Luận văn Vốn và vấn đề tạo vốn của Doanh nghiệp

Ngày nay xu thế toàn cầu hoá kinh tế đã mang lại nhiều cơ hội và thách thức đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Đưa Việt Nam bắt kịp các nước phát triển, tránh tụt hậu xa hơn về kinh tế, nhiệm vụ năng nề đó có thành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào các DNVN. Do đó mỗi DN phải hình thành cho mình phương thức huy động vốn, phương tiến hành hoạt động SXKD, phương thức tiêu thụ sản phẩm. riêng phù hợp loại hình DN đó, để đạt hiệu quả cao nhất.

pdf37 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2387 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vốn và vấn đề tạo vốn của Doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kỳ hạn nợ đã thoả thuận hoặc trả một lần vào ngày đáo hạn . Hai là : Cho vay luân chuyển , phương thức này được áp dụng khi doanh nghiệp có nhu cầu vốn bổ xung thường xuyên trong suốt quá trình kinh doanh và đáp ứng những điều kiện nhất định mà ngân hàng đặt ra .Theo phương thức này, doanh nghiệp và ngân hàng thoả thuận một hạn mức tín dụng cho một thời hạn nhất định (ví dụ 1 năm). Hạn mức tín dụng được xác định dựa trên nhu cầu vốn bổ sung của doanh nghiệp và mức cho vay tối đa mà ngân hàng có thể chấp nhận. Căn cứ vào hạn mức tín dụng đã thoả thuận, doanh nghiệp có thể nhận tiền vay nhiều lần, nhưng tổng các món nợ sẽ không vượt quá hạn mức đã xác định . Việc thực hiện tín dụng ngân hàng phải dựa trên nguyên tắc ứng trước có bảo đảm bằng tài sản hoặc bằng uy tín của doanh nghiệp. Riêng đối với khối doanh nghiệp nhà nước, tạo lợi thế đẩy mạnh vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước đối với các nền kinh tế, ngày 6/ 5/ 1997 chính phủ đã ra nghị quyết số 49 / CP về việc các NHTM quốc doanh cho DNNN vay vốn mà không phải thế chấp tài sản .Nhưng sau một thời gian dài được vay vốn tại các NHTM quốc doanh với những điều kiện ưu đãi các DNNN vẫn không sử dụng vốn có hiệu quả và không phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Nhiều 11 doanh nghiệp nhà nước rơi vào tình trạng hoà vốn hoặc thua lỗ nên khi nợ đến hạn doanh nghiệp đã không có khả năng thanh toán nợ cho ngân hàng . Mặt khác, trong trường hợp DNNN còn nợ quá hạn và hoạt động kinh doanh thua lỗ những khoản nợ quá hạn chưa được xử lý thì các NHTM quốc doanh vẫn cho doanh nghiệp vay tiếp, nếu doanh nghiệp có phương án kinh doanh có hiệu quả và được Bộ chủ quản (đối với doanh nghiệp TW) hoặc uỷ ban nhân dân tỉnh thành phố trực thuộc TW (đối với doanh nghiệp địa phương) chấp thuận . Lợi dụng quy định trên một số doanh nghiệp nhà nước đã cấu kết với ngân hàng thương mại hoặc cố gắng “tô màu” phương án kinh doanh để được tiếp tục vay vốn, cho dù nợ cũ chưa trả hết hoặc hoạt động sản xuất kinh doanh thua lỗ .Điều này dẫn đến số dư nợ của các công ty này lên đến hàng nghìn tỷ đồng (Minh phụng epxco...) làm phá sản, không chỉ các doanh nghiệp này mà cả NHTMQD đã không thu hồi được vốn vay. Trong khi đó đối với các doanh nghiệp ở thành phần khác thủ tục xét duyệt, cho vay vốn quá khắt khe. Rút kinh nghiệm trước thực tế và để đảm bảo quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong quan hệ vay vốn ngân hàng, nâng cao trách nhiệm của DNNN trong việc sử dụng vốn vay ngân hàng, ngày 29 tháng 12 năm1999 Chính phủ đã ban hành nghị định số 178 /1999/NĐ-CP về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng. Theo đó, tổ chức tín dụng có quyền lựa chọn quy định việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản, cho vay không có bảo đảm và chịu trách nhiệm về quy định của mình. Trong trường hợp tổ chức tín dụng cho vay không có bảo đảm bằng tài sản theo chỉ định của chính phủ thì tổn thất do nguyên nhân khách quan của các khoản vay này sẽ được chính phủ xử lý . Ngày 31/8/2000 NHNNVN đã ban hành thông tư số 10/2000/TT/NHNN hướng dẫn chi tiết việc thực hiên các nội dung trong nghị định 178 Cụ thể như sau : Một là ,về đăng ký giao dịch đảm bảo tài sản là bất động sản, (trừ tàu bay, tàu biển), các tổ chức tín dụng và khách hàng vay chưa thực hiện việc đăng ký giao dịch bảo đảm cho đến khi các Bộ, ngành liên quan, các uỷ ban nhân dân 12 tỉnh, thành phố trực thuộc TW thành lập cơ quan đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm và ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể quy trình, thủ tục lệ phí đăng ký giao dịch bảo đảm; Đối với đăng ký giao dịch bảo đảm tài sản là tàu bay và tầu biển, các tổ chức tín dụng và khách hàng vay thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm tại Cục Hàng không dân dụng Việt Nam, cơ quan đăng ký tàu biển và thuyền viên khu vực theo quy định hiện hành của chính phủ, Bộ giao thông vận tải và cục hàng không dân dụng Việt Nam, cơ quan đăng ký tàu biển và thuyền viên khu vực theo quy định hiện hành của chính phủ, Bộ giao thông vận tải và cục hàng không dân dụng việt Nam . Hai là, về cho vay không có bảo đảm đối với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài : Đối với doanh nghiệp nhà nước chưa đáp ứng được điều kiện “ có kết quả sản xuất kinh doanh có lãi 2 năm liền kề với thời điểm xem xét cho vay “ nhưng không thuộc diện yếu kém theo phương án sắp xếp ( cổ phần hoá giao bán ,khoán kinh doanh cho thuê ... ) của chính phủ , của các bộ, ngành và địa phương, có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh có hiệu quả khắc phục được lỗ trong thời hạn nhất định và có khả năng trả nợ vay, thì được các tổ chức tín dụng xem xét cho vay không có bảo đảm bằng tài sản phù hợp với các quy định khác tại mục 1 Chương IV Nghị định số 178/1999/NĐ - CP và Mục 1 Chương IV thông tư số06/2000/TT/NHHH1 ngày 4/4/2000 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam hướng dẫn thực hiện Nghị định nay; đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lỗ theo kế hoạch do mới đi vào hoạt động tại Việt Nam chưa quá 3 năm nhưng xét thấy có khả năng thực hiện đúng kế hoạch lỗ dự kiến trong dự án đầu tư đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt thì các tổ chức có thẩm quyền xem xét cho vay không có bảo đảm bằng tài sản phù hợp với các quy định khác tại Mục 1 Chương IV Nghị định số 178/2000/NĐ-CP và Mục 1 Chương IV Thông tư số 06/2000/TTNHNN1 hướng dẫn thực hiện nghị định này . Ba là, về điều kiện vốn tự có tham gia vào dự án đầu tư và giá trị tài sản bảo đảm tiền vay bằng các biện pháp cầm cố, thế chấp bằng các tài sản bảo lãnh 13 của các bên thứ ba quy định tại Điểm 1.4 Mục 2 Chương III Thông tư số 06 nói trên của Thống đốc ngân hàng nhà nước thực hiện như sau: Có mức vốn tự có tham gia vào dự án đầu tư tối thiểu bằng 30 % tổng mức vốn đầu tư của dự án; hoặc có giá trị tài sản bảo đảm tiền vay bằng một trong các biện pháp cầm cố, thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba tối thiểu bằng 30 % tổng mức vốn đầu tư của dự án . Bốn là, cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đối với hộ nông dân, chủ trang trại sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp nuôi trồng thuỷ sản mang tính sản xuát hàng hoá, có phương án sản xuất hiệu quả, có khả năng trả nợ vay, thì tổ chức tín dụng xem xét cho vay 20 triệu đồng không phải thực hiện biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản, chỉ nộp bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc giấy xác nhận của uỷ ban nhân dân xã phường , thị trấn về diện tích đất đang sử dụng không có chanh chấp kèm theo giấy đề nghị vay vốn . Như vậy so với các quy định cũ , nghị định 178 đã thực hiện một bước tiến lớn về tư duy bảo đảm nợ. Theo đó bảo đảm nợ chỉ là một giải pháp nhằm tránh rủi ro khi người vay mất khả năng thanh toán chứ không phải là điều kiện tiên quyết để cấp tín dụng. Giờ đây việc thẩm định phương án kinh doanh và thẩm định khách hàng trở thành tiêu chuẩn số một để quyết định đầu tư chứ không lệ thuộc chủ yếu vào tài sản cầm cố thế chấp, hoặc bảo lãnh như trước đây. Chính điều này đã giải quyết được phần nào tình trạng ngân hàng thừa vốn không giải ngân được trong khi các doanh nghiệp thiếu vốn để phát triển sản xuất. Mặt khác nghị định 178 cho phép thực hiện bảo đảm nợ trung, dài hạn bằng tài sản hình thành từ vốn vay, điều này mở ra nhiều cơ hội cấp tín dụng cho sản xuất kinh doanh trong điều kiện doanh nghiệp không đủ tiềm lực vốn tự có để triển khai dự án . Tuy nhiên với điều kiện vay tín chấp như trên (Kết quả SXKD có lẵi 2 năm liền, có tín nhiệm với TCTD về việc sử dụng vốn vay hiệu quả và trả nợ đúng hạn) không 14 Phải doanh nghiệp nào cũng đáp ứng được, chưa kể những DN mới thành lập, hoặc những DN mới vực dậy sau thời gian thua lỗ cần vốn phát triển sản xuất kinh doanh. Ngay cả các tổng ty 91 với tổng số vốn 44 % tổng số vốn ngân sách của toàn bộ khu vực DNNN nhưng kết quả kinh doanh cũng không khả quan lắm. Chỉ tính riêng 17 tổng công ty 91 trong 3 tháng đầu năm 2002 thì có đến 12 tổng công ty hoạt động không có lãi, hoặc lãi ít. Năm tổng công ty hoạt động có lãi là : TCT Dầu Khí, TCT Bưu chính viễn thông, TCT Điện Lực, TCT Cao Su, TCT Công Nghiệp tàu thuỷ. Còn 90 % doanh nghiệp hiện có ở Việt Nam là doanh nghiệp vừa và nhỏ ( doanh nghiệp có vốn điều lệ nhỏ hơn 5 tỷ đồng, số lao động bình quân hàng năm dưới 200 người ) thì điều kiện về tài sản thế chấp vẫn là vấn đề nan giải . Quy chế cho vay và nghị định bảo đảm tiền vay cần chú ý tới nhu cầu, khả năng, thực trạng của DN vừa và nhỏ để có tín dụng phù hợp đối với họ, nhất là loại tín dụng trung và dài hạn . Ngoài ra cơ sở pháp lý về việc xác nhận, định giá tài sản dùng để thế chấp ,cầm cố còn phức tạp Để tận dụng được nguồn vốn này Về phía các doanh nghiệp. - Phải năng động tìm kiếm cơ hội đầu tư và thị trường của mình, thông tin về DN phải được cung cấp đầy đủ ,vì chính sự hạn chế về thông tin và mức chi phí để có được mức thông tin này quá cao đã làm tăng rủi ro khi ngân hàng cho vay . - Phải lập kế hoạch sử dụng vốn vay một cách hiệu quả, đảm bảo tiết kiệm để tạo niềm tin cho các ngân hàng thương mại . Về phía các ngân hàng thương mại: Nên cho vay dựa vào thực trạng doanh nghiệp, thẩm định chắc chắn dự án đầu tư, coi trọng thông tin kinh tế và kiểm toán tài chính , tức là cho vay dựa vào năng lực thực tế của doanh nghiệp. Trong quá trình xét duyệt cán bộ ngân hàng phải có điều kiện sử dụng các dịch vụ tư vấn có liên quan và có thẩm quyền ( về pháp lý, về công nghệ, về thẩm định dự án ... ) để làm giảm rủi ro ngay từ ban đầu . 15 Thời gian gần đây cùng với sự mở cửa của nền kinh tế đã xuất hiện nhiều chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh (ngân hàng Á Châu ACB ...), các ngân hàng thương mại được chủ động lựa chọn lĩnh vực kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Khách hàng được tự lựa chọn ngân hàng. Một khách hàng được giao dịch tại nhiều ngân hàng khác nhau... Tất cả đã thúc đẩy không khí cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại. Điều này mang lại nhiều lợi ích cho khách hàng là những doanh nghiệp do sự đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng, thực thi chính sách lãi xuất thấp, phí dịch vụ linh hoạt. Với các chính sách khuyến khích đầu tư của chính phủ, (NĐ 165 ,178) sự thông thoáng của các ngân hàng, các doanh nghiệp phải biết tận dụng cơ hội của mình. Làm thế nào để huy động và sử dụng nguồn vốn vay hiệu quả nhất ? Đó là câu hỏi của chính các doanh nghiệp Việt Nam.  Tín dụng thuê mua . Theo quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính ban hành kèm theo Nghi định số 64/ CP ra ngày 9/10/1995 của Chính phủ, điều 1 quy định như sau :” Tín dụng thuê mua là một hoạt động tín dụng trung, dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc thiết bị và các động sản khác. Bên cho thuê cam kết mua máy móc thiết bị và động sản theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản đó. Bên thuê sử dụng tài sản và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận và không được hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện thoả thuận trong các hợp đồng thuê “ Thực chất phương thức tín dụng thuê mua là một kênh dẫn vốn vô cùng quan trọng, qua đó các doanh nghiệp được tài trợ 100 % nhu cầu về vốn cho các DN có nhu cầu sử dụng tạm thời tài sản hoặc các doanh nghiệp có khó khăn găy gắt về tài chính mà lại muốn sử dụng tải sản, thiết bị hơn là mang quyền chủ sở hữu . Đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường gặp rất nhiều khó khăn về vốn trung và dài hạn, nếu đi vay ở các ngân hàng thương mại lại thiếu 16 tài sản thế chấp cũng như rất khó thoả mãn các điều kiện chống rủi ro của các tổ chức này. Vì vậy phương thức tín dụng thuê mua có thể giúp doanh nghiệp đi thuê gia tăng năng lực sản xuất (do được đầu tư công nghệ hiện đại mà không ảnh hưởng đến vốn kinh doanh của doanh nghiệp ), không bị đọng vốn trong tài sản cố định. Mặt khác theo đánh giá của các chuyên gia đánh giá công nghệ asean, mức độ công nghệ, trang thiết bị của Việt Nam lạc hậu từ hai đến ba thế hệ so với các nước đang phát triển trong khu vực. Tỷ lệ đổi mới trang thiết bị trung bình hàng năm ở Việt Nam chỉ khoảng 5-7 %, trong khi đó của thế giới hiện nay là khoảng 20 % năm. Thực tế đáng buồn này đã làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm trong nước trên thị trường quốc tế. Vì vậy, đầu tư cho dây chuyền công nghệ, thiết bị hiện đại để tăng hàm lượng chất xám, tăng chất lượng sản phẩm là điều kiện tiên quyết của các doanh nghiệp trong quá trình hội nhập. Nhận thức được tầm quan trọng của TDTM, 2/ 5/ 2001 Chính phủ đã ban hành nghị định số 16/2001/NĐ-CP’’ về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính “. So với NĐ 64/CP, nghị định mới đã cơ bản tháo gỡ được những vướng mắc trong hoạt động kinh doanh của các công ty cho thuê tài chính. Qua đó thoả mãn tối đa nhu cầu về tài sản, thiết bị, dây chuyền công nghệ của các doanh nghiệp đi thuê: - Thứ nhất nghị định mới quy định không chỉ các doanh nghiệp mà các tổ chức và cá nhân hoạt động tại Việt Nam đều là đối tượng cho thuê của các công ty CTTC. Trước đây cá nhân muốn thuê máy móc, thiết bị (ôtô, máy xúc, máy đào) từ phía công ty CTTC phải”lách luật” bằng cách đội lốt doanh nghiệp nào đó. Cho nên khi rủi ro xảy ra thì việc thu nợ xử lý tài sản sẽ trở nên rất phức tạp. - Thứ hai cho phép các công ty CTTC được nhập khẩu trực tiếp những máy móc, thiết bị để cho thuê, tạo điều kiện cho các công ty CTTC chủ động trong việc đáp ứng nhu cầu của người đi thuê và giảm chi phí đầu vào , hạ lãi xuất cho thuê. 17 - Thứ ba, nếu trước kia, nghị định 64 CP quy định công ty CTTC không được nhân tiền gửi dưới mọi hình thức thì nay các công ty này được huy động tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở nên. Với quy định này, phần nào giải quyết được khó khăn về vốn cho các công ty CTTC liên doanh vay 100 % vốn nước ngoài, cũng như các công ty CTTC thuộc các NHTM , tạo điều kiện cho các công ty chủ động về nguồn vốn với chi phí thấp hơn. - Thứ tư, các doanh nghiệp có sẵn cơ sở vật chất kỹ thuật, máy móc, thiết bị tốt, làm ăn hiệu quả, nhưng lại thiếu vốn lưu động có thể tận dụng nguồn vốn cố định của mình bằng cách bán máy móc, thiết bị cho các công ty CTTC rồi thuê lại. - Thứ năm, thuế đối với máy móc thiết bị, các phương tiện vận chuyển và các động sản khác mà công ty CTTC mua trong nước hoặc nhập khẩu để cho thuê được áp dụng như trường hợp bên thuê trực tiếp mua hoặc nhập khẩu các tài sản này, quy định này khắc phục được tình trạng cả người thuê và người cho thuê đều phải có nghĩa vụ nộp lệ phí trước bạ trên gía trị tài sản nhằm xác định nhân quyền sở hữu của các bên vì đặc điểm của hoạt động CTTC là trong quá trình cho thuê tài sản, quyền sở hữu tài sản thuộc về tổ chức tin dụng cho thuê, hết thời hạn thuê, bên thuê được mua lại tài sản đó với giá danh nghĩa . Mặt khác họ phải chịu thuế GTGT tính trên giá trị sản phẩm. Nên chi phí thuê thực tế rất lớn. Với quy định này, đã tạo sự bình đẳng cho khách hàng giữa đi vay các NHTM và đi thuê của các công ty CTTC . -Thứ sáu, công ty CTTC không được mua, đầu tư vào tài sản cố định của mình quá 50 % vốn tự có ( nghị định cũ qui định không quá 25 %). Tạo điều kiện cho các công ty CTTC trang bị cơ sở vật chất, mua sắm TSCĐ . - Thứ bảy, tài sản CTTC phải đăng ký tại trung tâm đăng ký giao dịch có bảo đảm, quy định này nhằm đảm bảo an toàn tài sản cho thuê của các công ty CTTC tránh sang nhượng mua bán khi chưa được sự đồng ý của bên cho thuê. Sau khi NĐ 16/2001/NĐ-CP đi vào thực tế hoạt động tín dụng thuê mua đã sôi động hơn rất nhiều. Thực tế cho thấy, nghiệp vụ cho thuê tài chính đã góp 18 phần giảm bớt những khó khăn cho doanh nghiệp Việt Nam về nguồn vốn đầu tư dài hạn vào máy móc thiết bị, đồng thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận với công nghệ hiện đại. CTTC tỏ ra rất thích hợp đối với các doanh nghiệp trong giai đoạn tái cấu trúc và cơ cấu lại dây chuyền sản xuất. Tuy vậy, hoạt động CTTC hiện nay vẫn chưa phát triển ngang tầm với ưu thế vốn có của nó, còn nhiều bất cập trong cơ chế chính sách và điều hành thực tiễn, những bế tắc trong thị trường đầu ra. Hiện nay cả nước có 9 công ty CTTC trong đó có 5 công ty CTTC nhà nước, 3 công ty liên doanh, và 1 công ty 100 % vốn nước ngoài với tổng giá trị tài sản lên đến hàng nghìn tỷ đồng, chiếm 62 % so với các tổ chức tín dụng phi ngân hàng và 0,5 % so với các ngân hàng thương mại. Như vậy tỷ trọng của khối cho thuê tải chính trong hệ thống tài chính tín dụng hiện nay về mặt số lượng và giá trị tài sản có còn đang ở mức rất khiêm tốn . Xét về nguồn vốn của các công ty cho thuê tài chính năm 2001 thì vốn tự có của chính công ty là 823,4 tỷ đồng chiếm 79 % so với tổ chức tín dụng phi ngân hàng và 3,5 % so với các ngân hàng thương mại. Còn việc huy động vốn đang ở mức thấp, hầu hết các công ty CTTC mới hoạt động bằng nguồn vốn điều lệ .Về tình hình sử dụng vốn, tổng dư nợ CTTC đạt gần 581 tỷ chiếm 89% so với tổng dư nợ trung và dài hạn của các tổ chức tín dụng phi ngân hàng và 2,2% so với các ngân hàng thương mại. Nhìn chung hầu hết các công ty CTTC đều đã có lợi nhuận trước thuế. Tuy nhiên nếu tính cả thuế vốn thì một số công ty CTTC của các NHTM còn lỗ. Còn đối các công ty CTTC có vốn đầu tư nước ngoài thì trong những năm đầu hầu hết là bị lỗ. Nguyên nhân nào làm cho hoạt động CTTC lỗ và hầu hết các công ty CTTC chỉ mới sử dụng đến vốn điều lệ của mình, chiếm thị phần rất nhỏ (0,2%) và dư nợ cho thuê cũng rất khiêm tốn trong hoạt động tín dụng của cả nước (0,9%). Nguyên nhân chủ yếu sau đã cản trở sự phát triển hình thức huy động vốn này: 19 - Mặc dù đã ra đời gần 6 năm nhưng loại hình dịch vụ này còn rất mới mẻ đối với các DNVN do vậy sự hiểu biết vè nghiệp vụ này của các doanh nghiệp ,thậm chí của các công ty CTTC còn rất mơ hồ. Điều này làm giảm “ cầu “ về hoạt động CTTC . Phí thuê còn quá cao, cao hơn lãi xuất đi vay khoảng 20% vì các công ty CTTC phải chịu thuế trước bạ và thuế giá trị gia tăng cao. Ngoài ra còn chi phí bảo hiểm, quảng cáo, thẩm định dự án ... đã làm tăng phí thu. Tất cả điều đó đã gây nên những bất lợi khiến cho các công ty CTTC không hấp dẫn người thuê. - Chi phí cho việc mua máy móc thiết bị cao vì hầu hết là hàng nhập khẩu . - Các công ty CTTC xem trọng lịch sử người thuê hơn là xem xét phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có khả thi không. Ngoài ra thủ tục cho thuê của các công ty CTTC quá chặt chẽ, phức tạp, chưa có nhiều hình thức thích ứng với điều kiện hiện tại của các DNVN như bán và cho thuê lại, bảo lãnh đối với khách hàng trong các giao dịch cho thuê tài chính. Bên cạnh đó vốn điều lệ của các công ty CTTC quá thấp (5 công ty CTTC trực thuộc NHTMQD chỉ có vốn điều lệ khoảng 60 tỷ đồng) không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu đầu tư dây chuyền công nghệ lớn. - Để phát triển được hình thức tạo vốn này cần có các giải pháp thiết thực từ cả hai phía nhà nước và doanh nghiệp: + Về phía nhà nước: Cần có các chính sách thuế phù hợp đối với các công ty CTTC cũng như các doanh nghiệp đi thuê. Tại một số nước có hoạt đông này phát triển, bên thuê được phép tính toàn bộ số tiền thuê phải trả vào chi phí kinh doanh của mình nên thuế thu nhập doanh nghiệp giảm đánh kể, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư. Nên chăng VN có chính sách tương tự trong một số ngành ưu tiên đầu tư trước như máy móc sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu, máy móc sản xuất cong nghệ chế biến thực phẩm, hay các máy móc thiết bị xử lý môi trường... Khi cân nhắc một giao dịch CTTC, một trong những điểm quan trọng mà các bên tham gia CTTC muốn biết là giá trị còn lại của tài sản cho thuê và khả 20 năng bán lại nó trên thị trường. Đối với một số máy móc thiết bị công nghiệp, các loại phương tiện giao thông vận tải,thị trường máy móc cũ tương đối phổ biến.Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa co một cơ quan hay tổ chức có thẩm quyền, có uy tín nào cung cấp các dịch vụ giám định, định giá giá trị máy móc một cách chuyên nghiệp. Việc định giá chỉ thực hiện theo cảm tính, dễ nảy sinh nhiều vấn đề tranh chấp do thiếu tính khách quan, khoa học trong định giá. Vì vậy nhà nước nên thành lập cơ quan giám định ,xác định giá trị máy móc, thiết bị mới và cũ. + Về phía doanh nghiệp : phải nhận thức được rằng hình thức này hết sức hữu hiệu để đầu tư thiết bị công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất. Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay việc đi thuê chưa hoàn toàn thuận lợi. Vì vậy phải tính toán kỹ lợi ích, chi phí của việc đi vay để mua máy móc thiết bị hay đi thuê.  Huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu, trái phiếu công ty trên thị trường chứng khoán Một phương thức tạo vốn hết sức nhạy bén và hiệu quả của doanh nghiệp là thông qua TTCK . Nếu trước đây, việc tìm ra nguồn vốn tài trợ cho hoạt động SXKD của DN chủ yếu dựa vào ngân hàng hay tổ chức tín dụng khác, thì nay qua TTCK các DN huy động vốn trung và dài hạn từ các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, của các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước bằng cách phát hành cổ phiếu,trái phiếu công ty và bán ra công chúng. Cổ phiếu là một loại chứng khoán ( giấy tờ có giá ) được phát hành dưới dạng chứng chỉ vật chất hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền sở huữ và lợi ích hợp pháp của người sở hữu cổ phiếu đối với tài sản hoặc vốn của một công ty cổ phần. Người nắm giữ cổ phiếu gọi là cổ đông. Thu nhập của cổ phiếu đem lại cho cổ đông thường không cố định, nó phụ thuộc vào tình hình SXKD (lãi, lỗ ) của DN. Cũng như cổ phiếu, trái phiếu công ty cũng là một loại chứng khoán được phát hành để vay vốn dài hạn nhưng xác định nghĩa vụ trả nợ (bao gồm cả vốn và lãi) của công ty cổ phần đối với người sở hữu trái phiếu. Thực chất trái phiếu 21 thể hiện quan hệ chủ nợ, con nợ giữa người phát hành và người đầu tư. Trái chủ là chủ nợ của người đầu tư. Trên cương vị là chủ nợ,trái chủ có quyền đòi các khoản thanh toán theo cam kết về khối lượng và thời hạn, song không có quyền tham gia vào những vấn đề của bên phát hành. Thực chất, thông qua việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường CK, việc huy động vốn được tiến hành trực tiếp với những người có ý định đầu tư bằng cách tạo ra hangf loạt các lựa chọn khác nhau. 20/07/2000 TTCK tập trung chính thức của Việt Nam ra đời tại TPHCM đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá trình xây dựng đồng bộ và hoàn thiện thị trường tài chính Việt Nam , mở ra một kênh huy động vốn trung và dài hạn mới đầy hiệu quả đối với các DN. Nhưng việc đưa vào vận hành TTCK vừa tạo ra cơ hội, đồng thời cũng là thách thức lớn đối với các DN, các nhà đầu tư , đòi hỏi các chủ thể tham gia phải tư minh đổi mới,phát triển phù hợp với thể chế phức tạp và vô cùng hiện đại này. Để có thể tạo vốn thông qua TTCK, DN phải thỏa mãn các điều kiện sau: - Thứ nhất: Công ty cổ phần là chủ thể duy nhất được phép phát hành cổ phiếu để huy động vốn. Các loại hình doanh nghiệp khác bao gồm DNNN, công ty trách nhiệm hữu hạn ...chỉ được huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu. - Thứ hai : Bất cứ một loại CK nào muốn giao dịch trên sở GDCK đều phải đáp ứng tiêu chuẩn đặt ra và phải được sự phê chuẩn của hội đồng quản trị sở GDCK như: có sổ sách rõ ràng, đạt quy mô tối thiểu về vốn 10 tỷ đồng, hoạt động có lãi trong hai năm gần nhất, 20% vốn cổ phần dược bán cho trên 100 nhà đầu tư bên ngoài DN, cổ đông sáng lập phải nắm giữ 20% vốn cổ phần trong thời gian tối thiểu 3 năm. - Thứ ba: Sau khi CK được chấp nhận niêm yết công ty có nhiệm vụ thường xuyên cung cấp thông tin một cách công khai, nhanh chóng chính xác về tình hình tài chính của mình. - Thứ tư: hàng năm công ty phải nộp một chi phí niêm yết. 22 Căn cứ theo Nghị định 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán (văn bản pháp lý cao nhất hiện nay), TTGDCK thành phố HCM chỉ tổ chức và quản lý giao dịch các loại cổ phiếu phát hành ra công chúng có đủ tiêu chuẩn và ddược cấp giấy phép niêm yết trên Trung tâm. Để được cấp giấy phép niêm yết, cổ phiếu của công ty phải đủ tiêu chuẩn niêm yết, công ty phải lập hồ sơ theo đúng qui trình mà Thông tư 02/2001/TT-UBCK ngày 28/9/2001 hướng dẫn phát hành cổ phiếu trái phiếu ra công chúng quy định : Bước 1 Tổ chức họp Hộị đồng quản trị để đánh giá tình hình của công ty theo các điều kiện phát hành ra công chúng. Bước 2 Tổ chức họp đại hội đồng cổ đông . Bước 3 Chuẩn bị cho việc phát hành ra công chúng /đăng ký lại để niêm yết .Bước 4 Nộp hồ sơ xin phép phát hành ra công chúng/đăng ký lại để niêm yết. Bước 5 Phân phối chứng khoán (chỉ áp dụng cho trường hợp phát hành ra công chúng để niêm yết). Bước 6 Đăng ký niêm yết với Trung tâm giao dịch chứng khoán. Qua các điều kiện trên cho thấy, không phải công ty nào cũng có đủ tiêu chuẩn để được niêm yết trên SGDCK . Chỉ riêng yêu cầu về lượng vốn tối thiểu đã là rất khó khăn đối với hầu hết các DNVN (90% DNVN là các DNV&N). Tính đến ngày 31/12/2001 Việt Nam có hơn 720 DNNN đã thực hiện cổ phàn hoá và khoảng hơn 1000 CTCP thành lập công ty và luật doanh nghiệp . Trong số đó , chỉ có gần 120 công ty có đủ tiêu chuẩn niêm yết xét về mặt quy mô vốn ( khoảng 100 DNNN được cổ phần hoá và 20 công ty cổ phần thành lập mới). Trong số 120 công ty kể trên chỉ có hơn 40 công ty đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn niêm yết và chỉ có 12 công ty niêm yết cổ phiếu trên TTCK với tổng số vốn diều lệ khoảng 500 tỷ. Phải chăng tiêu chuẩn niêm yết trên TTGDCK là quá cao so với thực trạng của các doanh nghiệp Việt Nam ? Nhưng nếu hạ thấp tiêu chuẩn niêm yết đương nhiên sẽ phải chấp nhận một thị trường cổ phiếu có chất lượng vừa phải đi kèm với tính rủi ro cao hơn, khả năng bảo vệ lợi ích của người đầu tư thấp hơn và rất khó để có thể duy trì tính hiệu quả và ổn định của thị trường. Giải pháp nào để cho các DNV&N có thể huy động vốn thông qua TTCK? Thực tế, trong gần 2 năm qua, hoạt động giao dịch ngoài TTGDCK đối 23 với các loại cổ phiếu của các công ty CP chưa niêm yết đã diễn ra khá sôi động vì ngoài những CTCP đã có CK niêm yết trên TTCK tập trung, rất nhiều công ty với những quy mô khác nhau luôn có nhu cầu huy động vốn hoặc là đa dạng hoá nguồn vốn thông qua phát hành CK ra công chúng. Mặt khác,mặc dù CK của các công ty này chưa được niêm yết chính thức trên TTGDCK tập trung nhưng những chủ sở hữu các cổ phiếu này vẫn cố trao đổi mua bán cổ phiếu tuỳ theo mục đích kinh tế riêng của họ. Hoạt động trao đổi tự do này dã tạo cơ hội cho mọi DN có thể thu hút được vốn từ những nguồn nhanf rỗi trong dân cư, mặt khác quan trọng hơn là tạo khả năng lưu thông các cổ phiếu làm linh hoạt các luồng vốn.Tuy nhiên nó bộc lộ những rủi ro cao xuất phát từ tình trạng thiếu thông tin trong giao dịch, dễ xảy ra ép giá, lừa gạt,...Vì vậy nhất thiết phải thành lập một thị trường cho các loại cổ phiếu này(thị trường phi tập trung OTC) bằng các văn bản pháp luật cụ thể. Cho đến nay văn bản pháp luật cao nhất là NĐ48/ 1998ND-CP của chính phủ, sau một thời gian đi vào hoạt động nghị định này đã bộc lộ những hạn chế thiếu sót cần được tu sưả. Hiện nay luật doanh nghiệp không quy định về việc phát hành các cổ phiếu ra công chúng mà do các văn bản pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán điều chỉnh nhưng tại nghị định 48 chỉ quy định phát hành ra công chúng tại TTGDCK hoặc sở GDCK, do vậy việc phát hành khác thì không biét điều chỉnh theo văn bản pháp lý nào ? Một hiện tượng nữa là còn thiếu bình đẳng về thuế trong đầu tư chứng khoán. Thi trường đang tồn tại nghịch lý: Khi các cá nhân đầu tư vào chứng khoán được hưởng ưu đãi miễn thuế thu nhập thì nhà đầu tư chứng khoán là tổ chức lại phải chịu gánh nặng về thuế thu nhập, lên tới 32%, đối với phần lợi nhuận thu từ lãi cổ tức, lãi trái phiếu, chênh lệch mua bán chứng khoán...do đó làm giảm khả năng cung ứng vốn cho các doanh nghiệp .v.v. Thị trường mới ra đời cho nên cung pháp lý chưa thể đầy đủ, đồng bộ và thống nhất nên chưa tạo điều kiện cho việc thu hút vốn của các công ty tham gia niêm yết tuy nhiên qua gần 2 năm đi vào hoạt động thị trường đã có những 24 thành tựu bước đầu: Lượng chứng khoán giao dịch đạt 1090 tỷ VND (Năm 2001 là 997 tỷ) chiếm khoảng 0,7%GDP.Phiên có giá trị cao nhất đạt 30,45 tỷ với 424300 cổ phiếu được khớp lệnh vào ngày 11/6/2001. Qua TTGDCK các công ty tham gia niêm yết đã thu hút được lượng vốn lớn, đảm bảo quá trình SXKD tăng trưởng liên tục,tạo điều kiện để các công ty đầu tư công nghệ phát triển sản xuất như HAP, REE,...Tuy nhiên thị trường trái phiếu công ty vẫn đang ở tình trạng “đông cứng”. Tính đến ngày 29/3/2001 số lượng trái phiếu được giao dịch trên thị trường chiếm tỷ lệ rất thấp so với tổng số giao dịch. Diều này do nhiều nguyên nhân chủ yếu do lãi suất trái phiếu quá thấp, tính thanh khoản kém... Để phát triển khả năng huy động vốn cho các DNVN thông qua TTCK cần phối hợp thực hiện các biện pháp sau: - Hoàn thiện môi trường pháp lý: + Nghị định 48/1998-CP sau một thời gian hoạt động đã có những vấn đề phát sinh không phù hợp với thực tiễn ví dụ như : các tiêu chuẩn về phát hành, niêm yết trên thị trường chứng khoán còn chưa được phân điịnh rỏ ràng, nguyên tắc và cơ chế giao dịch chưa thể hiện rõ, một số chính sách về tài chính và hạch toán kế toán đối với công ty cổ phần chưa đồng bộ Xuất phát từ những yêu cầu đó đòi hỏi phải nghiên cứu , sửa chữa, bổ xung nghị điịnh này cho phù hợp với các luật khác cũng như nghiên cứu các văn bản pháp lụât khác như : QĐ139/TTG, 145/1999/QĐ-TTG... đẻ làm căn cứ cho việc xây dựng các văn bản pháp quy cao hơn như pháp lệnh hoặc luật chứng kháon nhằm tạo ra môi trường, khung pháp lý tốt, an toàn cho những nhười niêm yết. + Cần có những chính sách ưu đãi về thếu đối với các công ty cổ phần cũng như các doanh nghiệp khi tham gia niêm yết cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường như: tăng thời hạn thuế thu hnập 50%sau 3-5 năm niêm ết điieù này sẽ khiến các công ty tham gia ít lo nhại hơn cũng như khuyến khích họ manhj dạn trong việc thu hút vốn đầu tư. Đồng thời cũng cần có các biện pháp giảm chi phí phát hành, phí lưu ký, phí niêm yétt ... đối với các công ty niêm yết trên thị trường. Cho 25 phép các nhà đầu tư mua trái phiếu chính phủ với số lượng lớn được mua một số tài sản, trả tiền thuê của nhà nước, thuê bao điện thoại, nước sinh hoạt + Hoàn thiện chế độ, thủ tục phát hành trái phiếu doanh nghiệp một cách gọn nhẹ, dễ dàng nhằm khuyến khích các doanh nghiệp tiến hành niêm yết trên thị trường các loại trái phiếu công trình, trái phiếu doanh nghiệp... nhằm đa dạng hoá trên thị trường chứng khoán + Có chế độ, quy chế công bố thông tin đối với công ty niêm yết về: thời điểm, cách thức, nội dung... công bố thông tin đạc biệt liên quan tới những vấn đề như phát hành cổ phiếu mới, thay đổi chế độ kế toán, công bố trên báo. Những quy định này cần cụ thể và phù hợp với thực tế đẻ tạo điều kiện cho các công ty tham gia niêm yết thực hiện tốt trong quá trình hoạt đôngnhằm tạo nguồn cung đảm bảo chất lượng tốt + Chính phủ cũng nên có biện pháp tăng cường báo cáo tài chính công khai đối với các công ty cổ phần nhằm tạo điều kiện cho các nhà đầu tư tham gia cung ứng vốn cho công ty. - Tăng cường cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước: Muốn huy động vốn thông qua TTCK các DNNN phải tiến hành CPH. CPH giúp DN thu hút nguồn vốn nhàn rỗi từ các cá nhân ,pháp nhân trong nền kinh tế bằng việc phát hành cổ phiếu ra công chúng, do đó không những làm tăng hiệu quả SXKD của DN mà còn giúp Nhà Nước có thể rút vốn để đầu tư vào các dự án trọng điểm khác. Mặt khác CPH DNNN là tạo thêm hàng hoá cho thị trường, làm cho việc lưu thông vốn được linh hoạt. - Tạo điều kiện cho các công ty CP chưa đủ tiêu chuẩn niêm yết trên TTGDCK huy đọng vốn bằng việc mở thị trường giao dịch mới. + Thị trường giao dịch bảng II. Hiện nay số lượng công ty CPH đủ điều kiện tham gia niêm yết trên TTCK tập trung là 80 doanh nghiẹep trong đó số doanh nghiệp CPH hiện nay là 800 doanh nghiệp .Số lượng các doanh nghiệp còn lại lớn ,do đó đòi hỏib phải có một thị trường cổ phiếu cho các DNV&N. Tiêu chuẩn chứng khoán đưa vào thị 26 trương này có thể là : Cỏ phiếu của các doanh nghiệp cói vốn từ 5 tỷ đồng trở lên , đã hoạt động có lãi ít nhất một năm và có ít nhât 10% cổ phiếu phát hành ra công chúng . Thị trương này có thể hoạt động song song với thị trường bảng I(TTGDCK tp HCM), điều này làm cho thị trương vốn sôi động hơn do lượng hàng hoá được đa dạng hoá phù hợp với nhu cầu của người dân cũng như thu nhập của họ. + Thị trường chứng khoán OTC Những doanh nghiệp hiện nay không đủ điều kiện niêm yết trên thị trương tập trung là rất nhiều nhưng nhu cầu huy động vốn lại ít .Do đó việc thành lập thị trường OTC hay thị trường phi tập trung đang là nhu cầu cấp thiết. III. Tạo vốn cho DNVN, yếu tố quan trọng hàng đầu trong quá trình hội nhập. 1. Thực trang vốn của các DNVN Trong môi trường cạnh tranh ngày càng găy gắt, vốn trở thành một trong những yếu tố quyết định sự chiến thắng trên thương trường không chỉ riêng đối vối bất cứ một loại hình doanh nghiệp nào . Từ năm 1990 Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách như Nghị định 338/HĐBT,Quyết định 315/HĐBT,Chỉ thị 500/TTg về việc sắp xếp,sát nhập và giải thể nhằm tăng hiệu quả hoạt động SXKD của các DNNN,đến nay còn khoảng 5280 DNNN.Phải thừa nhận rằng, trong nhiều năm qua , DNNN đã có nhiều đóng góp to lớn vào tăng trưởng, phát triển kinh tế như : nộp ngân sách nhà nước, điều tiết ổn định thị trương các mặt hàng thiết yếu,giải quyết việc làm tăng thu nhập...Tuy nhiên trong quá trình hoạt động,DNNN còn thể hiện nhiều mặt yếu kém về khả năng kinh doanh ,tiếp cận,nắm bắt thị trường, yếu kém về trình độ quản lý, vốn...Ví dụ ,tại thời điểm kiểm kê 0 giờ ngày 1/1/2000 nợ phải thu của DNNN chiếm 35,5% tổng giá trị tài sản của DN, gấp 1,43 lần vốn kinh doanh. Nợ khó đòi là 10741 tỷ đồng,chiếm 5,7% tổng số nợ phải thu,vật tư hàng hoá ứ đọng không cần dùng,kém phẩm chất chờ xử lý còn lớn.Những doanh nghiệp thua lỗ kéo dài,mất hết vốn, không còn khả năng duy trì chưa được xử lý 27 dứt điểm (Báo cáo của ban chỉ đạo kiểm kê Trung ương ngày 9/8/2001). Nguyên nhân của vấn đề này rất nhiều,nhưng một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động của DNNN là vốn. Quy mô vốn của dnnn nhìn chung cỏn nhỏ bé và dàn trải,năm 1998 vốn bình quân cho mỗi DN là 18tỷ đồng , cho đến nay khoảng 22 tỷ đồng. Xét chung các DNNN hiện nay có tới 60% số DNNN không đủ vốn pháp dịnh theo quy định tại Nghị định 50/CP ra ngày 28/8/1996, và ngay tại TPHCM, trong số 169 doanh nghiệp thương mại Nhà nước có tới 70% DN đang trong tình trạng thiếu vốn, Xét toàn bộ DNNN năm 1999, 2000, 2001, ta có bảng phân bố các nguồn vốn như sau : 28 Bảng phân bổ các nguồn vốn của các DNNN năm 1999, 2000, 2001 STT Số lượng vốn Tỷ trọng doanh nghiệp (%) 1999 2000 2001 1 Dưới 5tỷ đồng 65,54 78,40 73,68 2 Tù 5 đến 10 tỷ đồng 13,66 3 Trên 10 nghìn tỷ đồng 20,89 21,60 23,70 (Nguồn:Tạp chí TCDN số 2/2000, Tạp chí con số và sự kiện 6/2000 và Tạp chí lý luận chính trị số 12/2001) Qua bảng trên cho thấy, số DN vưa và nhỏ (số vốn nhỏ hơn 10 tỷ) còn chiếm tỷ lệ quá lớn . Năm 1999 số DN này chiếm 79,11%, trong đó số DNNN có vốn dưới 1 tỷ đồng chiếm gần 26%, năm 2001 mặc dù có giảm nhưng vẫn chiếm 76,3% nhưng chỉ chiếm 8,7% tổng số vốn củ DNNN, trong đó DN có số vốn dưới 1 tỷ chiếm 18,2%. Số doanh nghiệp có vốn trên 10 tỷ chiếm 23,7% nhưng lại chiếm 85,5% số vốn. Điều này cho thấy vốn DNNN bé và phân bố dàn trải,không đều, số lượng DN nhiều nhưng quy mô DN nhỏ , chưa thể hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế , chưa thể là đòn bẩy, là công cụ mà Nhà Nước sử dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ... Ngay cả đối với các tổng công ty NN (Các tổng công ty 90,91 được thành lập theo Quyết định 90,91/CP-TTg ) tình trạng đói vốn vẫn xảy ra một cách trầm trọng. Năm 1998 vốn NN bình quân của tổng công ty 91 là 3661 tỷ đồng (tương đương 260 triệu $ ), trong số 17 tổng công ty 91 có tơi 14 tổng công ty có mức vốn NN dưới mức bình quân. Năm 2000 tăng lên 4130 tỷ đòng (tương đương 310 triệu $ ).Với các tổng công ty 90 hình thành vốn rất thấp so với các tông công ty 91 . Trước những khó khăn của thị trương trong nước và thế giới, do sự cạnh tranh ngày càng găy gắt, trước tác động của quá trình toàn cầu hoá, nhất là trước yêu cầu phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế NN đòi hỏi các DNNN phải lớn mạnh về quy mô vốn trình độ công nghệ và năng lực tổ chức hoạt động có hiệu quả cao, nhưng cũng không thể trông chờ vào NN. Vì vậy câu hỏi đặt ra 29 cho các DN lúc này là tìm nguồn vốn ở đâu, tạo vốn như thế nào sao cho hiệu quả ? Đối với với DN ngoài quốc doanh, vốn cũng là câu hỏi gây đau đầu không ít. Phần lớn các DN ngoài QD là các DN vừa và nhỏ, hiện nay co tới 3,5-4 triệu lao động đang làm việc cho các DN này, chiếm 11 - 12% lực lượng lao động xã hội. Tuy nhiên , có tới 98% DNV&N có mức vốn trung bình từ 150 triệu đến 730 triệu đồng, chỉ có 2% số đó có mức vôn trung bình gần 1tỷ đồng. Qua đó có thể dễ dàng nhận thấy sự hạn chế về nguồn vốn là đặc trưng cơ bản của các DNV&N nói riêng và các DN ngoài QD nói chung. Thêm vào đó, trình độ công nghệ sản xuất thấp, lạc hậu, thị trường tiêu thụ chủ yếu là trong nước còn nhỏ hẹp và bấp bênh,trình độ kỹ năng của người lao động còn thấp, ít được đào tạo. Các DN ngoài QD thường xuyên phải đường đầu cạnh tranh trong điều kiện không cân xứng về vốn, công nghệ, lao động...Trong khi đó ,để vay được vốn DN phải chấp nhận điểu kiện khó khăn(về tài sản thế chấp đối với vay ngân hàng...).Theo Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế Trung ương thì vốn tự có của các DN thường được tạo ra từ vốn riêng của chủ DN,vốn góp của cổ đông,bạn bè ,họ hàng chỉ chiếm khoảng 5 - 10% vốn luân chuyển của DN, còn chủ yếu là nguồn tài chính phi chính thức. Hiện nay 75% DNVN có vốn dưới 50 triệu đồng, chỉ có khoảng 1/3 số DN nhỏ vay được vốn, trong đó chỉ 20% DN vay được từ ngân hàng, còn 80% là từ nguồn vốn phi chính thức được tìm kiếm từ vay nặng lãi, vay người thân, bạn bè... Từ khi nước ta áp dụng một nền kinh tế nhiều thành phần, các DN ngoài QD đã đóng góp to lớn vào tăng trưởng kinh tế của đất nước. Tuy nhiên để phát huy hơn nữa vai trò to lớn này, cần thiết phải mở rộng các kênh huy động vốn cho các DN này 2/ Cơ hội và thách thức đối với DNVN trong quá trình hội nhập Bước vào nền kinh tế thị trường và hội nhập dần với nền kinh tế toàn cầu, các DNVN phải đương đầu với thách thức lớn lao đó là sản phẩm hàng hoá sản xuất ra phải chịu một sức ép cạnh tranh vô cùng găy gắt và ác liệt trên thị trường 30 quốc tế và ngay cả trên thị trường trong nước. Cạnh tranh bằng giá cả sẽ dần dần không còn phù hợp nữa,nhất là hiện nay khi khoa học – công nghệ phát triển như vũ bão và nền kinh tế tri thức đã dược đề cập nhiều. Sản phẩm có hàm lượng chất xám càng cao, càng có giá trị lớn, càng chiếm lĩnh được thị trường. Chỉ có vậy mới có thể dảm bảo sự tồn tại và phát triển lâu dài của các DNVN. Hiệp định thương mại Việt – Mỹ đã được kí kết tháng 7/2000 cùng với việc Việt Nam chuẩn bị tham gia vào APTA đã mở ra cơ hội lớn cho các DNVN nhưng cũng đem lại không ít thách thức. - Thứ nhất là trình độ kỹ thuật, công nghệ của DNVN quá lạc hậu, năng lực cạnh tranh kém, rất hạn chế và thua thiệt trong hội nhập thị trường quốc tế.Theo các chuyên gia, nếu so sánh trình độ công nghệ đang sử dụng của Việt Nam với thế giới, thì công nghệ hiện đại chỉ chiếm 10%, còn trên 52% là lạc hậu. Hầu hết các trang thiết bị đang sử dụng ở các doanh nghiệp đều từ những năm 50,60 và có nguồn gốc từ nhiều nước khác nhau. Theo kết quả khảo sát của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường tại nhiều doanh nghiệp NN thuộc 7 ngành thì dây chuyền sản xuất, máy móc, thiết bị của ta lạc hậu so với thế giới từ 10 đến 20 năm, mức độ hao mỏn hữu hình từ 30% - 50%, có tới 38% ở dạng phải thanh lý. Thời hạn khấu hao TSCĐ kéo dài bình quân từ 10 đến 12 năm, trong khi mức khấu hao bình quân của khu vực và trên thế giới chỉ từ 7 đến 8 năm. Song , việc vay vốn để đổi mới công nghệ của các DN thì gặp rất nhiều khó khăn. Bởi một mặt, nguồn vốn trung và dài hạn của ngân hàng có hạn, mặt khác nhiều DN còn thiếu những điều kiện nhất định về tài sản thế chấp, cầm cố. Vì vậy , quan điểm thuê máy móc thiết bị đã trở thành xu hướng của nhiều DN. Điển hình là hãng hàng không quốc gia Việt Nam ( Vietnam Airline) đã áp dụng phương thức thuê mua từ năm 1990 để nâng cấp đội máy bay lên hiện đại. Hãng coi hình thức tài trợ vốn là phương thức hiệu quả nhất của ngành khi chưa đủ vốn để mua hoàn toàn máy bay mới. Từ đầu năm 98 đến nay, hãng đã thuê mua 10 máy bay hiện đại của Pháp, Mỹ...Tuy nhiên, hình thức tín dụng thuê mua lại mới xuất hiện ở 31 Việt nam, khung pháp lý chưa hoàn chỉnh, các DN lại chưa thích ứng với hình thức huy động vốn mới này nên hiện nay vẫn chưa phát triển rộng rãi. - Thứ hai: DNNN với vai trò chủ đạo trong trong việc thúc đẩy sự tăng trưởng của cả nền kinh tế thì quy mô nhỏ bé, dàn trải, trùng chéo về ngành nghề. Đến nay vốn bình quân của DNNN khoảng 22 tỷ đồng (tương đương với 1,5 tỷ USD). Đây là số vốn quá nhỏ bé đối với vai trò to lớn của DNNN. Số DN có số vốn trên 1 tỷ đồng chỉ chiếm 24% nhưng lại chiếm 85,5% số vốn, còn lại là các DN vừa vầ nhỏ. - Thứ ba: Lực lượng lao động Việt Nam tuy dồi dào nhưng chất lượng lao động thấp, chưa làm quen được với cường độ lao động cao, năng suất lao động thấp. Đây cũng là khó khăn của DNVN khi đứng trước môi trường cạnh tranh khắc ngiệt như hiện nay. - Thứ tư: Các DNVN đang phải đứng trước một thách thức to lớn đó là quá trình cắt giảm thuế sút hàng nhập khẩu xuống từ 0 - 5% theo lịch trình của chương trình thúe quan ưu đãi có hiệu lực chung ( CEPT ) mà Chính Phủ Viêtj Nam đã kí kết với các nước ASEAN nhằm thiết lập khu vực mậu dịch chung ASEAN (APTA) từ nay đến năm 2006; thực hiện cam kết của Hiệp định thương mại Việt Mỹ; chuẩn bị các điều kiện tham gia WTO. Điều đó có nghĩa là khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam đối với hàng nước ngoài trên thị trường nội địa có thể giảm mạnh. Nếu không có chính sách hợp lý, các DNVN sẽ bị đè bẹp ngay tại thị trường trong nước. Nhưng đây cũng là cơ hội và động lực thúc đẩy các doanh nghiệp tự vượt qua chính mình. Một cơ hội nữa cho các DNVN trong quá trinh hội nhập quốc tế chính là việc hàng hoá của Việt Nam cũng sẽ được hưởng ưu đãi thuế từ các quốc gia khác, và cùng với việc mở rộng thị trường ra bên ngoài, quá trình hội nhập cũng làm cho thị trường trong nước có những thay đổi, tạo nhu cầu mới rất lớn. - Thứ năm là : Cùng quá trình hội nhập kinh tế đã xuất hiện nhiều tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia với vốn lớn, công nghệ hiện đại, kinh doanh trên nhiều 32 lĩnh vực từ sản xuất,thương mại tới dịch vụ. Để có thể cạnh tranh được với hàng hoá của họ cũng là một thách thức lớn đối với các DNVN. Trên con đường đưa đất nước lên một Quốc Gia công nghiệp hiện đại vào năm 2020, khó khăn đối với DNVN còn rất nhiều nhưng cơ hội cũng không phải ít. Điều quan trọng là việc lựa chọn con đường đi riêng của mỗi DN, bắt đầu từ việc tạo vốn. V/ Các giải pháp nhằm tạo vốn cho DNVN Để tìm lời giải về vốn cho các DNVN trong điều điện hiện nay cần sự phối, kết hợp đồng bộ giữa Chính Phủ,Ngân hàng TW và cả các DN. Về phía Nhà Nước: - Đối với ngân hàng và các tổ chức tín dụng: Nhà nước cần có chính sách lãi suất tiền vay hợp lý, phù hợp với tình hình thực tế hiện tại của các doanh nghiệp, có chính sách chú trọng việc mở rộng vay dài hạn để doanh nghiệp vừa có khả năng đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị, vừa cân đối khả năng trả nợ. Nhưng để đảm bảo khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế, Nhà Nước cũng nên có các chính sách cụ thể cho việc huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, các tổ chức xã hội...Đối với các tổ chức xã hội, đoàn thể: khuyến khích các tổ chức xã hội (bảo hiểm xã hội và các công ty bảo hiểm thương mại...), tham gia cho DN vay vốn để tận dụng nguồn vốn nhàm rỗi của các cơ quan này , đồng thời mở rộng thị trường vốn trong nước ,dáp ứng nhu cầu vốn đầu tưcủa doanh nghiệp. Đối với quần chúng nhân dân, người lao động: Nên xây dựng chính sách huy động vốn cụ thể , trong đó quy định trần lãi xuất ,hình thức vay trả...Sao cho phù hợp với lợi ích của người lao động . - Đối với các doanh nghiệp nhà nước :Để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh , nhà nước cần có những biện pháp cụ thể, mang tính pháp lý cao về vấn đề:Thứ nhất tiếp tục sắp xếp lại các DN nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nó trên thị trường. Cần phải nhanh chóng chuyển đổi một số DNNN không thiết yếu hoặc sản xuất kém hiệu quả sang hình thức đa sở hữu hoặc sang các thành phần kinh tế khác như các công ty cổ phần các công ty trách nhiệm 33 hữu hạn . Nhất thiết phải cổ phần hoá một bộ phận quan trọng các DNNN để tạo nguồn vốn cho các doanh nghiệp này. Tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp , mà tiến hành cổ phần hoá 100% hoặc chuyển toàn bộ vốn, tài sản bán cho cán bộ công nhân viên trong đơn vị và ngoài doanh nghiệp, kể cả bán cho người nước ngoài như là hình thức đầu tư trực tiếp 100% vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Thứ hai thực hiện việc liên doanh liên kết giữa DNNN với các thành phần kinh tế khác .Nhờ đó có thể thu hút nguồn vốn ,trình độ quản trị ,công nghệ của những đối tác này song nhà nước cần quan tâm hơn đến quyền lợi của DNNN trong liên doanh bằng việc ban hành các quy định cụ thể .Hiện tại hình thức liên doanh mới được triển khai rộng rãi với các đối tá nước ngoài, nhưng quyền lợi phía bên Việt Nam vẫn còn nhỏ, luôn bị các liên doanh chèn ép. Ví dụ như liên doanh Cocacola - Việt Nam và sau nữa là Pepsi đã chuyển đổi từ liên doanh sang 100% vốn nước ngoài do phía ViệtNam không chịu được lỗ liên tiếp trong một thời gian dài . - Thứ ba nhanh chóng triển khai hình thức tín dụng thuê mua đối với các doanh nghiệp .Đây là giải pháp thích hợp cho doanh nghiệp thiếu vốn muốn đầu tư đổi mới công nghệ thiết bị song để áp dụng hình thức này nhà nước cần hình thành những công ty thuê mua có chức năng hỗ trợ doanh nghiệp trong việc lựa chọn bạn hàng ,đánh giá chất lượng, giá thành máy móc. -Về phía doanh nghiệp . - Doanh nghiệp phải lập kế hoạch sản xuất kinh doanh nói chung, kế hoạch huy động vốn nói riêng ngay từ đầu chu kỳ sản xuất và phải cụ thể rõ ràng. Có như vậy mới chủ động trọng hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo hiệu quả cao, khả năng tài chính vững mạnh. Đây là cơ sở để chủ nguồn vốn xem xét trước khi ra quyết định cho vay . - Phải khai thác tối đa các nguồn vốn bên trong doanh nghiệp: Nguồn vốn bên trong luôn được coi là nguồn vốn cơ bản và quan trọng nhất đối với mọi doanh nghiệp . Muốn khai thác tối đa nguồn nội lực này trước hết các doanh nghiệp phải chú ý nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh , nên tăng cường huy 34 động vốn từ cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp, thay cho việc vay ngắn hạn ngân hàng. Mặt khác , doanh nghiệp phải chú ý đào tạo nâng cao chất lượng của nguồn lao động .Đó là một trong những nguyên nhân làm tăng năng xuất lao động , tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh . Tóm lại, mỗi doanh nghiệp có phương thức huyđộng vốn riêng tuy nhiên DN phải lựa chọn sao cho phù hợp với thực trạng, loại hình của từng doanh nghiệp, cũng như phải phù hợp với định hướng phát triển kinh tế của Nhà Nước. 35 KẾT LUẬN Ngày nay xu thế toàn cầu hoá kinh tế đã mang lại nhiều cơ hội và thách thức đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Đưa Việt Nam bắt kịp các nước phát triển, tránh tụt hậu xa hơn về kinh tế, nhiệm vụ năng nề đó có thành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào các DNVN. Do đó mỗi DN phải hình thành cho mình phương thức huy động vốn, phương tiến hành hoạt động SXKD, phương thức tiêu thụ sản phẩm... riêng phù hợp loại hình DN đó, để đạt hiệu quả cao nhất. Qua nghiên cứu các phương thức huy động vốn của các DNVN cho thấy khó khăn trước mắt của các DN là vốn. Mặc dù Nhà Nước đã tạo điều kiện thuận lợi, cũng như bản thân các DN đã có những nỗ lực lớn,song trong thực tế, do nhiều tác động khách quan, hoạt động tạo vốn của DNVN vẫn gặp nhiều khó khăn, trở ngại. Hy vọng trong tương lai vốn không còn là vấn đề gây đau đầu cho các DNVN. Muốn vậy đòi hỏi sự kết hợp đồng bộ của Chính Phủ, của các bên hữu quan, các DN,nhất là cần điều chỉnh khung pháp lý sao cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. 36 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1/ Giáo trình Tài chính doanh nghiệp - ĐHKTQD 2/ Kinh tế xã hội VN, thực trạng xu thế và giải pháp - PTS Lê Mạnh Hùng 3/ Tạp chí kinh tế phát triển 4/ Tạp chí Tài chính DN, Tạp chí kinh tế và dự báo, Con số và sự kiện,... 5/ Quy chế mới về quản trị tài chính DNNN 6/ Luật DN, Luật DNNN, Nghị định 176,165/CP về bảo đảm tiền vay, NĐ 64/16/CP, NĐ338/HĐCP,...và các nghị định khác 37 MỤC LỤC Lời nói đầu I/ Vốn- một trong những yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của DN 1. Khái quát về vốn 2. Phân loại vốn 3. Vai trò của vốn đối với các DNVN II/ Các phương thức tạo vốn của DN 1/ Tạo vốn từ nội bộ DN 2/ Tạo vốn từ bên ngoài DN  tạo vốn bằng cách vay ngân hàng  phát hành cổ phiếu, trái phiếu trên TTCK  Tín dụng thuê mua III/ Tạo vốn cho DNVN yếu tố quan trọng hàng đầu trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. 1/ Thực trạng vốn của các DNVN 2/ Cơ hội và thách thức đối với DNVN trong quá trình hội nhập IV/ Các giải pháp nhằm tạo vốn cho DNVN Kết luận

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn- Vốn và vấn đề tạo vốn của Doanh nghiệp.pdf