MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhân loại đang sống trong những năm đầu của thế kỷ 21, thế kỷ của sự bùng nổ về thông tin khoa học và kỹ thuật hiện đại, tiên tiến nhất từ trước đến nay. Những thành tựu mà nhân loại đã đạt được trong những năm gần đây đã làm thay đổi cuộc sống của nhiều dân tộc trên thế giới.
Việt Nam là một quốc gia thuộc các nước đang phát triển về mặt kinh tế, lại trải qua nhiều cuộc chiến tranh kéo dài. Song, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, Việt Nam cũng đang từng ngày từng giờ thay đổi diện mạo của mình.
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sau gần 20 năm đổi mới, đất nước ta đã thu được những thành tựu đáng tự hào. Về cơ bản, chúng ta đã thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và đã có sự tăng trưởng về kinh tế, phá được thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ đối ngoại, tình hình kinh tế chính trị cơ bản là ổn định, quốc phòng an ninh được tăng cường, thế và lực ngày càng được củng cố và phát triển.
Kinh tế thị trường đã đem lại cho ta những điều "kỳ diệu" trong sự phát triển kinh tế - xã hội, tuy nhiên nó cũng là mảnh đất màu mỡ nảy sinh lối sống ích kỷ, vụ lợi, những thói hư tật xấu, những tệ nạn xã hội đã và đang từng ngày, từng giờ làm băng hoại những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, phá vỡ nhiều nét đẹp của văn hóa truyền thống. Mặt trái của cơ chế thị trường đã tạo ra một bộ phận không nhỏ lớp người trong xã hội nói chung, một bộ phận thanh niên, sinh viên nói riêng có lối sống chạy theo đồng tiền, buông thả, quay lưng với văn hóa, với truyền thống dân tộc.
Từ thực tế đó, Đảng ta đặt ra yêu cầu phải gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ đạo đức và công bằng xã hội, vừa phát triển kinh tế thị trường, đồng thời phải bảo tồn và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ tư khóa VII, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đã khẳng định: Phát triển tách khỏi cội nguồn dân tộc thì nhất định sẽ lâm vào nguy cơ tha hóa. Đi vào kinh tế thị trường, hiện đại hóa đất nước mà xa rời những giá trị truyền thống sẽ làm mất đi bản sắc dân tộc, đánh mất bản thân mình, trở thành cái bóng mờ của người khác, của dân tộc khác.
Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị về "Một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay" tiếp tục khẳng định: Sự phát triển của một dân tộc phải vươn tới cái mới tạo ra cái mới, nhưng lại không thể tách rời khỏi cội nguồn. Phát triển phải dựa trên cội nguồn, bằng cách phát huy cội nguồn, trở về cội nguồn, giữ được cội nguồn. Cội nguồn đó của mỗi dân tộc là văn hóa (cốt lõi là những giá trị luân lý đạo đức).
Thực tiễn chứng tỏ rằng, tương lai của mỗi dân tộc phụ thuộc một phần rất lớn vào thế hệ trẻ nói chung, sinh viên nói riêng. Liệu chúng ta có thể giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa khi thanh niên bị phai nhạt lý tưởng, thiếu ý thức giữ gìn những giá trị truyền thống dân tộc? Trong những điều kiện mới của đất nước, chúng ta đã chuẩn bị "hành trang" gì cho họ? Điều tiên quyết và không thể thiếu đó là "truyền thống dân tộc", những truyền thống đáng tự hào của lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước đã giúp chúng ta "hội nhập" mà không bị "hòa tan", phát triển mà không bị "mất gốc", trọng truyền thống mà không bảo thủ, tất cả những điều đó đã và đang giúp cho thanh niên Việt Nam nói chung - sinh viên Việt Nam nói riêng nâng cao hơn nữa bản lĩnh của mình, đứng vững trước mọi thử thách khắc nghiệt của cuộc sống hiện đại.
Với ý nghĩa đó, vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc là vấn đề hết sức cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Đó cũng là lý do để tác giả của luận văn chọn: "Vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam hiện nay (qua thực tế một số trường đại học và cao đẳng ở thành phố Hà Nội)"làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xung quanh vấn đề đạo đức truyền thống những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu ở dưới các góc độ khác nhau, một số bài viết đã đề cập đến khía cạnh này hay khía cạnh khác của vấn đề, cụ thể như: "Giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam" do Trần Văn Giàu chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980; "Biện chứng của truyền thống" của Hà Văn Tấn, Tạp chí Cộng sản, số 3-1981; "Về truyền thống dân tộc" của Trần Quốc Vượng, Tạp chí Cộng sản, số 3-1981; "Cái truyền thống và cái hiện đại trong sự nghiệp xây dựng con người mới ở nước ta" của Đỗ Huy, Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, số 5-1986; "Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, một nhu cầu phát triển của xã hội hiện đại" của Lương Quỳnh Khuê, Tạp chí Triết học, số 4-1992; "Tìm hiểu định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường" do Thái Duy Tuyên chủ biên, Hà Nội, 1994; "Giá trị - định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị" do Nguyễn Quang Uẩn chủ biên, tháng 4-1995; "Đặc điểm lối sống sinh viên hiện nay và những phương hướng, biện pháp giáo dục lối sống cho sinh viên", Đề tài nghiên cứu khoa học, mã số B94-38-32 do Mạc Văn Trang chủ biên (Viện nghiên cứu phát triển giáo dục - Bộ Giáo dục và Đào tạo), 1995; "Sự biến đổi định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường" của Thái Duy Tuyên, Tạp chí Triết học, số 5-1995; "Quan hệ kinh tế và đạo đức trong việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay" của Nguyễn Thế Kiệt, Tạp chí Triết học, 6-1996; "Sự tác động hai mặt của cơ chế thị trường đối với đạo đức người cán bộ quản lý" của Nguyễn Tĩnh Gia, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, 2-1997; "Định hướng xã hội chủ nghĩa về các quan hệ đạo đức trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay" của Đỗ Huy, Tạp chí Triết học, số 5, 1998; "Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và vấn đề giáo dục, rèn luyện đạo đức trong
nền kinh tế thị trường" của Hoàng Trung, Tạp chí Triết học, số 5, 1998; "Vấn đề khai thác các giá trị truyền thống vì mục tiêu phát triển" của Nguyễn Trọng Chuẩn, Tạp chí Triết học, số 2, 1998; "Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay", Luận án tiến sĩ Triết học của Trần Sĩ Phán, 1999; "Vì sao Hồ Chí Minh lại đặc biệt chú trọng đến vấn đề đạo đức?" của Hoàng Trung, Tạp chí Triết học, số 4, 2000; "Tình cảm đạo đức và giáo dục tình cảm đạo đức trong điều kiện hiện nay" của Nguyễn Văn Phúc, Tạp chí Triết học, số 6, 2000; "Kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay", Luận án tiến sĩ Triết học của Nguyễn Văn Lý, 2000; "Giá trị đạo đức và sự biểu hiện của nó trong đời sống xã hội" của Mai Xuân Lợi, Tạp chí Triết học, số 3, 2001; "Lý tưởng đạo đức và việc giáo dục lý tưởng đạo đức cho thanh niên trong điều kiện hiện nay" của Đoàn Văn Khiêm, Tạp chí Triết học, số 2, 2001; "Kết hợp chặt chẽ giáo dục lý luận với xây dựng đạo đức mới của người cán bộ lãnh đạo quản lý" của Nguyễn Ngọc Long, Tạp chí Lý luận chính trị, số 4, 2001; "Giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam và cái phổ biến toàn nhân loại của đạo đức trong nền kinh tế thị trường" của Trần Nguyên Việt, Tạp chí Triết học, số 5, 2002; "Kế thừa tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay" của Lê Sĩ Thắng, Tạp chí Triết học, số 5, 2002; "Một số biểu hiện của sự biến đổi giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay và giải pháp khắc phục" của Nguyễn Đình Tường, Tạp chí Triết học, số 6, 2002; "Khoa học công nghệ và đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường" của Nguyễn Đình Hòa, Tạp chí Triết học, số 6, 2002; "Từ "cái thiện" truyền thống đến "cái thiện" trong cơ chế thị trường ở Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Hùng Hậu, Tạp chí Triết học, số 8, 2002; "Quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại trong giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay", Luận án tiến sĩ Triết học của Lê Thị Hoài Thanh, 2002; "Tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ lãnh đạo chính trị hiện nay" của Trần Văn Phòng, Tạp chí Lý luận chính trị, số 5, 2003 v.v .
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu, bài viết trên đều có ý nghĩa to lớn đối với việc kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống hiện nay ở nước ta. Tuy nhiên, những công trình này chưa đề cập một cách trực tiếp đến việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở phân tích thực trạng giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên các trường đại học và cao đẳng ở Hà Nội và nguyên nhân của nó, từ đó đưa ra phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Hệ thống hóa những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, từ đó xác định tầm quan trọng và yêu cầu của việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Phân tích thực trạng việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên các trường đại học và cao đẳng ở Hà Nội hiện nay và nguyên nhân của nó.
- Đề xuất phuơng hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay (qua thực tế thành phố Hà Nội).
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:Đối tượng nghiên cứu của đề tài là giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của luận văn là vấn đề giáo dục đạo đức truyền thống cho sinh viên các trường đại học và cao đẳng ở Hà Nội.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Thực hiện bản luận văn này tác giả dựa trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức và giá trị đạo đức truyền thống. Ngoài ra, tác giả luận văn có tham khảo, kế thừa các thành tựu của các công trình nghiên cứu đã được công bố có liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả luận văn sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp phương pháp lịch sử và lôgíc, phân tích và tổng hợp quy nạp và diễn dịch, điều tra xã hội học . nhằm thực hiện mục đích và nhiệm vụ mà đề tài đặt ra.
6. Đóng góp khoa học và ý nghĩa của luận văn
- Góp phần làm sáng tỏ tầm quan trọng và yêu cầu của việc giáo dục những giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Trên cơ sở khái quát thực trạng công tác giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên các trường đại học và cao đẳng ở Hà Nội, bước đầu đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên Việt Nam trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập môn "Đạo đức học" ở các trường đại học và cao đẳng. Đồng thời, nó cũng góp phần nhất định vào việc nhận thức rõ vai trò của việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho tầng lớp sinh viên trong giai đoạn hiện nay. Bên cạnh đó, tác giả luận văn cố gắng lượng hóa nội dung các giá trị đạo đức truyền thống quý báu của dân tộc, làm cho đạo đức truyền thống dân tộc mãi mãi là những chuẩn mực đạo đức mà mỗi con người Việt Nam luôn hướng tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.
127 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5915 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam hiện nay (qua thực tế một số trường đại học và cao đẳng ở thành phố Hà Nội), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ọc, phát triển tài năng, thúc đẩy các phong trào của đoàn viên thanh niên sinh viên để tạo môi trường thuận lợi cho các phong trào của sinh viên. Đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động giáo dục lý tưởng cách mạng xã hội chủ nghĩa, lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, bản lĩnh chính trị cho người đoàn viên, hội viên làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thấm sâu vào trong đời sống tinh thần của sinh viên.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, xây dựng môi trường kinh tế - xã hội trong sạch lành mạnh là tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát huy các giá trị đạo đức truyền thống trong giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam hiện nay.
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC CHO SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY
3.2.1. Đưa môn "Đạo đức học" trở thành môn học bắt buộc trong trường đại học và cao đẳng
Nhiều năm qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã quan tâm đến công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên, nhiều lần Bộ đã tổ chức biên soạn giáo trình và tài liệu tham khảo phục vụ môn học; tổ chức các cuộc hội thảo (ở thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh) bàn về việc nâng cao chất lượng dạy và học môn "Đạo đức học". Tuy nhiên, vì những lý do khác nhau, môn học này cho đến nay vẫn chưa được triển khai một cách đồng loạt ở các trường đại học và cao đẳng với tư cách là một môn học bắt buộc, thuộc "phần cứng" chứ không phải là môn học "tự chọn". Nhiều trường không dạy bộ môn này, một số trường chỉ dạy cho một số ngành thuộc khoa học xã hội và nhân văn.
Về nội dung, chương trình nhìn chung còn nghèo nàn nhiều khi xa rời thực tế, thiếu cập nhật. Giáo viên dạy bộ môn đạo đức học phần lớn chưa được đào tạo chuyên sâu, chủ yếu là do các giáo viên giảng dạy triết học đảm nhiệm, vì vậy, chất lượng và hiệu quả thấp. Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII đã chỉ ra: "Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức và nhân cách cũng như việc giảng dạy các môn khoa học xã hội và nhân văn, giáo dục thể chất, giáo dục thẩm mỹ bị xem nhẹ. Hiệu quả giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin bị hạn chế" [8, tr. 26].
Để khắc phục tình trạng trên, theo chúng tôi, ngay từ bây giờ các trường đại học và cao đẳng ở nước ta cần phải đưa bộ môn Đạo đức học trở thành một môn học bắt buộc, với nội dung chương trình đầy đủ phong phú và phù hợp với thực tế, chúng ta cần thực hiện nghiêm túc Quyết định số 1226/GD-ĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định một số vấn đề về dạy và học các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ở các trường đại học và cao đẳng, ra ngày 06/4/1995, ở mục 5 có ghi: "Nội dung giáo dục đạo đức trong tất cả các loại hình trường với tư cách là môn bắt buộc".
Thực tế cho thấy rằng, để trở thành con người có đạo đức không nhất thiết phải nghiên cứu, học tập môn Đạo đức học. Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, nhân loại không hề biết moralis hay ethicos là gì nhưng người ta vẫn sống một cách "rất có đạo đức", cũng giống như: "Từ lâu người ta suy nghĩ một cách biện chứng trước khi biết biện chứng là gì, cũng như từ lâu người ta đã nói theo văn xuôi trước khi có danh từ văn xuôi" (Ph. Ăngghen). Thế nhưng để trở thành con người thực sự có đạo đức dựa trên một niềm tin khoa học, một tình cảm mãnh liệt được soi sáng bởi lý tưởng đạo đức cao cả... không có con đường nào tốt hơn là nghiên cứu "Đạo đức học" và các khoa học liên ngành. Do đó, việc đưa môn đạo đức học trở thành môn học bắt buộc vào trong các trường đại học và cao đẳng là một việc làm cần thiết. Sự cần thiết ấy thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất: Việc giảng dạy môn Đạo đức học ở bậc giáo dục đại học nhằm nâng cao trình độ nhận thức cho sinh viên, từ nhận thức cảm tính lên nhận thức lý tính, trang bị cho sinh viên một cách có hệ thống lý luận đạo đức (đạo đức học) với những khái niệm, phạm trù, quy luật. Giúp cho sinh viên nhận thức được bản chất của vấn đề, đi sâu tìm hiểu quy luật vận động và phát triển của đời sống đạo đức. Thấy được ý nghĩa, vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội... từ sự hiểu biết, nhận thức một cách đúng đắn các nguyên lý đạo đức học giúp sinh viên biến sự nhận thức đó (tức biến ý thức đạo đức) thành hành động, thành thực tiễn đạo đức.
Để biến quá trình nhận thức từ cảm tính lên lý tính, không có con đường nào tốt hơn và nhanh chóng hơn bằng con đường giáo dục. Về bản chất, giáo dục đạo đức là giáo dục khả năng tự giáo dục, tự rèn luyện, tự phấn đấu vươn lên của đối tượng giáo dục, qua đó giúp họ nhận thức một cách đúng đắn những giá trị đạo đức, xây dựng và củng cố ý thức, tình cảm, niềm tin, lý tưởng... đạo đức, biến chúng thành thói quen, thành hành vi văn minh trong cuộc sống, phù hợp với những chuẩn mực đạo đức xã hội.
Để công tác giáo dục mang lại hiệu quả cao, cùng với việc nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên (vấn đề có ý nghĩa quyết định) cần phải tổ chức biên soạn tài liệu, giáo trình, giáo khoa phục vụ công tác giảng dạy môn "đạo đức học". Tăng cường và đa dạng hóa các hình thức hoạt động có ý nghĩa chính trị xã hội để thu hút sinh viên tham gia, kích thích tính tích cực xã hội ở họ, đồng thời đó cũng là giải pháp tốt nhất để thực hiện phương châm giáo dục: lý luận kết hợp với thực tiễn, học đi đôi với hành.
Thứ hai: Đưa môn Đạo đức học trở thành môn học bắt buộc trong trường đại học và cao đẳng là quán triệt một cách sâu sắc các quan điểm của Đảng ta đối với công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong nhà trường. Những năm gần đây, Đảng ta rất chú trọng đến công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên ở các nhà trường. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương (khóa VII, tháng giêng 1993) chỉ rõ: Chú trọng giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nội dung nhân văn và bản sắc văn hóa dân tộc... đẩy mạnh giáo dục pháp luật, đạo đức, lối sống cho sinh viên. Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII, tháng 12/1996) xác định nhiệm vụ và mục tiêu giáo dục ở nước ta hiện nay là: thực hiện giáo dục toàn diện đức dục, trí dục, thể dục, mỹ dục ở tất cả các bậc học. Hết sức coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, nhân cách cho học sinh, sinh viên. Vì lẽ đó, Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa VIII tháng 7/1998 cũng đã khẳng định: tư tưởng, đạo đức, lối sống là những lĩnh vực then chốt của văn hóa.
Kết luận của Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX ngày 5-7-2004 về vấn đề thực hiện tốt 10 nhiệm vụ văn hóa do Nghị quyết Trung ương năm (khóa VIII) đề ra, trong đó nhiệm vụ thứ nhất là: "Đẩy mạnh giáo dục xã hội chủ nghĩa, bồi dưỡng lòng yêu nước, tạo sự chuyển biến rõ rệt về bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực trí tuệ của con người Việt Nam, đủ sức thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" [1, tr. 60].
Hội nghị cho đây là một nhiệm vụ trọng yếu nhất của sự nghiệp văn hóa, vì vậy, trách nhiệm của ngành giáo dục và đào tạo là, ngoài việc trang bị cho học sinh nói chung, sinh viên nói riêng những kiến thức cơ bản của nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau, thì việc giáo dục đạo đức lối sống cho sinh viên là hết sức quan trọng. Làm thế nào để đào tạo được cho đất nước những con người có đạo đức, có ý thức trách nhiệm của một công dân, có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, vừa có tri thức vừa có đạo đức để có đủ sức góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Để cho "Đạo đức học" thực sự trở thành một môn học góp phần tích cực trong việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên, đòi hỏi phải có đội ngũ giáo viên vừa có phẩm chất đạo đức tốt, vừa có năng lực chuyên môn chuyên sâu và trình độ sư phạm cao, đảm nhiệm công tác giảng dạy môn Đạo đức học. Tuy nhiên, cho đến nay, hầu hết giáo viên giảng dạy môn Đạo đức học ở một số trường đại học và cao đẳng không được đào tạo chuyên sâu, do đó chất lượng và hiệu quả giảng dạy môn học này nhìn chung thấp, chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ môn học. Chúng tôi cho rằng, trong điều kiện hiện nay, khi chưa tổ chức được các lớp đào tạo tập trung, Bộ Giáo dục và Đào tạo có thể học tập kinh nghiệm bồi dưỡng các chuyên gia đạo đức học cho giáo viên giảng dạy môn học này của khoa Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Qua các đợt tập huấn chuyên ngành, nhất định trình độ của giáo viên sẽ được nâng lên, đáp ứng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ giảng dạy môn Đạo đức học.
Giáo dục đạo đức cho lớp trẻ nói chung, cho tầng lớp sinh viên nói riêng, là một vấn đề mang tính cấp thiết và lâu dài, để xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, phát triển toàn diện, đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ngoài việc giáo dục trong gia đình, ngoài xã hội thì nhà trường đóng vai trò hết sức quan trọng, nhà trường không phải chỉ là nơi các em học tập những tri thức, kiến thức, mà còn là nơi các em được tham gia vào những hoạt động có ý nghĩa thiết thực khác như: lao động, vệ sinh, sinh hoạt đoàn thể, giao lưu văn hóa... những hoạt động này đã giúp cho các em hiểu thêm những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc, rèn luyện ý thức tập thể, tính cộng đồng nhân văn.
3.2.2. Phát huy tính tự giác và tính chủ động học tập, rèn luyện các giá trị đạo đức truyền thống của sinh viên
Con người với tư cách là chủ thể của quá trình nhận thức, quá trình cải tạo thế giới, là chủ thể của mọi quan hệ xã hội, thông qua hoạt động giáo dục (trong đó có mặt thứ hai của giáo dục là tự giáo dục) con người có khả năng tự biến đổi nhân cách của mình một cách có ý thức. Sinh viên là những người được giáo dục bởi nhà trường, gia đình và xã hội. Cùng với quá trình được giáo dục đó thì tự giáo dục là một quá trình sinh viên tự hoàn thiện nhân cách của mình, sao cho phù hợp với yêu cầu của cuộc sống. Để đáp ứng những đòi hỏi, yêu cầu ngày càng cao của cuộc sống, của xã hội, của thị trường sức lao động, đòi hỏi sinh viên phải phát huy cao độ tính tự giác và tính chủ động, sáng tạo trong học tập, nghiên cứu khoa học, trong việc giữ gìn truyền thống.
Sinh viên với những nét đặc thù về tâm sinh lý lứa tuổi, với một trình độ nhận thức và năng lực tư duy nhất định, quá trình giáo dục và tự giáo dục sẽ giúp cho sinh viên không chỉ nắm vững những kiến thức cơ bản, mà còn nắm vững những tri thức đạo đức đã được nhà trường trang bị, cùng với giao tiếp xã hội, sinh viên sẽ chuyển những kiến thức được học đó thành niềm tin cá nhân, thành những tình cảm đạo đức và được thể hiện ngay trong hành vi ứng xử hàng ngày của sinh viên.
Đạo đức là nội dung cơ bản thể hiện văn hóa của con người - văn hóa đạo đức, là mặt giá trị của con người, nó hướng con người vươn tới những giá trị đích thực của cuộc sống. Đạo đức ở mỗi con người không phải tự nhiên mà có đó là kết quả của cả quá trình phấn đấu, rèn luyện vô cùng khó khăn gian khổ. Người có đạo đức phải là người được giáo dục, qua giáo dục và tự giáo dục. Thông qua hoạt động và giao lưu, con người hiểu rõ hơn về vai trò của lương tâm, nghĩa vụ, ý thức danh dự và các phẩm chất đạo đức cần thiết của cá nhân đối với đời sống cộng đồng.
Cùng với quá trình giáo dục là quá trình tự giáo dục, quá trình tự giáo dục là một quá trình "tự thân vận động", đòi hỏi phải có một nghị lực, một ý chí và quyết tâm cao để chiến thắng chính bản thân mình. Nếu không tự giác rèn luyện, tu dưỡng đạo đức thường xuyên thì rất dễ bị gục ngã trước những cám dỗ của đồng tiền và tâm lý hưởng thụ. Do vậy, tự giáo dục, tự rèn luyện đạo đức không phải là một công việc dễ dàng và đơn giản Hồ Chủ tịch đã để lại cho chúng ta một kiệt tác về tinh thần tự rèn luyện:
Gạo đem vào giã bao đau đớn
Gạo giã xong rồi trắng tựa bông
Sống ở trên đời người cũng vậy
Gian nan rèn luyện mới thành công.
Đạo đức không phải là cái gì sẵn có, mà nó được củng cố phát triển chủ yếu do sự đấu tranh rèn luyện hàng ngày, tu dưỡng rèn luyện đạo đức cũng giống như "ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong". Trên thực tế có nhiều sinh viên được giáo dục đạo đức và đã hiểu rất rõ các phạm trù, nguyên tắc đạo đức nhưng khi ra trường công tác thì lại hành động tỏ ra không có đạo đức, hoặc vi phạm đạo đức.
Việc phát huy cao độ tính tích cực, chủ động, vai trò tự giáo dục, tự rèn luyện các giá trị đạo đức truyền thống của sinh viên là một trong những nội dung hiện đại hóa phương pháp giáo dục: Lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên là chủ đạo, là hoàn toàn phù hợp với nguyên lý "tự thân vận động" của triết học. Với ý nghĩa đó, hơn bao giờ hết, chúng ta phải tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất giúp cho sinh viên có cơ hội để thể hiện mình, để tự mình vươn lên trong cuộc sống. Tính tự giác, tính chủ động, vai trò tự giáo dục, tự rèn luyện các giá trị đạo đức truyền thống của sinh viên là con đường tất yếu đối với sự phát triển, hoàn thiện nhân cách của sinh viên ngày nay.
3.2.3. Kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường, xã hội trong việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên
Để không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục nói chung, giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc nói riêng, một trong những giải pháp cơ bản không thể thiếu, đó là kết hợp giáo dục của gia đình, của nhà trường, và của xã hội thành một quá trình thống nhất, liên tục và hoàn chỉnh, sự kết hợp này, sẽ tạo ra một sự thống nhất trong tư tưởng và hành động đối với việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên. Hồ Chủ tịch đã từng nhắc nhở chúng ta rằng: Giáo dục trong nhà trường chỉ là một phần, cần có sự giáo dục ngoài xã hội và của gia đình để giúp việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Giáo dục trong nhà trường dù tốt đến mấy, nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không bao giờ được như mong muốn. Trong văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Đảng ta chỉ rõ: "Gìn giữ và phát huy những đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Nêu cao vai trò gương mẫu của các bậc cha mẹ. Coi trọng xây dựng gia đình văn hóa. Xây dựng mối quan hệ khăng khít giữa gia đình, nhà trường và xã hội" [10, tr. 60].
Trong những năm gần đây, phương hướng này về cơ bản đã được thực hiện, góp phần quan trọng trong việc giáo dục đạo đức lối sống cho sinh viên. Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển xã hội, với mục tiêu xây dựng con người mới theo tinh thần của "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam": là con người có ý thức làm chủ, ý thức trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khỏe và lao động giỏi; sống có văn hóa và tình nghĩa; giàu lòng yêu nước và tinh thần quốc tế chân chính... thì chúng ta còn nhiều việc phải làm. Trong văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ hai khóa VIII có viết: "Gia đình và các tập thể, cộng đồng xã hội chưa phát huy vai trò quan trọng trong giáo dục, chưa phối hợp chặt chẽ với nhà trường giáo dục thế hệ trẻ, nhất là về chính trị, đạo đức, đấu tranh ngăn chặn các tệ nạn xã hội và văn hóa phẩm đồi trụy" [8, tr. 21]. Chính vì vậy, việc kết hợp giữa gia đình nhà trường và xã hội là vấn đề then chốt, là một việc làm hết sức cần thiết trong việc giáo dục đạo đức, tư tưởng, lối sống, cho sinh viên.
Gia đình là tế bào của xã hội, là chiếc nôi thân yêu để nuôi dưỡng cả cuộc đời mỗi con người, là một môi trường hết sức quan trọng để giáo dục đạo đức lối sống cho con người. Nuôi dạy con cái thành người là một ước mơ mà các bậc cha mẹ luôn luôn vươn tới, bằng nhiều hình thức khác nhau, các bậc ông bà cha mẹ trong mỗi gia đình đều cố gắng giáo dục con cháu mình trở thành những người con biết kính trên nhường dưới, hiếu thảo với cha mẹ, kính trọng ông bà, coi trọng việc thờ phụng tổ tiên...
Bên cạnh đại bộ phận các gia đình làm tốt nghĩa vụ giáo dục của mình đối với con cái, cũng còn không ít gia đình vì các lý do khác nhau, đã không quan tâm đúng mức đến công việc này, dẫn đến tình trạng con cái hư hỏng, thậm chí phạm pháp. Điều đáng buồn là tình trạng giáo dục trong nhiều gia đình còn bị buông lỏng, từ đó xuất hiện "bụi nhà". Quan hệ trong gia đình cũng bị băng hoại bởi sức mạnh của đồng tiền, vì nó mà người ta có thể để người thân của mình bán rẻ nhân phẩm, tiếp tay cho các tệ nạn xã hội, vì nó mà con cái sẵn sàng giết cha mẹ, anh chị em quay lưng lại với nhau, vợ chồng chia lìa... Có thể nói, sự sút kém vai trò và hiệu quả của giáo dục gia đình, là một trong những lý do chủ yếu dẫn đến nhiều hiện tượng sinh viên thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, thậm chí phạm pháp, nhiều trường hợp sinh viên phải bị truy tố trước pháp luật.
Đứng trước thực trạng đó, đòi hỏi mỗi gia đình phải có sự quan tâm đúng mực đối với việc giáo dục con cái. Ngoài việc chăm lo giáo dục cho con cái về mặt trí tuệ, cần phải bồi dưỡng mặt đạo đức nhân cách, kết hợp những phương pháp giáo dục truyền thống với hiện đại sao cho phù hợp với hoàn cảnh mới, làm sao mỗi gia đình phải là nơi lưu truyền và phát huy những giá trị văn hóa dân tộc từ thế hệ này sang thế hệ khác, tăng cường hơn nữa việc xây dựng "nếp sống văn minh" "gia đình văn hóa" phấn đấu 80% gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa như tinh thần văn kiện Đại hội IX đã đề ra.
Gia đình cần có sự kết hợp chặt chẽ với nhà trường, vì nhà trường là nơi trang bị cho các em những kiến thức cơ bản, chính thống, là nơi chiếm rất nhiều thời gian đối với các em khi còn đi học. Do vậy, một môi trường giáo dục hợp lý sẽ đem lại hiệu quả cao trong giáo dục nói chung, giáo dục đạo đức nói riêng. Trong nhà trường ngoài những kiến thức cơ bản, các em còn được học bộ môn đạo đức học, do vậy, cần phải kết hợp giáo dục những giá trị đạo đức truyền thống với những giá trị đạo đức phổ quát của nhân loại và của thời đại, kết hợp học và hành trong giáo dục, thông qua đó giúp cho sinh viên thấm nhuần những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, rèn luyện ý thức tập thể, tính cộng đồng. Các thầy cô giáo trong nhà trường phải luôn nêu cao tấm gương sáng về nhân cách cho sinh viên học tập noi theo.
Xã hội giữ vai trò hết sức to lớn trong việc hình thành và hoàn thiện các phẩm chất đạo đức, lối sống của sinh viên, xã hội là một môi trường rộng lớn, mà ở đó có các cá nhân, có các mối quan hệ giao tiếp với nhau trong học tập và sinh hoạt, đó là nơi thể hiện khả năng của mỗi con người. Do vậy, đối với xã hội, trực tiếp là nhà nước, cần có những định hướng toàn diện về mặt kinh tế tư tưởng đạo đức, pháp luật, hệ thống chính sách, chế độ đãi ngộ được thực hiện qua nhà nước, qua mạng lưới tuyên truyền, thông tin đại chúng, qua dư luận và các công tác xã hội... xây dựng một môi trường lành mạnh, để có tác động tích cực đến sự hình thành phát triển nhân cách sinh viên.
Để nâng cao chất lượng và hiệu quả của sự kết hợp giữa gia đình, nhà trường, xã hội trong công tác giáo dục đạo đức truyền thống cho sinh viên, trước mắt chúng ta cần giải quyết tốt một số điểm sau đây:
Thứ nhất: Trong giáo dục đạo đức cho sinh viên, giữa gia đình và nhà trường phải có sự thống nhất về quan điểm, nội dung, phương pháp, tránh tình trạng phân tán, biệt lập. Gia đình phải luôn luôn nắm bắt được những thông tin từ phía nhà trường, có những hiểu biết nhất định về phía nhà trường để không cản trở con em khi tham gia vào các phong trào có tính chất thực hành chính trị - xã hội, do Đoàn thanh niên, Hội sinh viên tổ chức.
Sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp, sang nền kinh tế thị trường, đã và đang tác động mạnh mẽ đến nhiều mặt của đời sống xã hội, dẫn đến sự chuyển biến lớn trên mọi lĩnh vực của cuộc sống, trong đó có lĩnh vực đạo đức. Điều đó đã làm cho các thang giá trị cũng có sự biến đổi, và có những ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống đạo đức của sinh viên. Hiện nay các quan niệm về đạo đức trong xã hội còn có sự xung đột giữa các thế hệ. Có những bậc phụ huynh vẫn giáo dục con mình theo một khuôn mẫu kiểu gia trưởng phong kiến, điều đó không những không còn phù hợp với xã hội hiện đại mà còn gây cản trở tới sự phát triển của tầng lớp tri thức trẻ hiện nay. Đã có những diễn đàn để cho học sinh, sinh viên bầy tỏ tâm trạng của mình, mong rằng qua những tiếng nói đó của các em các, bậc cha mẹ sẽ có cách nhìn nhận mới về các em và cũng có cách thức giáo dục đạt hiệu quả hơn, phối hợp chặt chẽ với nhà trường để giúp các em vươn lên trong cuộc sống, đạt kết quả cao trong học tập và tự khẳng định mình.
Thứ hai: Gia đình, nhà trường, xã hội phải nêu cao tinh thần trách nhiệm trong việc kết hợp giáo dục đạo đức cho sinh viên. Đây là một vấn đề có tính chất quyết định sự thành công, hay không thành công của việc giáo dục đạo đức cho sinh viên. Nếu gia đình, nhà trường, xã hội, không có sự phối hợp chặt chẽ trong việc giáo dục đạo đức, lối sống, chính trị - tư tưởng, không có kỷ luật nghiêm minh, thì ở đó sẽ có rất nhiều sinh viên vi phạm kỷ luật, thậm chí sa vào con đường phạm tội. Do vậy, vai trò của các cấp lãnh đạo của Đảng, từ cơ quan bộ đến các trường đại học và cao đẳng phải hết sức nêu cao vai trò trách nhiệm của mình, luôn quan tâm đến công tác giáo dục đạo đức tư tưởng lối sống cho sinh viên, quan tâm đến nguyện vọng cũng như quyền lợi của sinh viên, phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương để nâng cao hiệu quả trong công tác này. Nhà trường là nơi đào tạo con người không chỉ về mặt kiến thức, mà còn giáo dục họ cả về mặt đạo đức. Vì lẽ đó, nhà trường cần phải giữ nề nếp kỷ cương trong học đường, tạo môi trường trong sạch, lành mạnh giúp sinh viên nhận thức được những giá trị đạo đức nào là cần thiết, là có ý nghĩa đối với bản thân mình và xã hội; làm cho họ nhận thức được những giá trị truyền thống, như lòng nhân ái, tinh thần yêu nước, đức tính cần cù, chịu khó, lạc quan, vị tha, trung thực... Giáo dục đạo đức trong nhà trường còn làm cho sinh viên biết trân trọng, yêu quý, cố gắng lĩnh hội và thực hiện các giá trị đạo đức đích thực, không chấp nhận những gì là phản giá trị, có tinh thần đấu tranh bảo vệ và phát triển những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Đối với các sinh viên sống trong ký túc xá nhà trường phải có sự quan tâm đặc biệt. Các bộ phận làm công tác quản lý sinh viên phải có sự phối hợp chặt chẽ với các tổ chức quần chúng, chủ yếu là Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, để quản lý sinh hoạt, học tập, vui chơi của sinh viên. Phối hợp với công an phường nơi trường đóng để quản lý về mặt hộ khẩu và an ninh xã hội. Mặt khác còn phải phối hợp với các lực lượng bảo vệ của trường để giữ gìn trật tự và bảo vệ tài sản cho sinh viên.
Đối với những sinh viên tự thuê nhà trọ để ở bên ngoài cũng cần phải có sự quan tâm của chính quyền địa phương và các chủ hộ có nhà cho thuê để quản lý các em. Còn những sinh viên sống ở gia đình mình hay nhà họ hàng cũng cần có sự quản lý chặt chẽ, có như vậy mới ngăn chặn được những hiện tượng tiêu cực xảy ra với sinh viên.
Thứ ba: Sinh viên ngày nay được sống trong môi trường văn hóa phong phú, đa dạng, được tiếp cận với nhiều nguồn thông tin trong nước và quốc tế, được học hỏi và giao lưu với nhiều nền văn hóa khác nhau. Điều đó có tác động to lớn đến đời sống văn hóa tinh thần và lối sống của sinh viên, họ là những người hết sức nhạy cảm với những vấn đề sinh hoạt văn hóa, đời sống chính trị, văn hóa tinh thần. Do vậy, nhà trường, trước hết là Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội sinh viên Việt Nam, cần phối hợp với chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế, các đơn vị vũ trang nhân dân ở các địa phương để tổ chức các hoạt động văn hóa vui chơi giải trí, thể dục thể thao rèn luyện thể chất, tham gia vào các hoạt động xã hội, mở các lớp học tình thương... để sinh viên tham gia. Đây là những hoạt động hết sức bổ ích, giúp sinh viên tự rèn luyện nâng cao sức khỏe và ý thức nghĩa vụ của mình đối với cộng đồng. Sinh viên là nhóm xã hội có trình độ học vấn cao trong độ tuổi thanh niên, hiểu biết rộng nhu cầu hưởng thụ văn hóa cũng cao. Lao động trí tuệ của họ luôn gây cảm giác mệt mỏi, căng thẳng vì thế nên tạo cho sinh viên những phút giây nghỉ ngơi thư giãn bằng các hoạt động thể thao vui chơi giải trí
Tóm lại, kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo dục đạo đức cho sinh viên là một giải pháp hết sức căn bản, là một nguyên tắc cơ bản của giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa, tạo mọi thuận lợi cho việc giáo dục những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc, đồng thời đẩy mạnh công tác đấu tranh chống lại những tư tưởng bảo thủ, những phong tục tập quán lạc hậu ngăn cản sự phát triển của xã hội, góp phần mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa nhân loại.
Mặc dù công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên là của toàn xã hội, nhưng nhà trường giữ vai trò định hướng, tổ chức, kiểm tra đánh giá. Gia đình phối hợp với nhà trường để tạo điều kiện cũng như giám sát các em ngoài thời gian học tập trên lớp, xã hội cùng với nhà trường và gia đình thành một quá trình thống nhất liên tục và hoàn chỉnh, có vậy hiệu quả giáo dục mới cao.
3.2.4. Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên thông qua các hình thức sinh hoạt mang ý nghĩa chính trị - xã hội - thực tiễn
Thực hiện phương châm: Giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nghiên cứu khoa học, lý luận gắn với thực tế, học đi đôi với hành, nhà trường gắn liền với gia đình và xã hội, trong công tác giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên, ngoài những giờ lên lớp môn "Đạo đức học" và các bộ môn khoa học Mác - Lênin, nhà trường, Đoàn Thanh niên, Hội sinh viên... cần tổ chức nhiều hình thức hoạt động mang ý nghĩa chính trị - xã hội - thực tiễn nhằm giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên. Điều này hoàn toàn phù hợp với phương pháp giáo dục hiện đại là phương pháp kết hợp, sử dụng nhiều phương pháp giáo dục cho những đối tượng và môn học khác nhau. Đối với môn "Đạo đức học" chúng ta vừa kết hợp phương pháp thuyết giảng, phương pháp động não, phương pháp thảo luận nhóm v.v... với phương pháp thực hành, phương pháp đi thực tế, phương pháp bài tập thực địa v.v...
Trên thực tế, những năm gần đây Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Trung ương Hội sinh viên Việt Nam cũng như Hội sinh viên ở các thành phố, ở các trường đại học và cao đẳng đã tổ chức nhiều hình thức hoạt động mang tính giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cao, thu hút đông đảo sinh viên tham gia, nhưng so với yêu cầu và khả năng vốn có của sinh viên, các hình thức hoạt động này cần được triển khai một cách rộng khắp và đa dạng, phong phú, hợp với lứa tuổi sinh viên hơn nữa. Các phong trào như: "Tuổi trẻ giữ nước", "Thanh niên lập nghiệp", "Sinh viên Việt Nam rèn đức, luyện tài vì tương lai tương sáng"; phong trào giúp đỡ và chăm sóc bà mẹ Việt Nam anh hùng, các gia đình có công với cách mạng gặp hoàn cảnh neo đơn, những người già cả ốm đau không nơi nương tựa, ngày thứ bảy tình nguyện. Riêng ở Hà Nội, các chương trình "Xây dựng hình ảnh người sinh viên Thủ đô ngàn năm văn hiến"; "Tuổi trẻ học đường Thủ đô tiến bước dưới cờ Đảng thi đua học tập - rèn luyện, lập công xuất sắc trong phong trào Thanh niên tình nguyện"; các cuộc thi "Tìm hiểu truyền thống 25 năm Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không" hoặc "Tìm hiểu Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ thành phố Hà Nội" v.v... đã tạo ra những "sân chơi" bổ ích cho sinh viên. Đây là dịp để sinh viên có cơ hội thể hiện tính tích cực xã hội của mình, phát huy cao độ năng lực tự chủ, tính độc lập sáng tạo trong hoạt động, gắn "học với hành, lý luận với thực tiễn"; biến ý thức đạo đức thành thực tiễn đạo đức; không ngừng nâng cao tình cảm đạo đức cách mạng cho mỗi sinh viên. Chính thông qua môi trường sinh hoạt tập thể giúp cho sinh viên tự vươn lên để hoàn thiện bản thân mình. Hơn 150 năm trước, trong "Hệ tư tưởng Đức", C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết: "Chỉ có trong cộng đồng cá nhân mới có được những phương diện để có thể phát triển toàn diện những năng khiếu của mình và do đó, chỉ có trong cộng đồng mới có tự do cá nhân" [42, tr. 108].
Tiêu chuẩn hàng đầu của hành vi đạo đức là phải gắn lời nói với việc làm; hiểu biết với hành động. Mọi sự tách rời giữa lý luận với thực tiễn, lời nói với việc làm đều đáng phê phán, có thể nói: "Nhà giáo dục lớn nhất vẫn là thực tiễn, nhà trường lớn nhất vẫn là cuộc đời. Không có gì làm mất uy tín của giáo dục - nhất là giáo dục đạo đức - hơn là sự tách rời giữa lời nói với việc làm, giữa lý luận và thực tiễn" [42, tr. 109]. Với ý nghĩa đó, việc tổ chức một cách hợp lý, có kế hoạch các chương trình, các phong trào hoạt động nhằm giáo dục đạo đức cho sinh viên là việc làm hết sức cần thiết và có ý nghĩa to lớn trong điều kiện hiện nay.
Để công tác giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên qua các hình thức hoạt động mang ý nghĩa chính trị - xã hội - thực tiễn đạt hiệu quả cao, các trường và Đoàn thanh niên, Hội sinh viên cần chú ý giải quyết tốt các vấn đề sau đây.
Thứ nhất, tăng cường sự đoàn kết trong sinh viên, tạo ra sự thống nhất cao độ trong tư tưởng và hành động - đặc biệt là vấn đề tư tưởng phải thông suốt, mọi người tự giác, tích cực tham gia các hoạt động do Đoàn và Hội sinh viên phát động. Tư tưởng có thông suốt, lòng nhiệt tình có được khơi dậy ở mọi người thì công việc mới thành công. Trên thực tế, nhiều sinh viên vẫn tỏ ra chưa thực sự quan tâm đến các hình thức hoạt động ngoại khóa, một số rất ngại tham gia các phong trào. Số khác với những lý do nào đó đã tham gia một cách "miễn cưỡng", chính vì thế, các phong trào này chưa thực sự trở thành phong trào quần chúng rộng rãi đối với tất cả sinh viên.
Thứ hai, cần phải nêu gương người tốt việc tốt, sáng kiến hay trong phong trào sinh viên, điều này có tác dụng tích cực và ý nghĩa to lớn trong việc cổ vũ, động viên những sinh viên ưu tú trong các phong trào hoạt động do Đoàn và Hội tổ chức: Chính những cá nhân điển hình tiên tiến xuất hiện trong các phong trào là những tấm gương cho mọi người học tập. Bởi lẽ, con người ta sinh ra như C.Mác nói - không phải có sẵn chiếc gương soi trong tay, do đó, "người ta lúc đầu phải nhìn vào người khác, như nhìn vào một cái gương mới nhận thấy mình được".
Thứ ba, việc tổ chức các hình thức hoạt động phải hợp lý cả về thời điểm và độ dài thời gian, tránh tổ chức quá nhiều các hình thức hoạt động ảnh hưởng đến thời gian học tập và sinh hoạt của sinh viên. Trong một xã hội "đầy ắp" thông tin như hiện nay, vấn đề thời gian càng trở nên "vàng ngọc". So với các thế hệ sinh viên trước đây, sinh viên ngày nay có nhiều cơ hội học tập hơn, điều kiện học tập cũng tốt hơn... do đó họ cũng cần có nhiều thời gian hơn cho việc học bài, đến thư viện đọc sách, tham gia các đề tài khoa học. Vì vậy, việc tổ chức các hoạt động ngoại khóa, các phong trào... cần phải tính toán kỹ lưỡng, tránh hình thức, gây lãng phí thời gian, ảnh hưởng không tốt đến kế hoạch học tập của sinh viên.
Thứ tư, việc tổ chức các hình thức hoạt động này luôn luôn phải chú ý đến đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi sinh viên, không quá "nặng nề" "khô cứng", nhưng cũng không nên quá "hời hợt" thiếu sâu sắc, chỉ lấy "vui" làm chính. Ở đây tính định hướng tư tưởng phải được đặt lên hàng đầu. Chúng ta biết rằng, nhân cách sinh viên là nhân cách chưa phát triển hoàn chỉnh, chưa được định hình một cách rõ nét, mọi sự lệch lạc trong giáo dục, dù là chính khóa hay ngoại khóa đều ảnh hưởng xấu đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách ở sinh viên.
Sự đa dạng về hình thức, sự phong phú về nội dung, sự sâu sắc về ý nghĩa tư tưởng và giáo dục phải được coi là mục tiêu hàng đầu của các hình thức hoạt động này. Có như vậy chúng ta mới đáp ứng được những yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của sinh viên, đồng thời chúng ta mới đạt được mục tiêu giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên qua các hình thức hoạt động xã hội đó.
Coi trọng thực hành và ứng dụng thực tế, gắn tri thức đạo đức với thực tiễn đạo đức, mọi hiểu biết đạo đức được thể hiện qua hành vi đạo đức... đó là sự đánh giá đúng đắn nhất kết quả giáo dục đạo đức cho sinh viên. Cách chúng ta hơn 2000 năm Arisitốt (384 - 322) đã từng nói: Chúng ta bàn về đạo đức không phải để biết đức hạnh là gì mà là để trở thành con người có đức hạnh.
Tiểu kết chương 3
Để nâng cao chất lượng công tác giáo dục những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên trong các trường đại học và cao đẳng hiện nay, trước hết cần quán triệt sâu sắc các quan điểm của Đảng, đổi mới nhận thức đối với công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên trong toàn xã hội. Trong nhiều kỳ Đại hội, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay Đảng ta luôn quan tâm và xem giáo dục là quốc sách hàng đầu, ngành giáo dục nói chung, các trường đại học và cao đẳng nói riêng, cần hết sức chú trọng hướng giáo dục đạo đức truyền thống theo quan điểm của Đảng đặc biệt phải có những nhận thức phù hợp với yêu cầu thực tiễn, để đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Kinh tế thị trường một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển tinh thần đạo đức của mọi người, mặt khác dưới tác động tiêu cực từ mặt trái của nó, kinh tế thị trường sẽ cản trở sự phát triển tinh thần đạo đức của con người. Truyền thống và hiện đại là những yếu tố luôn có mặt trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực văn hóa tinh thần. Truyền thống và hiện đại luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau, thúc đẩy lẫn nhau, truyền thống là tiền đề là nền tảng của hiện đại, và hiện đại là sự kế thừa là sự tiếp nối của truyền thống. Vì vậy, cần kết hợp biện chứng tính truyền thống và tính hiện đại trong giáo dục đạo đức truyền thống cho sinh viên, giúp sinh viên thấy được giữa quá khứ, hiện tại và tương lai là một dòng chảy lịch sử không có sự tách rời. Không được coi thường quá khứ, phải biết trân trọng quá khứ, vì hiện tại muốn phát triển, vươn lên phải dựa trên nền tảng của quá khứ.
Hiện nay môi trường giáo dục ở ta còn có nhiều bất cập, điều quan trọng trong giáo dục đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên hiện nay là phải tạo ra một môi trường kinh tế xã hội trong sạch, lành mạnh tác động tích cực đến việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên.
Để thực hiện những phương hướng trên đây, cần có những giải pháp tích cực như: Đưa môn đạo đức học trở thành môn học bắt buộc vào các trường đại học và cao đẳng; phát huy cao độ tính tự giác và tính chủ động, vai trò tự giáo dục, tự rèn luyện các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên, coi đó là một giải pháp quan trọng, có ý nghĩa quyết định, thể hiện trình độ cao của sự phát triển nhân cách. Bên cạnh đó cần phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo dục đạo đức truyền thống, đó như là một nguyên tắc cơ bản của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa nói chung của giáo dục đạo đức truyền thống nói riêng. Giáo dục đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên không phải của riêng ai, mà là nhiệm vụ của gia đình, nhà trường và xã hội. Có như vậy chúng ta mới tạo ra được những nhân cách sinh viên phát triển toàn diện có khả năng cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
KẾT LUẬN
Dân tộc Việt Nam có bề dày lịch sử hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước. Với điều kiện thiên nhiên vừa thuận lợi vừa khó khăn, lại luôn phải đương đầu với các cuộc chiến tranh xâm lược triền miên. Chính quá trình gian khổ đó đã hun đúc cho con người Việt Nam nhiều truyền thống vô cùng tốt đẹp và được các thế hệ người Việt Nam kế tiếp nhau gìn giữ, phát huy, vì vậy nó trở nên trường tồn cùng lịch sử. Nhờ có những truyền thống quý báu ấy, dân tộc Việt Nam đã đứng vững trước mọi phong ba bão táp của lịch sử. Ngày nay, các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc vẫn tiếp tục khẳng định vị trí là cơ sở, nền tảng trong việc xây dựng nền đạo đức mới, cuộc sống mới.
Để có được nguồn nhân lực có trình độ cao, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bên cạnh việc thường xuyên tạo mọi điều kiện, cơ hội tốt nhất để nâng cao trình độ khoa học - kỹ thuật, nắm bắt công nghệ mới - tiên tiến, hiện đại, cần phải quan tâm đúng mức đến công tác giáo dục đào tạo nói chung, công tác giáo dục đạo đức, tư tưởng, lối sống cho sinh viên nói riêng. Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa sẽ phát triển như thế nào, có vị thế trên trường quốc tế ra sao, nền văn hóa truyền thống của ta sẽ được kế thừa bổ sung và phát triển như thế nào, phụ thuộc rất nhiều vào lớp trẻ hiện nay, trong đó có sinh viên.
Từ khi Đảng và Nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, quá trình chuyển đổi kinh tế đó đã từng bước tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật cho việc phát huy tính tích cực, năng động của mọi tầng lớp nhân dân, trong đó có sinh viên. Bên cạnh mặt tích cực, nền kinh tế thị trường cũng bộc lộ nhiều khuyết tật mâu thuẫn với bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Chính từ thực tế đó đã đặt ra yêu cầu cấp thiết phải giáo dục những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc cho tầng lớp sinh viên hiện nay, tạo ra cho đất nước những con người vừa có năng lực vừa có phẩm chất đạo đức, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, hăng say nhiệt tình, năng động, sáng tạo, biết trân trọng, giữ gìn và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp vốn có của dân tộc trong điều kiện lịch sử mới.
Cũng như sinh viên cả nước, sinh viên Hà Nội hiện nay vẫn tiếp tục giữ gìn và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam bằng những hoạt động học tập, rèn luyện, và tham gia các phong trào mang ý nghĩa giáo dục đạo đức truyền thống. Bên cạnh thành tựu và thuận lợi mà chúng ta có được cũng còn nhiều bất cập, khó khăn trong vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho tầng lớp sinh viên trong các trường đại học và cao đẳng trên địa bàn thành phố Hà Nội - trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị của cả nước. Vì vậy, để giáo dục những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên hiện nay đạt kết quả tốt hơn nữa chúng tôi xin đề xuất ba nhóm phương hướng và ba nhóm giải pháp sau:
- Về phương hướng:
Một là: Quán triệt quan điểm của Đảng, đổi mới nhận thức đối với việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên.
Hai là: Kết hợp chặt chẽ giữa truyền thống với hiện đại trong giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên.
Ba là: Xây dựng môi trường kinh tế - xã hội trong sạch, lành mạnh tác động tích cực đến việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Về giải pháp:
Một là: Đưa môn Đạo đức học trở thành môn học bắt buộc trong trường đại học và cao đẳng
Hai là: Phát huy cao độ tính tự giác và tính chủ động, vai trò tự giáo dục, tự rèn luyện các giá trị đạo đức truyền thống của sinh viên.
Ba là: Kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường, xã hội trong việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên.
Những giải phương hướng và giải pháp trên cần phải được triển khai một cách đồng bộ, có hiệu quả nhằm phát huy tốt nhất các giá trị đạo đức truyền thống trong việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam hiện nay.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2004), Tài liệu nghiên cứu kết luận Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Trọng Chuẩn (1998), "Vấn đề khai thác các giá trị truyền thống vì mục tiêu phát triển", Triết học, (2), tr. 16-19.
Nguyễn Trọng Chuẩn - Nguyễn Văn Huyên (2002), Giá trị truyền thống trước những thách thức của toàn cầu hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Lê Duẩn (1976), Cách mạng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu (lần hai) Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Nghị quyết của Bộ Chính trị về một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Khoa Điềm (2004), Bài phát biểu kết luận hội nghị triển khai công tác Tư tưởng - Văn hóa toàn quốc năm 2004, Đà Nẵng, ngày 19 - 21/2.
Phạm Văn Đồng (1989), Hồ Chủ tịch, tinh hoa của dân tộc, lương tâm của thời đại, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Phạm Văn Đồng (1995), Văn hóa và đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Tĩnh Gia (1997), "Sự tác động hai mặt của cơ chế thị trường đối với đạo đức người cán bộ quản lý", Nghiên cứu lý luận, (2), tr. 24-31.
Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Trần Văn Giàu (1983), Trong dòng chủ lưu của văn hóa Việt Nam: tư tưởng yêu nước, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
Trần Văn Giàu (1993), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
Hội sinh viên Việt Nam (2001), Báo cáo tổng kết công tác Hội và phong trào sinh viên Hà Nội năm học 2000 - 2001; 2002 -2003; 2003 - 2004, Hà Nội.
Nguyễn Khánh (1995), "Một số vấn đề về phát triển xã hội ở nước ta hiện nay", Thông tin công tác tư tưởng, tr. 1-6.
Vũ Khiêu (1974) Đạo đức mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Vũ Khiêu (1993), Mấy vấn đề về văn hóa và phát triển ở Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Vũ Khiêu (chủ biên) (1993), Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, truyền thống dân tộc và nhân loại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Trần Hậu Kiêm (chủ biên) (1997), Giáo trình đạo đức học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Thế Kiệt (chủ biên) (2001), Ảnh hưởng của đạo đức phong kiến trong cán bộ lãnh đạo quản lý của Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Thế Kiệt (chủ biên) (2003), Đạo đức người cán bộ lãnh đạo chính trị trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng và xu hướng biến động, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Hà Nội.
La Quốc Kiệt (chủ biên) (2003), Tu dưỡng đạo đức tư tưởng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Phan Huy Lê và Vũ Minh Giang (1994), Các giá trị truyền thống con người Việt Nam hiện nay, Đề tài KX-07-02, Hà Nội.
Phan Huy Lê (1995), Truyền thống dân tộc trong công cuộc đổi mới và hiện đại hóa đất nước Việt Nam, Đề tài KX-07-02, Hà Nội.
Phan Huy Lê (1996), "Truyền thống và hiện đại: vài suy nghĩ và đề xuất", Tạp chí Cộng sản, (18), tr. 30-32.
Nguyễn Ngọc Long (1987), "Quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và đạo đức trong việc đổi mới tư duy", Nghiên cứu lý luận, (1+2), tr. 105-114.
Nguyễn Ngọc Long (1990), "Tinh thần cách mạng và đạo đức Bác Hồ - ánh sáng soi đường cho sự nghiệp đổi mới", Nghiên cứu lý luận, (3), tr. 5-10.
Nguyễn Ngọc Long (chủ biên) (2001), Giáo trình đạo đức học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trường Lưu (1999), Văn hóa - một số vấn đề lý luận, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Văn Lý (2000), Kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
C.Mác (1978), Tư bản, tập I, quyển I, phần I, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C. Mác và Ph. Ănghen (1995), Toàn tập, tập 21, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C. Mác và Ph. Ănghen (1995), Toàn tập, tập 22, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1976), Về đạo đức cách mạng, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1980), Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Chí Mỳ (chủ biên) (1999), Sự thay đổi giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho đội ngũ cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trần Sĩ Phán (1998), Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Trần Văn Phòng (1997), Đạo đức cán bộ quản lý nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Hà Nội.
Văn Quân (1995), Về các giá trị dân tộc, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
Trần Hồng Quân (1996), "Về vai trò của giáo viên và vị trí của hệ thống sư phạm", Nghiên cứu giáo dục, (3), tr. 1-3.
Hà Văn Tấn (1981), "Biện chứng của truyền thống", Tạp chí Cộng sản, (3), tr. 50-54.
Tống Ngọc Thanh (1997), "Các chỉ thị và nghị định cần đến với học sinh, sinh viên", Chuyên đề sinh viên, (3), tr. 19.
Lê Thị Hoài Thanh (2002), Quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại trong giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Lê Sĩ Thắng (2002), "Kế thừa tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay", Triết học, (5), tr. 15-19.
Mạc Văn Trang (chủ biên) (1995), Đặc điểm lối sống sinh viên hiện nay và những phương hướng, biện pháp giáo dục lối sống cho sinh viên, Đề tài nghiên cứu khoa học (mã số B94 - 38 - 32), Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Hoàng Trung (2000), "Vì sao Hồ Chí Minh lại đặc biệt chú trọng đến vấn đề đạo đức?", Triết học, (4), tr. 19-21.
Trung ương Hội sinh viên Việt Nam (2003), Tổng quan tình hình sinh viên, công tác Hội và phong trào sinh viên nhiệm kỳ VI (1998 - 2003) Nxb Thanh niên, Hà Nội.
Trung ương Hội sinh viên Việt Nam (2003), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc, Hội sinh viên Việt Nam lần thứ VII (tháng 12- 2003), Nxb Thanh niên, Hà Nội.
Từ điển bách khoa toàn thư Xô viết (Thế Hùng dịch).
Thái Duy Tuyên (chủ biên) (1994), Tìm hiểu định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường, Hà Nội.
Thái Duy Tuyên (1995), "Sự biến đổi định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường", Triết học, (1), tr. 36-39.
Nguyễn Quang Uẩn - Nguyễn Thạc - Mạc Văn Trang (1995), Giá trị - định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị, Hà Nội.
Viện Mác - Lênin, Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học (1993), Về giá trị văn hóa tinh thần Việt Nam, Tập 1, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội.
Viện Mác - Lênin, Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học (1993), Về giá trị văn hóa tinh thần Việt Nam, Tập 2, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội.
Trần Quốc Vượng (1981), "Về truyền thống dân tộc", Tạp chí Cộng sản, (2), tr. 28-33.
Phạm Viết Vượng (1996), Giáo dục học đại cương, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
KẾT QUẢ TRƯNG CẦU Ý KIẾN CỦA ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
1. Đánh giá của sinh viên về vấn đề giáo dục truyền thống cho sinh viên trong nhà trường
% so với tổng số
TT
Tiêu chí
Có
Không
1
Nhà trường rất quan tâm
20
70
2
Nhà trường quan tâm
59
41
3
Ít quan tâm
20
80
4
Hầu như không quan tâm
18
82
5
Không rõ
2
98
2. Đánh giá của sinh viên về vai trò của đoàn thể, tổ chức đối với việc giáo dục đạo đức cho sinh viên
% so với tổng số
TT
Các tiêu chí
Rất quan trọng
Quan trọng
Tương đối quan trọng
Không quan trọng
Hoàn toàn không quan trọng
1
Gia đình
82
18
0
0
0
2
Nhà trường
43
52
5
0
0
3
Xã hội
43
39
18
0
0
4
Tập thể lớp học
22
43
30
5
0
5
Đảng, Nhà nước
39
39
17
0
0
6
Đoàn, Hội sinh viên
26
43
26
5
0
3. Đánh giá của sinh viên về những giá trị đang được kế thừa và đang bị mai một
% so với tổng số
TT
Các tiêu chí
Đang được kế thừa
Đang bị mai một
1
Sự lễ phép
38
62
2
Tính trung thực
18
82
3
Ý thức tôn trọng của công
6
94
4
Đấu tranh đem lại sự công bằng
38
62
5
Tinh thần gia tộc
62
38
6
Tôn trọng truyền thống
56
44
7
Bổn phận
43
57
8
Danh dự cá nhân
68
32
9
Tinh thần đoàn kết
63
37
10
Bình đẳng
69
31
11
Ý nghĩa lễ hội
31
69
12
Uy quyền
37
67
13
Trách nhiệm
38
62
14
Lòng mến khách
56
44
15
Sự tha thứ
72
28
16
Tự do
72
28
17
Ganh đua
75
25
18
Ý thức về cái đẹp
63
37
19
Thành công về vật chất
15
25
20
Sự năng động của nhà doanh nghiệp
88
12
4. Đánh giá của sinh viên về nội dung và hình thức giáo dục đạo đức truyền thống cho sinh viên hiện nay (qua các hình thức: tuyên truyền, khẩu hiệu, panô áp phích, Bài dự thi tìm hiểu về Lịch sử dân tộc, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, về Hồ Chủ tịch, về Các Mác, Hội đàm, các phong trào thanh niên, sinh viên tình nguyện...)
% so với tổng số
TT
Tiêu chí
Rất phù hợp
Khá phù hợp
Chưa phù hợp
Khó đánh giá
1
Nội dung
11
58
19
12
2
Hình thức
7
45
17
31
Phụ lục 4
KẾT QUẢ KHẢO SÁT VỀ SỐ SINH VIÊN ĐƯỢC KẾT NẠP VÀO ĐẢNG CỦA MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở HÀ NỘI TỪ 1997 ĐẾN THÁNG 6/2003
TT
Tên trường
Số sinh viên được kết nạp vào Đảng
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
TS
1
ĐH Ngoại thương
0
2
4
5
2
10
3
26
2
ĐH Kinh tế quốc dân
27
22
30
30
38
58
11
222
3
ĐH Y Hà Nội
5
18
25
27
27
31
10
143
4
ĐH Sư phạm Hà Nội
7
6
8
19
25
29
20
114
5
ĐH Bách khoa Hà Nội
2
10
18
10
16
13
5
74
6
ĐH Thương mại
0
2
4
16
17
11
5
55
7
ĐH giao thông vận tải
0
4
2
6
6
12
7
47
8
ĐH Mỏ địa chất
3
9
0
10
7
14
3
46
9
Học viện Tài chính
2
9
3
5
10
7
9
45
10
ĐH Khoa học tự nhiên
3
3
6
9
8
5
8
42
11
ĐH khoa học xã hội và nhân văn
1
6
2
8
6
7
2
32
Nguồn: Đề tài: Giáo dục truyền thống dân tộc cho sinh viên các trường đại học hiện nay- thực trạng và giải pháp, Báo cáo để tài cấp Bộ, mã số: B 2001- 36-28 (theo thông báo giao nhiệm vụ số 2887/KHCN ngày 18/4/2001 của Bộ Giáo dục và Đào tạo), Hà Nội, tháng 9/2003.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam hiện nay (qua thực tế một số trường đại học và cao đẳng ở thành phố Hà Nội).doc