Luận văn Xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam

Lời nói đầu Trong những năm bắt đầu công cuộc đổi mới, khi nguồn viện trợ nước ngoài bị cắt giảm đột ngột, nguồn đầu tư từ ngân sách eo hẹp, các doanh nghiệp nhà nước gặp nhiều khó khăn, vốn tiềm ẩn trong dân chưa huy động được nhiền, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã trở thành một chủ trương cấp thiết. Luồng vốn FDI đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, đưa đất nước ta ra khỏi khủng hoảng, ổn định và phát triển kinh tế. Ngày nay, trước những đòi hỏi bức xúc của giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, nguồn vốn FDI đã trở thành một bộ phận không thể tách rời trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, không chỉ của riêng nước ta, mà của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Trong cuộc cạnh tranh này, moi quốc gia đều đã nhận thức được vai trò của các hoạt động xúc tiến đầu tư trong việc thu hút vốn FDI và không ngừng phát triển cac hoạt động này. Cạnh tranh trong lĩnh vực xúc tiến đầu tư cũng chính là cạnh tranh thu hút vốn FDI. Với ý nghĩa quan trọng như vậy, nội dung của khoá luận này xin được trình bày về thực trạng hoạt động xúc tiến đầu tư tại Việt Nam và đề xuất một số biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả của các hoạt động này. Xin được gửi lời cảm ơn trân trọng tới Tiến sỹ Vũ Thị Kim Oanh – Bộ môn Đầu tư, Khoa kinh tế ngoại thương, Trường Đại học Ngoại Thương – người đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành khoá luận. Xin chân thành cảm ơn các thày cô giáo Bộ môn Đầu tư và các thày cô giáo khoa Kinh tế ngoại thương – những người đã trang bị cho em những kiến thức thiết thực và bổ ích cho quá trình viết khoá luận cũng như công tác sau này. Xin trân trọng cảm ơn ! Mục lục Lời nói đầu . 4 Chương 1 Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài và hoạt động xúc tiến đầu tư 6 1.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài - vai trò và xu hướng 6 1.1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài . 6 1.1.2. Vai trò của FDI đối với quốc gia tiếp nhận đầu tư 8 1.1.3. Các nhân tố tác động đến dòng chảy FDI . 11 1.1.3.1. Toàn cầu hoá 11 1.1.3.2. Khu vực hoá 11 1.1.3.3. Các sự kiện tác động tới nền kinh tế Việt Nam trong tương lai gần. 11 1.1.4. Xu hướng đầu tư quốc tế và khu vực những năm tới 14 1.1.4.1. Xu hướng đầu tư quốc tế những năm tới . 14 1.1.4.2. Xu hướng đầu tư khu vực những năm tới 17 1.2. Hoạt động xúc tiến đầu tư . 20 1.2.1. Khái niệm xúc tiến đầu tư 20 1.2.2. Vai trò của xúc tiến đầu tư . 22 1.2.3. Các bộ phận của chương trình xúc tiến đầu tư 23 1.2.3.1. Chính sách đầu tư 23 1.2.3.2. Chiến lược xúc tiến đầu tư . 23 1.2.3.3. Cơ quan thực thi chính sách xúc tiến đầu tư . 25 chương 2 Thực trạng hoạt động xúc tiến đầu tư tại Việt Nam 28 2.1. Vài nét về hoạt động FDI tại Việt Nam . 28 Biểu đồ 4- Tình hình vốn FDI đăng kí và thực hiện giai đoạn 1992-2002 31 2.2. Thực trạng hoạt động xúc tiến đầu tư ở Việt Nam . 38 2.2.1. Cơ quan phụ trách công tác xúc tiến đầu tư . 38 2.2.1.1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư . 39 2.2.1.2. Sở Kế hoạch và Đầu tư các tỉnh và thành phố 41 2.2.1.3. Ban quản lý khu chế xuất, khu công nghiệp . 42 2.2.2. Các hoạt động xúc tiến đầu tư hiện nay tại Việt Nam 43 2.2.2.1. Tạo dựng hình ảnh . 43 2.2.2.2. Tập trung vận động các nhà đầu tư tiềm năng . 44 2.2.2.3. Cung cấp các dịch vụ đầu tư . 50 2.2.3. Nguồn nhân lực cho công tác xúc tiến đầu tư 52 2.2.4. Ngân quỹ cho hoạt động xúc tiến đầu tư . 55 2.3. Đánh giá tổng quát về hiệu quả của hoạt động xúc tiến đầu tư tại Việt Nam . 56 2.3.1. Thành công . 56 2.3.2. Tồn tại 57 2.4. Một số bài học kinh nghiệm từ hoạt động xúc tiến đầu tư của Trung Quốc . 59 Chương 3 Một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả của hoạt động xúc tiến đầu tư 61 3.1. Quan điểm, định hướng về công tác xúc tiến đầu tư trong giai đoạn 2001 – 2010 61 3.2. Một số giải pháp 64 3.2.1. Thành lập Uỷ ban xúc tiến đầu tư quốc gia . 64 3.2.1.1. Sự cần thiết có một cơ quan chuyên trách về xúc tiến đầu tư cấp quốc gia 64 3.2.1.2.Một số đề xuất trong quy trình thành lập Uỷ ban xúc tiến đầu tư quốc gia 65 3.2.2. Cải thiện nguồn nhân lực cho công tác xúc tiến đầu tư. 69 3.2.3. Cải tạo nguồn quỹ và ngân sách cho hoạt động xúc tiến đầu tư 73 3.2.4. Xây dựng chiến lược xúc tiến đầu tư có trọng điểm . 75 3.2.4.1 Sự cần thiết phải có chiến lược xúc tiến đầu tư có trọng điểm 76 3.2.4.2 Xác định ngành mũi nhọn và các nguồn tiềm năng. 77 3.2.5. Cải thiện môi trường đầu tư . 81 3.2.6. Cải thiện kỹ thuật xúc tiến đầu tư 82 3.2.6.1. Chiến lược và kỹ thuật tạo dựng hình ảnh . 83 3.2.6.2. Chiến lược và kỹ thuật vận động những nhà đầu tư tiềm năng. 91 3.2.6.3. Nâng cấp các dịch vụ đầu tư . 93 Kết luận . 97 Tài liệu tham khảo 98

doc90 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3337 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h vận động xúc tiến đầu tư theo từng chương trình dự án cụ thể để nâng cao hiệu quả. Chú trọng thu hút vốn của các tập đoàn lớn trên thế giới và nguồn vốn từ các nước có tiềm năng kinh tế lớn, thị trường lớn, công nghệ cao như Mĩ, Tây Âu… Tạo mọi điều kiện thuận lợi để triển khai nhanh chóng dự án đầu tư; thành lập một đầu mối đủ mạnh và đủ quyền để xử lý kịp thời các khó khăn của nhà đầu tư, thúc đẩy dự án phát triển. Tăng cường tiềm lực nghiên cứu và cải tiến hệ thống thông tin để theo dõi, dự báo sát tình hình FDI trong nước và quốc tế để hoạch định chính sách, chiến lược về vốn nước ngoài. Tăng cường theo dõi, quản lý, giám sát vốn FDI thực hiện, trong đó có nội dung vay và trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp FDI. 3.2. Một số giải pháp 3.2.1. Thành lập Uỷ ban xúc tiến đầu tư quốc gia 3.2.1.1. Sự cần thiết có một cơ quan chuyên trách về xúc tiến đầu tư cấp quốc gia Hiện nay Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan đảm nhận thực thi chương trình xúc tiến đầu tư cấp quốc gia. Tại các cấp địa phương, Sở Kế hoạch và Đầu tư các tỉnh và Ban quản lý các KCX, KCN có được sự tham gia nhất định vào các hoạt động xúc tiến ở các mức độ khác nhau. Tuy các cơ quan này đã nỗ lực rất nhiều để đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư, thực tế hiện nay cho thấy vẫn còn rất nhiều bất ổn trong những chính sách và dịch vụ cung cấp cho cả những nhà đầu tư hiện tại và tiềm năng. Chính điều này đã phần nào làm giảm tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài khi muốn đầu tư vào Việt Nam. Trước tình hình này, để thực hiện được vai trò là một công cụ hiệu quả đối với quá trình phát triển kinh tế, hoạt động xúc tiến đầu tư cần thiết phải có được một cơ quan chuyên trách ở cấp quốc gia . Cơ quan này đóng vai trò phối hợp, giúp đỡ và quản lý các hoạt động xúc tiến đầu tư của các cơ quan xúc tiến cấp địa phương nhằm nâng cao tính ổn định và hiệu quả của hoạt động này. Mặt khác, cơ quan chuyên trách này cũng cần giữ vai trò là người quyết định chính và đưa ra định hướng rõ ràng trong công tác quản lý cũng như trong hoạt động của mình thông qua những kế hoạch tầm quốc gia. Như vậy, có thể nói rằng việc thành lập Uỷ ban xúc tiến đầu tư quốc gia tại Việt Nam, gọi tắtlà VNIPA( Vietnam Investment Promotion Agency), là yêu cầu thực sự cấp bách . 3.2.1.2.Một số đề xuất trong quy trình thành lập Uỷ ban xúc tiến đầu tư quốc gia Xác định vị trí chức năng của VNIPA Thực tiễn tại những quốc gia khác chỉ ra rằng các nhà đầu tư nước ngoài luôn mong muốn có một tổ chức xúc tiến đầu tư nước ngoài với chức năng hoạt động như một cơ quan cấp Bộ. Họ tin rằng nếu VNIPA có vị trí ngang tầm với các Bộ khác của Chính phủ thì sẽ có thể bảo vệ tốt nhất cho những quyền lợi của họ. Tuy nhiên, trong trường hợp của Việt Nam thì việc có được một cơ quan riêng biệt cấp Bộ đảm trách hoạt động xúc tiến đầu tư nước ngoài là điều khó có thể làm được trong thời gian ngắn. Trước mắt, Bộ kế hoạch đầu tư cần thành lập phòng xúc tiến đầu tư đảm nhận vai trò của Uỷ ban xúc tiến đầu tư quốc gia (VNIPA) nhằm tạo tiền đề để nâng VNIPA lên thành một Bộ riêng biệt trong tương lai. VNIPA cần có chức năng của một cơ quan xúc tiến đầu tư trung ương. Ngoài ra, cần thành lập các văn phòng đại diện của cơ quan này cần được thành lập ở cả miền Bắc, Trung, Nam để có thể phục vụ tốt hơn nhu cầu của từng khu vực. Những văn phòng này có thể thực hiện phối hợp, quản lý các hoạt động xúc tiến của Sở Kế hoạch và Đầu tư, Uỷ ban nhân dân và Ban quản lý của các KCN và địa phương. Vị trí chức năng của VNIPA có thể được sắp xếp như mô hình dưới đây: Chính phủ Việt Nam VNIPA (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) Các Bộ khác Văn phòng đại diện ở nước ngoài VNIPA - Hà Nội VNIPA - Đà Nẵng VNIPA - TP. HCM MB DPI, PC MB DPI, PC MB DPI, PC Điều hành trực tiếp Phối hợp hoạt động MB: Ban quản lý KCX, KCN DPI: Sở Kế hoạch và đầu tư PC: UBND các tỉnh Hỗ trợ cho hoạt động của VNIPA Nhằm giúp cho VNIPA có thể hoạt động một cách hiệu quả, cần phải có sự thống nhất về tầm quan trọng của hoạt động xúc tiến đầu tư và vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nền kinh tế Việt Nam. Chính phủ cần để cho các nhà đầu tư nước ngoài cũng như các tổ chức quan hệ với các nhà đầu tư nước ngoài thấy được tầm quan trọng của nguồn vốn FDI thông qua những chính sách đầu tư ngày một thu hút. Các cơ quan có thẩm quyền thuộc chính phủ và đặc biệt là những nhà lãnh đạo quốc gia cần đảm bảo hỗ trợ đối với hoạt động của VNIPA và đưa ra các chính sách cũng như luật lệ cũng thể hiện ý chí này. Điều này thực sự cần thiết tại một quốc gia như Việt Nam, nơi thiếu tính phối hợp và đồng bộ giữa các Bộ, Ngành với những chính sách, quy chế không ổn định vốn được coi là những rào cản trong hoạt động đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, VNIPA cũng cần có các văn phòng đại diện tại các thị trường trọng điểm như EU, Nhật Bản và Hoa Kỳ. Có thể coi đó là cách tốt nhất nhằm xúc tiến và tiến hành các hoạt động marketing tại nước ngoài. Xây dựng một khuôn khổ pháp lý rõ ràng cho hoạt động của VNIPA Để VNIPA có thể hoạt động hiệu quả, cần có một khuôn khổ pháp lý rõ ràng và hợp lý, trong đó quy định quyền hạn, nghĩa vụ, cơ cấu tổ chức cũng như mối quan hệ của VNIPA đối với chính phủ. Việc xây dựng một khung pháp lý rõ ràng cho hoạt động của VNIPA có thể đem lại rất nhiều lợi ích. Đó là dấu hiệu ổn định, bền vững và tự chủ đối với các nhà đầu tư tiềm năng, với các quan chức chính phủ và địa phương. Hình thành và xác định rõ ràng quyền hạn, chức năng và nghĩa vụ của VNIPA trong các hoạt động xúc tiến đầu tư và các chính sách liên quan. Hạn chế sự can thiệp của chính phủ, giới chính trị, giới kinh doanh và các thành phần khác có lợi ích liên quan. Qui định nghĩa vụ của VNIPA cần đơn giản, rõ ràng, chỉ hạn chế ở những công tác liên quan tới việc tăng cường nguồn vốn FDI và hỗ trợ cho những nhà đầu tư hiện tại và tương lai. Để đạt được mục tiêu thu hút được 12 tỷ USD vốn đầu tư vào năm 2005, VNIPA cần tập trung vào một số nhiệm vụ cơ bản dự kiến như sau: Tăng cường mức đóng góp của FDI vào nền kinh tế quốc gia bằng việc thông báo cho các nhà đầu tư mới về những lợi ích khi tiến hành đầu tư FDI vào Việt Nam. Tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư bằng việc cung cấp những dịch vụ mang tính chuyên nghiệp, giúp các nhà đầu tư có thể đạt được mục tiêu đầu tư tại những khu vực kinh tế khác nhau. Đưa ra các đề xuất với Chính phủ nhằm cải thiện môi trường đầu tư. Hỗ trợ giải quyết những vấn đề khó khăn của các nhà đầu tư hiện tại nhằm giúp họ có thể mở rộng quy mô đầu tư sau đó. VNIPA cũng cần có trách nhiệm trong các công việc có liên quan tới hoạch định chính sách tương ứng nhằm cải thiện môi trường đầu tư. Đối với Việt Nam, việc này bao gồm cả những đề xuất nhằm đơn giản hoá thủ tục hành chính, hỗ trợ cho việc thực thi những luật lệ, quy chế rõ ràng đối với đầu tư nước ngoài. VNIPA cũng cần phải có quyền hạn trong việc đưa ra những quyết định có đủ tin cậy đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Hoạt động của VNIPA cũng chỉ nên tập trung vào những công việc liên quan đến đầu tư nước ngoài mà không liên quan tới bất kỳ hoạt động xúc tiến đầu tư trong nước hay hoạt động thương mại nào khác. Vị trí pháp lý của VNIPA phải được xác định rõ ràng đối với những ban ngành khác của chính phủ với một đội ngũ nhân viên và ngân sách riêng biệt. VNIPA cũng cần phải có một mức độ tự chủ nhất định về mặt tài chính để tiến hành các công việc của mình và tuyển dụng được những nhân viên có năng lực. 3.2.2. Cải thiện nguồn nhân lực cho công tác xúc tiến đầu tư Một chính sách và khuôn khổ pháp lý rõ ràng cùng với các chiến lược xúc tiến bài bản tự chúng không thể đảm bảo kết quả hoạt động thực tế. Quá trình xúc tiến đầu tư muốn thành công cần có được những nhân viên nắm bắt tốt những nhiệm vụ liên quan và có đầy đủ nhiệt tình, kinh nghiệm cũng như những kỹ năng cần thiết. Chính sách nguồn nhân lực của bất cứ cơ quan xúc tiến đầu tư nào đều cần có những nhân viên có khả năng phù hợp, được đào tạo đầy đủ để xử lý công việc rõ ràng, nhanh chóng cùng bằng cấp phản ánh trình độ của họ. Tuyển dụng và lựa chọn Việc hình thành một đội ngũ nhân viên có đủ trình độ chuyên môn trong hoạt động xúc tiến đầu tư nhất thiết phải thông qua quá trình tuyển dụng có chất lượng. Rất nhiều người trong đội ngũ nhân viên hiện nay của Bộ Kế hoạch và Đầu tư chưa có được những kỹ năng cần thiết về marketing, quảng cáo, quan hệ công chúng và nghiên cứu để đảm bảo cho chiến dịch xúc tiến đầu tư có hiệu quả. Hạn chế này cần được khắc phục thông qua việc bổ sung những nhân viên có đủ trình độ phục vụ cho công việc... Để lựa chọn được người phù hợp thì điều cần thiết là phải xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu cho từng vị trí. Chẳng hạn, một chuyên gia maketing của phòng xúc tiến ít nhất phải có được những khả năng sau: Có trình độ đại học (bằng nước ngoài càng tốt) Nói tiếng Anh thông thạo và có thêm một ngoại ngữ thứ 2 Có khả năng diễn đạt và giao tiếp tốt Nhạy bén trong kinh doanh Có thể làm việc độc lập Năng động và sáng tạo. Một nhà kinh tế học phải có ít nhất các điều kiện sau: Có bằng Tiến sĩ kinh tế Có khả năng phân tích Thông thạo tiếng Anh và có thể giao tiếp tốt bằng ngoại ngữ thứ 2 Sử dụng tốt các phần mềm về phân tích tài chính và kinh doanh Có thể làm việc độc lập. Việc tuyển dụng có thể do cơ quan tự tiến hành hoặc có sự giúp đỡ của những cơ sở tuyển dụng chuyên nghiệp. Chế độ đãi ngộ Chúng ta đều biết rằng cơ cấu lương dành cho các nhân viên Nhà nước đều dựa trên bảng lương cố định và rõ ràng là thấp hơn nhiều so với thị trường. Nhằm thu hút và nâng cao chất lượng của nhân viên, mức lương dành cho các nhân viên của cơ quan xúc tiến đầu tư cần cạnh tranh so với thị trường. Quĩ lương của Trung tâm Thương mại và Xúc tiến đầu tư TP. Hồ Chí Minh cũng đang hoạt động theo hướng đó. Cơ cấu phụ cấp cũng cần dựa trên nền tảng công việc và hệ thống trả lương. Điều đó có nghĩa là tiền lương cho mỗi cá nhân phải dựa trên công việc thực hiện, trách nhiệm của họ gắn liền với công việc và sự đóng góp của mỗi cá nhân vào hoạt động chung. Việc tăng lương cần thực hiện theo các tiêu chí sau: Mức độ khó khăn và yêu cầu công việc Trách nhiệm gắn liền với công việc cụ thể Mức lương theo thị trường với công việc và trách nhiệm tương tự Khối lược của công việc. Để có được cơ cấu lương thì cần phải có hệ thống sắp xếp nhân viên theo cấp bậc. Mỗi cấp bậc của nhân viên có từ 5 - 8 bậc phù cấp phản ánh hoạt động cũng như hiệu quả tương ứng của công việc. Đánh giá mức độ thực thi công việc: Đánh giá mức độ thực thi là một phần trong chính sách nguồn nhân lực và hệ thống phụ cấp. Việc thiết lập một hệ thống chỉ tiêu rõ ràng cho mỗi loại hình nhân viên là rất cần thiết. Hệ thống này bao gồm các chỉ tiêu đánh giá về: Tiến bộ của tập thể và cá nhân cả về trình độ kỹ thuật và trình độ quản lý. Dịch vụ khách hàng bao gồm các mối quan hệ với các nhà đầu tư, chính phủ và các tổ chức quốc tế khác, chất lượng của công việc, chất lượng dịch vụ... Trình độ quản lý cũng như khả năng đảm bảo thời hạn kế hoạch, thời gian giải đáp những thắc mắc của các nhà đầu tư. Các chỉ tiêu khác như kỹ năng giao tiếp, học hỏi… Mục tiêu đặt cho từng cá nhân phải đạt được dựa trên những chỉ tiêu tiêu chuẩn này. Hàng năm việc đánh giá mức độ thực thi phải được thực hiện đối với các mục tiêu đã đặt ra và các chỉ tiêu thực hiện. Để tạo động lực cho người lao động chế độ đãi ngộ cần gắn liền với mức độ hoàn thành công việc. Nói cách khác, những kết quả đánh giá phải được dùng làm cơ sở để xác định mức tăng lương và thăng tiến. Kế hoạch phát triển và đào tạo: Theo ý kiến đánh giá của một số nhà đầu tư tại Việt Nam thì đội ngũ cán bộ nhân viên còn chưa đáp ứng được các yêu cầu về các kỹ năng quản lý, ngoại ngữ, khả năng maketing. Đó là những trở ngại rõ ràng, cản trở việc tiến hành một chiến dịch thu hút đầu tư nước ngoài hiệu quả. Tình trạng này nhất thiết cần được cải thiện ngay. Một chương trình đào tạo và phát triển cần tập trung vào hai lĩnh vực: Đào tạo phần cứng: bao gồm đào tạo kỹ thuật nhằm nâng cao trình độ kỹ thuật cho nhân viên, các kiến thức về luật, kinh doanh, ngoại ngữ, công tác nghiên cứu, công nghệ thông tin, kỹ năng maketing. Đào tạo phần mềm: bao gồm khả năng thuyết trình và đàm phán, bán hàng và thuyết phục, quan hệ công chúng và sử dụng phương tiện truyền thông, lãnh đạo, quản trị… Có rất nhiều hình thức đào tạo như: Đào tạo tại nơi làm việc - hình thức này bao gồm cả việc phối hợp với những nhà tư vấn bên ngoài. Đào tạo bên ngoài - tham gia các lớp đào tạo tại các viện nghiên cứu trong và ngoài nước. Đó có thể là các khoá học ngắn hạn (vài ngày hoặc vài tuần) hoặc một chương trình đào tạo hoàn chỉnh. Một số tổ chức nước ngoài tại Việt Nam cũng cung cấp rất nhiều các khoá học ngắn hạn tại những lĩnh vực cụ thể như bán hàng và maketing, thuyết trình, thiết kế website… Tham quan các hoạt động của đối tác tại các cơ quan xúc tiến đầu tư địa phương - gửi nhân viên tới làm việc tại các cơ quan xúc tiến đầu tư khác. Các chương trình đào tạo cần nhằm vào những nhu cầu cụ thể của từng nhóm nhân sự và cung cấp cho đội ngũ nhân viên những kỹ năng và kiến thức thiết thực giúp họ hoàn thành nhiệm vụ của mình. Đối với nhân viên cấp thấp cần ưu tiên cho việc đào tạo kỹ thuật nhằm xây dựng cho họ những kỹ năng và kiến thức cơ bản. Một chương trình đào tạo dài hạn hoặc một chương trình toàn diện như các khoá học Diploma hay Master là rất thích hợp. Đối với nhân viên cấp cao hơn cần có những khoá đào tạo ngắn hạn về những lĩnh vực cụ thể. Một trong những phương pháp nhằm nâng cao hiệu quả của đội ngũ nhân viên là mượn thêm những nhân viên từ các công ty dịch vụ chuyên nghiệp trong các lĩnh vực. Chi phí cho công việc này có thể kêu gọi tài trợ từ các tổ chức phát triển của những khu vực nước ngoài đang quan tâm đến việc đầu tư vào Việt Nam. Bên cạnh đó cũng có thể cử các nhân viên tới làm việc tại các cơ quan hoặc tổ chức xúc tiến đầu tư của nước ngoài trong một thời gian nhất định. Các kỹ năng cùng kiến thức có được từ kinh nghiệm làm việc tại nước ngoài có thể được truyền đạt lại cho các nhân viên khác. 3.2.3. Cải tạo nguồn quỹ và ngân sách cho hoạt động xúc tiến đầu tư Hiệu quả hoạt động của bất cứ cơ quan xúc tiến đầu tư nào đều chịu ảnh hưởng bởi các nguồn lực dành cho công tác xúc tiến. Một mặt, ngân sách cho hoạt động xúc tiến đầu tư của mỗi cơ quan phụ thuộc rất lớn vào mục tiêu, chiến lược xúc tiến và các chương trình xúc tiến cụ thể. Ngược lại, các chương trình và chiến lược xúc tiến đầu tư lại phụ thuộc vào nguồn lực của mỗi cơ quan xúc tiến đầu tư Do xúc tiến đầu tư là hoạt động vì mục tiêu lợi ích của cộng đồng nên nguồn tài chính của các cơ quan xúc tiến đầu tư nên lấy từ ngân sách quốc gia. Ngoài ra, có thể lấy từ những nguồn viện trợ nước ngoài, đóng góp từ những khu vực tư nhân hay các khoản phí dịch vụ thu trước của các nhà đầu tư. Các cơ quan xúc tiến đầu tư cũng nên tìm kiếm thêm những nguồn quỹ khác để tận dụng những nguồn lực của mình. Viện trợ quốc tế: Thường có một số tổ chức quốc tế chuyên cung cấp tài chính hoặc hỗ trợ cho việc cải tổ các doanh nghiệp nhà nước, các chương trình xúc tiến đầu tư tư nhân, chương trình nâng cấp, mở rộng hoạt động, nâng cao khả năng quản trị kinh doanh... Cơ quan xúc tiến đầu tư nên thảo luận với những tổ chức này để có được sự hỗ trợ tài chính cho hoạt động xúc tiến FDI. Những lĩnh vực thu hút sự quan tâm của các tổ chức quốc tế có thể là: Hỗ trợ kỹ thuật trong giai đoạn đầu, đặc biệt trong việc xác định quyền hạn và nghĩa vụ của từng phòng ban cụ thể. Nâng cao năng lực đội ngũ nhân viên - công tác phát triển đội ngũ nhân viên gồm nhiều hoạt động đa dạng như cung cấp các khoá đào tạo ngắn hạn về những chủ đề đã được cơ quan xúc tiến lựa chọn, tư vấn về các kỹ năng cụ thể trong xúc tiến đầu tư để làm việc tại cơ quan. Một số cơ quan cũng có thể cung cấp học bổng cho những khóa đào tạo dài hạn. Công nghệ thông tin quản trị - cơ quan xúc tiến đầu tư cần tìm hiểu những nguồn hỗ trợ tài chính từ những tổ chức quốc tế nhằm phát triển Website hiện tại và xây dựng các trung tâm thông tin cùng cơ sở dữ liệu về các nhà đầu tư. Khu vực tư nhân: Cũng như rất nhiều hình thức hỗ trợ đến từ khu vực tư nhân. Nói chung, khu vực tư nhân thường không cung cấp nguồn tài chính nhưng lại sẵn sàng hợp tác trong các hoạt động xúc tiến đa dạng khác. Những đóng góp có thể có được từ khu vực tư nhân là: Hợp tác trong việc phát hành những bản giới thiệu hướng dẫn kinh doanh và gửi chúng tới các nhà đầu tư tiềm năng. Hỗ trợ duy trì trang web bằng việc cung cấp những thông tin cập nhật nhất. Chẳng hạn một công ty luật có thể cung cấp cho cơ quan xúc tiến đầu tư bản dịch tiếng Anh về những luật lệ và quy chế mới ban hành để đưa lên các trang web. Hỗ trợ tổ chức những buổi hội thảo đầu tư như chuẩn bị nguyên vật liệu, cung cấp nguồn tài chính… Hạn chế về nguồn lực đang là vấn đề chung của bất cứ cơ quan xúc tiến đầu tư nào, đặc biệt là các cơ quan xúc tiến đầu tư tại các nước đang và chậm phát triển. Tuy nhiên nếu thiếu nguồn tài chính đảm bảo thì thành công của chương trình rất khó đạt được nên vấn đề cải tạo ngân quỹ cho hoạt động xúc tiến đầu tư cần được quan tâm hơn nữa trong quá trình lập dự thảo sử dụng ngân sách quỗc gia hàng năm.Đồng thời các cơ quan xúc tiến đầu tư cũng phải tự nỗ lực hơn nữa trong việc tìm kiếm các nguồn tài trợ để bổ sung cho ngân quỹ hoạt động của mình. 3.2.4. Xây dựng chiến lược xúc tiến đầu tư có trọng điểm Kết quả từ những cuộc phỏng vấn, điều tra cho thấy nhu cầu có một cơ quan tiến hành các hoạt động xúc tiến đầu tư nhằm xây dựng và thực hiện những chiến lược xúc tiến FDI có hiệu quả là vô cùng cần thiết. ở cấp quốc gia chiến lược xúc tiến đầu tư cần được chỉ đạo tập trung bởi Uỷ ban xúc tiến đầu tư quốc gia VNIPA. Tại các cơ quan xúc tiến đầu tư cấp tỉnh và địa phương cũng cần xây dựng và thực hiện chiến lược và hoạt động xúc tiến nhưng ở mức độ hẹp hơn. VNIPA cùng các văn phòng đại diện cần đóng một vai trò quan trọng cả trong phối hợp và hỗ trợ các hoạt động của Sở Kế hoạch và Đầu tư và Ban quản lý KCX, KCN địa phương. Chính vì vậy những chiến lược xúc tiến đầu tư đề xuất tại đây có thể áp dụng cho VNIPA và cả các cơ quan xúc tiến đầu tư địa phương. Một chiến lược xúc tiến đầu tư phải bao gồm những công đoạn sau: Xác định ngành nào sẽ là ngành mũi nhọn trong ngắn hạn (1 - 2 năm) và trung hạn (3 - 5 năm)? Cần tập trung chính vào khu vực địa lý nào? Những hình thức xúc tiến nào có thể được lựa chọn để thu hút các công ty? 3.2.4.1 Sự cần thiết phải có chiến lược xúc tiến đầu tư có trọng điểm Xu hướng xúc tiến đầu tư hiện nay là nhằm có được những chiến lược tập trung hơn - chẳng hạn tập trung mọi nguồn lực xúc tiến vào việc thu hút một dòng FDI nhất định đã xác định trước hơn là dòng FDI nói chung. Sự cần thiết cuả những chiến lược tập trung này xuất phát từ những lý do sau đây: Thứ nhất, việc xúc tiến đầu tư có trọng điểm có thể giúp quốc gia đó đạt được những mục tiêu chiến lược liên quan tới những khía cạnh như nhân sự, chuyển giao công nghệ , xuất khẩu và các lĩnh vực khác trong chiến lược phát triển chung. Thứ hai, hiện đang có một sự cạnh tranh mạnh mẽ trên thế giới để có được nguồn FDI, đặc biệt là dòng FDI vào phương Đông. Các TNC kỳ vọng vào một thị trường rộng và nhiều tiềm năng hơn khi đầu tư FDI vào các nước Châu á và việc xúc tiến đầu tư có tập trung thực sự là rất quan trọng đối với nước nhỏ và chậm phát triển. Một nguyên nhân nữa là vấn đề hiệu quả chi phí. Rất nhiều cơ quan xúc tiến đầu tư đã nhận ra rằng các hoạt động tạo dựng hình ảnh chung và vận động đầu tư chung chung sẽ không đem lại hiệu quả trừ khi chúng được thực hiện với một chiến lược xác định nhằm thu hút một dòng FDI cụ thể. 3.2.4.2 Xác định ngành mũi nhọn và các nguồn tiềm năng. Một chiến lược xúc tiến đầu tư FDI có trọng điểm yêu cầu phải xác định được ngành nghề, hoạt động, quốc gia và cả các công ty cần tập trung vận động đầu tư. Đối với Việt Nam, việc đầu tiên là cần xác định vị trí của mình so với các đối thủ cạnh tranh như các nước ASEAN, Trung Quốc nhằm xác định điểm mạnh cũng như điểm yếu của mình - có nghĩa là cần xác định khả năng và những lợi thế thu hút của Việt Nam. Dựa trên những phân tích về những lợi thế cạnh tranh của môi trường đầu tư tại Việt Nam, Việt Nam đang có rất nhiều lợi thế như: Môi trường kinh tế - chính trị ổn định. Vị trí chiến lược tại Đông Dương và Đông Nam á với tiềm năng trở thành một thị trường chính của khu vực. Lực lượng nhân công trẻ, đông đảo và chi phí thấp. Kết quả phân tích ngành nghề đã cho thấy chính phủ trước tiên cần tập trung vào những ngành có các tiêu chuẩn cụ thể đang được cả Chính phủ và các nhà đầu tư đều đánh giá cao như: Ngành dầu mỏ và khí đốt. Công nghiệp điện tử. Công nghiệp hoá chất. Công nghiệp sợi. Giầy dép. Các sản phẩm bằng da. Những ngành sau đây được chính phủ đánh giá cao nhưng theo ý kiến các nhà đầu tư thì chỉ ở mức trung bình. Cũng có thể tập trung vào các ngành này, tuỳ theo mục tiêu và nguồn lực của các cơ quan xúc tiến đầu tư. Đó là: Công nghiệp máy móc Công nghệ thông tin Công nghiệp chế biến các sản phẩm từ cá Công nghiệp chế biến sản phẩm nông nghiệp Công nghiệp dệt Xây dựng hạ tầng cơ sở các khu công nghiệp, khu chế xuất. Cũng cần phải chú ý rằng chất lượng xúc tiến đầu tư không phải là sự phân tích tĩnh và cố định. Nền kinh tế toàn cầu, nền kinh tế từng khu vực, từng quốc gia và từng địa phương luôn có sự thay đổi. Cần quan tâm tới những yếu tố này để tìm ra những nhà đầu tư tiềm năng. Trong bối cảnh của cạnh tranh gay gắt giữa các quốc gia thu hút FDI, cơ quan xúc tiến đầu tư quốc gia, các văn phòng đại diện cũng như các cơ quan xúc tiến đầu tư địa phương càng phải chú trọng xác định không chỉ các ngành mà cả những hoạt động, những khu vực kinh tế mới... để có thể nâng lợi thế của khu vực lên mức tối đa. Một quốc gia hay một khu vực chỉ có được những lợi thế cạnh tranh từ những lĩnh vực hay sản phẩm tự nhiên của mình. Việc xác định những sản phẩm và lĩnh vực đó để tập trung vào là rất cần thiết đối với từng địa phương. Khi đã xác định được các ngành mũi nhọn thì một điều quan trọng nữa là phải xác định những phân đoạn thị trường có tiềm năng đầu tư. Cách phân đoạn thị trường của marketing cũng có thể được áp dụng tại đây. Đó là phân đoạn theo kinh tế, địa lý, nhân khẩu học và tâm lý học. Đối với đầu tư nước ngoài thì, địa lý và kinh tế là hai yếu tố cần quan tâm nhất. Chẳng hạn, khi phân đoạn thị trường theo khu vực địa lý thì các cơ quan xúc tiến đầu tư tại Việt Nam cần tập trung vào những nước sau: Ngành Nước đầu tư - Sợi và dệt - Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông, Singapore - Da, giày dép - Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Hồng Kông, Singapore - Điện tử - Nhật, Mỹ, EU, Hàn Quốc - Dỗu mỏ & khí đốt - Mỹ, EU, Malaysia, Nga - Chế biến thực phẩm - Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, EU - Công nghệ thông tin - Mỹ, Nhật (phần cứng), EU, Singapore - Hoá chất - Mỹ, EU, Nhật, Hàn Quốc - Máy móc - Nhật Bản, Hàn Quốc - Xây dựng hạ tầng cơ sở cho khu chế xuất và khu công nghiệp - Nhật Bản, Singapore, Indonesia, Hàn Quốc Các chiến lược trọng điểm tập trung vào các ngành mũi nhọn cũng cần được xem xét về mặt cơ cấu cũng như các kỹ thuật sản xuất và dựa vào những phân tích đó để phát triển những chính sách, chiến lược marketing cho từng ngành cụ thể: Ngành Tận dụng vốn Tận dụng sức lao động Nguồn tài nguyên Nền tảng công nghệ Nền tảng xuất khẩu - Sợi x x - Dệt x x - Da/giày dép x x - Điện tử* x x - Dầu mỏ, khí đốt x x x - Công nghệ thông tin: x + Phần cứng x + Phần mềm x - Hoá chất x - Máy móc** x x x - Xây dựng hạ tầng cơ sở cho khu chế xuất và khu công nghiệp x - Chế biến thực phẩm x x X * Việc phát triển ngành này tuỳ thuộc từng giai đoạn sản phẩm, từng phương thức sản xuất. Người ta hy vọng ngành này sẽ có ít những công nhân phải làm việc 3 ca hơn. ** Ngành này bao gồm nhiều sản phẩm khác nhau mà tính chất của mỗi sản phẩm cũng rất đa dạng. Tuy nhiên, mọi chiến lược xúc tiến đối với một ngành hoặc một vùng cụ thể sẽ không có tác dụng hoặc không khả thi mà Uỷ ban xúc tiến đầu tư quốc gia chưa được thành lập và một chiến lược phát triển chung cho cả nền kinh tế chưa được sự phê duyệt của các cấp có thẩm quyền. Chiến lược xúc tiến đầu tư cần linh hoạt và việc xây dựng chiến lược này phải là một trong những vấn đề ưu tiên hàng đầu của Uỷ ban xúc tiến đầu tư quốc gia và các cơ quan xúc tiến đầu tư có liên quan. 3.2.5. Cải thiện môi trường đầu tư Có thể nói rằng việc xúc tiến đầu tư là việc “bán cơ hội đầu tư” cho các nhà đầu tư tiềm năng. Một chương trình marketing sẽ có thể không thành công như mong muốn nếu có “sản phẩm tồi”. Tạo ra một môi trường đầu tư tốt là tạo ra một sản phẩm tốt. Hiện nay, mặc dù có những tài liệu đáng kể nhưng môi trường đầu tư của Việt Nam vẫn chưa thể cạnh tranh được với các nước như Trung Quốc hay các nước trong ASEAN 5. Các nhà đầu tư vẫn còn lo ngại về tốc độ cải tổ nền kinh tế và rất nhiều người trong số họ đã rất thất vọng khi đầu tư vào Việt Nam. Nếu Việt Nam muốn thu hút được nguồn FDI thì nhất thiết phải tiến hành cải thiện môi trường đầu tư của mình. Đã có rất nhiều báo cáo và nghiên cứu về vấn đề này và cũng đã có nhiều đề xuất được đưa ra nhằm cải thiện môi trường đầu tư tại Việt Nam. Trong ngắn hạn, mục tiêu chính của VNIPA là phải lấy lại lòng tin của các nhà đầu tư thông qua các biện pháp như: Tránh đưa ra những chính sách và định chế một cách bất ngờ. Tăng cường cải tổ cơ cấu quản lý. Giảm bớt chi phí kinh doanh bằng cách cắt bỏ hệ thống hai giá và các chi phí không chính thức. Phát triển chiến lược phát triển chung cho từng khu vực. Tăng cường xây dựng hình ảnh của mình. Trong trung hạn (3 – 5 năm) Việt Nam cần có mặt trong nhóm 25 nước thu hút đầu tư nhất của FDI Confidence Index. Để làm được điều này Việt Nam cần phải: Xây dựng nội dung luật đầu tư cơ bản chứ không chỉ là các chính sách FDI. Xây dựng kế hoạch cụ thể nhằm thực thi các chính sách. Xoá bỏ hoàn toàn sự phân biệt giữa khu vực Nhà nước và tư nhân. Nâng cao chất lượng hạ tầng cơ sở phần cứng và phần mềm như hệ thống giao thông, ngân hàng và tài chính, giáo dục và đào tạo. Tạo điều kiện phát triển thuận lợi cho khu vực kinh tế tư nhân. Giảm bớt sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động của cơ quan xúc tiến đầu tư quốc gia. 3.2.6. Cải thiện kỹ thuật xúc tiến đầu tư. Có rất nhiều kỹ thuật xúc tiến đầu tư khác nhau nhưng có thẻ phân làm 3 dạng chính: Kỹ thuật tạo dựng hình ảnh - đây là những kỹ thuật nhằm xây dựng hình ảnh và thay đổi những ấn tượng đầu tư vào một quốc gia. Kỹ thuật vận động các nhà đầu tư tiềm năng - Đây là những kỹ thuật tập trung xúc tiến đầu tư trực tiếp. Dịch vụ đầu tư - Đây là những kỹ thuật nhằm nâng cấp dịch vụ dành cho các nhà đầu tư hiện tại và tiềm năng. Cơ quan xúc tiến đầu tư nhìn chung sẽ đảm nhiệm cả 3 hoạt động này. Tuy nhiên, xác định khâu nào cần ưu tiên hơn cả trong quá trình xúc tiến lại phụ thuộc vào từng quốc gia, các yêu cầu đầu tư, nguồn lực, chính sách và thể chế của quốc gia đó cũng như các điều kiện thị trường trong nước và quốc tế. Mức độ ưu tiên đó cũng thay đổi theo thời gian và tuỳ vào giai đoạn phát triển của quốc gia đó. 3.2.6.1. Chiến lược và kỹ thuật tạo dựng hình ảnh. Trong bất cứ môi trường thay đổi nào cũng luôn có một khoảng cách giữa nhận thức và thực tiễn. Điều này hoàn toàn đúng đối với những nền kinh tế đang thực hiện những cải cách như Việt Nam. Việt Nam đang ở trong giai đoạn xây dựng nền kinh tế với tốc độ rất cao nhưng những nhà đầu tư lại có thể chưa biết tới những thay đổi đó. Theo những điều tra cho thấy thì do thông tin không đến được hoặc khó đến với các nhà đầu tư nên họ chưa nhận thức được sự thay đổi nhanh chóng đó của nền kinh tế Việt Nam. Làm cho các nhà đầu tư nhận ra những đầu tư và môi trường đầu tư là một trong những công đoạn của quá trình xúc tiến. Thêm vào đó nhận thức của các nhà đầu tư tiềm năng về một Việt Nam đang phát triển manh mẽ còn rất thấp. Một số nhà đầu tư vẫn còn coi Việt Nam như một đất nước chiến tranh. Đặc biệt là các nhà đầu tư Hoa Kỳ và Tây Âu. Một chiến dịch tạo dựng hình ảnh cũng sẽ rất cần thiết để gạt bỏ những ấn tượng tiêu cực về quốc gia đồng thời khiến cho không chỉ những nhà đầu tư mà tất cả mọi người đều nhận thấy Việt Nam đang mở cửa và đang trên đà hoà nhập với nền kinh tế thế giới. Chiến dịch tạo dựng hình ảnh nhằm vào hai mục tiêu chính: Nâng cao nhận thức về Việt Nam. Thay đổi quan điểm của các nhà đầu tư về Việt Nam. Sau đây là một số phương pháp Marketing hiệu quả thường được áp dụng trong các chiến lược tạo dựng hình ảnh: Xây dựng một khẩu hiệu tập trung làm thông điệp gửi đến các nhà đầu tư. Để tránh lẫn lộn và đạt hiệu quả cao thì việc xây dựng một khẩu hiệu xúc tiến chung cho Việt Nam là hết sức cần thiết. Việc này phải do cơ quan xúc tiến đầu tư quỗc gia tiến hành với sự cộng tác của các cơ quan xúc tiến đầu tư địa phương ngay cả khi họ muốn gửi những thông điệp thu hút riêng tới các nhà đầu tư. Khẩu hiệu chung này sẽ được sử dụng nhằm nâng cao hình ảnh của quốc gia trong giới đầu tư nói chung và cả trong những khu vực trọng điểm nói riêng. Các khẩu hiệu phải đảm bảo các yêu cầu sau: Phản ánh những gì các nhà đầu tư đang tìm kiếm. Nhu cầu của các nhà đầu tư nói chung thường nhằm nâng cao hiệu suất và lợi nhuận. Khẩu hiệu cần thể hiện cho các nhà đầu tư thấy Việt Nam sẽ giúp họ thoả mãn được những nhu cầu ấy bằng cách nào. Chẳng hạn có thể nhấn mạnh vào nguồn nhân lực dồi dào, có trình độ với chi phí nhân công rất thấp tại Việt Nam. Phản ánh những lợi thế riêng của Việt Nam. Để nhấn mạnh hình ảnh Việt Nam trong mắt người nước ngoài, cách thức này cần phải khẳng định những thế mạnh của quốc gia như vị trí chiến lược tại Đông Dương và Đông Nam á, quyết tâm mạnh mẽ của Chính phủ và nhân dân trong công cuộc phát triển nền kinh tế. Chính xác và chân thực. Việc quảng cáo không đúng sự thật sẽ gây một ấn tượng tiêu cực và làm phát sinh thêm những khó khăn khác. Nhất quán - Khẩu hiệu cần phải được truyền bá rông rãi và được thể hiện qua thống nhất trong các hoạt động xúc tiến đầu tư. Các hoạt động Marketing của Chính phủ và địa phương phải có sự phù hợp ăn khớp với nhau để tránh sự hiều nhầm từ phía các nhà đầu tư. Một số ví dụ về khẩu hiệu Marketing có thể là: Vị trí chiến lược ( Đông Dương và Đông Nam á). * ổn định nhất. * Tiến bộ nhất. * Cửa ngõ của khu vực. Một xã hội định hướng giáo dục. Chính phủ và nhân dân ủng hộ mạnh mẽ cải cách kinh tế. Lực lượng lao động trẻ có trình độ trên 40 triệu người. Môi trường hoà bình và an toàn. Cam kết thay đổi. Sử dụng hiệu quả các công cụ tạo dựng hình ảnh : * Sách giới thiệu: Mặc dù hiện nay đã có một số công cụ hiện đại khác như CD-ROM, Internet nhưng một tập sách giới thiệu mỏng về những hoạt động của cơ quan xúc tiến đầu tư quốc gia có thể cung cấp cho các nhà đầu tư những thông tin về tính chuyên nghiệp cũng như các dịch vụ có thể cung cấp. Ngược lại một bản giới thiệu nghèo nàn có thể đưa ra những thông tin không chính xác hoặc những tiêu chí yếu kém về dịch vụ đầu tư. Để có được hiệu quả cao nên thuê những công ty chuyên nghiệp để tư vấn và thiết kế bản giới thiệu này. * Tờ rơi: Chứa đựng một đến hai trang thông tin về địa điểm ( nước hoặc tỉnh thành) gửi tới các nhà đầu tư tiềm năng. Những thông tin bao gồm: Chính sách kinh tế và ngành nghề. Các lĩnh vực và ngành nghề chính. Vốn FDI và hàng FDI hàng năm. Tình hình thương mại bao gồm cả xuất nhập khẩu. Thông tin về môi trường đầu tư như GDP, tốc độ tăng GDP, tỷ giá hối đoái, … được đánh giá qua các tổ chức như Moody, Standard & Poor … Luật lao động bao gồm cả chi phí nhân công chính sách và tiền lương, tổ chức thương mại… Trình độ dân trí. Thủ tục hải quan. Thuế. Hạ tầng cơ sở. Các quy định cũng như dịch vụ của cơ quan xúc tiến đầu tư. Các tờ rơi này có thể được in ấn ngay tại cơ sở nên chi phí tương đối thấp. * Bản tin thường kỳ: Nhằm cung cấp cho các nhà đầu tư thông tin về sự phát triển của khu vực và cũng góp phần quảng cáo cho hoạt động của cơ quan xúc tiến đầu tư. Để đạt được hiệu quả cao, những bản tin này nên có một chủ đề trọng tâm hoặc một vài điểm nhấn mạnh khác nhau chẳng hạn như về ngành may mặc, ngành dệt may về AFFA. Bản tin không chỉ là công cụ để tìm kiếm những nhà đầu tư tiềm năng. Các nhà đầu tư thường xuyên phàn nàn về tình trạng thiếu thông tin tại Việt Nam. Chính vì vậy, các cơ quan xúc tiến đầu tư cần đưa ra những tập sách giới thiệu, tơ rơi, bản tin thương xuyên để xây dựng hình ảnh và quảng cáo chất lượng dịch vụ của mình. * Website: Internet là một trong những công cụ xúc tiến hiệu quả nhất với chi phí thấp nhất vì vậy cần ưu tiên cho việc thiết kế và duy trì một Webiste của cơ quan xúc tiến đầu tư với chất lượng cao. Trang Web hiện nay của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng như trang Web của hầu hết các cơ quan xúc tiến tỉnh khác đều bị đánh giá là còn rất nghèo nàn. Website của Trung tâm Xúc tiến Thương mại Đầu tư TP HCM được coi là tốt hơn cả, tuy nhiên vẫn cần phải được nâng cấp. Việc nâng cấp trang Web của Bộ Kế hoạch và Đầu tư ( hay Uỷ ban xúc tiến đầu tư quốc gia sau này) cần được coi như là nhiệm vụ được ưu tiên hàng đầu . Các cơ quan xúc tiến đầu tư khác cũng cần thiết cải thiện Website của mình. Những việc cần làm để có thể trong Website có hiệu quả. Đưa ra thiết kế hấp dẫn hơn: Một Website hấp dẫn có thể thu hút nhiều người truy nhập hơn. Vì vậy, nó có thể góp phần xây dựng hình ảnh của cơ quan xúc tiến đầu tư. Nâng cao chất lượng thông tin: Một trang Website tốt có thể khuyến khích người xem truy nhập nhiêu lần hơn. Những nhà đầu tư tiềm năng có những nhu cầu cơ bản về thông tin khi muốn đầu tư vào bất cứ quốc gia nào. Những thông tin phải chính xác và luôn cập nhật tạo điều kiện cho người truy nhập hiểu rõ những lợi thế của quốc gia hay địa phương đó. Duy trì Website: Đây là khâu yếu nhất của tất cả các Website tại Việt Nam. Chính vì thế cần có một đội ngũ chuyên nghiệp duy trì và phát triển Website với các công việc như: + Trả lời những yêu cầu, đề nghị, phàn nàn qua thư điện tử. Thời hạn trả lời tối đa là trong vòng 48 giờ đồng hồ chẳng hạn. + Duy trì hoạt động của Website. Điều tra cho thấy các Website Việt Nam còn có những thông tin rất cũ và lạc hậu. + Đảm bảo Website hoạt động bình thường – các nhà đầu tư sẽ cảm thấy rất thất vọng nếu Website không thể truy nhập. + Cung cấp các phương tiện để các nhà đầu tư có thể đề nghị hoặc phản hồi nhằm nâng cấp Website. Website này cũng cần: Cung cấp thông tin bằng các ngôn ngữ khác ngoài tiếng Anh, chẳng hạn tiếng Nhật. Kết nối được tới các Website khác của Việt Nam. Kết nối được tới các Website khác có thông tin về Việt Nam. Kết nối được tới các Website của mạng xúc tiến đầu tư. Các Website có thể được sử dụng như một công cụ nhằm đưa thông tin vào mạng để giảm thiểu các chi phí xuất bản liên quan vì cùng một lúc có thể cung cấp thông tin cho tất cả các nhà đầu tư. Website cũng có thể dùng để thu thập thông tin về các nhà đầu tư liên quan. * Chiến dịch quảng cáo và quan hệ công chúng. Quảng cáo trên các phương tiện truyền thông nước ngoài ( báo chí hay truyền hình) là một công cụ rất có hiệu quả nhằm nâng cao hình ảnh của khu vực, đặc biệt là đối với những giới đầu tư vốn không có được ấn tượng tốt đối với một số địa điểm đầu tư trên thị trường thế giới như Việt Nam. Tuy nhiên chi phí cho quảng cáo rất cao, có thể chiếm một phần không nhỏ trong ngân sách của cơ quan xúc tiến đầu tư. Chẳng hạn, để quảng cáo trên trang màu của một tờ tạp chí của Mỹ có thể tiêu tốn tới 80.000 USD. Trong nhiều trường hợp khi các nhà đầu tư tiềm năng có những nhận thức sai lầm về địa điểm đầu tư thì việc cơ quan xúc tiến đầu tư sử dụng các phương tiện truyền thông là vô cùng quan trọng. Đặc biệt khi đó lại là những ấn tượng đó mang tính hết sức tiêu cực. Cơ quan xúc tiến cần thông qua các phương tiện truyền thông để thay đổi những suy nghĩ sai lầm đó và nhờ một tờ báo trong một truyền hình có uy tín còn có tác dụng hơn rất nhiều những bài quảng cáo đắt đỏ khác. Trong số những quốc gia có khả năng thu hút mạnh mẽ vốn FDI thì Thái Lan và Trung Quốc là hai quốc gia khai thác rất tốt quan hệ công chúng. Các cơ quan xúc tiến đầu tư ở những quốc gia này có quan hệ mật thiết với những tờ báo có uy tín. Sau nhiều lần các phóng viên tới thăm, thảo luận và đánh giá, chính phủ các nước này đã cải thiện được rất nhiều môi trường đầu tư của họ. Mặc dù những cuộc họp báo đó nhiều lúc cũng chỉ mang tính chất tư nhân, không chính thức nhưng đã có được bài báo cáo rất tốt và tích cực sau những lần gặp gỡ này. * Tổ chức những hội nghị, hội thảo về đầu tư cả ở trong và ngoài nước Những hội nghị , hội thảo về đầu tư cũng là những công cụ xúc tiến hết sức hiệu quả. Việc này có thể góp phần xây dựng hình ảnh và giúp tìm kiếm những nhà đầu tư tiềm năng. Để có được hiệu quả cao thì những buổi hội thảo này cần được chuẩn bị kỹ càng và có sự tập trung tốt nhất. Một buổi hội thảo tổ chức yếu kém có thể đem lại những ấn tượng xấu cho các nhà đầu tư tiềm năng. Việt Nam cũng đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo quốc tế về đầu tư tuy nhiên do tổ chức yếu kém và chất lượng không cao nên không thể đạt được những kết quả như mong muốn. Vậy để có được một cuộc hội thảo thành công thì cần phải có những điều kiện sau: Trình độ tổ chức chuyên nghiệp của cơ quan xúc tiến hoặc các nhà tư vấn chuyên nghiệp. Tài liệu và thuyết minh có chất lượng cao. Lựa chọn được người thuyết minh phù hợp – có khả năng Marketing và kỹ năng thuyết trình tốt. Đảm bảo tất cả các bài thuyết trình phải thống nhất với mục tiêu và chủ chương của hội nghị. Có sụ tham gia của những nhà đầu tư tiềm năng. Đảm bảo có được quan hệ cộng đồng tốt cả trước và sau một hội thảo. Cần mời thêm những đại diện của các phương tiện truyền thông trong nước và quốc tế tới dự. Tiếp tục cuộc hội thảo bằng những bản câu hỏi điều tra về chất lượng hội thảo và những lợi ích tương lai mà hội thảo có thể đem lại. Theo như phỏng vấn thì hầu hết các cuộc hội thảo được tổ chức tại Việt Nam đều không đạt được kết quả như mong muốn bởi trình độ quản lý kém và chất lượng thuyết trình không cao (cả của người nói và tài liệu thuyết trình ) Các nhà đầu tư tiềm năng luôn quan tâm tới kinh nghiệm của các nhà đầu tư đi trước vì vậy mời những nhà đầu tư thành công trước đó đến thuyết trình tại hội thảo là việc hết sức cần thiết. Một số các cơ quan xúc tiến đầu tư ở Bình Dương, Đông Nai, Vĩnh Phúc đã thực hiện phương pháp này hết sức thành công. 3.2.6.2. Chiến lược và kỹ thuật vận động những nhà đầu tư tiềm năng. Mục tiêu của việc này là nhằm đưa những cơ hội đầu tư tới cho những nhà đầu tư tiềm năng. Đây là khâu tiếp theo sau khâu tạo dựng hình ảnh của quy trình xúc tiến đầu tư. Để đạt được mục tiêu này, điều cần thiết là cả cơ quan xúc tiến đầu tư quỗc gia và các cơ quan xúc tiến đầu tư địa phương đều phải cùng tập trung vào những hoạt động này. Xây dựng cơ sở dữ liệu về các nhà đầu tư. Để có thể giới thiệu một cách có hiệu quả Việt Nam cùng những khu vực của Việt Nam tới những công ty cụ thể, cần phải có một cơ sở dữ liệu về các nhà đầu tư tiềm năng. Cơ quan xúc tiến đầu tư quốc gia ( và các văn phòng đại diện ) cần có một bộ phận xây dựng cơ sở dữ liệu về các nhà đầu tư và các cơ quan xúc tiến đầu tư địa phương sẽ là người cung cấp thông tin. Thông tin này sau đó sẽ được sử dụng thống nhất ở tất cả các cơ quan xúc tiến đầu tư. Các thông tin này có thể giúp cho việc duy trì liên lạc với các nhà đầu tư. Các dữ liệu này phải được thường xuyên cập nhật và bổ sung và cần có sự phản hồi từ phía các nhà đầu tư. Tập trung vận động các công ty. Dữ liệu về các nhà đầu tư có thể cung cấp cho cơ quan xúc tiến (ở một mức độ nào đó ) danh sách các công ty có tiềm năng lớn hoặc những công ty cụ thể có thể được lựa chọn để tiến hành các hoạt động xúc tiến đầu tư. Có thể liên hệ với các nhà đầu tư tiềm năng bằng nhiều phương tiện: Gửi thư trực tiếp. Thư điện tử. Gọi điện. Intenet. Các hoạt động xúc tiến. Thuyết trình. Dùng thư thường phổ biến hơn việc sử dụng điện thoại tuy nhiên gọi điện thoại đôi khi cũng rất có lợi. Chất lượng của thư từ cũng rất quan trọng khi muốn thúc giục nhà đầu tư. Sau khi gửi thư, cơ quan xúc tiến đầu tư liên quan cần bám sát những công ty có tiềm năng, cung cấp cho họ những thông tin cần thiết và trả lời tất cả những thắc mắc của họ trong quá trình tiếp cận. Thực hiện chiến lược xúc tiến đầu tư Đối với các công ty xuyên quốc gia quy mô lớn. Liên lạc với cá nhân các nhà đầu tư đóng một vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động xúc tiến đầu tư nhưng do các nguồn lực có hạn nên chỉ có thể tiến hành với một số công ty được lựa chọn như các INC Đối với các INC thì việc các quan chức cấp cao của chính phủ như Thủ tướng, Bộ trưởng, Đại sứ … cũng tham gia vận động có thể giúp cải thiện mối quan hệ với họ và góp phần rất lớn trong quá trình cải thiện hình ảnh quốc gia trong mắt các nhà đầu tư tiềm năng khi họ muốn thăm dò thị trường đầu tư. Đối với các công ty quy mô vừa và nhỏ. Tiến hành giới thiệu trực tiếp tới các công ty vừa và nhỏ có lẽ không phải là phương pháp khả thi về mặt chi phí. Việc sử dụng các biện pháp Maketing gián tiếp sẽ thích hợp hơn cả về chi phí và nguồn lực. Có thể sử dụng Intenet để thực hiện Maketing tới các công ty này. Ngoài ra có thể tổ chức các buổi hội thảo về đầu tư có sự tham dự của họ. Đây cũng là phương pháp rất tốt để quảng bá hình ảnh của quốc gia hay của địa phương. Sử dụng các cơ quan đại diện ở nước ngoài. Do mối quan hệ với các cá nhân có tầm quan trọng rất trong chiến lược xúc tiến đầu tư, rất nhiều cơ quan xúc tiến đầu tư của các quốc gia đã thành lập cơ quan đại diện ở nước ngoài tại những thị trường trọng điểm như Mỹ, Nhật và Châu Âu. Các văn phòng đại diện tại nước ngoài có chức năng đáp ứng một cách có hiệu quả nhu cầu của các nhà đầu tư tiềm năng và chứng tỏ rằng cơ quan xúc tiến đầu tư sẵn sàng tiếp cận thị trường. Tuy vậy việc duy trì hoạt động của văn phòng đại diện tại nước ngoài lại tiêu tốn một khoản chi phí tương đối lớn và hiệu quả của nó lại phụ thuộc vào khả năng của các nhân viên đại diện địa phương. Nếu các nhân viên đại diện không được đào tạo tốt hoặc thiếu kih nghiệm thì đôi khi cách này lại mang lại hiệu quả ngược lại và điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn tới quá trình xúc tiến đâu tư của mỗi quốc gia. 3.2.6.3. Nâng cấp các dịch vụ đầu tư Đa số các nhà đầu tư đều khẳng định rằng thỏa mãn yêu cầu của các nhà đầu tư chính là phương thức Marketting hữu hiệu nhất. Dịch vụ đầu tư bắt đầu từ thời điểm nhà đầu tư tiềm năng tới thăm địa điểm xúc tiến đầu tư và tiếp tục trong suốt thời gian thực hiện dự án. Dịch vụ đầu tư không dừng lại ở thởi điểm dự án được cấp phép. Dịch vụ trước cấp phép Các dịch vụ trước cấp phép chủ yếu liên quan tới việc tổ chức các cuộc viếng thăm tới các địa điểm đầu tư, cung cấp các thông tin cần thiết để lựa chọn địa điểm và giúp đỡ các nhà đầu tư chuẩn bị thủ tục đăng ký đầu tư. ấn tượng đầu tiên bao giờ cũng rất quan trọng nên việc các nhà đầu tư có trở lại lần thứ 2 hay không phụ thuộc rất nhiều vào cuộc viếng thăm lần đầu. Để tổ chức một cuộc tham quan thành công, cần phải lưu ý những điểm sau: Cần cử một nhân viên của dự án trực tiếp hướng dân và đáp ứng những yêu cầu của nhà đầu tư tiềm năng.. Giúp đỡ bên đầu tư các công việc hậu cần như đi lại, đặt khách sạn. Lập sẵn một chương trình viếng thăm sao cho mọi thắc mắc quan tân của nhà đầu tư về địa điểm này đều được giải đáp qua chuyến đi Sắp xếp cho nhà đầu tư gặp mặt một số đối tác hiện đang hoạt động thành công hoặc những người có thể đưa ra những bình luận tích cực về địa điểm đầu tư này. Sắp xếp cho nhà đầu tư gặp gỡ các cán bộ cấp cao đang làm viẹc tại đây. Điều này sẽ khiến họ cảm thấy mình quan trọng và được chào đón. Cung cấp càng nhiều dữ liệu và thông tin càng tốt vì nhà đầu tư có thể đang cùng một lúc đang quan tâm đến nhiều địa điểm để lựa chọn. Tại mỗi địa điểm họ sẽ cố gắng thu thập mọi thông tin và dữ liệu có thể để tiến hành tính toán và cân nhắc. Khối lượng và chất lượng thông tin cung cấp có thể tạo nên sự khác biệt. Để thực hiện tốt công việc trên đây, đôi khi cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan xúc tiến đầu tư quốc gia và các cơ quan xúc tiến đầu tư địa phương. Việc đào tạo và nâng cao các kỹ năng Marketing là rất quan trọng để có thể trang bị cho các cán bộ dự án đầy đủ kỹ năng cần thiết cho việc tổ chức một chương trình thành công. Dịch vụ cấp phép Đây là lĩnh vực mà các cơ quan xúc tiến đầu tư địa phương đảm nhận là tốt nhất. Các văn phòng cung cấp dịch vụ tổng hợp đóng vai trò quan trọng trong việc đẩy nhanh tốc độ cấp phát giấy phép. Đối với những dự án lớn và phức tạp, có liên quan đến nhiều cơ quan chức năng khác, quy trình có thể phức tạp hơn. Tuy nhiên, đây chủ yếu vẫn là vấn để phối hợp hoạt động cần ứng dụng các công cụ thông tin nhanh như Internet và Intranet. Dịch vụ sau cấp phép Đây là khâu quan trọng nhất của dịch vụ đầu tư, tuy nhiên lại ít được các cơ quan xúc tiến đầu tư quan tâm đến nhất. Dịch vụ sau cấp phép rất đa dạng về loại hình, song có thể được phân chia thành 2 nhóm chính Giúp đỡ nhà đầu tư giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện dự án. Cung cấp các dịch vụ giá trị gia tăng. Theo ý kiến của các nhà đầu tư và dựa trên thực tiễn hoạt động xúc tiến đầu tư, các phương thức sau được coi là cần thiết cho việc nâng cao chất lượng dịch vụ sau cấp phép: Thường xuyên tổ chức các cuộc đối thoại với các nhà đầu tư để kịp thời tháo gỡ các khó khăn của họ. Đây cũng là cơ hội để Chính quyền TW và địa phương công bố rộng rãi chiến lược đầu tư của mình. Các cơ quan xúc tiến đầu tư nên đóng vai trò là người phát ngôn cho các nhà đầu tư cả trong và ngoài nước để phản ánh những khó khăn của họ lên Chính phủ. Muốn thực hiện được chức năng này, các cơ quan xúc tiến cần tích cực tìm hiểu và nghiên cứu những vấn đề trở ngại của các nhà đầu tư và đề xuất cách giải quyết lên Chính phủ. Thành lập một trung tâm thông tin để giúp đỡ các nhà đầu tư giải quyết các khó khăn trong việc thu thập những thông tin chính xác về luật pháp, các dự án được cấp phép, tình hình xuất nhập khẩu, lạm phát, GDP… Về lâu dài các trung tâm này có thể phát triển các dự án nghiên cứu và điều tra. * * * Mặc dù hiện nay đã có nhiều cải thiện đáng kể song chất lượng các dịch vụ vẫn là vấn đề cần phải quan tâm nâng cấp nhiều hơn nữa, đặc biệt là các dịch vụ sau cấp phép phục vụ quá trình triển khai và thực hiện dự án. Các đề xuất trên đây đều xuất phát từ những tồn tại trong thực trạng xúc tiến đầu tư tại Việt Nam, các yêu cầu khách quan của hoạt động xúc tiến đầu tư trong bối cảnh cạnh tranh thu hút FDI mạnh mẽ ở phạm vi quốc tế và trên cơ sở câc đinh hướng, quan điểm chung của Nhà nước nhằm cải thiện, nâng cấp hiệu quả của các hoạt động xúc tiến đầu tư trong tương lai. Kết luận Sự cần thiết của nguồn vốn FDI và vai trò quan trọng của các doanh nghiệp FDI với tư cách là thành phần kinh thế tư bản nhà nước đã được khằng định trong cácnghị quyết của Đảng. Thực tiễn 15 năm qua đã chỉ rõ việc thu hút và sử dụng vốn FDI là chủ trương đúng đắn, cần thiết, phù hợp với xu thế của thời đại và thực tiễn của nước ta nhằm tranh thủ vốn, công nghệ, thị trường quốc tế, kinh nghiệm quản lý của nước ngoài phục vụ sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. ` Thực hiện chủ chương này, các có quan phụ trách công tác xúc tiến đầu tư Trung ương và địa phương bao gồm Bộ Kế hoạc và Đầu tư, Sở Kế hoạch và Đầu tư các tỉnh và thành phố, Ban quản lý các khu chế xuất, khu công nghiệp, đã không ngừng nỗ lực tiến hành các hoạt động xúc tiến đầu tư, cải thiện các công cụ xúc tiến đầu tư, đề xuất những cải cách chính sách đẩu tư, hướng tới xây dựng một chiến lược xúc tiến đầu tư tầm cỡ quốc gia. Những nỗ lực này đã góp phần không nhỏ vào những thành tựu thu hút nguồn vốn FDI vào trong nước. Tuy nhiên, do những yếu tố khách quan và chủ quan, hiệu quả của các hoạt động xúc tiến đầu tư còn bị hạn chế trong từng ngành, từng lĩnh vực, từng vùng lãnh thổ. Vấn đề cấp thiết đặt ra hiện nay là phải tích cực hơn nữa trong việc cải thiện và nâng cao hiệu quả của các hoạt động xúc tiến đầu tư, vươn lên trong cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các quốc gia, thu hút và khai thác mạnh mẽ hơn nữa vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu và tăng trưởng kinh tế - xã hội. Tài liệu tham khảo 1. Tài liệu hướng dẫn về cán cân thanh toán (Balance of payment - IMF) - Tái bản lần 4 2. Các chuẩn mực của OECD về đầu tư trực tiếp nước ngoài (OECD Benchmark on foreign direct investment) - OECD. 3. Lộ trình cắt giảm thuế quan khi Việt Nam gia nhập AFTA_Nguyễn Văn Dũng, NXB TP HCM. 4. Hiệp định thương mại Việt-Mỹ và những tác động tới nền kinh tế Việt Nam_ TS.Nguyễn Mạnh Cường, NXB Đồng Nai. 5. Việt Nam đàm phán gia nhập WTO_Cơ hội và thách thức_Báo Diễn đàn và doanh nghiệp số 31, tháng 8/2003. 6. Điều tra về các TNCs của UNCTAD 7. Thăm dò về đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign dỉect investment Survey), MIGA, 2000. 8. Những xu thế trong Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản 2000 (The trends in Japanese FDI, 2000)_Koichi Kosumi 9. Chỉ số đầu tư_Tổng hợp chính sách kinh doanh toàn cầu 9/2002 (FDI Confidence Index_Global Business policy Council, 9/2002). 10. Báo cáo Đầu tư thế giới (World Investment Report, 2002), UNCTAD 11. Báo cáo tổng kết tình hình 10 năm hoạt động Đầu tư trực tiếp nước ngoài 1986-1996 và giải pháp cho giai đoạn 1996-2000-Bộ Kế hoạch và Đầu tư 12. Báo cáo tình hình hoạt động Đầu tư trực tiếp nước ngoài 5 năm 1996-2000 - Bộ Kế hoạch và Đầu tư 13. Báo cáo tình hình hoạt động Đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2001 - Bộ Kế hoạch và Đầu tư 14. Báo cáo tình hình hoạt động Đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2002 - Bộ Kế hoạch và Đầu tư 15 Nghị quyết 75/1995/ND -CP ngày 01/05/1995 16 Thông tư liên bộ 01/BKH-TTCP/TTLB ngày 02/01/1996 17 Điều tra về chất lượng hoạt động xúc tiến đầu tư tại Việt Nam - Bộ Kế hoạch và Đầu tư 6/2003 18 Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Trung Quốc - thực trạng, kinh nghiệm và bài học - He Manquing và Zhang Changchun 19 Giáo trình Đầu tư nước ngoài - Vũ Chí Lộc

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuận văn- Xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam.doc
Luận văn liên quan