Chỉnh sửa ngữ pháp, ngôn ngữ,văn phong. theo quy định chung của
nhà xuất bản.
Phối hợp cùng với biên tập kỹ- mỹ thuật làm maket và vẽ bìa sách để
vừa đảm bảo được yêu cầu về mặt mỹ thuật, vừa phản ánh được nội dung
chính của cuốn sách
Biên tập viên là người biên tập, sắp xếp, hoàn chỉnh bản thảo theo quy
định của nhà xuất bản.
Biên tập giáo trình lý luận chính trịlà biên tập những vấn đề khoa học
xã hội và nhân văn, đề cập đến những tri thức khoa học trừu tượng, những
lĩnh vực, những chủ đề: nghệ thuật và khoa học lãnh đạo, chính trị học, hệ
thống những ý tưởng, nguyên lý, sự cam kết chính trị; các quá trình giành
và thực thi quyền lực, quyền lãnh đạo, các quá trình chính trị.
159 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2415 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số giải pháp nâng cao chất lượng xuất bản giáo trình ở học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có khả năng chữa câu, tỉa gọt ý tứ, chọn từ chính xác. Nói chung ở đây
cần đến kỹ thuật, kỹ năng, kỹ xảo.
Một nguyên tắc trong biên tập là người biên tập có thể chữa câu, tỉa
gọt đoạn văn, mài sắc ý, thên bớt từ ngữ làm cho tư tưởng sáng tỏ thêm
nhưng phải tôn trọng ý đồ và tư tưởng tác giả. Nếu có sửa chữa thì phải
tuân theo nguyên tắc trung thành với ý tứ và tư tưởng của tác giả nhằm mục
tiêu làm cho ý tứ sáng hơn, sâu sắc hơn. Ở đây thể hiện kỹ năng thuyết
phục tác giả
để tác giả sửa theo ý mình, mặt khác nếu bác bỏ phải được sự đồng tình của
tác giả.
Trung thành với văn phong cũng là một nguyên tắc trong biên tập.
Cũng là giáo trình lý luận chính trị, nhưng mỗi nhà lý luận, nhà khoa học
có cách hành văn, có bút phát riêng. Văn phong, bút pháp không chỉ thể
hiện hình thức công trình mà còn thể hiện nội dung, làm tăng độ sâu sắc và
nét riêng của công trình. Sửa chữa câu cú nhưng không được làm nhạt nhoà
văn phong của tác giả. Những tiếp đầu ngữ, những vế nhấn, những từ bóng
gió, khơi gợi đều có ý tứ của nhà nghiên cứu, nhà lý luận. Vì vậy, làm tổn
hại phong cách không chỉ tổn hại hình thức, mà còn làm tổn hại đến nội
dung, chất lượng công trình. Điều này đòi hỏi sự tinh tế, điêu luyện trong
nghề nghiệp, thể hiện trình độ chuyên môn, ở khả năng tu từ, khả năng sắp
xếp từ ngữ điêu luyện.
Đây là một năng lực biên tập ở trình độ cao. Người biên tập phải hiểu
10
đặc trưng từng lĩnh vực khoa học, từng lĩnh vực chính trị, hiểu được bút
pháp thể hiện nội dung khoa học của nhà nghiên cứu, hiểu được tâm lý, sở
thích,
ý nhấn của người viết. Nếu không thì dù chỉ một dấu phẩy, dấu chấm, một
dấu chấm than khác đi... cũng làm sai lệch sắc thái và làm sai lệch cả ý
tưởng tác giả.
Giáo trình lý luận chính trị có đặc trưng là tính chính xác, lôgíc, lý giải
thuyết phục. Hành văn phải thể hiện rõ là tư tưởng của người viết hay
mượn ý người khác. Do vậy trích dẫn phải chính xác và đúng chỗ, đúng
quy cách - theo quy tắc biên tập. Ở đây đòi hỏi một tinh thần tỉ mỉ, cần cù,
nghiêm túc về mặt văn bản học, về xuất xứ của tư liệu. Nếu thiếu trình độ
văn bản học, tư liệu học thì người biên tập không phát hiện được điều vô
lý, sai sót so với nguyên bản.
Như vậy, ngoài các năng lực chuyên môn, kỹ năng kỹ xảo, nói chung
là nghệ thuật biên tập, cán bộ biên tập giáo trình lý luận chính trị có thể
nâng cao được chất lượng công trình lý luận chính trị khi thực sự là người
có trách nhiệm cùng với tay nghề cao. Có được những điều đó, người biên
tập không thể thiếu được lòng yêu nghề và lương tâm nghề nghiệp.
1
BÀN VỀ PHONG CÁCH NGÔN NGỮ
TRONG BIÊN TẬP GIÁO TRÌNH LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
Giáo trình lý luận chính trị là các sách được viết theo phong cách khoa
học. Trong đời sống, tiếng Việt có nhiều phong cách nói và viết, mỗi phong
cách có đặc trưng và chuẩn mực riêng về ngôn ngữ, cú pháp, kết cấu đoạn
và cấu trúc toàn văn bản. Nắm được các kiến thức ấy, người sử dụng sẽ
dùng ngôn ngữ chính xác, hiệu quả hơn. Cũng như vậy, công tác biên tập
giáo trình lý luận chính trị đòi hỏi người biên tập phải nắm chắc đặc trưng
phong cách khoa học, để từ đó có thể đáp ứng yêu cầu công việc một cách
tốt nhất.
Trước hết, phong cách khoa học là khuôn mẫu thích hợp cho những
người tham gia giao tiếp trong lĩnh vực khoa học: người nghiên cứu, giáo
viên, kỹ sư, sinh viên, học viên tham gia vào công việc nghiên cứu, học tập,
giảng dạy, phổ biến khoa học.
Phong cách khoa học chủ yếu dựa vào kiểu ngôn ngữ viết phi nghệ
thuật. Yếu tố cá nhân của người nói giảm xuống tối thiểu (ngoại trừ một số
biến thể như trong khoa học phổ cập, khoa học xã hội ở thể luận chiến,
phong cách này có thể sử dụng rộng rãi cả những cấu trúc ngôn ngữ nghệ
thuật, ở thể luận chiến yếu tố cá nhân được nâng cao).
Phong cách khoa học trong các giáo trình lý luận chính trị có những
đặc trưng sau:
- Ngôn ngữ trong giáo trình lý luận chính trị phải đạt tính trừu tượng -
khái quát cao, bởi vì khoa học chính trị, tư tưởng phải thông qua khái quát
Nguyễn Hoàng Diệu Thủy
Nhà xuất bản Lý luận chính trị
2
hoá, trừu tượng hoá để nhận thức và phản ánh hiện thực khách quan. Mục
đích của khoa học chính trị là phát hiện ra các quy luật tồn tại trong các sự
vật, hiện tượng nên càng không thể dừng lại ở những cái gì riêng lẻ, bộ
phận, cá biệt. Đặc trưng này thấy rõ khi so sánh những cách dùng từ của
cùng một từ trong lời nói khoa học và lời nói nghệ thuật hay lời nói hằng
ngày.
- Việc sử dụng ngôn ngữ trong các giáo trình lý luận chính trị cũng đòi
hỏi tính lôgíc nghiêm ngặt, bởi vì để gợi mở trí tuệ và thuyết phục bằng lý
tính, lời trình bày, cách suy luận phải biểu hiện năng lực tổng hợp của trí
tuệ, phải tuân theo quy tắc chặt chẽ từ tư duy lôgíc hình thức đến tư duy
lôgíc biện chứng. Tính lôgíc, đó là tính chất nhất quán trong sự phân bố tất
cả các đơn vị của văn bản và là sự có mặt của những mối liên hệ về nghĩa
giữa những đơn vị này. Tính nhất quán này chỉ có thể có ở những văn bản
mà kết luận được rút ra một cách hợp lý từ nội dung, nghĩa là các kết luận
không gây ra mâu thuẫn, và những câu văn, đoạn văn riêng lẻ tạo nên văn
bản thì phản ánh đúng sự vận động của tư duy từ cái chung đến cái riêng
hoặc ngược lại. Tính lôgíc của câu văn khoa học khác với ngôn ngữ nghệ
thuật ở tính chất cực kỳ khắt khe của nó.
- Cuối cùng, tính chính xác - khách quan cũng là một yêu cầu nhất
thiết phải có trong các giáo trình lý luận chính trị. Khoa học yêu cầu phản
ánh chính xác, khách quan, chân thực các quy luật của tự nhiên và xã hội.
Tính chính xác là tính một nghĩa trong cách hiểu, nó đòi hỏi không được
tạo ra sự khác biệt giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt.
Từ những đề dẫn lý thuyết khái quát trên, cần đi sâu vào từng mặt,
từng cấp độ cụ thể để vận dụng vào công tác biên tập, bởi vì biên tập là một
công việc thực tế và “va chạm” trực tiếp với chữ nghĩa. Ý thức được về
chuẩn phong cách khoa học chính trị, tư tưởng là một vấn đề, nhưng còn
cần phải có phương án thay thế câu chữ khi cần thiết cũng vô cùng quan
3
trọng. Bởi vậy, từ cấp độ nhỏ nhất của ngôn ngữ trong sách vở là từ ngữ,
đến những cấp độ lớn hơn là câu, đoạn, (mục, chương) và toàn văn bản,
người biên tập phải có thái độ làm việc hết sức nghiêm túc để có thể xử lý
những tình huống ngôn ngữ đặt ra.
- Về từ ngữ, thành tố quan trọng nhất ở các giáo trình lý luận chính trị
là các thuật ngữ chuyên ngành được sử dụng phổ biến, ví dụ: quyền dân sự,
quyền chính trị; quyền xã hội, quyền văn hóa; quyền tự do thụ động và
quyền tự do chủ động; toàn cầu hoá tích cực, toàn cầu hoá tiêu cực; điều
tiết chính trị, thiết chế xã hội... Biên tập viên cần nắm các thuật ngữ này, vì
trong nhiều trường hợp, vì nhiều lý do mà các thuật ngữ bị dùng sai hoặc
viết sai. Tất nhiên, biên tập viên không thể bao quát được tất cả nhưng họ
cần có một sự nhạy cảm với từ ngữ và khi nghi ngờ một thuật ngữ nào đó,
biên tập viên cần tra cứu từ điển hoặc tham khảo ý kiến của các nhà chuyên
môn. Đồng thời, trong các giáo trình lý luận chính trị cũng dùng các từ ngữ
khoa học chung. Nói chung đó là từ ngữ trừu tượng, đa phong cách, sắc
thái trung hòa, được dùng ở ý nghĩa khái quát. Tuy nhiên, một số tác giả,
tuy không phải là không ý thức về chuẩn phong cách, nhưng đôi khi do
“cảm hứng” quá mạnh mà đưa các từ ngữ đời sống vào bản thảo (bởi ngôn
ngữ đời sống luôn có khả năng diễn đạt cảm hứng tốt nhất!). Do đó, trong
bản thảo có những chỗ không đảm bảo các yêu cầu về phong cách, biên tập
viên buộc phải điều chỉnh.
Ví dụ: “Chúng ta cũng cần đề phòng âm mưu gây diễn biến hoà bình
của bọn xấu ngoài nước, trong nước bằng cách đưa các sách báo ru ngủ, đồi
trụy, nói chung là phản động vào thị trường sách báo nước ta” (bản thảo
cuốn Giáo trình Lý luận văn hoá và đường lối văn hoá của Đảng, tr. 51)
và “Không thể có sự công bằng chia đều nhưng phải điều tiết và tạo điều
kiện cho mọi người có thể sống được và ngày càng một khá hơn” (bản thảo
4
Tập bài giảng Chính trị học, tr. 404-405)...*
Các từ “bọn xấu”, “nói chung là”, “có thể sống được” viết ở dạng
văn nói, đọc lên nghe rất nôm na, thể hiện sắc thái tình cảm, không còn
khách quan, trung hòa nữa, nên không phù hợp với một văn bản nghiên cứu
khoa học. Trong khi những câu đó có thể diễn đạt gọn gàng, ví dụ: “Tuy
nhiên cũng cần đề phòng âm mưu “diễn biến hoà bình” của một số thế lực
thù địch trong và ngoài nước. Bảo vệ chủ quyền văn hoá là một nhiệm vụ
chính trị của các cấp, các ngành”.
Để đảm bảo tính chính xác và khách quan, từ ngữ của phong cách
khoa học chỉ được phép hiểu một nghĩa và là nghĩa đen. Vì thế các trường
hợp sử dụng từ có tính chất tu từ, hình tượng, bóng bẩy, dễ khiến người
khác suy luận theo nhiều cách thì biên tập viên phải “canh gác” thật chặt
chẽ.
Ví dụ: “Nếu mỗi cán bộ, đảng viên, còn xem văn hóa là thuần túy
phục vụ chính trị theo kiểu ôsin thì sẽ chẳng bao giờ phát huy được động
lực của văn hoá”.
Từ ôsin là một từ lóng, dùng phổ biến trong ngôn ngữ hằng ngày với
sắc thái biểu cảm mạnh. Có thể tác giả muốn nhấn mạnh, phê phán lối tư
duy lỗi thời coi văn hoá nhất nhất phục vụ chính trị nên cho rằng phải dùng
lối so sánh với ôsin thì mới diễn đạt được hết ý của mình, tuy nhiên lối so
sánh cũng như dùng từ này là không chấp nhận được trong một văn bản
khoa học.
Hơn nữa, từ ôsin không phải là từ mang một nghĩa đen chính xác trong
ngôn ngữ Việt.
Tác giả chỉ cần diễn đạt: “Nếu mỗi cán bộ, đảng viên, còn xem văn
hoá là thuần tuý phục vụ chính trị thì sẽ chẳng bao giờ phát huy được động
* Những ví dụ lỗi về câu, chữ trong tổng quan này được trích dẫn từ các bản thảo giáo
trình của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh được Nhà xuất bản Lý luận chính trị
xuất bản, tất cả đã được sửa chữa trước khi in thành sách.
5
lực của văn hoá” là đủ.
- Về cú pháp, khi làm việc với một văn bản cụ thể, biên tập viên cần
nắm vững những tiêu chuẩn cơ bản quyết định một câu văn là tốt, mẫu
mực, để có cái nhìn bao quát, có hệ thống, từ đó dễ xác định được phương
hướng đúng đắn trong việc rèn luyện kỹ năng tri giác văn bản và biên tập
văn bản nói chung.
Một câu văn phong cách khoa học tốt phải đảm bảo được tính chính
xác. Tính chính xác của câu văn trong giáo trình lý luận chính trị thường
được dùng để chỉ sự phù hợp hoàn toàn của các phương tiện ngôn ngữ
thuộc lĩnh vực chính trị, tư tưởng với những vấn đề khoa học vốn được
diễn đạt bằng những phương tiện đó. Những phương tiện ngôn ngữ được
coi là chính xác phải phản ánh thực tế được một cách sát đúng nhất, đồng
thời cũng phản ánh được chủ quan của người nói một cách thích hợp nhất.
Để biên tập được chính xác, cần rèn luyện để hiểu biết ngôn ngữ, biết một
từ khi nào là phù hợp hay không phù hợp, và có khả năng đưa ra những sự
thay thế chính xác.
- Tính đúng đắn của câu văn khoa học là một tiêu chí nữa. Nghĩa là
các câu ấy cần tuân thủ chuẩn mực của ngôn ngữ văn hoá hiện đại, đó là
các quy tắc về dùng từ, đặt câu, để từ đó cấu tạo đoạn mạch, kết cấu toàn
bộ văn bản... Lối diễn đạt cầu kỳ, rắc rối, cách trình bày mơ hồ, lỏng lẻo
cần phải khắc phục. Vì thế ở các văn bản này, không thể dùng những câu
văn bay bổng du dương, có nhịp điệu hoặc nhạc tính. Việc sính dùng những
câu chữ văn vẻ trong văn phong khoa học đôi khi người viết không kiểm
soát được chính ý của mình, như ở đoạn văn sau: “Điều đáng chú ý chỉ là ở
chỗ giai cấp cách mạng cần phải kết thúc giai đoạn đặc biệt đó cáng sớm
càng tốt. Ngay sau khi có chính quyền thì phải chuyển ngay sang những
hoạt động cải cách - có nghĩa là tiến hành cải tạo từ từ, dần dần, từng bước,
càng ít đập phá cái cũ bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu, nhưng “sự vật” vẫn
6
tiến lên phía trước, điều cảnh giác là ở chỗ, phải khắc phục sự lạm dụng
một cách quá đáng tinh thần cách mạng đến mức có những hành động vượt
khỏi giới hạn của nó trong thời kỳ mới” (bản thảo Giáo trình xã hội học
trong quản lý, tr. 335); hoặc: “Quan sát là phương pháp thu thập thông tin
trong một cuộc điều tra xã hội trong đó nhà nghiên cứu sử dụng các giác
quan hoặc các phương tiện kỹ thuật để tìm hiểu những vấn đề cần phải
quan tâm thông qua việc quan sát hiện tượng và hành vi xã hội của đối
tượng nghiên cứu trong quá trình diễn ra các sự kiện và hiện tượng thực tế”
(bản thảo Giáo trình Xã hội học trong quản lý, tr. 166).
- Hiện nay, khi các ngoại ngữ bắt đầu được dùng phổ biến ở Việt
Nam, đặc biệt là tiếng Anh, thực tế đã xảy ra tình trạng là văn Việt bị viết
theo lối Tây, đọc lên nghe trúc trắc, rườm rà, cũng là điều cần tránh. Ví dụ:
“Phỏng vấn không tiêu chuẩn hoá thường phải tiến hành bởi các nhà nghiên
cứu chuyên nghiệp” (bản thảo Giáo trình Xã hội học trong quản lý, tr.
165).
Phong cách khoa học, cụ thể là ở các giáo trình lý luận chính trị, điển
hình sử dụng các hình thức câu hoàn chỉnh, kết cấu chặt chẽ rõ ràng để đảm
bảo yêu cầu chính xác. Không dùng các câu giản lược thành phần, câu đảo
vị trí. Sử dụng nhiều câu ghép vì thích hợp cho việc trình bày các luận
điểm, phân tích chứng minh. Các cặp liên từ được dùng phổ biến giúp đạt
tính lôgíc.
Ví dụ: “Dân tộc Việt Nam là một nhưng bao gồm nhiều thành phần:
người Kinh và 54 dân tộc thiểu số anh em” (bản thảo Lý luận văn hoá và
đường lối văn hoá của Đảng, tr. 36).
Ở câu văn này, từ “nhưng” vốn được dùng để liên kết một ý mang
nghĩa tương phản, nên người đọc hoàn toàn có thể hiểu câu trên là: Dân tộc
Việt Nam tuy là một nhưng hoá ra lại phân tán, không thống nhất!
Điều nguy hiểm chết người của việc không dùng từ và cách diễn đạt
7
chính xác là ở chỗ ấy.
- Một lỗi về câu hết sức phổ biến mà rất nhiều bản thảo giáo trình mắc
phải đó là những câu thiếu thành phần chủ ngữ, và vì phổ biến quá đến nỗi
nhiều người không ý thức được như thế là sai. Trong biên tập chúng tôi có
thể thường xuyên bắt gặp.
Ví dụ: “Trong tổng thể phức hợp của các mối quan hệ giữa công tác
quản lý và hệ thống hoá các khoa học xã hội đã nổi lên vai trò của chuyên
ngành xã hội học quản lý” (bản thảo Giáo trình Xã hội học trong quản lý, tr.
315).
Câu văn này có thể sửa lại là: “Trong tổng thể phức hợp của các mối
quan hệ giữa công tác quản lý và hệ thống hoá các khoa học xã hội, vai
trò của chuyên ngành xã hội học quản lý đã trở nên nổi bật bởi tính cần
thiết của nó”.
- Việc nhiều câu thiếu thành phần này hay thành phần khác cũng do
câu văn trong phong cách khoa học lý luận chính trị thường dài, nhiều ý,
nhiều thành phần phụ khiến người viết đôi khi không kiểm soát hết sự trọn
vẹn của câu.
Ví dụ: “Nhìn sang lịch sử các nước trước đây cũng thấy muốn có độc
lập tự chủ và có phát triển thì phải có truyền thống yêu nước và yêu tiến bộ
xã hội lâu đời, phải có một mạch ngầm luôn luôn vận động bên dưới cuộc
sống như một nền tảng chỉ chờ cơ hội là bộc lộ và bùng nổ. Truyền thống ở
đây là sức mạnh tiềm tàng của sự chuẩn bị, là tiền đề của sự bùng nổ” (bản
thảo Giáo trình Lý luận văn hoá và đường lối văn hoá của Đảng, tr. 35);
hoặc: “Ngay từ xa xưa, những tư tưởng nhân đạo đã hình thành tự phát của
nhân dân lao động để trong cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột và chống
lại những hành vi vi phạm đạo đức” (bản thảo Giáo trình Đạo đức học
Mác-Lênin, tr. 167). Chưa kể đến nhiều lỗi khác mà câu này mắc phải, chỉ
cần đọc là thấy ngay do tác giả “mải mê” triển khai ý, câu này đã bị thiếu
8
mất vị ngữ.
- Tính chính xác, đúng đắn, khách quan, lôgíc, tất cả những yếu tố đó
sẽ làm nên tính thẩm mỹ của tác phẩm nghiên cứu khoa học. Không chỉ có
trong các ngôn ngữ nghệ thuật, phẩm chất thẩm mỹ có ở tất cả các phong
cách. Ngôn ngữ được sử dụng trong nhiều phong cách, mỗi phong cách có
nhiệm vụ riêng, do đó có tính thẩm mỹ riêng, có vẻ đẹp riêng, không lẫn
lộn với các phong cách khác. Một câu được coi là hay, đẹp là câu mà
những phương tiện ngôn ngữ được sử dụng một cách chính xác, đúng đắn
và hài hoà trong một chỉnh thể thống nhất về phong cách, do đó đạt được
hiệu quả ngôn ngữ cao nhất trong một hoàn cảnh ngôn ngữ nhất định.
Dưới đây là một đoạn văn đẹp: “Triết học hiện sinh coi sự tồn tại của
con người là tuyệt đối và duy nhất. Những người hiện sinh cho rằng thế
giới và các vấn đề của nó chỉ tồn tại khi nó chạm đến tôi, đến sự tồn tại của
tôi. Con người là kẻ cô đơn bị vứt bỏ giữa một thế giới xa lạ và thù địch với
nó, người hiện sinh gọi thế giới đó là “không phải tôi”. Con người tưởng đã
chinh phục thế giới xa lạ đó bằng khoa học kỹ thuật. Nhưng giờ đây, nó
kinh hoàng nhận ra rằng cái “không phải tôi” đã nổi dậy chống lại cái tôi.
Ý thức nghèo khốn của con người bị áp lực bên ngoài, cảm thấy tuyệt vọng
với thế giới bên ngoài, do đó toan ẩn trốn vào bên trong. Nhưng ngay ở
đây, con người cũng không tìm thấy sự yên tĩnh vì bên trong nó cũng trống
rỗng” (Giáo trình Triết học, Nxb. Lý luận chính trị, H. 2007, tr. 150).
- Trên cấp độ câu là cấp độ đoạn, một đoạn trình bày một ý riêng. Các
phương tiện liên kết như một là, hai là; trước hết, sau cùng…thường được
dùng để liên kết các đoạn. Trên cấp độ đoạn là mục, chương và toàn bộ văn
bản chỉnh thể. Ở các cấp độ từ đoạn văn trở lên, tính lôgíc là điều lưu tâm
số một, bởi các tính khác như tính chất khác đã được giải quyết ở cấp độ từ,
ngữ và câu. Tính lôgíc thế nào là tùy vào từng văn bản cụ thể.
Các tác giả viết sách có thể rất giỏi về ngôn ngữ, tuy nhiên không phải
9
bất cứ ở đâu, lúc nào họ cũng đảm bảo được những câu chữ viết ra là chuẩn
xác tuyệt đối, đó là lý do vì sao công tác xuất bản sách nói chung và xuất
bản giáo trình nói riêng cần đến những người biên tập. Các sách thuộc lĩnh
vực lý luận chính trị (trong đó có giáo trình) được viết theo phong cách
ngôn ngữ khoa học nói chung, nhưng vẫn có những đặc trưng riêng. Nắm
được các đặc trưng chung và riêng ấy của phong cách ngôn ngữ trong sách
lý luận chính trị, vận dụng được trong từng tình huống cụ thể, người biên
tập mới có thể đáp ứng tốt yêu cầu công việc. Trên hết, biên tập viên phải
có thái độ học tập và rèn luyện không ngừng.
1
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG GIÁO TRÌNH Ở
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
Nhà xuất bản Lý luận chính trị được thành lập ngày 1-11-2003 theo
Quyết định số 650/QĐ ngày 20-10-2003 của Giám đốc Học viện, là đơn vị
sự nghiệp có thu với các chức năng sau:
- Xuất bản sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu phục vụ giảng dạy và
học tập theo chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị thuộc các hệ
lớp của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Xuất bản các công trình nghiên cứu khoa học về chủ nghĩa Mác-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Xuất bản các công trình nghiên cứu khoa học lý luận chính trị, kỷ
yếu hội thảo khoa học mà Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và các
đơn vị thuộc Học viện là chủ đề tài.
Qua quá trình xuất bản, qua công việc thực tế từ kế hoạch đề tài, biên
tập nội dung, biên tập kỹ - mỹ thuật, in ấn và phát hành, chúng tôi tập trung
đề cập đến chất lượng giáo trình của Học viện do Nhà xuất bản Lý luận
chính trị ấn hành với các vấn đề chủ yếu sau:
1. Về nội dung khoa học
- Ưu điểm:
Về cơ bản, các bộ giáo trình của Học viện đảm bảo tính chính xác,
chặt chẽ của các đơn vị kiến thức. Kiến thức được tổng kết theo vấn đề hay
chuyên mục, sau đó được khái quát có tính quy luật. Nhờ vậy, học viên rèn
Nguyễn Văn Thắng
Nhà xuất bản Lý luận chính trị
2
luyện được về kỹ năng nhận thức.
Các bộ giáo trình đã đảm bảo tính cơ bản và tối thiểu (giáo trình dùng
để dạy và học), có sự mở rộng và chuyên sâu. Kiến thức đưa vào giáo trình
có tính thiết thực, hiện đại, chọn lọc hoặc nêu kiến giải mới.
- Nhược điểm:
Ở một số giáo trình, đôi chỗ cách trình bày còn chưa thống nhất; nội
dung kiến thức đôi chỗ còn bị trùng lặp. Đôi chỗ giải thích còn thiếu chính
xác. Vẫn còn hiện tượng chưa thống nhất về cách viết các ký hiệu, thuật ngữ
khoa học, tên các nhà bác học, nhân vật lịch sử, địa danh nước ngoài trong
sách cùng bộ môn, giữa các bộ môn, gây khó khăn trong việc tra cứu.
Những môn khoa học thường có sự thay đổi về các chỉ số (kinh tế,
chính trị, quan hệ quốc tế...) vẫn còn có số liệu chưa cập nhật, có giáo trình
còn để số liệu thống kê từ nhiều năm trước.
Một số giáo trình còn sai sót về kỹ thuật chế bản (thiếu dấu, sai số và
từ) những chưa được đính chính kịp thời.
2. Về chất lượng sư phạm, mỹ thuật
- Ưu điểm:
Hệ thống kiến thức ở nhiều cuốn giáo trình mang tính lôgíc cao, chặt
chẽ đã giúp học viên sau khi sử dụng có thể hệ thống hóa các kiến thức cơ
bản.
Nhìn chung, cấu trúc các bộ giáo trình là hợp lý; mỗi chương, mục,
phần được trình bày súc tích. Minh họa, biểu bảng, hình vẽ của một số giáo
trình hợp lý.
Tất cả các bìa giáo trình được in mầu, trình bày đẹp, trang nhã hợp lý.
Có nhiều bìa chững chạc, bề thế đã tạo ra phong cách đặc thù của Học viện
và thương hiệu của Nhà xuất bản. Bìa sách đã dần dần thể hiện được đặc
trưng của bộ môn, gây được ấn tượng cho người đọc, tạo ý thức trân trọng,
giữ gìn sách.
3
Ruột sách được in sáng sủa, rõ ràng, dung lượng chữ, cỡ chữ trong
một trang vừa phải nên dễ đọc.
- Nhược điểm:
Một số giáo trình còn nặng về cung cấp kiến thức, ít chú ý hướng dẫn
về phương pháp (phương pháp suy luận, tìm tòi, phát hiện và giải quyết vấn
đề). Một số cuốn giáo trình đôi chỗ ngôn ngữ chưa chuẩn xác, còn nặng tư
duy lý thuyết, còn có nhiều câu phức hợp, câu dài làm người đọc khó hiểu,
khó nhớ. Một số trích dẫn còn sai sót về số trang, tập, năm xuất bản v.v..
3. Chất lượng giáo trình qua điều tra thực tế
Trong năm học 2006-2007, Nhà xuất bản Lý luận chính trị đã gửi
phiếu điều tra để tìm hiểu nhu cầu thực tế của các học viên. Qua điều tra
bằng phiếu hỏi cho thấy:
* Câu hỏi 1: Xin ông (bà) vui lòng cho biết giáo trình do Nhà xuất bản
Lý luận chính trị xuất bản đạt được các tiêu chí nào (về nội dung khoa
học)?
Kết quả:
Với kết quả ý kiến đánh giá, chúng tôi thấy rằng đa số ý kiến đánh giá
cho thấy về nội dung khoa học, giáo trình do Nhà xuất bản Lý luận chính
trị xuất bản đã đáp ứng được nhu cầu của bạn đọc. Đặc biệt là có tới 49% ý
4
kiến đánh giá là khá. Song, cũng có tới 27% cho rằng nội dung khoa học
trong ấn phẩm của Nhà xuất bản chỉ đạt trung bình.
Từ kết quả trên có thể thấy, nội dung khoa học của giáo trình do
Nhà xuất bản Lý luận chính trị xuất bản còn phải được đổi mới. Kết quả
điều tra này chính là một căn cứ thực tiễn thuyết phục để Nhà xuất bản
kiến nghị Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trong quá trình điều
chỉnh nội dung, chương trình đào tạo cũng như việc biên soạn, tái bản hệ
thống giáo trình.
* Câu hỏi 2: Xin ông (bà) vui lòng cho biết giáo trình do Nhà xuất bản
Lý luận chính trị xuất bản về hình thức đạt được các tiêu chí nào?
Kết quả:
Qua sự đánh giá cho thấy lượng giáo trình đã xuất bản, về hình thức
ấn phẩm đã được bạn đọc đánh giá cao (tốt: 27% và khá: 55%).
Đây cũng là sự ghi nhận bước đầu việc Nhà xuất bản có sự đầu tư cho
vấn đề in ấn, làm bìa.
* Câu hỏi 3: Theo ông (bà) Nhà xuất bản Lý luận chính trị cần phải
chú trọng hơn nữa vào các nội dung cụ thể nào?
Kết quả:
5
Qua điều tra, số lượng độc giả yêu cầu cao về nội dung khoa học của
giáo trình chiếm tới 62%. Điều này cho thấy Nhà xuất bản cần phải chú
trọng hơn nữa về vấn đề này. Đây sẽ là vấn đề sống còn của các ấn phẩm.
Nó sẽ giúp thương hiệu của Nhà xuất bản Lý luận chính trị chiếm lĩnh được
thị trường độc giả ngày một nâng cao về trình độ.
Câu hỏi 4: Theo ông (bà) giá sách của Nhà xuất bản Lý luận chính trị
so với các nhà xuất bản khác như thế nào?
Kết quả:
Qua điều tra thực tế chúng ta có thể thấy giá sách của Nhà xuất bản là
phù hợp với nhu cầu của bạn đọc. Trong giai đoạn giá giấy công in tăng,
đây là sự đánh giá những cố gắng lớn về giá thành ấn phẩm của Nhà xuất
6
bản. Đây cũng là điều kiện để sách của Nhà xuất bản có thể chiếm lĩnh
được thị trường.
Nhu cầu giáo dục và đào tạo lý luận chính trị ngày một lớn trong xã
hội, trước hết, trong những cán bộ có trách nhiệm lãnh đạo, trong trí thức
và trong sinh viên - nay đã đạt tỷ lệ không nhỏ trong cơ cấu lực lượng xã
hội nước ta. So với trước đây, thậm chí nhu cầu này có mặt mở rộng hơn,
nhất là từ khi nước ta đổi mới, thực hiện chính sách kinh tế thị trường và
hội nhập, rất nhiều quan điểm cần được soi sáng bằng lập trường của chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, lập trường của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Nhu cầu là một thực tế và là thực tế khá bức xúc. Chúng ta nói nâng
cao dân trí, thì cái cốt lõi của nâng cao dân trí là từ giác độ nâng nhận thức
chính trị, lý luận, trước khi đi vào các hình thái cụ thể, lĩnh vực cụ thể. Cho
đến nay, rất nhiều vấn đề lý luận, chính trị ở ta còn bỏ ngỏ. Mở rộng phạm
vi xuất bản giáo trình lý luận chính trị nói riêng và sách chính trị, lý luận
nói chung chính là tăng cường cuộc đấu tranh tư tưởng, đấu tranh quan
điểm, đấu tranh đường lối hết sức thiết thân của công việc truyền bá tư
tưởng của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh.
1
MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ BIÊN TẬP PHẦN TRÍCH DẪN
TRONG GIÁO TRÌNH LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
D
Trong quá trình biên tập nội dung, đặc biệt là biên tập nội dung giáo
trình lý luận chính trị, chúng tôi thường gặp rất nhiều các loại câu trích dẫn.
Bởi vậy việc biên tập các câu trích dẫn là một phần trong biên tập nội dung.
Phần trích dẫn trong cuốn giáo trình có vai trò làm sáng tỏ thêm nội dung
mà công trình đề cập đến, vì vậy nó phải có độ chính xác cao. So với toàn
bộ việc biên tập nội dung giáo trình, công việc này tuy không lớn nhưng
mất nhiều thời gian, đòi hỏi người biên tập phải kiên trì, tỉ mỉ, chính xác.
Trong quá trình biên tập giáo trình cho các hệ lý luận chính trị, chúng
tôi thường hay gặp trích dẫn các tác phẩm kinh điển của C. Mác, Ph.
Ăngghen, Hồ Chí Minh và các văn kiện Đảng v.v.. Nhiệm vụ của người
biên tập là phải xác định đâu là đoạn trích, câu trích; phân tích các trích
dẫn; kiểm tra độ chính xác của trích dẫn và chỉ rõ đầy đủ nguồn trích dẫn.
Một là, xác định đoạn, câu trích dẫn.
Trong các giáo trình thường gặp các đoạn, các câu trích mà tác giả sử
dụng có những ý nghĩa khác nhau. Có trường hợp tác giả trích ý kiến của
các nhà khoa học, các nhà lãnh đạo có uy tín để làm chỗ dựa cho lý giải của
mình, để minh họa, củng cố hoặc để tăng thêm sức thuyết phục cho những
quan điểm mà tác giả nêu ra. Cũng có trường hợp tác giả trích những ý kiến
của người khác, đối lập với những ý kiến của mình để trao đổi, để tranh
luận, để bác bỏ và cuối cùng cũng là với mục đích chứng minh cho tính
chân thực trong quan điểm của mình.
Dương Văn Vinh
Nhà xuất bản Lý luận chính trị
2
Thực chất của các tài liệu trích dẫn cũng là một dạng đặc biệt của tài
liệu thực tế. Đó là các đoạn văn được trích nguyên văn trong một tác phẩm
nào đó của người khác theo mục đích của tác giả. Các câu trích thường
được để trong ngoặc kép hoặc được nêu vắn tắt có chú dẫn của tác giả.
Phần chú giải thường được đánh số hoặc đánh các dấu ký hiệu và được ghi
đầy đủ nguồn trích dẫn.
Hai là, phân tích các trích dẫn.
Khi biên tập, người biên tập cần phải phân tích xem đoạn trích đó có
thực sự giúp làm sáng tỏ hơn tư tưởng của tác giả hay không, qua các đoạn
trích có thấy được đầy đủ hơn quan điểm của chủ thể sáng tạo không.
Sự lạm dụng những đoạn trích dẫn chẳng những không làm rõ được lập
luận của tác giả mà ngược lại còn làm cho vấn đề thêm phức tạp và rối hơn,
người đọc không nắm bắt được chủ đề của tác phẩm. Bởi vì các đoạn trích
dẫn chỉ là minh họa cho ý kiến riêng của tác giả, nó không thể thay cho
lời của tác phẩm. Do đó, biên tập viên phải phân tích và chỉ để lại những
đoạn trích dẫn thực sự bổ ích, cắt bỏ những đoạn trích dài dòng, lan man.
Những đoạn trích dẫn thừa sẽ gây hạn chế cho tác phẩm và gây phản cảm
với độc giả.
Ba là, kiểm tra độ chính xác của các trích dẫn.
Khi biên tập, người biên tập cần chú ý đến tính chân thực của các trích
dẫn. Trong thực tế một số giáo trình, chúng tôi thường gặp hiện tượng "tam
sao thất bản". Do đó, việc biên tập trích dẫn thường mất nhiều công và phải
tuân thủ theo những bước sau:
+ Tìm tài liệu gốc: Tùy thuộc vào loại đề tài mà tài liệu gốc được xác
định khác nhau. Chẳng hạn, những vấn đề thuộc lĩnh vực chính trị tư
tưởng, đường lối quan điểm thì không thể trích dẫn từ những tài liệu tham
khảo, từ những tài liệu không chính thức. Có thể phân loại thành một số các
loại trích dẫn để tiện kiểm tra và qui về một số nguồn trích dẫn chính thức.
3
Các trích dẫn từ những tác phẩm của các nhà kinh điển mácxít: như
C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin, Hồ Chí Minh và các lãnh tụ Đảng thì
không thể trích từ các loại tài liệu tham khảo, từ những tác phẩm lẻ trên
báo, từ những bản dịch không chính thức. Ở nước ta đã xuất bản các bộ
sách của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
như:
- C. Mác và Ph. Ăngghen Tuyển tập;
- C. Mác và Ph. Ăngghen Toàn tập;
- V.I. Lênin Toàn tập;
- Hồ Chí Minh Tuyển tập;
- Hồ Chí Minh Toàn tập;
- Hồ Chí Minh Biên niên tiểu sử...
Đây là những bộ sách chuẩn được coi là tài liệu gốc cho những trích
dẫn của các nhà kinh điển. Bởi vậy, khi trích dẫn các tác giả thường lấy
nguồn trích dẫn từ các tài liệu này để đảm bảo sự chính xác, sự thống nhất
và giúp người đọc dễ dàng hơn nếu như muốn tìm hiểu căn nguyên của
những câu trích mà tác giả nêu ra trong tác phẩm của mình.
Đối với loại trích dẫn các văn kiện Đảng: Văn kiện được lấy làm
nguồn trích dẫn là văn bản chính thức của cơ quan công bố văn kiện. Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia là nơi được giao xuất bản những văn kiện này.
Ví dụ như bộ Văn kiện Đảng Toàn tập; Văn kiện các Đại hội của Đảng;
Văn kiện các Hội nghị Trung ương các khóa... đây có thể được coi là nguồn
tài liệu chính thức để sử dụng kiểm tra các câu trích dẫn về văn kiện Đảng.
Hiện nay, trên Website của Học viện cũng có 2 chương trình thử
nghiệm về sách điện tử (cuốn Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Văn kiện Đại hội X của Đảng) rất có ích để
sử dụng trong công việc tra cứu chính xác các trích dẫn.
Đối với các câu trích dẫn từ các sách tham khảo, cần phải có đầy đủ
4
những dữ liệu cho câu trích, phải là những tác phẩm, những bài viết đã
được chính thức công bố trong sách, báo, tạp chí và các phương tiện thông
tin đại chúng. Đối với các tác phẩm dịch cũng cần lưu ý về nguồn nguyên
bản gốc. Bản dịch phải trung thành với tư tưởng của tác giả, đồng thời phải
đảm bảo tính trong sáng trong văn phong của tiếng Việt.
+ Đối chiếu với bản gốc để kiểm tra độ chính xác của câu trích
Các câu trích cần phải đảm bảo độ chính xác so với bản gốc đã công
bố. Các đoạn trích phải đảm bảo để bạn đọc hiểu đúng tư tưởng tác giả bản
gốc. Câu trích không được tùy tiện cắt xén theo ý định chủ quan của người
viết. Trên thực tế, có đoạn trích khi kiểm tra về câu chữ thường bị sai sót
(có thể thừa câu, thiếu câu, sai lệch câu chữ, ngữ nghĩa...) và làm cho ý
nghĩa của nó bị sai lệch, làm bạn đọc hiểu không đúng, thậm chí trái ngược
với tư tưởng tác giả bản gốc.
Tác giả một giáo trình đã trích dẫn tác phẩm của V.I. Lênin, ví dụ
như: “... điều quan trọng nhất của mọi sự nghiên cứu khoa học là không
quên sự liên hệ lịch sử căn bản là nhận xét mỗi vấn đề theo quan điểm sau
đây:
Một hiện tượng nào đó xuất hiện trong lịch sử như thế nào, các giai
đoạn phát triển chính của nó là những gì và đứng trên quan điểm của sự
phát đó để xét xem hiện nay, hiện tượng đó đã trở nên như thế nào?”*.
Sau khi kiểm tra bản gốc V.I. Lênin Toàn tập, chúng tôi đã phát hiện
ra sự sai sót của tác giả và sửa lại theo bản gốc như sau:
“... điều quan trọng nhất của một sự nghiên cứu khoa học là không
nên quên mối liên hệ lịch sử căn bản; là nhận xét mỗi vấn đề theo quan
điểm sau đây: một hiện tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như thế
nào, hiện tượng đó đã trải qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào và
* Những ví dụ về trích dẫn được đề cập ở tổng quan này được trích từ các bản thảo giáo
trình ở Nhà xuất bản Lý luận chính trị, tất cả đã được sửa chữa trước khi in thành sách.
5
đứng trên quan điểm của sự phát triển đó để xét xem hiện nay nó đã trở
nên như thế nào?”.
Khi kiểm tra đối chiếu với bản gốc, nếu có sự sai lệch về câu chữ, ngữ
nghĩa, người biên tập cần phải sửa lại cho đúng bản gốc. Nguyên nhân của
sự sai lệch đó có thể là do tác giả hoặc thiếu bản gốc, hoặc sử dụng trí
nhớ... Thực tế việc biên tập các giáo trình nói riêng và các sách lý luận
chính trị nói chung cho thấy nếu không đối chiếu với bản gốc mà chỉ chữa
theo cách hành văn quen thuộc có thể dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng.
Ví dụ trong một cuốn giáo trình các tác giả đã trích dẫn từ Hồ Chí Minh
Biên niên tiểu sử, song trong chú thích câu trích lại được dẫn từ Hồ Chí
Minh Toàn tập.
Cũng có trường hợp tác giả mở rộng ý nghĩa của đoạn trích, gò ép câu
trích để thực hiện dụng ý của mình. Điều đó đã làm cho nội dung văn bản
không phù hợp, khi đó đoạn trích không những không mang lại lợi ích mà
còn làm hại đến nội dung tác phẩm. Trong trường hợp này biên tập viên
phải trao đổi lại với tác giả để sửa lại.
Ví dụ như có tác giả đã trích dẫn Hồ Chí Minh:
Năm 1960, trong Diễn văn kỷ niệm Quốc khánh 2-9, Người lại đưa ra
dự báo thiên tài: “Chúng ta gửi đến đồng bào miền Nam mối tình ruột thịt
và hứa với đồng bào rằng: Toàn dân đoàn kết nhất trí, bền bỉ đấu tranh, thì
chậm nhất 15 năm nữa Tổ quốc ta nhất định thống nhất, Bắc Nam nhất định
sum họp một nhà”. Người còn gạch dưới các chữ chậm nhất 15 năm nữa.
Đúng 15 năm sau, đại thắng 30-4-1975 đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng
chiến chống Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc,
chứng minh tính hiện thực của các tính toán chiến lược do Chủ tịch Hồ Chí
Minh vạch ra.
Và sau khi tra cứu văn bản gốc và trao đổi với tác giả, biên tập viên đã
sửa lại là:
6
Năm 1960, trong Diễn văn kỷ niệm Quốc khánh 2-9, Người khẳng
định: “Chúng ta gửi đến đồng bào miền Nam mối tình ruột thịt và hứa với
đồng bào rằng: Toàn dân đoàn kết nhất trí, bền bỉ đấu tranh, thì Tổ quốc
ta nhất định thống nhất, Bắc Nam nhất định sum họp một nhà”. Đúng 15
năm sau, đại thắng 30-4-1975 đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến
chống Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, chứng
minh tính hiện thực của các tính toán chiến lược do Chủ tịch Hồ Chí Minh
vạch ra.
Việc biên tập các câu trích dẫn là một việc khó, nhất là khi biên tập
các giáo trình lý luận chính trị, chúng ta sẽ gặp rất nhiều các câu trích của
các nhà kinh điển. Do đó, biên tập các loại hình này cần phải tích lũy kinh
nghiệm, biết cách sử dụng các công cụ tra cứu để chỉnh sửa lại những câu
trích còn chưa chuẩn xác, cắt bỏ bớt những câu trích rườm rà, chỉ đúng
nguồn trích dẫn để giúp cho bạn đọc dễ tra cứu.
Về biên tập các câu trích dẫn từ các tác phẩm kinh điển: Trong bản
thảo chúng ta thường hay gặp các câu trích mà tác giả chỉ nguồn chưa
chính xác, biên tập viên phải xác định lại nguồn cho chính xác thông qua
các công cụ tra cứu.
Các câu trích từ bộ C. Mác và Ph. Ăngghen Tuyển tập có thể chuyển
sang bộ Toàn tập bằng cách tra cứu xem trong bộ Tuyển tập, câu trích đó
thuộc tác phẩm nào, ở mục nào của tác phẩm đó, để từ đó có cơ sở tìm câu
trích trong bộ Toàn tập.
Ví dụ như:
Theo C.Mác: “Thuật ngữ xã hội công dân ra đời vào thế kỷ XVIII, khi
những quan hệ sở hữu đã thoát khỏi thể cộng đồng thời cổ và trung cổ. Xã
hội công dân, theo đúng nghĩa của nó, chỉ phát triển cùng giai cấp tư sản;
tuy nhiên danh từ ấy bao giờ cũng được dùng để chỉ tổ chức xã hội ra đời
trực tiếp từ sản xuất và thương nghiệp và trong bất cứ thời đại nào cũng là
7
cơ sở của nhà nước và còn là của kiến trúc thượng tầng tư tưởng nữa” (Hệ
tư tưởng Đức - C. Mác và Ph. Ăngghen: Tuyển tập, tập 1, tr. 362).
Sau khi tìm và chuyển đổi, chúng ta có đoạn trích:
Theo C. Mác: “Thuật ngữ xã hội công dân xuất hiện trong thế kỷ
XVIII khi những quan hệ sở hữu đã thoát khỏi thể cộng đồng cổ đại và
trung cổ. Xã hội công dân với tính cách là xã hội tư sản chỉ phát triển cùng
với giai cấp tư sản; tuy nhiên, tổ chức xã hội trực tiếp sinh ra từ sản xuất
và giao tiếp và trong mọi thời đại đều cấu thành cơ sở của nhà nước và của
kiến trúc thượng tầng tư tưởng, vẫn luôn luôn được gọi bằng danh từ đó”
(C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, tập 3, tr. 52).
Nếu câu trích chỉ sai số trang, sai tập hoặc không có số trang, có thể
căn cứ vào tên tác phẩm được tác giả nhắc đến trong bản thảo (nếu có),
hoặc căn cứ vào thời điểm mà câu trích đó được nhắc đến (nếu có).
Ví dụ như:
Trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của
nhà nước”, Ph. Ăngghen đã phân tích sâu sắc về vấn đề này và đi tới kết
luận: “Nhà nước là sản phẩm của một xã hội đã phát triển tới một giai
đoạn nhất định... xã hội đó đã bị phân thành những mặt đối lập không thể
điều hoà mà xã hội đó bất lực không sao loại bỏ được”.
Đoạn trích này khi kiểm tra qua tên tác phẩm đã tìm thấy ở C. Mác và
Ph. Ăngghen: Toàn tập, tập 3, tr. 252.
Trường hợp các căn cứ trên đều không có, chúng ta có thể căn cứ vào
vấn đề mà tác giả đề cập đến trong bản thảo để có thể sử dụng công cụ tra
cứu theo mục lục vấn đề. Ví dụ dùng bộ 2 tập mục lục vấn đề cho bộ C.
Mác và Ph. Ăngghen Tuyển tập. Đối với bộ C. Mác và Ph. Ăngghen Toàn
tập, do chưa có sách tra cứu theo mục lục vấn đề, chúng ta có thể dựa vào
bộ tra cứu bằng tiếng Nga, tiếng Đức. Tuy nhiên căn cứ này là rất khó, đòi
hỏi biên tập viên phải có kinh nghiệm và có trình độ ngoại ngữ. Riêng đối
8
với bộ sách V.I. Lênin Toàn tập thì có thể tra cứu theo cuốn tra cứu tập 2
(tra cứu theo mục lục vấn đề). Nhờ công cụ này chúng tôi phát hiện ra các
tác giả đã sai khi trích dẫn (ví dụ như trong cuốn Tập bài giảng Chính trị
học, tại trang 156 trích dẫn Lênin nói về giai cấp được trích từ tập 33, trang
9 trong Lênin Toàn tập. Song khi kiểm tra theo tập và kiểm tra theo vấn đề,
chúng tôi phát hiện ra câu trích này nằm ở tập 39, trang 17-18).
Đối với những câu trích của Hồ Chí Minh có thể sử dụng tra cứu bằng
đĩa CD-Hồ Chí Minh. Hiện nay trên Website của Đảng Cộng sản Việt Nam
đã đưa gần đầy đủ các tập của bộ C. Mác và Ph. Ăngghen Toàn tập; V.I.
Lênin Toàn tập và một số văn kiện Đại hội, các Hội nghị Trung ương...,
chúng tôi đã có thể tra trực tiếp hoặc tải về để tra cứu. Đây là công cụ tra
cứu nhanh và có hiệu quả nhất.
Đối với các trích dẫn từ văn kiện Đảng, nếu gặp những trường hợp
trong bản thảo nguồn câu trích không rõ ràng, chúng tôi thường căn cứ
vào thời gian để suy luận câu trích đó thuộc văn kiện đại hội nào, hoặc
căn cứ vào chủ đề đang bàn đến để suy luận câu trích thuộc văn kiện hội
nghị nào...
Đối với một số câu trích dẫn từ các bản dịch, cần lưu ý về cách phiên
âm tên tác giả và xác định nguồn. Nếu trong bản thảo, tên tác giả được
phiên âm, thì khi ghi chú thích cũng phải ghi cho thống nhất. Trong trường
hợp tên tác giả bản dịch được nêu trong bản thảo để nguyên gốc tiếng nước
ngoài, thì phần ghi chú thích cũng phải để nguyên.
Trong trường hợp đã áp dụng tất cả những biện pháp tìm kiếm tra cứu
mà không tìm thấy nguồn câu trích, biên tập viên có thể trao đổi với tác giả
để có thể gạch bỏ câu trích hoặc giữ lại ý của câu trích và phá ngoặc kép.
Ví dụ: chúng ta có 3 đoạn trích
- Lênin từng nói: “Hãy cho tôi một tổ chức những người cách mạng;
chúng tôi sẽ làm rung chuyển cả nước Nga” (V.I. Lênin: Toàn tập, tập 1,
9
tr. 559).
- Lênin đã có một quyết định cực kỳ quan trọng: “Hãy cho tôi một tổ
chức của những người cộng sản tôi sẽ đảo ngược nước Nga Sa hoàng”
(V.I. Lênin: Toàn tập, tập 11, tr. 359).
Hai câu trích trên không đúng vì số trang nội dung câu trích trong các
tập này nằm ở nội dung một vấn đề khác mà Lênin đề cập.
- Lênin đã từng nói: “Hãy cho tôi một tổ chức những người cách
mạng; chúng tôi sẽ làm đảo lộn của nước Nga” (V.I. Lênin: Toàn tập, tập
5, tr. 559).
Câu trích này cũng không đúng vì số trang nội dung câu trích trong
tập này nằm ở phần chú thích cuốn sách.
Bốn là, chỉ rõ nguồn (xuất xứ) của câu trích.
Sau khi đã phân tích, kiểm tra độ chính xác của câu trích, người biên
tập cần phải chỉ rõ nguồn của câu trích theo đúng qui định của đơn vị mình.
Có nhiều loại chú thích cho trích dẫn: chú thích cho một câu, chú
thích cho một đoạn, cho một bài, một tác phẩm, hoặc một tác giả.
- Trong trường hợp các câu trích là những câu trích từ các tác phẩm
kinh điển, cần phải lấy xuất xứ từ các bộ sách toàn tập đã được ban hành.
Nếu trong bản thảo tác giả không có nguồn từ các tài liệu gốc, người biên
tập có thể chuyển theo nguồn tài liệu gốc.
Ví dụ, khi trích C. Mác và Ph. Ăngghen, nếu các câu trích được trích
từ các tác phẩm riêng lẻ, từ Tuyển tập, người biên tập có thể thông qua các
công cụ tra cứu để có thể chuyển về bộ C. Mác và Ph. Ăngghen Toàn tập.
- Nếu câu và đoạn được trích dẫn trong bản thảo nằm trong một cuốn
sách thì lấy xuất xứ theo cuốn sách đó và theo bản in mới nhất.
Qui định về cách ghi nguồn trích dẫn có thể theo các cách thức khác
nhau, nhưng dù thế nào cũng phải đảm bảo đủ các yếu tố sau: Tên tác giả,
tên tác phẩm, tên nhà xuất bản, nơi xuất bản, năm xuất bản và số trang (có
10
những loại sách nhiều tập cần phải chỉ rõ ở tập nào). Đó là nội dung không
thể thiếu khi chỉ nguồn trích dẫn.
Tóm lại, việc biên tập các câu trích dẫn là một trong những công đoạn
khá quan trọng của quá trình biên tập bản thảo giáo trình. Biên tập viên cần
phải cẩn trọng và đảm bảo độ chính xác. Trong quá trình biên tập sẽ còn
nhiều những vấn đề phát sinh, vì vậy, cần đưa ra những quy định chuẩn cho
biên tập trích dẫn là rất quan trọng.
1
MỘT SỐ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ
SÁCH GIÁO KHOA, GIÁO TRÌNH
Nhà xuất bản Lý luận chính trị được thành lập ngày 1-11-2003 theo
Quyết định số 650/QĐ ngày 20-10-2003 của Giám đốc Học viện, là đơn vị
sự nghiệp có thu với các chức năng sau:
- Xuất bản sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu phục vụ giảng dạy và
học tập theo chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị thuộc các hệ
lớp của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Xuất bản các công trình nghiên cứu khoa học về chủ nghĩa Mác-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Xuất bản các công trình nghiên cứu khoa học lý luận chính trị, kỷ
yếu hội thảo khoa học mà Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và các
đơn vị thuộc Học viện là chủ đề tài.
Như vậy, một trong những chức năng cơ bản của Nhà xuất bản Lý
luận chính trị là tổ chức xuất bản sách giáo khoa, giáo trình phục vụ giảng
dạy và học tập cho các hệ lớp thuộc hệ thống Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh.
Bản thảo mà cán bộ, biên tập viên Nhà xuất bản thường xuyên tiếp
cận và xử lý hiện nay chủ yếu là các bản thảo thuộc giáo trình, giáo khoa
các môn học lý luận chính trị. Thao tác đầu tiên mà bất kỳ một cán bộ biên
tập nào khi tiếp cận cũng phải thực hiện là đưa ra các nhận xét đánh giá
tổng quát về bản thảo mà mình biên tập. Việc nhận xét đánh giá dựa trên
Vũ Tiến Hùng
Nhà xuất bản Lý luận chính trị
2
những tiêu chí nào, đây là vấn đề cần phải có nhận thức thống nhất. Đối
với bản thảo sách giáo khoa, giáo trình có thể có rất nhiều tiêu chí để đánh
giá.
Về cơ bản, chúng ta có thể chia các tiêu chí đánh giá ra thành mấy
loại sau đây:
- Tiêu chí về nội dung;
- Tiêu chí về phương pháp trình bày kiến thức;
- Tiêu chí về việc thực hiện các chức năng cơ bản của sách giáo khoa,
giáo trình.
- Tiêu chí về ngôn ngữ sách giáo khoa, giáo trình.
Mỗi loại tiêu chí trên lại bao gồm nhiều nội dung với các yêu cầu và
đòi hỏi khác nhau.
1. Tiêu chí về nội dung
Về nội dung, người ta thường xem xét đánh giá nội dung sách giáo
khoa, giáo trình theo mấy tiêu chí sau đây:
- Tính khoa học, chuẩn mực của sách giáo khoa, giáo trình;
- Tính cập nhật tri thức của sách;
- Tính sư phạm của sách;
- Tính thực tiễn Việt Nam của sách giáo khoa, giáo trình.
+ Tính khoa học, chuẩn mực đòi hỏi nội dung sách giáo khoa, giáo
trình phải thể hiện được nội dung tri thức khoa học mang tính chính thống,
chuẩn mực, nhất quán. Đối với sách giáo khoa, giáo trình lý luận chính trị,
tiêu chí này đòi hỏi nội dung sách phải phản ánh trung thành các quan
điểm tư tưởng chính trị của chủ nghĩa Mác-Lênin, quan điểm đường lối
chính sách của Đảng cũng như những nguyên lý lý luận đã được khẳng
định...
3
+ Tính cập nhật tri thức lý luận đòi hỏi nội dung sách giáo khoa, giáo
trình phải kế thừa những thành tựu nghiên cứu lý luận mới, tiếp cận kịp
thời những vấn đề lý luận mới của thời đại, những yêu cầu, đòi hỏi mới
của công tác tư tưởng lý luận hiện nay. Đồng thời tính cập nhật trong các
sách giáo trình, giáo khoa lý luận chính trị còn đòi hỏi phải có quan điểm,
thái độ rõ ràng, dứt khoát với những quan điểm lý luận sai trái, đả phá, phê
phán một cách nghiêm túc khách quan trên cơ sở các luận cứ khoa học với
sức thuyết phục cao...
+ Tính sư phạm của sách giáo khoa, giáo trình thể hiện ở việc bảo
đảm những yêu cầu về khoa học sư phạm như tính tương thích, vừa sức
phù hợp với trình độ, năng lực người học và yêu cầu phải đạt đến của bậc
học, cấp học; tính sư phạm đòi hỏi sách giáo khoa, giáo trình phải phù hợp
với đặc điểm tâm sinh lý người học. Ngoài ra tính sư phạm còn đòi hỏi
sách giáo khoa, giáo trình phải phù hợp với phương pháp giảng dạy và học
tập, môi trường giảng dạy, học tập, cách thức tổ chức nghiên cứu giảng
dạy và học tập của giảng viên và học viên...
+ Tính thực tiễn Việt Nam của sách giáo khoa, giáo trình thể hiện hai
phương diện:
Một là, phải phù hợp với thực tế đời sống xã hội Việt Nam, điều kiện
dạy và học của thày và trò và các phương tiện vật chất hỗ trợ giảng dạy
học tập khác...
Hai là, tính thực tiễn Việt Nam phải có quan hệ hữu cơ với tính hiện
đại. Mặc dù thực tế nước ta còn là nước nghèo, lạc hậu, chậm phát triển
nhưng không vì thế mà sách giáo khoa, giáo trình của ta lại lạc hậu mà
phải ngang tầm với giáo khoa, giáo trình của các nước phát triển. Đặc biệt
giáo trình, giáo khoa sách lý luận chính trị còn thể hiện tính chiến đấu, tính
vượt trội về tư tưởng lý luận bảo đảm yêu cầu của lý luận tiền phong, dẫn
đường, thể hiện đầy đủ nhất hệ tư tưởng tiên tiến của thời đại.
4
Những tiêu chí nội dung cụ thể trên phải được nghiên cứu, vận dụng
phù hợp khi xem xét, đánh giá chất lượng sách giáo khoa, giáo trình lý
luận chính trị.
2. Tiêu chí về phương pháp trình bày kiến thức
Về phương pháp trình bày kiến thức của sách giáo khoa, giáo trình
người ta thường đề cập đến các nội dung cụ thể sau đây:
- Hệ thống kiến thức được trình bày trong sách có nhất quán, lôgíc
chặt chẽ không;
- Phong cách thể hiện và cách diễn đạt có phù hợp không?
- Kết cấu nội dung có hợp lý không?
- Việc phân chia các phần, chương, mục, tiểu mục nội dung có thống
nhất không?
- Mối quan hệ và tính liên thông giữa các phần, chương, bài, mục,
tiểu mục?
Một trong những vấn đề quan trọng trong phương pháp trình bày sách
giáo khoa, giáo trình là nội dung của sách có được trình bày theo quan
điểm tích hợp hay không? Quan điểm tích hợp được nhìn nhận và hiểu trên
nhiều góc độ.
Ở đây, chúng tôi xin lưu ý đến ba điểm chủ yếu:
+ Một là tính hệ thống, chặt chẽ, nhất quán trong trình bày kiến thức;
+ Hai là phạm vi bao quát và tính khoa học, đầy đủ, tương thích của
nội dung. Điểm này với sách giáo khoa, giáo trình lý luận chính trị là rất
quan trọng, vì trên thực tế việc phân định giới hạn nội dung của mỗi môn
học rất khó khăn, khoảng giáp ranh, liên thông giữa các môn rất dễ bị lạm
dụng nên thường dẫn đến trùng lặp nội dung giữa các môn.
+ Ba là, phương pháp bộ môn. Mỗi môn học có phương pháp trình
5
bày kiến thức riêng, vì vậy cần chú ý đến đặc điểm, tính chất và sắc thái
riêng của từng môn học mà quyết định phương pháp trình bày kiến thức
của môn đó như thế nào.
3. Tiêu chí thực hiện các chức năng của sách giáo khoa, giáo trình
Bàn về chức năng của sách giáo khoa, giáo trình, người ta đưa ra các
chức năng chủ yếu sau đây:
- Giáo dục;
- Thông tin;
- Chỉ đạo và định hướng;
- Kích thích hứng thú học tập.
Đối với sách giáo khoa, giáo trình lý luận chính trị những chức năng
trên thể hiện rất rõ nét. Ở đây chúng tôi chỉ lưu ý đến một số điểm cần chú
ý khi đánh giá sách giáo khoa, giáo trình, đó là:
Chức năng thông tin của sách cần phải xem xét một cách toàn diện,
đầy đủ và cụ thể. Ngoại trừ thông tin về nội dung tri thức, một vấn đề ít
được quan tâm và quan tâm không đúng mức đối với sách giáo khoa, giáo
trình là các kênh chữ và kênh hình, phương tiện chuyển tải nội dung. Sử
dụng kênh chữ, kênh hình, cách trình bày minh hoạ ra sao là một nội dung
rất quan trọng góp phần thực hiện tốt nhất chức năng thông tin của sách.
Một vấn đề nữa cần lưu ý trong việc thực hiện chức năng kích thích
hứng thú học tập của giáo khoa, giáo trình là sách đã kích thích được tính
tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập chưa? Sách có gây được cảm
tình, ấn tượng với người học không? Sự hấp dẫn và khả năng kích thích
hứng thú của người học. Cần tránh tình trạng sách giáo khoa, giáo trình chỉ
đơn giản là “cái bồ chứa kiến thức”.
4. Tiêu chí về ngôn ngữ của sách giáo khoa, giáo trình
Tiêu chí ngôn ngữ của sách giáo khoa, giáo trình thường thể hiện ở
6
tính trong sáng, tính chuẩn mực và phong cách chức năng. Đối với sách
giáo khoa, giáo trình lý luận chính trị, tiêu chí ngôn ngữ còn đòi hỏi ở đặc
trưng văn phong lý luận chính trị, cách sử dụng ngôn từ, thuật ngữ, cách
thức diễn đạt... Những vấn đề này đã có những bài viết riêng, chúng tôi
không đi sâu mà chỉ nêu ra để khẳng định sử dụng ngôn ngữ trong sách
giáo khoa, giáo trình như thế nào là một tiêu chí quan trọng để đánh giá.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ung_dung_cong_nghe_thong_tin_trong_quan_ly_cac_nhiem_vu_nghien_cuu_kh_.pdf