán quốc tế và giải pháp để hoàn thiện chính sách tỷ giá ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hả
nổi có quản lý, Ngân hàng Trung ương sẽ can thiệp trên thị trường ngoại hối khi tỷ
giá biến động quá mức để làm thay đổi cung cầu ngoại tệ. Khi Ngân hàng Trung ương
bán ngoại tệ làm cho cung ngoại tệ trên thị trường tăng, tỷ giá giảm. Ngược lại, khi
mua ngoại tệ cầu ngoại tệ tăng, tỷ giá tăng lên.
Những sự can thiệp khác của chính phủ như chính sách đầu tư nước ngoài,
chính sách quản lý ngoại hối cũng tác động đến tỷ giá.
IV- Chính sách tỷ giá hối đoái .
Chính sách tỷ giá hối đoái là một hệ thống các công cụ dùng để tác động vào
cung - cầu ngoại tệ trên thị trường từ đó giúp điều chỉnh tỷ giá hối đoái nhằm đạt
được những mục tiêu cần thiết.
Về cơ bản, chính sách tỷ giá hối đoái bao gồm hai vấn đề lớn là: vấn đề lựa
chọn chế độ tỷ giá hối đoái và vấn đề điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Chúng ta lần lượt
ngiên cưú hai vấn đề này.
1. Vấn đề lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái:
. Các chế độ tỷ giá hối đoái:
Nếu đứng trên tiêu thức sự phát triển của cả hệ thống tài chính thế giới, thực tế
đã có các chế độ tỷ giá hối đoái như: chế độ hối đoái cố định một cách tự nhiên theo
bản vị vàng, chế độ tỷ giá hối đoái cố định danh định Breton Woods,chế độ tỷ giá hối
đoái Gia -mai-ca, chế độ tỷ giá hối đoái bán thả nổi đặc trưng hiện nay... Nhưng nếu
đứng trên tiêu thức tồn tại trong nền kinh tế quốc tế, về cơ bản, có thể phân chia
thành ba chế độ tỷ giá hối đoái như sau:
* Chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi thuần tuý: Là một chế độ tỷ giá hối đoái mà
trong đó tỷ giá hối đoái sẽ được xác định và vận động một cách tự do theo quy luật
thị trường, cụ thể là quy luật cung cầu trên thị trường ngoại tệ. Đặc trưng của chế độ
tỷ giá hối đoái này là:
- Tỷ giá hối đoái được xác định và thay đổi hoàn toàn phụ thuộc vào tình hình
cung cầu ngoại tệ trên thị trường.
- Nhà nước mà cụ thể là NHTW hoàn toàn không có một cam kết nào về việc
chỉ đạo, điều hành tỷ giá hối đoái.
- Nhà nước mà cụ thể là NHTW không có bất cứ một sự can thiệp trực tiếp nào
vào thị trường ngoại tệ(đương nhiên vẫn có những can thiệp gián tiếp nhằm giảm bớt
những biến động mạnh của tỷ giá trên thị trường nhằm giảm bớt những tác hại đối với
nền kinh tế bằng các biện pháp thuần túy như tham gia mua bán ngoại tệ trên thị
trường theo giá cả do thị trường quyết định với tư cách như một nhà kinh doanh giao
dịch bình thường).
* Chế độ tỷ giá hối đoái cố định: Là một chế độ tỷ giá hối đoái mà trong đó nhà
nước (cụ thể là NHTW) ấn định tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền của quốc gia mình và
một đồng tiền nào đó hoặc theo một rổ các đồng tiền nào đó ở một mức không
đổi.Bằng cách thường xuyên can thiệp vào thị trường ngoại tệ để thực hiện các hoạt
động mua bán lượng dư cung hay dư cầu ngoại tệ với mức tỷ giá hối đoái cố định đã
công bố.Ví dụ như nếu cung trên thị trường nhỏ hơn cầu ở mức tỷ giá hối đoái cố
định đó thì ngân hàng sẽ đảm bảo bán ra một lượng ngoại tệ bằng lượng dư cầu và
ngược lại.Như vậy, NHTW sẽ thực hiện hoạt động mua bán lượng dư cung hay cầu
đó với tư cách là người mua bán cuối cùng, người điều phối.
* Chế độ tỷ giá hối đoái bán thả nổi (thả nổi có quản lý): Là một chế độ tỷ giá
hối đoái có sự kết hợp giữa hai chế độ tỷ giá hối đoái nói trên. Trong đó tỷ giá hối
đoái sẽ tự xác định trên thị trường theo quy luật cung cầu, Chính phủ chỉ can thiệp
khi tỷ giá có những biến động mạnh. Cách thức này thường thấy ở các nước hiện nay
là xác định một mức tỷ giá hối đoái chính thức và một biên độ dao động, nếu tỷ giá
trên thị trường dao động vượt quá biên độ dao động cho phép so với tỷ giá chính thức
thì can thiệp của nhà nước sẽ được thực hiện để duy trì biên độ đó. Nếu tình hình
kinh tế có những biến động lớn thì mức tỷ giá hối đoái cũng như biên độ giao động
cho phép cũng thường được nhà nước xác định và công bố lại. Trong chế độ này,
việc can thiệp dẫn đến những biến động tỷ giá trên thị trường phụ thuộc vào việc
đánh giá của các nhà điều hành chính sách kinh tế vĩ mô về các biến số, các mục tiêu
của nền kinh tế.
Trên đây là ba chế độ tỷ giá hối đoái cơ bản theo quan niệm chung hiện nay
trong việc phân loại chế độ tỷ giá hối đoái. Tuy nhiên trong thực tế tồn tại nhiều loại
chế độ tỷ giá hối đoái khác nhau dựa trên ba chế độ tỷ giá cơ bản đó. Chẳng hạn
trong chế độ tỷ giá cố định thì còn có cố định theo một đồng tiền hay một rổ đồng
tiền; cố định theo đồng tiền này và thả nổi với đồng tiền khác; cố định vĩnh viễn (chỉ
thay đổi khi tình hình kinh tế thay đổi) hoặc cố định nhưng nhà nước sẽ đánh giá lại
mức tỷgiá cố định này theo định kỳ... Một quốc gia có thể thực thi một chế độ tỷ giá
hối đoái cố định trong một vài năm,sau đó có thể thả nổi rồi trở lại cố định hay bán
thả nổi. Hay nói một cách khác,việc lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái thường mang tính
"định kỳ". Một vấn đề cần chú ý trong việc lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái là việc xác
định tỷ giá chính thức cho thị trường.Trong chế độ tỷ giá cố định hay bán thả nổi,
việc xác định một mức tỷ giá mang tính chính thức là cần thiết để làm chuẩn cho hoạt
động can thiệp của chính phủ trên thị trường.
2. Vấn đề điều chỉnh tỷ giá hối đoái:
Vấn đề thứ hai trong chính sách tỷ giá hối đoái là vấn đề điều chỉnh tỷ giá hối
đoái nhằm đảm bảo các cân bằng kinh tế vĩ mô tuỳ thuộc vào chế độ tỷ giá hối đoái
được lựa chọn. Một cách tổng quát, trong chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi thuần tuý, vấn
đề lựa chọn và điều chỉnh tỷ giá hối đoái không cần phải đặt ra vì điều đó hoàn toàn
do thị trường quyết định. Việc lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái càng gần với thái cực
cố định bao nhiêu thì vấn đề xác định mức tỷ giá cân bằng hợp lý và điều chỉnh tỷ giá
khi có những thay đổi trong nền kinh tế vĩ mô càng quan trọng bấy nhiêu. Trong thực
tế nhà nước có thể điều chỉnh sự mất cân bằng trong tỷ giá bằng các giải pháp sau:
- Giải pháp thường dùng là phá giá đồng tiền: Mục đích của phá giá đồng tiền là
để tăng khả năng cạnh tranh quốc tế và cải thiện tình hình cán cân thương mại trong
tài khoản vãng lai.Lý do là phá giá sẽ giúp giảm giá hàng xuất khẩu và tăng giá hàng
nhập khẩu.Tuy nhiên,việc để thực hiện việc phá giá thành công đòi hỏi phải có hàng
loạt các điều kiện đi kèm như điều kiện Marshall-Lerner.Điều kiện Marshall -Lerner
chỉ ra rằng :khi nào mà độ co giãn của đường cầu xuất khẩu cộng với độ co dãn của
đường cầu nhập khẩu lớn hơn 1( xk +nk >1) thì phá giá mới giúp cải thiện cán cân
thương mại.Ngoài việc thoả mãn điều kiện Marshall-Lerner, để thực hiện phá giá
thành công,còn cần thiết phải có những điều kiện kinh tế đi kèm như: chính phủ phải
kiên quyết thực thi một chính sách tài chính tiền tệ thắt chặt, dự trữ ngoại tệ đủ lớn...
- Bên cạnh giải pháp phá giá, vấn đề điều chỉnh khi có sự mất cân bằng ngoại
còn có thể tiến hành bằng các giải pháp khác như:Thuế nhập khẩu và trợ cấp xuất
khẩu, chính sách thu nhập và tiết kiệm...
2.1.Các công cụ sử dụng để điều chỉnh tỷ giá hối đoái :
- Công cụ lãi suất chiết khấu: Phương pháp dùng lãi suất chiết khấu để điều
chỉnh tỷ giá hối đoái là phương pháp thường dùng với mong muốn có những thay
đổi cấp thời về tỷ giá. Cơ chế tác động của công cụ này là: Trong thế cân bằng
ban đầu của cung cầu ngoại tệ trên thị trường, khi lãi suất chiết khấu thay đổi sẽ
kéo theo sự thay đổi cùng chiều của lãi suất trên thị trường. Từ đó, tác động đến
xu hướng chuyển dịch của dòng vốn quốc tế làm thay đổi tài khoản vốn và làm
những người sở hữu vốn trong nước chuyển đổi đồng vốn của mình sang đồng
tiền có lãi suất cao hơn để thu lợi và làm thay đổi tỷ giá hối đoái.Ví dụ khi lãi suất
tăng sẽ dẫn đến xu hướng là một dòng vốn vay ngắn hạn từ thị trường thế giới đổ
vào trong nước và những người sở hữu vốn ngoại tệ trong nước sẽ có khuynh
hướng chuyển đổi đồng ngoại tệ sang đồng nội tệ. Kết quả là tỷ giá giảm. Ngược
lại, sẽ làm tỷ giá tăng.
Điều kiện để sử dụng công cụ lãi suất chiết khấu trong việc tác động đến tỷ
giá là phải có một thị trường vốn (nhất là thị trường vốn ngắn hạn) đủ mạnh, tự do,
linh hoạt; tài khoản vốn được mở cửa.
- Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: Chính phủ cụ thể là NHTW sử dụng
công cụ này để tác động vào tỷ giá hối đoái bằng cách mua bán ngoại tệ trên thị
trường ngoại hối. Một nghiệp vụ mua ngoại tệ trên thị trường cuả NHTW sẽ làm
giảm cung ngoại tệ, từ đó làm tăng tỷ giá hối đoái (ngoại tệ tăng hay nội tệ giảm
giá). Ngược lại, một nghiệp vụ bán ngoại tệ rên thị trường sẽ làm giảm tỷ giá hối
đoái.
Nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ có tác động mạnh đến tỷ giá hối
đoái.Tuy nhiên để thực hiện nghiệp vụ nàyđòi hỏi quốc gia phải có dự trữ đủ
mạnh.Bên cạnh công cụ này, NHTW có thể tiến hành mua bán các chứng từ có
giá như tín phiếu kho bạc để làm thay đổi cung tiền trong nước vẫn có tác động tỷ
giá vì làm thay đổi lãi suất, mức giá cả... trong nước. Tuy nhiên cách thức này chỉ
có tác động gián tiếp đến tỷ giá nhưng lại có tác động trực tiếp đến các biến số
kinh tế vĩ mô khác.Do đó công cụ nghiệp vụ thị trường mở nội tệ thường không
được dùng như một công cụ nhằm can thiệp điều chỉnh tỷ giá hối đoái mà chỉ
được dùng phối hợp với công cụ nghiệp vụ thị trường mở ngoại tệ.
Ngoài hai công cụ cơ bản và thuần tuý mang tính kinh tế trên, các quốc gia
cũng thường dùng một số công cụ mang tính hành chính như các quy định quản lý
ngoại hối, điều chỉnh các nghiệp vụ mua bán trên thị trường... và những điều
chỉnh trong chính sách tài chính (thay đổi chỉ tiêu,thuế khoá của chính phủ) cũng
sẽ có tác động làm thay đổi tỷ giá hối đoái.Tuy nhiên,tỷ giá hối đoái cũng như thị
trường ngoại hối chỉ là một phần trong thị trường tiền tệ nói riêng và thị trường tài
chính nói chung. Vì vậy, phải đặt chính sách tỷ giá hối đoái trong mối quan hệ với
chính sách tài chính tiền tệ quốc gia.
Phần II
Tỷ giá trong mối liên hệ với cán cân thanh toán quốc tế
I- quan điểm chung:
Một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng tài chính, tiền tệ Châu á
năm 1997 là việc các nước để thâm hụt cán cân vãng lai ở mức cao và trong một thời
gian dài. Trong bối cảnh các nền kinh tế trên thế giới ngày càng phụ thuộc lẫn nhau,
việc nhìn nhận thực trạng cán cân thanh toán quốc tế của một nước là đòi hỏi cần
thiết trong việc hoạch định và điều hành chính sách kinh tế vĩ mô. Một trong những
nhân tố có mối liên hệ chặt chẽ với cán cân thanh toán là tỷ giá hối đoái. Trên thực tế,
đã nhiều nước dùng chính sách phá giá để cải thiện cán cân thanh toán nhưng thành
công hay thất bại lại phụ thuộc vào điều kiện của mỗi nước, nhất là chế độ tỷ giá
được lựa chọn ở nước đó. Mối quan hệ giữa cán cân thanh toán và tỷ giá hối đoái
được thể hiện trên các khía cạnh sau:
1. Mối quan hệ giữa cán cân thanh toán và các chế độ tỷ giá hối đoái khác
nhau.
Một trong những nhân tố tác động lớn đến tỷ giá hối đoái đó là chế độ tỷ giá hối
đoái.Các nước trên thế giới đã và đang áp dụng các chế độ tỷ giá hối đoái khác nhau
nhưng ta chỉ xem xét hai chế độ tỷ giá hối đoái cơ bản là chế độ tỷ giá hối đoái cố
định và chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi.
Dưới chế độ tỷ giá hối đoái cố định: Cán cân tổng thể là một chỉ tiêu quan trọng
bởi vì nó cho thấy áp lực phải phá giá hay lên giá đồng bản tệ.Trong trường hợp bội
chi cán cân thanh toán NHTW buộc phải can thiệp trên thị trường ngoại hối để duy trì
mức tỷ giá hối đoái cố định.
Ngược lại, dưới chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi, NHTW sẽ không can thiệp vào
thị trường ngoại hối mà giá trị của động nội tệ được quyết định bởi cung cầu. Dưới
chế độ này, cán cân tổng thể sẽ theo cơ chế tự động trở về mức cân bằng và không
áp lực cho NHTW phải phá giá hoặc lên giá đồng nội tệ.
2.Việc đánh giá tỷ giá của đồng nội tệ quá cao hay quá thấp ảnh hưởng đến
cán cân thanh toán.
Việc đánh giá quá cao tỷ giá đồng nội tệ so với giá trị thực của nó sẽ làm giảm
tính cạnh tranh quốc tế.Kết quả là xuất khẩu giảm,nhập khẩu tăng lên dẫn đến bội chi
cán cân thương mại. Trường hợp này thường thấy ở những nước theo chiến lược thay
thế nhập khẩu và ở các nền kinh tế có nhiều ngoại tệ đổ vào nền kinh tế.
3. Mối quan hệ giữa chính sách phá giá và cán cân thanh toán:
Điều kiện Marshall-Lerner chỉ ra rằng: khi nào mà độ co giãn của đường cầu
xuất khẩu cộng với độ co dãn của đường cầu nhập khẩu lớn hơn 1( xk +nk >1) thì
phá giá mới giúp cải thiện cán cân thương mại.
II- Liên hệ thực tế ở Việt Nam trong các giai đoạn:
1. Giai đoạn từ 1955 đến 1989.
Giai đoạn này, ở Việt Nam chưa xác lập nền kinh tế thị trường.C ơ chế kế hoạch
tập trung đang bao trùm nền kinh tế với nguồn ngân sách hạn hẹp, chủ yếu dựa vào
viện trợ của các nước XHCN, nhất là Liên Xô. Tiền viện trợ này được tính theo tỷ giá
do Nhà nước quy định.
Ngày 25/11/1955 đồng Việt Nam được chính thức quy định tỷ giá với đồng
nhân dân tệ (NDT) của Trung Quốc (1NDT=1470 Việt NamĐ)
Đến năm 1959, nước ta đổi tiền nên tỷ giá giữa đồng Việt Nam và đồng NDT và
đồng Rúp cũng thay đổi. Năm 1977, các nước XHCN thoả thuận với nhau thanh toán
bằng đồng Rúp chuyển nhượng.Một Rúp chuyển nhượng có lượng vàng là 0,987412
gram và tỷ giá đó được dùng trong thanh toán mua bán.Song song với tỷ giá đó Nhà
nước ta còn ấn định tỷ giá kết toán nội bộ để thanh toán giữa các tổ chức ngoại
thương.Việc sử dụng tỷ giá hối đoái trong giai đoạn này cho thấy:
+ Tỷ giá hối đoái trong giai đoạn này hoàn toàn là do ý đồ của nhà nước quyết
đinh,không xuất phát từ yêu cầu của nền kinh tế cũng như từ thị trong nước và quốc
tế.
+ Tỷ giá kết toán nội bộ được sử dụng để kết toán thu chi ngân sách đã không
phản ánh trung thực, đầy đủ sức mua của đồng Việt Nam với đồng Rúp và một số
đồng tiền khác.
Từ năm 1985 sau khi có chủ trương thu hút thêm vốn đầu tư nước ngoài thì USD
lần lượt vào thị trường nhưng chúng ta lại dùng tỷ giá do NHTW quy định còn cách xa so
với tỷ giá thực tế (giá thị trường ). Tuy chênh lệch tỷ giá đã được ấn định sát với thị
trường hơn song việc tự tạo ra một tỷ giá chính thức bóp méo so với thực tế đã không
phản ánh được các quan hệ kinh tế quốc tế và làm cho các quan hệ kinh tế chưa đạt được
hiệu quả.
Sự áp đặt tỷ giá chính thức tưởng là giữ được giá trị đồng tiền Việt Nam so với
các đồng tiền khác nhưng đã đẩy xuất khẩu Việt Nam vào ngõ cụt.Không khuyến
khích sản xuất hàng xuất khẩu, đẩy mạnh nhập khẩu làm cho cán cân thương mại bị
nhập siêu nghiêm trọng.
Việc tự ý nâng cao đồng Việt Nam một cách thiếu cơ sở đã khiến các công ty
xuất khẩu phản ứng lại bằng cách thực hiện phương châm "dùng lãi hàng nhập bù lỗ
hàng xuất". Nguyên nhân của tình trạng đồng nội tệ bị đánh giá quá cao là do khi xác
định tỷ giá chính thức đã loại bỏ yếu tố lạm phát. Tỷ giá chính thức của đồng Việt
Nam với ngoại tệ không được điều chỉnh tương ứng với lạm phát.Tuy nhiên,những
tác động tiêu cực của tỷ giá chưa được biểu hiện rõ trong nền kinh tế đóng trong cơ
chế độc quyền ngoại thương vì quan hệ ngoại thương của Việt Nam thời kỳ này chủ
yếu với các nước SEV. Tuy cán cân thương mại đã có những chuyển biến tích cực
song tình trạng nhập siêu vẫn là phổ biến :tỷ lệ xuất/nhập khẩu của giai đoạn 1975-
1980 là 1/4,2 ;giai đoạn 1981-1985 là 1/1,28; giai đoạn 1986-1990 là 1/1,8.
2. Giai đoạn từ 1990 đến nay.
Từ năm 1989 đến nay, Nhà nước đã xoá bỏ các tỷ giá hối đoái trước đây như tỷ
giá kết toán nội bộ và thực hiện chế độ một tỷ giá. Tỷ giá hối đoái đã được điều chỉnh
sát với thị trường. Nhà nước đã giao cho NHTW công bố tỷ giá chính thức giữa đồng
Việt Nam với các ngoại tệ mạnh đặc biệt là USD và cho phép NHTM được xây dựng
tỷ giá hàng ngày với mức chênh lệch 5% so với tỷ giá chính thức.
Ngoại trừ sự đột biến về tỷ giá vaò cuối năm 1991 và đầu năm 1992 thì giao
động của tỷ giá là tương đối ổn định. Nhờ áp dụng tỷ giá hối đoái mới nên đã mang
lại những kết quả thiết thực và quan trọng cho ngoại thương Việt Nam. Kinh doanh
xuất nhập khẩu được đẩy mạnh, đặc biệt là khuyến khích xuất khẩu góp phần tăng
nhanh doanh số xuất nhập khẩu, cải thiện cán cân thương mại. Nhà nước đã áp dụng
chính sách tỷ giá linh hoạt có sự quản lý của nhà nước nhưng việc điều hành của nhà
nước trong từng năm có khác nhau, ta có thể chia làm 3 thời kỳ.
- Thời kỳ từ 1989-1993: Trong thời kỳ này,tình hình tỷ giá hối đoái, lạm phát và
xuất nhập khẩuđược thể hiện trong bảng số sau:
Năm
Tỷ giá USD/VNĐ Tỷ lệ
Lạm
phát%
Xuất khẩu
(triệu USD)
Nhập khẩu
(triệu USD)
Giá chính thức
nhà nước
Giá thị
trường tự do
Tăng
giảm %
1989 4200 4570 +8,8 34,7 1946 2566
1990 6650 7550 +13,55 67,5 2404 2752
1991 12720 12550 - 0,02 68 2087 2338
1992 10720 10550 - 0,02 17,5 2581 2541
1993 10835 10736 - 0,01 5,2 2989 3879
Qua bảng cho thấy, nhìn tổng thể trong thời gian này tỷ giá có khuynh hướng
tăng và được điều chỉnh sát với thị trường tự do làm cho khuynh hướng xuất khẩu
tăng, tuy nhiên tình trạng nhập siêu vẫn là phổ biến.:thâm hụt năm 1993 là 890 triệu
USD, ngoại trừ năm 1992 có thặng dư là 40 triệu USD.
Do tỷ giá hối đoái hình thành và vận động căn cứ hàng loạt yếu tố như giá vốn
xuất khẩu, cung cầu trên thị trường nội địa, chính sách đối với đồng nội tệ, tình hình
lạm phát... cộng với trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam còn thấp nên tình trạng
thâm hụt cán cân thương mại sẽ còn kéo dài trong thời gian tới. Vì vậy đòi hỏi các
doanh nghiệp phải cố gắng để đạt được chi phí xuất nhập khẩu thấp hơn tỷ giá hối
đoái hình thành trên thị trường, chênh lệch giữa tỷ giá hối đoái trên thị trường và chi
phí xuất khẩu càng lớn thì doanh nghiệp càng có lợi.Như vậy mức tỷ giá hợp lý phải
nằm giữa giới hạn tỷ giá xuất khẩu và tỷ giá nhập khẩu.
Tỷ giá xuất khẩu < Tỷ giá hối đoái < Tỷ giá nhập khẩu
Mặt khác, vào thời gian những năm 1989-1991 giá trị đồng Việt Nam không ổn
định, lạm phát cao bội chi ngân sách lớn lại được bù đắp bằng nguồn phát hành tiền
không được kiểm soát hợp lý, quản lý ngoại tệ vừa lỏng lẻo vừa cứng nhắc hành
chính đã góp phần làm chao đảo tỷ giá hối đoái VND/USD, tạo nên cơn sốt ngoại tệ,
làm trầm trọng thêm lạm phát và ảnh hưởng không nhỏ đến cán cân thương mại.Từ
năm 1992-1993 những đổi mới trong chính sách tài chính tiền tệ như chấm dứt bù
đắp thiếu hụt ngân sách bằng phát hành tiền, duy trì lãi suất tiết kiệm,quản lý lượng
cung ứng ngoại tệ theo tốc độ tăng trưởng và mục tiêu chống lạm phát... do đó đã ổn
định được sức mua của đồng tiền.
- Thời kỳ 1993-1996: Trong thời kỳ này Nhà nước đã chủ động can thiệp và giữ
tỷ giá hối đoái trong suốt khoảng thời gian 1993-1996 với mức biến động rất nhỏ
được thể hiện qua bảng:
Lạm phát và tỷ giá của Việt Nam qua các năm 1993-1996
Năm Tỷ giá USD/VNĐ So sánh %năm trước Tốc độ lạm phát
1993 10835 100 5,2
1994 11050 +1,98 14,4
1995 11040 0 12,7
1996 11060 +0,18 4,5
Nguồn :Tạp chí phát triển kinh tế tháng 7/2000
Qua số liệu cho thấy tốc độ tăng của tỷ giá hối đoái chậm hơn tốc độ tăng của
lạm phát vì các nhân tố kinh tế đối ngoại tác động đến việc duy trì một tỷ giá hối đoái
ổn định trong một thời gian dài đã đóng vai trò quan trọng trong việc củng cố sức
mua của đồng tiền Việt Nam,kiềm chế được lạm phát, góp phần đẩy mạnh thu hút vốn
đầu tư, khuyến khích đầu tư của nước ngoài... Tuy nhiên, tỷ giá ổn định từ 1993-
1996 đã không khuyến khích được xuất khẩu,làm cho ngoại thương kém phát triển,
thể hiện qua bảng:
Số liệu xuất nhập khẩu qua các năm 1993-1996 :
(Đơn vị tính :Triệu USD)
Năm Xuất khẩu nhập khẩu So sánh
1993 2890 3977 - 1087
1994 4040 5625 - 1585
1995 5448,9 8155,4 -2706,5
1996 7253 11141 - 3888
Tình trạng nhập siêu liên tục trong thời gian này đã dẫn tới tình trạng phải tiêu
giảm dự trữ quốc gia hoặc phải vay nợ nước ngoài để bù đắp cán cân thanh toán Tuy
cơ cấu nhập khẩu có thay đổi, tỷ trọng nhập khẩu máy móc thiết bị công nghệ ngày
càng tăng nhưng nhập siêu kéo dài đã khó khăn cho nền tài chính quốc gia.
- Từ năm 1997 đến nay Nhà nước đã có những chỉ đạo:
Chỉ đạo xử lý nợ quá hạn từ năm 1994, hạn chế kịp thời tình trạng mở tài khoản
L/C thanh toán một cách tràn lan và cuối năm 1996 thông qua khống chế mức mở
L/C trả chậm, xem xét cho nhập khẩu những mặt hàng cần thiết chủ yếu là những mặt
hàng về tư liệu sản xuất, dựa vào huy động vốn trung và dài hạn càng được nâng cao
và huy động vốn bằng mọi biện pháp thông qua ký quỹ bắt buộc.
Điều hành tỷ giá hối đoái theo tín hiệu thị trường: Nhà nước thực hiện chính
sách thả nổi có kiểm soát. Nhà nước đã mở rộng biên độ giao dịch của các ngân hàng
thương mại từ 1% đến 5% rồi lên 10%,giải pháp này đã góp phần giảm sức ép đối với
tỷ giá hối đoái.Mặc dù có những biến động phức tạp về tỷ giá hối đoái song tổng kim
nghạch xuất khẩu năm 1997 vẫn tăng xấp xỉ 9%, đạt được 20050 triệu USD. Mặc dù
còn tồn tại nhiều khó khăn song năm 1997 Việt Nam đã đạt được một số thành công
đáng kể.Chính sach tỷ giá hối đoái đã được điều chỉnh từng bước linh hoạt,một mặt
tạo điều kiện cho giá trị đồng Việt Nam phản ánh tương đối xác thực cung cầu ngoại
tệ,góp phần kiềm chế lạm phát,một mặt hỗ trợ xuất khẩu.
Sang năm 1998, tình hình tỷ giá hối đoái trong nước ngày càng biến động phức
tạp,tỷ giá giữa đồng Việt Nam và đồng USD ngày càng tăng, thậm chí có ngày thay
đổi vài lần điều này đã ảnh hưởng không tốt tới đời sống kinh tế xã hội .Nhiều doanh
nghiệp cố gắng nắm giữ ngoại tệ trong tài khoản chờ tăng giá để kiếm chênh lệch.Một
số doanh nghiệp khác có nhu cầu ngoại tệ để trả nợ, mua máy móc thiết bị hoặc L/C
đến hạn thanh toán nhưng lại không dám vay vì sợ tỷ giá biến động đột ngột sẽ không
trả được nợ. Đồng ngoại tệ đóng băng, các ngân hàng không mua, không bán hoặc
cho vay bằng ngoại tệ được. Trước tình hình đó, Chính phủ đã ra quyết định
37/1998/QĐ-TTg (ngày 14/2/1998) về một số biện pháp nhằm quản lý ngoại tệ và đã
kiểm soát được lượng ngoại tệ, ngăn chặn cơn sốt tỷ giá. Tỷ giá trên thị trường tự do
và tỷ giá trên thị trường chính thức đã sát lại gần nhau. Ngân hàng đã kiểm soát được
90% lượng ngoại tệ giao dịch trên thị trường.
Tóm lại qua phân tích môí liên hệ giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thanh toán, ta
có thể thấy rõ chính sách tỷ giá có vai trò quan trọng như thế nào trong việc làm thế
nào lập lại thế cân bằng đối ngoại của một nền kinh tế vĩ mô. Mức độ ảnh hưởng của
tỷ giá hối đoái đến cán cân thanh toán hoàn toàn không đơn giản mà rất phức tạp,đòi
hỏi một sự phân tích thoả đáng điều kiện thương mại trong nước, sự thay đổi của các
chính sách kinh tế của quốc gia như chính sách lãi suất, chính sách thuế quan... đặc
biệt là chính sách tỷ giá hối đoái (trong đó bao hàm việc lựa chọn chế độ tỷ giá và sự
điều chỉnh tỷ giá hối đoái.Phần sau, chúng ta sẽ nghiên cứu vấn đề này.
Phần III
Thực trạng và xu hướng phát triển chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam
I- Thực trạng hoạch định và thực hiện chính sách tỷ giá hối đoái.
1. Thời kỳ "thả nổi" tỷ giá hối đoái 1989-1992.
Giai đoạn nay nền kinh tế nước ta mới chuyển đổi từ kế hoạch hoá tập chung
sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Vì vậy việc ấn định một tỷ
giá cứng nhắc như trong thời kỳ bao cấp sẽ trở nên bất hợp lý. Ngay từ năm 1989 Nhà
nước đã xoá bỏ chế độ nhiều tỷ giá, thống nhất vào một tỷ giá gần sát với tỷ giá của
thị trường.
Căn cứ theo quyết định số 217/CP (20/10/1988) NHTƯ đã được phép điều
chỉnh tỷ giá phù hợp với sự biến động giá cả trong nước theo nguyên tắc thời giá trừ
lùi 10% đến 30%, cá biệt đến 50%. Giá cả ở Việt Nam từ khi xoá bỏ chế độ bao cấp
hầu hết được hình thành trên thị trường và biến động theo quy luật cung cầu. Như vậy
tỷ giá đồng Việt Nam với đồng ngoại tệ cũng phải được điều chỉnh một cách linh hoạt
phù hợp vpí sự biến động giá cả trong và ngoài nước.
Tuy nhiên xu hướng chung là tăng và được Nhà nước điều chỉnh sát giá của thị
trường tự do, điều này chứng tỏ Nhà nước bắt đầu thả nổi tỷ giá, quan hệ cung cầu đã
được quan tâm đầy đủ hơn. Trong bối cảnh của Việt Nam lúc đó đang hết sức khó
khăn về cán cân thương mại và cán cân thanh toán thâm hụt nghiêm trọng thì việc
điều chỉnh chính sách tỷ giá là rất khó khăn cần phải xem xét thận trọng. Để chính
sách tỷ giá được chuyển đổi thích hợp nhưng vẫn đảm bảo khuyến khích xuất khẩu,
kích thích đầu tư trong và ngoài nước mà không tạo cú sốc đến hoạt động của nền
kinh tế, NHNN đã thực hiện đưa dần tỷ giá lên (phá giá từ từ đồng Việt Nam). Mặc dù
giá cả biến động lớn nhưng NHNN đã xem xét mức độ ảnh hưởng của tỷ giá khi đưa
lên giá cao sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến giá đầu vào của sản phẩm do đó đẩy giá đầu ra
cao lên gây mất ổn định giá cả trong nước. Thực tế trong những năm 1988 và 1989 ở
Việt Nam xuất khẩu chỉ bằng 1/3 nhập khẩu. Vì vậy khi nâng tỷ giá cao đột ngột sẽ
gây tác động mạnh đến mức giá cả trong nước. Do đó trong giai đoạn những năm
1989 - 1992, mặc dù tỷ giá biến động lớn nhưng tỷ lệ điều chỉnh tỷ giá chỉ từ 10%
đến 30% so với mức thay đổi giá thực tế. Điều này giảm bớt được sự biến động giá cả
mạnh trong nước.
Chính sách tỷ giá thả nổi được thực hiện trong giai đoạn này đã mang lại giải
pháp thích hợp hơn về chính sách tỷ giá cho một nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Tuy nhiên nó cũng gây các tác động không nhỏ đến nền kinh tế nước ta:
-Thứ nhất, việc thả nổi tỷ giá sẽ kích thích tâm lý đầu cơ ngoại tệ nhằm mục đíc
hưởng chênh lệch giá. Điều này làm cho cầu về ngoại tệ tăng, dẫn đến nhiều thay đổi
đối với thị trường ngoại tệ.
-Thứ hai, dẫn đến tình trạng tỷ giá thường xuyên đột biến do tác động của giá
cả bất ổn định trong giai đoạn này.Thêm vào đó, trường hợp thiếu ngoại tệ gây nên
những cơn sốt USD làm mất ổn định nền kinh tế.
-Thứ ba, thị trường chi phối toàn bộ tỷ giá sẽ làm cho các công cụ khác của
chính sách tiền tệ giảm hiệu lực. Từ đó làm cho việc quản lý cung tiền nói chung và
ngoại tệ nói riêng của Chính phủ không đạt được những kết quả như mong muốn.
-Thứ tư, do nhu cầu về ngoại tệ thay đổi theo tỷ giá nên Nhà nước khó có thể
kiểm soát được lưu thông ngoại tệ.
Vì những tồn tại trên, Nhà nước thấy rằng cần phải có những thay đổi nhất định
trong chính sách tỷ giá.
2. Giai đoạn 1993 - 1996 - Giai đoạn cố định tỷ giá :
Từ sau năm 1992, Nhà nước đã đưa ra quan điểm ổn định tỷ giá băng cách thực
hiện chính sách cố định tỷ giá. ở giai đoạn đầu, khi mới bắt đầu điều hành tỷ giá theo
cơ chế thị trường, việc can thiệp của NHNN vào thị trường là rất chặt chẽ. Tuy nhiên
đến thời gian tiếp theo khi nguồn ngoại tệ vào Việt Nam đã tăng lên, cung cầu không
còn khoảng cách lớn thì NHNN đã từng bước giảm bớt sự can thiệp để cho tỷ giá
hình thành một cách khách quan hơn theo quan hệ cung cầu. Để thực hiện cố định tỷ
giá NHNN đã can thiệp bằng cách mua và bán ngoại tệ: NHNN sẽ bán ngoại tệ để
giảm bớt sự xuống giá của đồng Việt Nam quá mạnh (như khoảng cuối năm 1991 và
đầu năm 1992); hoặc NHNN sẽ mua ngoại tệ vào nhằm hạn chế sự tăng giá của đồng
Việt Nam (những năm1992 - 1995 và 6 tháng đầu năm 1996). Kết quả là tỷ giá sẽ
được ổn định.
Việc thực hiện cố định tỷ giá như vậy đã có vai trò lớn trong sự ổn định của
đồng Việt Nam, tức là nó đã tạo được lòng tin cho dân chúng vào đồng Việt Nam, từ
đó củng cố sức mua cho VNĐ; đồng thời cũng tạo ra tâm lý ổn định của thị trường,
nhờ đó đã thu hút được nguồn ngoại tệ lớn từ kiều hối, đầu tư nước ngoài, vay nợ vào
Việt Nam. Có thể nói rằng sự ổn định của đồng Việt Nam ở đây không phải chỉ xét về
danh nghĩa mà cả về giá trị thực của nó.
Việc ổn định tỷ giá cũng có ảnh hưởng tốt tới mặt bằng giá cả trong nước. Giá
cả tương đối ổn định sẽ tác động tích cực tới tỷ lệ lạm phát, thể hiện ở chỗ qua các
năm 1993 - 1996 chỉ số lạm phát được duy trì ở mức chấp nhận được và có chiều
hướng đi xuống, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn tương đối
khá đã làm cho quan hệ tiền hàng được đảm bảo.
Tuy nhiên, việc cố định tỷ giá trong một thời gian dài (1993 - 1996) cũng gây ra
những bất lợi. Đó là đã không khuyến khích được xuất khẩu, làm cho ngoại thương
trở nên kém phát triển. Tình trạng nhập siêu liên tục trong giai đoạn này đã tác động
xấu gây thâm hụt cán cân thương mại. Từ đó đưa đến tình trạng phải tiêu dự trữ ngoại
hối quốc gia hoặc phải vay nợ nước ngoài để bù đắp cán cân thanh toán.
3. Giai đoạn từ 1997 đến nay:
Như ta đã biết, ngày 2/7/1997 Thái Lan phải thả nổi tỷ giá hối đoái kết thúc gần
14 năm duy trì một chế độ tỷ giá cố định và làm nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính
Đông Nam á với một ảnh hưởng rộng khắp trên toàn thế giới.Việt Nam cũng không
tránh khỏi ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng. Sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng
này đã tác động đến nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân.Cụ thể:
- Đối với lĩnh vực tài chính -ngân hàng: Khủng hoảng đã tạo sức ép giảm giá
đồng Việt Nam trên thị trường ngoại tệ, tác động xấu đến hoạt động giao dịch ngoại
tệ,ảnh hưởng đến cơ cấu tiền gửi tại hệ thống ngân hàng, gây sức ép đối với lãi suất
đồng Việt Nam và sự ổn định của hệ thống ngân hàng.
- Đối với lĩnh vực ngoại thương: Cuộc khủng hoảng làm giảm xuất khẩu của
Việt Nam sang khu vực Châu á - Thái Bình Dương, đặc biệt là các nước ASEAN.Sự
mất giá của đồng tiền trong khu vực đã kích thích gia tăng nhập khẩu.
- Đối với lĩnh vực đầu tư: Do tỷ giá tăng, lãi suất tăng, thị trường hàng hoá diễn
biến phức tạp cùng với những dự đoán không tốt trong tương lai làm các doanh
nghiệp hạn chế đầu tư, ngân hàng cũng dè dặt khi cho vay.Đầu tư của nước ngoài có
xu hướng giảm.
- Đối với thu chi ngân sách nhà nước: Sự sút giảm của thị trường tiêu dùng và
thị trường xuất khẩu đã làm cho nhiều doanh nghiệp bị thua lỗ từ đó ảnh hưởng xấu
đến nguồn thu ngân sách. Báo cáo cuả NNHH về hoạt động tín dụng, tiền tệ ngân
hàng trong 6 tháng đầu năm 1998 đã chỉ rõ "thu ngân sách 6 tháng thực hiện đạt 30%
so với kế hoạch năm, chi ngân sách khó hơn,mức bội chi có xu hướng gia tăng".
- Đối với tăng trưởng kinh tế: Khủng hoảng đã ảnh hưởng gián tiếp đến cán cân
vãng lai,đến đầu tư nước ngoài,tạo khó khăn cho sự phát triển kinh tế.
Trong bối cảnh như vậy, Chính phủ đã có những điều chỉnh trong chính sách tỷ
giá hối đoái nói chung và công tác quản lý ngoại hối nói riêng nhằm hạn chế những
tác động của khủng hoảng.
13/10/1997 Thống đốc NHNN quyết định mở rộng biên độ giao dịch lên mức
+(-)10%.Ngày 16/2/1998 NHNN quyết định nâng tỷ giá chính thức từ
1USD=11175VNĐ lên mức 1USD=11800VNĐ, tăng 5,6%.
Đến ngày 1/8/1998 NHNN điều chỉnh tăng lần thứ hai đưa tỷ giá chính thức lên
12 998 VNĐ /USD ( tăng 16.3% so với đầu năm) đồng thời biên độ giao dịch được
điều chỉnh giảm từ 10% xuống 7% để thu hẹp dần khoảng cách giữa tỷ giá chính thức
với tỷ giá trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Sau hai lần điều chỉnh tỷ giá phản
ánh sát hơn tương quan cung cầu ngoại tệ trên thị trường, góp hạn chế việc đầu cơ
ngoại tệ, giảm bớt sức ép đối với dự trữ ngoại tệ của Nhà nước.
Năm 1999, NHNN thực hiện một bước đổi mới cơ bản về điều hành tỷ giá, từ
quản lý có tính chất hành chính sang điều hành theo hướng thị trường có sự quản lý
của Nhà nước. Từ ngày 26/2/1999 thay bằng việc công bố tỷ giá chính thức NHNN
công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Tỷ giá này
được áp dụng làm cơ sở để các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ xác
định tỷ giá mua bán ngoại tệ, áp dụng để tính thuế xuất khẩu.Trên cơ sở tỷ giá giao
dịch thực tế bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của ngày giao dịch gần
nhất trước đó do NHNN công bố các tổ chức tín dụng được quy định tỷ giá giao dịch
không vượt quá 8.1% so với tỷ giá này. Đồng thời, biên độ giao dịch cũng được rút
xuống là+(-)0,1%.Với cơ chế điều hành mới, tỷ giâ của đồng Việt Nam được hình
thành trên cở giao dịch trên thị trường và phản ánh tương đối khách quan sức mua
của đồng Việt Nam so với ngoại tệ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động hơn
trong kinh doanh đồng thời vẫn đảm bảo được vai trò kiểm soát của Nhà nước.
Tóm lại, trong công cuộc đổi mới đặc biệt là từ năm1989, chính sách tỷ giá của
Việt Nam đã có bước chuyển biến rất căn bản sang cơ chế thị trường thoát khỏi trạng
thái thụ động để trở thành công cụ điều tiết vĩ mô quan trọng trong nền kinh tế mở.
Tuy nhiên, điều chỉnh tỷ giá hối đoái là công việc phức tạp, khó khăn. Việc thực hiện
các chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam trong các giai đoạn vừa qua đã thể hiện nỗ
lực cố gắng của Nhà nước ta trên con đường tìm ra giải pháp đúng đắn cho chính
sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam.i
Phần IV
Những giải pháp chủ yếu cho việc hoàn thiện chính sách tỷ giá hối đoái trong giai
đoạn tới
I- Những quan điểm chung :
Thứ nhất, thông qua lý thuyết về tỷ giá và chính sách tỷ giá cũng như việc phân
tích chính sách tỷ giá Việt Nam thời gian qua cho thấy phạm vi điều chỉnh của chính
sách tỷ giá nằm trong lĩnh vực tiền tệ nhưng định hướng của chính sách tỷ giá có ảnh
hưởng đến các khía cạnh kinh tế vĩ mô khác. Do đó, chính sách tỷ giá phải được đặt
trong sự phối hợp đồng bộ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác mà trước hết là
chính sách tiền tệ quốc gia (là một bộ phận của chính sách tiền tệ quốc gia). Có nghĩa
là hệ thống mục tiêu của chính sách tỷ giá phải xuất phát từ định hướng phù hợp với
các mục tiêu cơ bản của chính sách tiền tệ ở từng giai đoạn.
Thứ hai, các lĩnh vực các khía cạnh trong nền kinh tế thường có những mâu
thuẫn đối nghịch nhau.Việc điều hành chính sách tỷ giá hối đoái trong từng giai đoạn
phải xác định được những biến số nào có trọng số lớn hơn và phải chấp nhận hy sinh
một vài biến số khác.
Thư ba, xây dựng chính sách hối đoái phải trên cơ sở phát triển thị trường tiền
tệ trong nước và có sự hội nhập vối thị trường tiền tệ quốc tế.Và không ngừng hướng
tới việc nâng cao uy tín của đồng Việt Nam trên cơ sở ổn định giá trị đồng tiền, duy
trì sự tương đồng hợp lý giũa giá trị đồng ngoại tệ và đồng nội tệ.
Những quan điểm cần quán triệt trong việc lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái và
điều chỉnh tỷ giá hối đoái
Quan điểm lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái:
- Vấn đề lựa chọn chế độ tỷ giá cần phải có sự phân tích dự báo xem nền kinh tế
có thể phải gánh chịu những cơn sốc như thế nào trong tương lai. Chế độ tỷ giá được
lựa chọn phải giúp hạn chế tác động của các cơn sốc lênnền kinh tế.Ví dụ :đối với các
cơn sốc có nguồn gốc từ thị trường tiền tệ trong nước thì một chế độ tỷ giá hối đoái
cố định sẽ chỉ làm thay đổi dự trữ ngoại tệ quốc gia mà không làm lây lan sang thị
trường hàng hoá.Ngược lại, đối với các cơn sốc có nguồn gốc từ bên ngoài hay từ thị
trường hàng hoá trong nước thì một chế độ tỷ giá hối đoái có tính linh hoạt cao sẽ
làm giá cả hàng hoá xuất nhập khẩu được điều chỉnh theo những thay đổi tỷ giá, từ đó
điều chỉnh lại mức cầu trong nước, vì vậy sẽ tránh cho nền kinh tế khỏi bị rối loạn.
- Vấn đề lựa chọn tỷ giá hối đoái phải nhằm mục tiêu ổn định và thúc đẩy sự
phát triển hệ thống tài chính quốc gia mà cơ bản là ổn định lạm phát và giá trị đồng
nội tệ.
Quan điểm điều chỉnh tỷ giá hối đoái
- Quan điểm đầu tiên trong việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái là phải tuân theo quy
luật thị trường.Để tuân thủ các quy luật thị trường thì phải không ngừng nâng cao
năng lực cho các công cụ mang tính kinh tế. Trong đó, công cụ nghiệp vụ thị trường
mở là một trong hai công cụ cơ bản có sức mạnh to lớn.Đồng thời phải xây dựng một
cơ cấu dự trữ ngoại tệ hợp lý.
- Quan điểm thứ hai là: tỷ giá hối đoái không được phép kìm hãm xuất khẩu
hướng tới giảm thiểu sự thiếu hụt trong cán cân thương mại.
- Quan điểm thứ ba là: định hướng của vấn đề điều chỉnh tỷ giá hối đoái cần
hướng vào việc kiến tạo thị trường ngoại hối chính thức (thị trường có tổ chức, hợp
pháp ).
Tóm lại, các quan điểm cần quán triệt trong việc hoạch định chính sách tỷ giá
hối đoái được nêu ra ở trên là nhằm hướng tới một chính sách tỷ giá thực sự tự chủ
trong hoạch định độc lập trong điều chỉnh, góp phần tạo ra sự ổn định và phát triển
của nền kinh tế ,giúp cho nền kinh tế có cơ sở tốt trong sự hội nhập với nền kinh tế
thế giới.
II- Những vấn đề có liên quan và giải pháp chu yếu cho việc hoàn thiện
chính sách tỷ giá hối đoái trong giai đoạn tới :
1. Giải pháp nhằm nâng cao năng lực các công cụ cơ bản trong can thiệp vào
tỷ giá:
Thứ nhất, đối với công cụ nghiệp vụ thị trường mở: Theo lý thuyết, đây là
công cụ mang tính kinh tế thuần tuý,là công cụ can thiệp cơ bản của NHTW vào tỷ
giá hối đoái. Tuy nhiên, đối với Việt Nam như đã phân tích thì do dự trữ ngoại tệ còn
quá thấp nên công cụ này chưa có đủ sức mạnh cần thiết trong thời gian trước mắt để
có thể giữ vai trò chủ đạo của mình trong can thiệp điều hành tỷ giá hối đoái.V ì thế
chúng ta phải hoàn thiện một số vấn đề sau:
-Trước tiên, phải tranh thủ đến mức tối đa có thể được để gia tăng tích luỹ
ngoại tệ.Dự trữ ngoại tệ phải tăng tương xứng với tốc độ tăng kim ngạch nhập khẩu.
Tập trung quản lý ngoại tệ vào một đầu mối duy nhất là NHTW.Trong thời gian trước
mắt,khi dự trữ ngoại tệ chưa đủ mạnh thì phải có biện pháp cụ thể làm tăng hiệu quả
khi sử dụng dự trữ ngoại tệ để tác động vào tình hình cung cầu ngoại tệ trên thị
trường.
- Từng bước xây dựng cơ chế hành lang pháp lý, môi trường hoạt động nhằm
từng bước đưa công cụ nghiệp vụ thị trường mở lên đúng vị trí của nó trong việc can
thiệp điêù chỉnh tỷ giá hối đoái.
- Xem xét, lựa chọn cơ cấu dự trữ ngoại tệ hợp lý. Trong số các đồng tiền mạnh
hiện nay trên thế giới,chúng ta thấy nổi lên ba đồng tiền chính :thứ nhất là Dollar Mỹ, kế
đến là đồng Euro mới ra đời và cuối cùng là đồng Yên Nhật. Xu hướng vận động của ba
đồng tiền này có thể tóm lược như sau:
- Đối với đồng Dollar Mỹ :là đồng tiền rất gần gũi với nền kinh tế Việt Nam.
Hơn 90% giao dịch đối ngoại được thực hiện bởi chính đồng tiền này.Bên cạnh
đó,tình hình kinh tế thế giới cho thấy hiện tượng Dollar hoá là thực trạng chung của
hầu hết các nước đang phát triển và Dollar luôn có sự tăng giá đối với các đồng tiền
yếu khác.Nền kinh tế Mỹ dù có biến động như thế nào nhưng vẫn sẽ là một nền kinh
tế hùng mạnh nhất.
- Đối với đồng euro: là đồng tiền mang tính quốc tế hoá sau đồng Dollar
Mỹ,nhưng đồng tiền này khó đảm bảo về tính ổn định của nó do tính non trẻ cũng
như cơ sở hình thành.Đối với Việt Nam thực tế cho thấy các giao dịch bằng đồng
Euro còn rất hạn chế.Vì thế cần một thời gian dài để người Việt Nam làm quen và chủ
động trong làm ăn với đồng Euro.
- Đối với đồng Yên Nhật cho đến nay chưa thực sự là một đồng tiền quốc tế và
nước Nhật đang nỗ lực quốc tế hoá đồng tiền của mình,tuy nhiên công cuộc khó
thành công do nền kinh tế Nhật đang gặp nhiều khó khăn và do sức manh cuả đồng
Dollar Mỹ.Từ việc phân tích trên cho thấy trong thời gian trước mắt,đồng Dollar Mỹ
vẫn nên giữ vị trí quan trọng trong dự trữ ngoại tệ của Việt Nam,nó cũng ủng hộ cho
quan điểm chỉ nên gắn đồng tiền Việt Nam với đồng Dollar Mỹ. Tuy nhiên phải luôn
theo dõi sự biến động kinh tế thế giới để có những giải pháp thích ứng,linh hoạt.
Thứ hai, đối với công cụ lãi suất: Công cụ lãi suất chiết khấu luôn được xem là
công cụ thứ hai mang tính kinh tế trong can thiệp điều chỉnh tỷ giá hối đoái.Nhưng
bản thân lãi suất chỉ tác động một cách gián tiếp đến tỷ giá hối đoái vì đây là một biến
số ngoại sinh đối với tỷ giá. Cho nên việc sử dụng công cụ lãi suất chiết khấu cần có
sự xem xét thận trọng.
Riêng đối với Việt Nam, những dòng vốn vào ra trong nền kinh tế chủ yếu là
đầu tư trực tiếp từ nước ngoài,đầu tư gián tiếp và những dòng vốn ngắn hạn trong
những năm qua rất ít ỏi. Đồng thời hầu hết giao dịch quốc tế trong đó có giao dịch
vốn vẫn chưa được tự do chuyển đổi. Thực tế này làm cho công cụ lãi suất chiết khấu
chưa thể là công cụ có sức mạnh trong can thiệp vào tỷ giá hối đoái. Như vậy giải
pháp để từng bước nâng cao sức mạnh của công cụ lãi suất chiết khấu trong hoạt
động can thiệp,điều chỉnh tỷ giá hối đoái cũng sẽ là con đường tiến tới tự do hoá tài
khoản vốn mà trước hết là giao dịch vốn ngắn hạn và cũng là con đường từng bước
đưa đồng Việt Nam trở thành đồng tiền chuyển đổi. Cuộc khủng hoảng tài chính
Đông Nam á đã cho một bài học kinh nghiệm là :việc tự do tài khoản vốn,đặc biệt là
các dòng vốn đầu tư gián tiếp, vốn ngắn hạn quá sớm khi các công cụ tài chính chưa
đủ mạnh, hệ thống công cụ, biện pháp theo dõi,điều hành kinh tế còn lỏng lẻo là một
quỷết định sai lầm. Vì vậy trong quá trình tiến tới một đồng tiền chuyển đổi hoàn
toàn, Việt Nam phải luôn thận trọng tiến hành theo từng bước với những mục tiêu cụ
thể cho từng giai đoạn,không được nóng vội.Đầu tiên nên tiến hành tự do hoá các
dòng vốn dài hạn và đầu tư trực tiếp,sau đó mới tiến tới tự do hoá hoàn toàn các giao
dịch trong tài khoản vãng lai. Cùng với việc thành lập một thị trường chứng
khoán,cho phép người nước ngoài tham gia mua bán chứng khoán cũng từng bước tự
do chuyển đổi các giao dịch ngắn hạn.Nhưng trong thời gian đầu nên hạn chế tỷ lệ
phần trăm người nước ngoài nắm giứ chứng khoán.và chỉ cho phép tham gia một số
lĩnh vực.Song song với quá trình trên Chính phủ phải tiến hành từng bước tự do hoá
lãi suất., làm cho lãi suất thực sự là một loại giá cả được quyết định bởi cân bằng
cung cầu trên thị trường chứ không phải bởi quyết định can thiệp hành chính của
chính phủ.
-Thứ ba, đối với các công cụ hành chính: Trong thời gian vừa qua,những biện
pháp hành chính đã đem lại những kết quả đáng kể. Chính những biện pháp hành
chính đã góp phần giúp Việt Nam hạn chế những tác động của cuộc khủng hoảng tài
chính Đông Nam á. Tuy nhiên những biện pháp hành chính chỉ là biện pháp tình
thế.Việc đưa tỷ giá tới gần sự chi phối của những quy luật thị trường hơn, từng bước
tiến tới một đồng Việt Nam có khả năng chuyển đổi thì đòi hỏi phải dỡ bỏ dần các
biên pháp hành chính.Song không thể dỡ bỏ một cách tức thời,mà phải tiến hành nới
lỏng dần dần tương xứng với việc tăng sức mạnh của các công cụ mang tính kinh
tế.Xuất phát từ thực trạng sử dụng các công cụ hành chính trong công tác quản lý
ngoại hối trong thời gian qua, Chính phủ cun thể là NHNN nên xem xét sửa đổi, bổ
sung một số điểm sau để những công cụ hành chính trong công tác quản lý ngoại hối
được hoàn thiện hơn:
- Nên có lãi suất ưu đãi cho tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ nhằm thu hút lượng
ngoại tệ nhàn rỗi trong dân cư .
- Chú trọng quản lý chặt chẽ các bàn thu đổi ngoại tệ.Tổ chức hữu hiệu mạng
lưới thu đổi ngoại tệ cho khách hàng và tầng lớp dân cư.
- Chấm dứt hiện tượng sử dụng ngoại tệ thanh toán nội bộ trong nền kinh tế.
Tuy nhiên biện pháp này chỉ thực sự thực hiện tốt khi tất cả các quan hệ thanh toán
đối ngoại được hệ thống các tổ chức tín dụng,các ngân hàng đáp ứng đầy đủ với sự
tham gia của NHNN trên một thị trường ngoại hối hoàn thiện.
- Hạn chế và tiến tới không cho vay trực tiếp bằng ngoại tệ tiền mặt để kiểm soát
tốt những nghiệp vụ ngân hàng mang tính đầu cơ tiền tệ.
Song song với các biện pháp trên,NHNN phải tạo thêm nhiều phương tiện
chuyển tải giá trị làm phương tiện lưu thông,thanh toán để giảm áp lực trong lưu
thông,nhất là các phương tiện có giá trị lớn.Đồng thời cải cách hệ thống thanh
toán,khuyến khích các hình thức thanh toán qua ngân hàng.
- Dần dần tiến tới tự do trong giao dịch ngoại hối nhưng vẫn phải không làm mất
sự giám sát của nhà nước. Tự do trong giao dịch ngoại hối đi đôi với việc tăng cường
hơn nữa sự giám sát các giao dịch và ngoại tệ bằng cách kiểm soát chặt chẽ các hợp
đồng thanh toán ngoại tệ.
2. Các giải pháp liên quan đến việc phối hợp các chính sách kinh tế vĩ mô để
hoạt động can thiệp vào tỷ giá đạt hiệu quả cao:
Việc phối hợp các chính sách trong vấn đề can thiệp vào tỷ giá hối đoái là tất
yếu để việc can thiệp vào tỷ giá hối đoái đạt kết quả tốt nhất và hạn chế đến mức tối
thiểu cái giá phải tr do việc can thiệp vào tỷ giá hối đoái gây ra. Việc phối hợp các
hính sách ở đây có thể nói cụ thể là việc điều hành một cách hài hoà chính sách tài
chính - tiền tệ. Để góp phần vào việc thực hiện tốt khả năng phối hợp giữa các chính
sách đi kèm với vấn đề can thiệp tỷ giá hối đoái,bài viết xin đề cập đến một số giải
pháp sau:
- Thứ nhất, phải phân định rõ mối quan hệ của chính sách tài chính và chính
sách tiền tệ: Có câu hỏi được đặt ra là "có nên xem chinh sách tiền tệ là một bộ phận
trong chính sách tài chính hay không hay chính sách tiền tệ cùng với chinh sách tài
chính là hai bộ phận (nhưng chỉ mang tính độc lập tương đối )trong hệ thống chính
sách kinh tế nói chung". Xuất phát từ hai luận cứ: Thứ nhất, mục tiêu của chính sách
tiền tệ luôn gắn trực tiếp với bốn mục tiêu kinh tế vĩ mô cuối cùng. Thứ hai, sự tác
động của chính sách thay đổi lượng cung tiền (chính sách tiền tệ) và chính sách thu
chi của chính phủ (chính sách tài chính chính phủ) sẽ dẫn đến những kết quả khác
nhau đối với những biến số kinh tế. Và hơn nữa thực tế sau khi nứơc ta chuyển sang
nền kinh tế thị trường thì vai trò của ngân hàng và vấn đề tiền tệ trong nền kinh tế
càng thể hiện rõ. Chính sách tiền tệ được xác định là một trong những chính sách rất
quan trọng. Do đó nên xem chính sách tiền tệ nằm ngoài chính sách tài chính, chính
sách tiền tệ và chính sách tài chính là hai chính sách song hành,là hai bộ phận trong
tổng thể chính sách kinh tế quốc gia. Có như thế mới dễ đánh giá về tính hiệu quả của
chính sách, đồng thời dễ tổ chức thực hiện và phối hợp để cùng đạt tới các mục tiêu
kinh tế vĩ mô của nền kinh tế.
- Thứ hai, đối với chính sách tiền tệ, không ngừng chú trọng hoàn thiện nghiệp
vụ thị trường mở,công cụ chủ chốt trong việc phối hợp chính sách:Tốc độ và hiệu
quả thực tế của việc phối hợp chính sách phụ thuộc vào sức mạnh các công cụ trong
chính sách mà công cụ trong chính sách tiền tệ quốc gia là trọng tâm trong việc đẩy
mạnh khả năng phối hợp các chính sách.Để hoàn thiện công cụ nghiệp vụ thị trường
mở cần thực hiện các vấn đề sau:
- Phát triển thị trường chứng khoán,tạo thị trường cho tín phiếu kho bạc và các
giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Điều này tạo nên môi trường cho loại chứng khoán này,
và từ đó tạo điều kiện cho nghiệp vụ thị trường mở phát triển.
-T ừng bước nghiên cứu và hoàn chỉnh cơ chế thực hiện nghiệp vụ thị trường
mở.
- NHNN cần phải tìm ra các giải pháp cụ thể để thu hút càng nhiều tiền mặt
ngoài lưu thông,từng bước loại bỏ thói quen nắm giữ tiền mặt trong nhân dân mà
chuyển sang nắm giữ các tài sản tài chính khác. Điều này góp phần tăng tính thanh
khoản cho các chứng khoán nói chung mà trong đó có tín phiếu kho bạc ngắn hạn
đồng thời giúp tăng dung lượng thị trường,từ đó góp phần làm cho công cụ nghiệp vụ
thị trường mở phát huy tác dụng.
- Thứ ba, đối với chính sách tài chính,nguồn vốn trong nước là giải pháp khả dĩ
cho việc bù đắp thâm hụt ngân sách.Thực trạng thâm hụt ngân sách nhà nước sẽ giảm
tính tự chủ trong sử dụng chính sách tài chính như công cụ trong điều tiết vĩ mô nền
kinh tế,từ đó tất yếu sẽ hạn chế khả năng phối hợp các chính sách.Do đó những giải
pháp nhằm hạn chế thâm hụt ngân sách là cần thiết.Các giải pháp có thể đưa ra là
:vay nợ nước ngoài dưới mọi hình thức hay phát huy nội lực... Nhưng nếu chọn giải
pháp vay nợ là chủ yếu thì sẽ có tác động đến cung cầu ngoại tệ và có thể dẫn đến
những biến động lớn về tỷ giá. Hơn nữa nếu quy mô thâm hụt quá lớn thì giải pháp
này sẽ là gánh nặng cho nền kinh tế trong tương lai.Chính vì vậy giải pháp tốt nhất là
"phát huy nội lực" thực hiện bù đắp bằng nguồn vốn vay trong nước...
Kết luận
Từ những phân tích trên chúng ta thấy rằng tỷ giá hối đoái là vấn đề rất rộng lớn
và hết sức nhạy cảm. Ngày nay chính sách tỷ giá được sử dụng như một công cụ
chiến lược để đạt được những mục tiêu kinh tế vĩ mô.
Tỷ giá hối đoái có vai trò cực kỳquan trọng trong thanh toán quốc tế. Nó ảnh
hưởng trực tiếp tới ngoại thương và các quan hệ kinh tế đối ngoại. Chính vì vậy việc
lựa chọn và thực hiện chính sách tỷ giá hối đoái phải đảm bảo mục tiêu và tính khoa
học của nó. Chính sách tỷ giá góp phần ổn định và phát triển kinh tế xã hội đất nước.
Trong những năm vừa qua Việt Nam đã có những bước đi khá đúng đắn trong việc
thực hiện chính sách tỷ giá, góp phần không nhỏ vào sự tăng trưởng và ổn định nền
kinh tế nước ta. Chúng ta đã thành công bước đầu trong việc xây dựng một tỷ giá linh
hoạt và hợp lí. Tuy nhiên trong cơ chế tỷ giá của nước ta hiện nay vẫn còn những tồn
tại cần khắc phục. Sự can thiệp của NHNN vào tỷ giá tuy có giảm nhưng nhìn chung
vẫn còn khá nặng. Điều đó đã hạn chế vai trò của thị trường trong việc xác định tỷ giá
hối đoái. Trong bài viết này cũng đã đề cập đến những giải pháp đối với Việt Nam
hiện nay để có thể tiến hành tự do hoá tỷ giá thành công. Tuy nhiên để thành công
Việt Nam còn phải nỗ lực nhiều hơn nữa trong việc thiết lập một thị trường ngoại hối,
xây dựng các công cụ quản lý gián tiếp. Với những thành công bước đầu trong việc
điều hành tỷ giá trong giai đoạn hiện nay và từ xu hướng của nền kinh tế thế giới
chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng rằng Việt Nam sẽ thành công trong việc tự do hoá
tỷ giá hối đoái./.
Tài liệu tham khảo
1. Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính -Frederic Mishkin
2. Kinh tế vĩ mô-N.gregory mankiw
3. Tỷ giá hối đoái - phương pháp tiếp cận và nghệ thuật điều chỉnh - Nhà xuất bản
Tài chính -1996
4. Một số vấn đề về chính sách tỷ giá hối đoái cho mục tiêu phát triển kinh tế Việt
Nam -Nhà xuất bản Thống kê.
5. Tạp chí phát triển kinh tế năm 1998
6. Chuyên đề "Tỷ giá hối đoái và tiến trình tự do hoá tỷ giá ở Việt Nam
7. Cán cân thanh toán quốc tế, tỷ giá hối đoái và các vấn đề kinh tế đối ngoại (NXB
Hà nội)
8. Tạp chí Ngân hàng số 1, 2, 5-11/2000
9.Thị trường tài chính tiền tệ số 5, 6/1999, 12/2000
10.Thời báo kinh tế Việt nam và thế giới 1999-2000, 2000-2001
11.Giáo trình nghiệp vụ ngân hàng Trung ương HVNH
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 72670_827.pdf