97 trang
MỞ ĐẦU
Ở nước ta, trong cơ chế quản lý quan liêu, bao cấp trước đây, cạnh tranh thị trường được hiểu một cách méo mó. Suốt một thời gian dài chúng ta coi cạnh tranh thị trường là cá lớn nuốt cá bé và chỉ thấy mặt tiêu cực của nó. Thật ra cạnh tranh thị trường là cơ chế hai đầu. Một mặt, nó đẩy các Doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả đến chỗ phá sản, mặt khác, nó lại tạo môi trường tốt cho các doanh nghiệp nắm vững “luật chơi” phát triển. Vì thế đừng lấy làm lạ khi một ngày kia sẽ có những chủ Doanh nghiệp mà tên tuổi của họ ngời chói trong làng kinh doanh cho dù hôm nay ta còn chưa biết họ ở đâu. Và cũng một ngày kia, sẽ có những cơ sở bị tiêu vong cho dù những cơ sở này đã từng một thời cung cấp phần lớn các hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng cho xã hội. Đó cũng là lý do giải thích vì sao có người cho rằng thị trường và cạnh tranh là con dao hai lưỡi Thị trường với doanh nghiệp này là cái “nôi” nhưng với Doanh nghiệp kia lại là “ nghĩa địa”, và cạnh tranh, với doanh nghiệp này là động lực, là niềm phấn khích để phát triển, trong khi với Doanh nghiệp khác lại như một hành động tự sát, là con đường dẫn đến diệt vong.
Thực tế cho thấy, kể từ khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, nhiều Doanh nghiệp đã và đang khẳng định khả năng, vị trí của mình, đứng vững trong cơ chế mới và bắt đầu vươn lên. Bên cạnh đó, một số Doanh nghiệp khác do làm ăn kém hiệu quả đã phải sát nhập hoặc phá sản.
Là một Doanh nghiệp, công ty TNHH TM và xây dựng Thái Phương đã nhanh chóng thích ứng với cơ chế, từng bước tạo lập và dần nâng cao khả năng cạnh tranh của mình trên thương trường, sản phẩm của Công ty đã được nhiều người tiêu dùng chấp nhận. Tuy nhiên, do mức độ cạnh tranh của ngành sản xuất kinh doanh xây dựng và vật liệu xây dựng ngày càng gay gắt, công ty TNHH TM và xây dựng Thái Phương sẽ phải đối đầu với rất nhiều đối thủ cạnh tranh mạnh. Bởi vậy những gì đã đạt được của Công ty sẽ luôn luôn bị đe doạ trong tương lai. Do đó việc nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty TNHH TM và xây dựng Thái Phương là một tất yếu.
Qua thời gian thực tập tìm hiểu thực tế tại công ty TNHH TM và xây dựng Thái Phương, với tâm huyết của mình, em xin chọn và trình bày luận văn với đề tài: “Nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty TNHH thương mại và xây dựng Thái Phương trên thị trường ”, với hy vọng sẽ đóng góp phần nào vào sự phát triển của công ty trong thời gian tới.
BẢN LUẬN VĂN GỒM BA PHẦN CHÍNH
CHƯƠNG I : MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CẠNH TRANH VÀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP.
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY TNHH TM VÀ XÂY DỰNG THÁI PHƯƠNG.
CHƯƠNG III : MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY TNHH TM VÀ XÂY DỰNG THÁI PHƯƠNG.
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CẠNH TRANH
VÀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1.1. Một số quan điểm về cạnh tranh của doanh nghiệp
Cạnh tranh là quy luật kinh tế tất yếu khách quan tồn tại gắn liền với cơ chế thị trường. Nói đến cơ chế thị trường là nói đến cạnh tranh. Bất kỳ doanh nghiệp nào khi tham gia vào thị trường đều phải chấp nhận và tuân theo quy luật cạnh tranh. Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có thể đưa một doanh nghiệp đạt đến vị trí cao hơn trên thị trường nhưng cũng có thể dẫn doanh nghiệp đến con đường phá sản, diệt vong.
Khái niệm cạnh tranh đã được nhiều tác giả trình bày dưới nhiều góc độ khác nhau trong các giai đoạn phát triển của nền kinh tế xã hội.
Theo Marx: Cạnh tranh Tư bản chủ nghĩa là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch. Nghiên cứu về sản xuất Tư bản chủ nghĩa, Marx đã khẳng định rằng quy luật cơ bản của Chủ nghĩa tư bản là quy luật giá trị thặng dư. Marx cũng chỉ rõ nhiều quy luật khác của phương thức sản xuất này trong đó có quy luật cạnh tranh. Mác đã phát hiện ra quy luật cơ bản của cạnh tranh TBCN là quy luật điều chỉnh tỷ suất lợi nhuận giữa các ngành. Nếu ngành nào, lĩnh vực nào có tỷ suất lợi nhuận cao sẽ có nhiều người để ý và tham gia, ngược lại những ngành, lĩnh vực mà tỷ suất lợi nhuận thấp thì sẽ có sự thu hẹp về quy mô hoặc rút lui của các nhà đầu tư. Tuy nhiên, sự tham gia hay rút lui của các nhà đầu tư không dễ dàng một sớm, một chiều mà là một chiến lược lâu dài, đó không phải là sự “né tránh cạnh tranh”, nói cách khác, cạnh tranh là tất yếu.
Hai nhà kinh tế học của Mỹ là P.A.Samuelson và W.D.Nordhause trong cuốn Kinh tế học cho rằng: Cạnh tranh là sự kình địch giữa các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để giành lấy khách hàng hay thị trường.
Theo cuốn từ điển kinh doanh thì cạnh tranh trong kinh tế thị trường được định nghĩa là sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh nhằm tranh giành tài nguyên sản xuất cùng một loại hàng hoá về phía mình.
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam: Cạnh tranh trong kinh doanh là hoạt động ganh đua giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối bởi quan hệ cung cầu nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường có lợi nhất.
Từ các quan điểm khác nhau về cạnh tranh nêu trên, ta có thể hiểu một cách chung nhất về cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường: “ đó là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trong việc giành lấy một số nhân tố sản xuất hay khách hàng nhằm cải thiện và nâng cao vị thế của mình trên thị trường để đạt được những mục tiêu cụ thể như lợi nhuận, doanh số hay thị phần. Như vậy cạnh tranh đồng nghĩa với sự ganh đua giữa các doanh nghiệp.”
Xu thế toàn cầu hoá hiện nay gắn liền với quá trình mở cửa thị trường của các quốc gia. Vì vậy, cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường là khái niệm không chỉ được sử dụng trong phạm vi doanh nghiệp hay phạm vi ngành mà nó được sử dụng cho cả phạm vi quốc gia, khu vực liên quốc gia Như vậy cạnh tranh là một quy luật khách quan của nền sản xuất hàng hoá, là nội dung cơ chế vận động của thị trường. Sản xuất hàng hoá càng phát triển, hàng hoá bán ra càng nhiều, số lượng người cung ứng càng đông thì cạnh tranh ngày càng gay gắt. Kết quả cạnh tranh sẽ là sự loại bỏ những Doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả và sự tồn tại phát triển của các Doanh nghiệp làm ăn tốt. Đó là quy luật của sự phát triển, là cơ sở tiền đề cho sự thành công của mỗi quốc gia trong vấn đề thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế. Cạnh tranh là hiện tượng gắn liền với nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh chỉ xuất hiện dưới những tiền đề kinh tế và pháp lí cụ thể. Ngày nay có lẽ không ai còn hoài nghi về sự phát triển tất yếu của nền kinh tế thị trường ở nước ta và vì vậy cạnh tranh đã được nhìn nhận chung như là động lực phát triển nội tại của nền kinh tế thị trường.
1.1.2. Các loại hình cạnh tranh
Tuỳ theo từng tiêu thức mà người ta phân ra thành các loại hình cạnh tranh khác nhau.
1.1.2.1. Căn cứ vào mức độ, tính chất của cạnh tranh trên thị trường
a. Cạnh tranh hoàn hảo
Đây là hình thức cạnh tranh mà trên thị trường có nhiều người mua và người bán độc lập với nhau. Mỗi người đều có thể tự do gia nhập hay rút khỏi thị trường. Giao dịch bình thường của một người mua hay một người bán là quá nhỏ bé, không ảnh hưởng gì đến giá cả thị trường.
Doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo có thể bán tất cả sản lượng mà mình có thể sản xuất ra ở mức giá mà thị trường đang thịnh hành. Nếu doanh nghiệp đặt giá cao hơn giá thị trường thì doanh nghiệp sẽ không bán được sản phẩm do người tiêu dùng sẽ lựa chọn mua sản phẩm của những doanh nghiệp khác với mức giá rẻ hơn. Như vậy, doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo không có khả năng kiểm soát giá thị trường đối với sản phẩm của mình bán ra. Sản lượng của doanh nghiệp là nhỏ so với lượng cung của thị trường, vì thế doanh nghiệp không có ảnh hưởng đến tổng sản lượng hay giá cả trên thị trường.
b. Cạnh tranh không hoàn hảo
Là hình thức cạnh tranh trên thị trường mà ở đó một số nhà sản xuất có đủ sức mạnh và thế lực có thể chi phối được giá cả sản phẩm của mình hay tác động đến giá cả thị trường.
c. Cạnh tranh độc quyền
Đây là hình thức cạnh tranh trên thị trường mà ở đó các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau bằng việc bán những sản phẩm phân biệt đã được làm cho khác với sản phẩm của các doanh nghiệp khác. Sự khác nhau này có thể là về hình dáng, kích thước, chất lượng, nhãn mác Các sản phẩm do doanh nghiệp làm ra với các sản phẩm khác trên thị trường có thể thay thế cho nhau ở mức độ cao nhưng không phải là thay thế hoàn hảo. Nói cách khác, độ co giãn của cầu theo giá chéo trong cạnh tranh độc quyền là cao nhưng không phải là vô cùng. Trong rất nhiều trường hợp, người bán có thể buộc người mua chấp nhận mức giá mà mình đưa ra.
1.1.2.2. Căn cứ vào các chủ thể tham gia thị trường
a. Cạnh tranh giữa người bán và người mua
Là cuộc cạnh tranh diễn ra theo quy luật mua rẻ bán đắt. Người mua luôn mong muốn mua được sản phẩm thoả mãn nhu cầu của mình với mức giá rẻ nhất. Ngược lại, người bán luôn muốn bán được sản phẩm của mình với mức giá cao nhất có thể để thu về lợi nhuận lớn nhất. Sự cạnh tranh này được thực hiện thông qua quá trình thương lượng giữa người người mua và người bán để đi đến một mức giá thống nhất mà cả hai bên đều thoả mãn. Khi đó hành động mua bán sẽ được thực hiện ở mức giá cuối cùng này.
b. Cạnh tranh giữa người mua với nhau
Loại hình cạnh tranh này chỉ xảy ra trong trường hợp cung nhỏ hơn cầu. Khi lượng hàng hoá dịch vụ nào đó được cung ứng trên thị trường nhỏ hơn so với nhu cầu tiêu dùng thì chúng sẽ gây nên hiện tượng khan hiếm trên thị trường. Lúc này người mua sẵn sàng chấp nhận trả mức giá cao hơn để có được hàng hoá, dịch vụ mà mình cần. Điều này khiến cho giá cả của hàng hoá, dịch vụ đó không ngừng tăng lên. Kết quả là người bán sẽ thu được lợi nhuận tối đa còn người mua sẽ phải chịu thiệt hại.
c. Cạnh tranh giữa người bán với nhau
Là cuộc cạnh tranh chính trên thị trường. Đây là cuộc cạnh tranh mang tính chất gay go, khốc liệt nhất. Nó có ý nghĩa quyết định sống còn đối với doanh nghiệp. Tất cả các doanh nghiệp tham gia trên thị trường đều mong muốn thu hút được nhiều khách hàng hơn, chiếm lĩnh được thị phần của đối thủ. Muốn vậy họ phải cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Khi mà nền sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, số lượng người bán trên thị trường ngày càng nhiều thì cuộc cạnh tranh này ngày càng khốc liệt hơn. Những doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả, không có chiến lược cạnh tranh thích hợp sẽ bị đào thải ra khỏi thị trường. Ngược lại, doanh nghiệp nào có khả năng cạnh tranh hơn các đối thủ khác sẽ đứng vững và tiếp tục phát triển.
1.1.2.3. Căn cứ theo phạm vi ngành kinh tế
a. Cạnh tranh trong nội bộ ngành
Là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất một loại hàng hoá nhằm sản xuất và tiêu thụ hàng hoá có lợi nhất để thu được lợi nhuận siêu ngạch. Quá trình cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm cách để không ngừng cải tiến kỹ thuật công nghệ, nâng cao năng suất lao động nhằm giảm giá trị cá biệt của hàng hoá so với giá trị xã hội để giành được ưu thế trong cạnh tranh. Kết quả tất yếu của cạnh tranh trong nội bộ ngành là làm cho điều kiện sản xuất trung bình trong ngành đó thay đổi, giá trị xã hội của hàng hoá giảm xuống.
b. Cạnh tranh giữa các ngành
Là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ở các ngành sản xuất khác nhau nhằm tìm nơi đầu tư có lợi hơn. Các ngành sản xuất khác nhau sẽ có điều kiện sản xuất khác nhau và do đó tỷ suất lợi nhuận cũng khác nhau. Trong quá trình cạnh tranh các doanh nghiệp luôn bị hấp dẫn bởi những ngành mang lại lợi nhuận cao nên vốn đầu tư thường được chuyển từ ngành ít lợi nhuận sang ngành nhiều lợi nhuận. Sự chuyển dịch này vô hình chung hình thành nên sự phân phối vốn cũng như các yếu tố sản xuất hợp lý giữa các ngành, kết quả là hình thành nên tỷ suất lợi nhuận bình quân, tức là các chủ doanh nghiệp đầu tư một số vốn như nhau vào các ngành khác nhau thì lợi nhuận mà họ thu được là ngang nhau.
1.1.3. Các công cụ cạnh tranh
Trong quá trình cạnh tranh, các doanh nghiệp có thể sử dụng nhiều công cụ khác nhau để giành lấy phần thắng lợi. Một số công cụ mà doanh nghiệp thường dùng đó là: giá cả, chất lượng sản phẩm, dịch vụ bán hàng, hệ thống kênh phân phối và các hoạt động xúc tiến thương mại
1.1.3.1. Giá cả sản phẩm
Giá là một trong những công cụ quan trọng trong cạnh tranh, cạnh tranh bằng giá cả đồng nghĩa với việc kinh doanh với chi phí thấp để bán với mức giá hạ và thấp hơn so với đối thủ cạnh tranh.
Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá. Mặc dù giá trị là cơ sở của giá cả nhưng trên thị trường, giá cả luôn biến động lên xuống xoay quanh giá trị của hàng hoá. Trong kinh tế thị trường, giá cả là yếu tố rất nhạy cảm. Nó có thể thay đổi một cách nhanh chóng và do đó người ta có thể sử dụng nó như một công cụ để cạnh tranh.
Mức giá có vai trò cực kỳ quan trọng trong cạnh tranh. Nếu như chênh lệch về giá giữa doanh nghiệp và đối thủ cạnh tranh lớn hơn chênh lệch về giá trị sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh thì doanh nghiệp đã đem lại lợi ích cho người tiêu dùng lớn hơn so với đối thủ cạnh tranh. Điều đó tạo điều kiện cho sản phẩm của doanh nghiệp ngày càng có chỗ đứng trên thị trường và cũng có nghĩa là sản phẩm của doanh nghiệp có vị trí cạnh tranh ngày càng cao.
Có thể nói rằng, giá cả là công cụ cạnh tranh rất linh hoạt, được dùng phổ biến trong cạnh tranh nhưng không phải lúc nào cũng là công cụ hữu hiệu để giành chiến thắng. Do đó, doanh nghiệp cần phải căn cứ vào tập khách hàng mục tiêu của mình cũng như điều kiện thực tế trên thị trường để xây dựng chính sách giá hợp lý, trên cơ sở đó nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.1.3.2. Chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm là hệ thống các đặc tính bên trong của sản phẩm được xác định bằng các thông số có thể đo được và so sánh được. Phù hợp với những tiêu chuẩn kỹ thuật và thoả mãn được những nhu cầu nhất định của xã hội.
Việc cung cấp các sản phẩm có chất lượng cao sẽ tạo ra danh tiếng cho thương hiệu sản phẩm của công ty. Từ đó cho phép công ty đặt giá sản phẩm của mình cao hơn so với các sản phẩm cùng loại, tạo ra lợi nhuận lớn hơn. Việc nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ là lực hút để kéo khách hàng đến với sản phẩm của doanh nghiệp, từ đó tạo lập được lợi thế cạnh tranh trên thị trường. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường khi khách hàng có sự lựa chọn giữa các mặt hàng khác nhau của cùng một sản phẩm hàng hoá hay dịch vụ thì vấn đề sản phẩm càng trở nên quan trọng.
Tuy nhiên, để tăng chất lượng kết cấu của bất kỳ một sản phẩm nào cũng đòi hỏi phải tăng chi phí (C1). Điều đó khiến cho không ít doanh nghiệp ngại ngùng trước quyết định đầu tư vào chất lượng. Thực tế đã chứng minh rằng khi tăng chất lượng một sản phẩm cụ thể sẽ làm giảm đi những chi phí sản xuất tàng ẩn dưới các dạng:
- Giảm số khuyết tật, tăng tỷ lệ sản phẩm chấp nhận được (C2);
- Giảm tỷ lệ phế phẩm ở mức cao nhất (C3);
- Giảm chi phí kiểm tra (C4)
90 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2507 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty TNHH thương mại và xây dựng Thái Phương trên thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác hoạt động marketing được giao cho phòng kế hoạch thị trường thực hiện. Phòng này phối hợp với các phòng ban khác trong công tác nghiên cứu thị trường, thực hiện các đợt quảng cáo, tổ chức hội nghị khác hàng. Do đội ngũ nhân viên không được đào tạo chuyên ngành, cho nên đã có cố gắng nhưng chất lượng công tác chưa cao, điều này gây ra những khó khăn cho công ty trong việc sản xuất kinh doanh.
Mặt khác hoạt động tiếp thị quảng cáo không được tiến hành thường xuyên mà chỉ thực hiện theo định kỳ trong năm và các chi phí cho hoạt động này rất ít khoảng 0,02% tổng chi phí, công tác nghiên cứu đối thủ cạnh tranh của công ty chưa được thực sự quan tâm, đây là một hạn chế của công ty trong quá trình cạnh tranh.
Về kinh doanh quốc tế: tuy sản phẩm của công ty đã có uy tín trên thị trường trong nước, có khả năng xuất khẩu. Nhưng việc xuất khẩu sản phẩm ra nước ngoài của công ty trong những năm trước đây mới chỉ dừng lại ở việc giới thiệu sản phẩm...Đây là một hạn chế lớn mà công ty phải khắc phục trong thời gian tới.
2.4.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại
2.4.2.3.1. Nguyên nhân bên trong doanh nghiệp
Như đã trình bày ở trên, Công ty TNHH Thương mại và xây dựng Thái Phương là một doanh nghiệp có mức doanh thu tăng hàng năm ổn định nhưng chưa có nhiều cơ hội phát triển vì nhiều lí do: thiếu vốn, thiếu kinh phí, chất lượng lao động không cao, cán bộ thiếu tính năng động trong kinh doanh.
Kênh phân phối của công ty còn khá mỏng và sự quản lí nhân sự tại các đại lý các đơn vị bán hàng là không sát sao, gây ra nhiều tổn thất không kiểm soát được về con người và về hàng hoá sản phẩm
Điểm yếu nhất là công tác Marketing của công ty, hầu như không có một người nào trong công ty được đào tạo về lĩnh vực này và thường phải thuê người của các công ty khác làm.
2.4.2.3.2. Nguyên nhân thuộc môi trường kinh doanh
Chính sách tín dụng, thuế của nhà nước không được hợp lý đối với các công ty tư nhân, TNHH, quá nhiều ưu đãi cho các doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp liên doanh, gây cho công ty nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm và vay vốn để mở rông quy mô kinh doanh, thủ tục rườm rà, thế chấp quá lớn.
Việc kinh doanh của công ty cũng gặp rất nhiều khó khăn trong điều kiện biến động của thế giới hiện nay (tăng giá dầu, giá vật liệu… làm cho giá vật liệu đầu vào tăng cao…).
Chương 3
Một số biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty TNHH TM và xây dựng Thái phương
3.1. Mục tiêu và phương hướng phát triển của công ty TNHH TM và xây dựng Thái Phương trong thời gian tới
Trong suốt quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, công ty luôn đề ra những mục tiêu cụ thể làm cơ sở cho từng cá nhân, bộ phận cùng phấn đấu thực hiện vì mục tiêu chung của toàn công ty. Căn cứ vào chiến lược sản xuất kinh doanh của ngành trong công ty, các nguồn lực hiện có của công ty TNHH TM và xây dựng Thái Phương để tiến hành sản xuất kinh doanh cho kỳ tiếp theo.
Chủ trương của công ty TNHH TM và xây dựng Thái Phương là phát triển bền vững, phát triển bằng chính nội lực của mình, luôn phấn đấu giữ uy tín với khách hàng bằng chất lượng sản phẩm luôn được đảm bảo. Công ty luôn thực hiện đúng các chủ trương đường lối của Đảng và Nhà Nước cũng như các quy định của ngành thương mại và xây dựng.
Công ty TNHH TM và xây dựng Thái Phương luôn thực hiện quá trình tuyển dụng đào tạo, đãi ngộ nhân sự, hoàn thiện từng bước các chính sách chế độ đãi ngộ đối với các cán bộ công nhân viên. Chính sách đãi ngộ luôn được công ty quan tâm hàng đầu vì con người là yếu tố quan trọng nhất quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp. Muốn phát triển bền vững, ổn định thì công ty phải có một đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, gắn bó lâu dài với doanh nghiệp. Đội ngũ các nhà quản trị cần quan tâm đến đổi mới phương pháp làm việc nhằm nâng cao năng suất lao động. Từ đó tạo điều kiện nhằm nâng cao năng suất của công ty. Đây là một mục tiêu hàng đầu của bất kỳ doanh nghiệp nào tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh. Bởi vì chỉ có lợi nhuận mới đảm bảo sự tồn tại và phát triển bền vững của công ty.
Mục tiêu đến năm 2010 của công ty là trở thành công ty hàng đầu trong lĩnh vực thương mại và xây dựng trong nước, hoàn thiện cơ sở hạ tầng nhằm nâng cao năng suất cho công ty. Công ty cũng bắt tay vào hoàn thiện kênh phân phối và tiêu thụ sản phẩm nhằm đem lại hiệu quả tiêu thụ cao hơn và giảm chi phí về phân phối sản phẩm. Mở rộng hơn nữa thị phẩm ở các tình miền Nam. Mở rộng thị trường sản các nước láng giềng lân cận và tiến tới xuất khẩu sản phẩm ra thị trường quốc tế. Đẩy mạnh công tác Marketing sản phẩm. Xây dựng thương hiệu của hàng hóa của công ty ở nước ngoài. Dự tính trong từ năm 2005-2010, công ty TNHH TM và xây dựng Thái Phương sẽ nâng sản lượng. Đáp ứng được nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Chiến lược dài hạn của công ty đến năm 2010 là đầu tư để nâng cao chất lượng sản phẩm. Các kế hoạch đầu tư đến năm 2010 chủ yếu nhằm nâng cao trình độ kỹ thuật như hiện đại hóa các khâu của quá trình sản xuất, khâu nhà xưởng, hoàn thiện hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm. Bên cạnh đó, công ty cũng đầu tư nâng cao công tác thị trường, sử dụng các phương pháp thị trường hiện đại.
Một số chỉ tiêu năm 2010 là doanh thu đạt 120 tỷ đồng, thu nhập bình quân đạt 2.8 triệu đồng/người/tháng. So với mức tăng doanh thu hiện nay và những đầu tư trong giai đoạn tới, các chỉ tiêu trên đối với công ty là hoàn toàn có thể đạt được, có thể sẽ vượt chỉ tiêu do trong thời gian tới.
Mục tiêu mà công ty TNHH TM và xây dựng Thái Phương đặt ra trong năm 2006 là hoàn thành kế hoạch và cố gắng vượt kế hoạch là 20%, nâng thị phần của công ty lên 5%, so với năm 2005 doanh thu tăng 31% so với cùng kỳ năm ngoái.
Năm 2006 sẽ tiếp tục là năm kinh doanh tốt của công ty gặp tình hình tiêu thụ các tháng đầu năm là tốt, tăng so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, với sự đầu tư, quan tâm của ban lãnh đạo công ty, sự nỗ lực của các bộ phận trong công ty, hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty sẽ đạt được kết quả tốt hơn nữa trong các quý còn lại của năm.
Bên cạnh các mục tiêu về hiệu quả kinh tế, là một đơn vị trực thuộc Bộ thương mại và xây dựng, công ty cũng đưa ra các mục tiêu khác như: Xây dựng công ty TNHH TM và xây dựng Thái Phương vững mạnh đinh hướng XHCN, là đơn vị tiên tiến xuất sắc không chỉ trong lịnh vực sản xuất kinh doanh mà còn trong công tác khác như Công đoàn vững mạnh, Đảng bộ trong sạch vững mạnh, Đoàn thanh niên tiên tiến xuất sắc và các hoạt động khác.
3.2. Một số đề xuất nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty tnhh thương mại và xây dựng tháI phương
3.2.1. Đa dạng hoá sản phẩm :
3.2.1.1. Đa dạng hoá chủng loại sản phẩm:
Đối với công ty TNHH TM và xây dựng Thái phương việc đa dạng hoá sản phẩm chủ yếu thực hiện theo hướng tăng chủng loại sản phẩm. Việc đa dạng hoá sản phẩm Công ty có thể thực hiện theo các hướng sau đây:
* Thứ nhất đa dạng hoá chủng loại sản phẩm:
Kết hợp việc điều chỉnh cơ cấu sản phẩm, Công ty nên duy trì ở mức hạn chế những sản phẩm có tỷ suất lợi nhuận thấp, nhu cầu thị trường không nhiều.
Trước tình hình đó Công ty nên xem xét để tập trung mở rộng ( tăng sản lượng ) những sản phẩm sau:
- Với thiết bị đồ sứ vệ sinh thường sản lượng tiêu thụ năm 2005 vừa qua là 65 bộ, với giá bình quân là 2.200.000 đ/bộ. Trong năm 2006, Công ty nên tăng sản lượng loại này lên 90 bộ (tăng 38 %). Giả sử giá bán không đổi nhưng để tiêu thụ hết 90 bộ, Công ty nên dùng 3% số lãi để chi cho công tác khuyến mại, kích thích tiêu dùng. Khi đó, so với mức lãi từ thiết bị đồ sứ vệ sinh thường của năm 2005 thì năm 2006 sẽ tăng nên là:
DDL = (P0 - Z0 )* (Q1 - Q0) - 3% ( P0 - Z0 ) * Q1
= (P0 - Z0 )* (97% * Q1 - Q0)
Thay số : D DL= ( 2.200.000 - 20.500.000) * (0,97 * 90 - 65)
= 81.000.000(đ)
Vậy Công ty cần tăng sản lượng mặt hàng này.
- Với xi măng, đây là sản phẩm truyền thống vừa có ưu thế về tỷ trọng ( sản lượng lớn) và tỷ suất lợi nhuận cũng cao (chỉ sau thép). Năm 2005 sản lượng tiêu thụ của xi măng là: 1.817 tấn với giá bán bình quân là 12.000 đ/kg và giá thành là 11.500 đ/kg. Trong năm 2006, Công ty cần phấn đấu để tăng mặt hàng này lên 2.100 tấn (tăng 15,6% so với năm 2005). Giả sử Công ty giữ nguyên mức giá bán (Vì giảm giá sẽ gây khó khăn trong việc "đòi" lại mức giá cũ), giá thành không đổi nhưng cũng trích 3% lợi nhuận cho chi phí khuyến mại nhằm kích thích tiêu thụ hết 2100 tấn.
Với giả thiết đó, năm 2005 lợi nhuận tăng thêm từ mặt hàng xi măng so với năm 2004 là:
DDL = (P0 - Z0 )* (Q1 - Q0) - 3% ( P0 - Z0 ) * Q1
= (P0 - Z0 )* (97% * Q1 - Q0)
Thay số ta có:
DDL = (12.000 - 11.500) x (0,97 x 2.100.000 - 1.817.000)= 110.000.000 (đ)
Vậy việc tăng sản lượng xi măng là có lợi.
- Các sản phẩm khác tỷ suất lợi nhuận rất thấp ( sơn, gạch ...) và một số sản phẩm bị lỗ ( ống nước, vật liệu khác ....) Công ty nên duy trì để giữ lấy phần thị trường không nhỏ này, từng bước tìm biện pháp giảm giá thành thông qua việc nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm nguyên vật liệu...
- Với sản phẩm thép, Công ty nên sản xuất kinh doanh những loại sản phẩm thép mang nhãn hiệu đặc trưng của các loại công ty lớn hoặc các loại chủng loại thép khác nhau: C10, D20...
-Với sơn, Công ty hiện tại mới có hai chủng loại là sơn tổng hợp và lương khô. Tiến tới Công ty nên sản xuất thêm chủng loại sơn mới như: lương khô matix, sơn dầu;...
* Thứ hai: Đa dạng hoá bằng hình thức mẫu mã bao gói:
Bên cạnh đa dạng hoá chủng loại còn có đa dạng hoá do thay đổi kích cỡ và hình thức bao gói. Như vậy với mỗi chủng loại sản phẩm lại có thể đóng gói với nhiều loại bao gói có khối lượng khác nhau.
- Đối với đá xẻ Công ty chỉ cần thay đổi quy cách và mẫu mã sản phẩm cũng như bao gói là có thể nâng cao được khả năng cạnh tranh. Hiện tại loại đá xẻ này đang có kích cỡ rất to từ 11-12 cái / gói và có độ dày từ 5-6 mm. Với kích cỡ này không còn phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của thị trường hiện tại. Thị trường yêu cầu đá có kích cỡ nhỏ hơn, mỏng hơn và có độ cứng. Khuôn đá mới cần thay thế là khuôn có khoảng từ 19- 20 cái/1gói và độ dày của bánh từ 2-3 mm.
Mặt khác, khối lượng đóng gói của đá xẻ chưa được phong phú, chỉ có các loại: 20 kg, 25 kg, 30 kg, 40 kg. Công ty có thể tăng thêm một số loại có trọng lượng khác như: 10 kg, 15 kg, 35 kg, 33 kg, 45 kg, 50 kg... Như vậy sẽ đáp ứng nhu cầu phù hợp với cá gia đình có 1, 2, 3, 4, 5... người.
- Đối với sản phẩm sơn khô của công ty TNHH TM và xây dựng Thái Phương hiện được đóng gói là 20 kg, mỗi gói có 4 thanh, mỗi thanh là 5000 g. Khối lượng mỗi thanh là hơi lớn. Khuôn mới mà Công ty nên thay thế có khối lượng mỗi thanh là 25000 g. Công ty có thể đóng gói với những khối lượng khác nhau : 20kg( 8 thanh ); 15 kg (6 thanh); 10 kg ( 4 thanh); 25 kg ( 10 thanh); 30 kg( 12 thanh)....
- Với sơn tổng hợp và một số loại sơn khác, Công ty nên kinh doanh với sản lượng lớn hơn và nên đựng trong hộp ( hộp nhựa, hộp sắt), có như vậy mới tránh được hiện tượng đổ vỡ khi vận chuyển. * Thứ ba: Đa dạng hoá do tạo ra một số loại sản phẩm khác biệt.
Công ty nên đưa ra hộp sơn tổng hợp, đá xẻ tổng hợp có đựng nhiều loại sơn, đá khác nhau trong các ngăn khác nhau của cùng một hộp. Tuy nhiên kích cỡ và cách đóng gói những hộp sơn, đá xẻ tổng hợp này cũng phải hợp lý, trong mỗi hộp nên thiết kế nhiều ngăn, mỗi ngăn đựng một chủng loại sản phẩm .
3.2.1.2. Đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh .
Hiện tại công ty TNHH TM và xây dựng Thái phương đang sản xuất kinh doanh ba mặt hàng chủ yếu là : thép các loại, đá xẻ các loại và sơn. Theo giấy phép đăng ký kinh doanh được cấp thì Công ty còn được phép kinh doanh các sản phẩm khác như: vật tư nguyên liệu, xây dựng chuyên ngành. Nếu điều kiện năng lực cho phép Công ty nên tận dụng máy móc thiết bị để có thể sản xuất thêm sản phẩm sơn vào mùa hè.
Mặt khác, với năng lực hiện có về ngành xây dựng và vật liệu xây dựng, Công ty có thể xây dựng, sửa chữa thêm nhà cửa các loại vào thời điểm thị trường có nhu cầu cao như các dịp trước tết. Xây dựng mang tính thời vụ rõ rệt nên có thể tận dụng máy móc thiết bị hiện đại đa năng sẵn có của Công ty, vào thời điểm này Công ty có thể tăng khối lượng xây dựng các công trình. Để tận dụng đá xẻ còn có thể trở lại sản xuất mặt hàng gạch men. Vấn đề đặt ra là Công ty cần phải xác định nhu cầu của thị trường cần loại gạch men gì để tiến hành sản xuất. Với một Công ty sản xuất kinh doanh các mặt hàng vật liệu xây dựng công ty TNHH TM và xây dựng Thái Phương có thể sản xuất thêm mặt hàng gạch men và gạch ốp tường, vì loại gạch men và gạch ốp tường này thị trường Việt Nam đang có nhu cầu cao.
3.2.2. Nâng cao chất lượng sản phẩm.
Để quản lý chất lượng sản phẩm có hiệu quả thì công ty phải thực hiện các biện pháp sau:
+Giáo dục quy trình công nghệ, hiểu biết về chất lượng đến từng công nhân để họ nhận thấy được vai trò của mình trong bảo đảm chất lượng sản phẩm làm ra cũng như tầm quan trọng của nó đối với hiệu quả kinh doanh của công ty.
+Cung cấp thông tin về tình hình chất lượng, hàng tuần có tổng kết về tỷ lệ phế phẩm, chi phí về chất lượng, sau đó thông báo đến từng cán bộ công nhân viên để họ thấy rõ phế phẩm thường tập trung ở những khâu nào, chi phí chất lượng có ảnh hưởng như thế nào đến giá thành sản phẩm, lợi nhuận của đúng tiến độ để quá trình sản xuất diễn ra nhịp nhàng cân đối. Điều này góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm của mỗi cán bộ công nhân viên trong quá trình sản xuất.
+Tăng cường công tác quản lý nguyên vật liệu vì nguyên vật liệu là yếu tố chính cấu thành nên sản phẩm, chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào phần lớn vào chất lượng nguyên vật liệu. Chất lượng nguyên vật liệu phải được đảm bao ngay từ khâu thu mua, bảo quản và đưa vào quá trình sản xuất. Ngoài ra, công tác cung ứng nguyên vật liệu phải được đảm bảo.
Hiện nay, phần lớn nguyên vật liệu của công ty phải nhập ngoại nên công tác dự trữ nguyên vật liệu dùng cho sản xuất cần phải được coi trọng. Công ty có thể sử dụng mô hình dự trữ sau để thực hiện công tác dự trữ với chi phí thấp nhất.
Như chúng ta đã biết, chất lượng của sản phẩm được hình thành từ khi thiết kế sản phẩm cho đến khi sản xuất xong sản phẩm, tiêu thụ sản phẩm. Để nâng cao chất lượng sản phẩm cho công ty TNHH TM và xây dựng Thái phương, Công ty cần quan tâm đến việc nâng cao chất lượng ở các khâu sau:
3.2.2.1. Nâng cao chất lượng ở khâu thiết kế.
Muốn chất lượng khâu thiết kế sản phẩm đảm bảo thì các nhân viên kỹ thuật phải đưa ra được các chỉ tiêu, thông số dựa trên một số yêu cầu sau:
- Sản phẩm phải phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng.
- Thích hợp với khả năng của Công ty.
- Tối thiểu hoá chi phí.
- Đảm bảo tính cạnh tranh.
Công tác thiết kế phải bám sát tình hình thực tế để có thể điều chỉnh những hạn chế của sản phẩm hiện có bằng cách điều chỉnh những chỉ tiêu, thông số kỹ thuật, quy trình sản xuất.
- Đối với sản phẩm sơn, Công ty nên tăng thêm hàm lượng chất phụ gia, dầu giảm bớt độ đặc tăng độ kết dính cao, khai thác thêm một số nguyên liệu mới thơm, mát, tạo sự đặc trưng cho sản phẩm sơn của công ty TNHH TM và xây dựng Thái phương. Tận dụng nguyên liệu sẵn có trong nước giá thành hạ ....
- Đối với đá xẻ cần được thiết kế lại có kích thước nhỏ hơn, mỏng hơn. Về công thức pha trộn cần tăng thêm nguyên liệu, lượng..
- Đối với sản phẩm là gạch men, mặc dù bao gói đẹp và hấp dẫn nhưng hình dáng viên gạch còn quá xấu, không có tính thẩm mỹ. Để viên gạch sản xuất ra vuông hơn, có góc cạnh thì Công ty nên thiết kế một hệ thống thiết bị làm nguội nhanh sau công đoạn cắt. Gạch sau khi được cắt đi qua bộ phận làm nguội sẽ trở nên cứng hơn và không bị biến dạng ở công đoạn khác
Với những cải tiến trong khâu thiết kế, sản phẩm của công ty TNHH TM và xây dựng Thái phương chắc chắn sẽ từng bước được nâng cao và có thể theo đuổi được sự phát triển nhu cầu của thị trường ...
3.2.2.2. Nâng cao chất lượng ở khâu cung ứng.
Để có thể tiến hành sản xuất, ngoài con người, máy móc thiết bị, một yếu tố không thể thiếu được là nguyên vật liệu. Nguyên vật liệu là yếu tố cấu thành nên thực thể sản phẩm. Chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào chất lượng của nguyên vật liệu. Vì vậy để đảm bảo chất lượng sản phẩm thì chất lượng khâu cung ứng nguyên liệu cung phải đảm bảo. Công tác cung ứng nguyên vật liệu không những phải đảm bảo chất lượng cao mà còn phải đảm bảo đúng tiến độ và sự đồng bộ. Nguyên vật liệu dùng cho sản xuất là Công ty phải mua ngoài nên công tác dự trữ nguyên vật liệu là một vịêc cần thiết. Đặc điểm của nguyên vật liệu này rất dễ hư hỏng do ẩm mốc, oxi hoá, giảm phẩm cấp chất lượng, do đó công ty cần tính toán chu kỳ mua sắm sao cho trong thời gian dự trữ nguyên liệu không bị hư hỏng và chi phí dự trữ thu mua là nhỏ nhất. Muốn đảm bảo được chất lượng ở khâu cung ứng thì Công ty cần chú ý một số nội dung sau:
- Chọn nhà cung ứng có đủ khả năng đáp ứng được các yêu cầu về chất lượng nguyên vật liệu, sản phẩm
- Cần quan tâm đến việc nâng cấp hệ thống kho tàng, chống ẩm... để đảm bảo nguyên vật liệu không bị giảm chất lượng.
- Dựa vào tỷ lệ định mức và kế hoạch sản xuất, Công ty lập phương án dự án trữ đồng bộ và đảm bảo về số lượng. Tránh tình trạng như hiện nay, có một số nguyên vật liệu nhập từ nước ngoài, do điều kiện về khoảng cách, vận chuyển chủ yếu bằng đường biển nên nhiều khi do sự cố thời tiết mà nhập hàng không đúng như dự kiến, gây gián đoạn trong sản xuất.
- Kiểm tra nguyên vật liệu trước khi nhập kho và sau khi xuất kho.
- Giao trách nhiệm cho bộ phận quản lý vật tư, nguyên vật liệu phải giao đúng, đủ và giao kịp thời cho nhu cầu sản xuất.
Làm tốt công tác cung ứng các yếu tố đầu vào sẽ tạo điều kiện cho khâu sản xuất thực hiện đúng các yêu cầu thiết kế đặt ra và đúng tiến độ kế hoạch.
3.2.2.3. Nâng cao chất lượng ở khâu sản xuất.
Quá trình chế tạo sản phẩm. Đây là quá trình dễ hư hỏng nhất, bởi vì quy trình sản xuất bao gồm nhiều công đoạn, chỉ cần một sơ suất nhỏ trong bất kỳ một công đoạn nào cũng ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Cán bộ kỹ thuật cần theo dõi những khâu then chốt dễ gây hư hỏng như pha trộn nguyên vật liệu, cắt gạch, gia công nhằm giảm tỷ lệ bị hỏng vỡ, để giảm tỷ lệ sản phẩm do tỷ lệ pha trộn không đúng, giảm tỷ lệ gạch vỡ, dẹt, bị méo do khâu cắt và bao gói.
Như vậy, thực chất của các hoạt động nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm ở giai đoạn này là công tác quản lý chất lượng để sản phẩm được sản xuất phù hợp với tiêu chuẩn thiết kế.
3.2.3. Nâng cao hiệu quả việc tổ chức quản lý và đào tạo nhân sự
Để thực hiện được các công tác quản lý chất lượng, Công ty cần đưa ra một số biện pháp sau:
- Trước hết phải giải quyết tốt các khâu cung ứng. Các nguyên liệu cần cho sản xuất phải được cung cấp đúng số lượng, chủng loại, đảm bảo về chất lượng và cung cấp kịp thời.
- Phân công trách nhiệm rõ ràng, không chồng chéo nhau, tránh tình trạng như hiện nay, việc kiểm tra chưa nghiêm khắc, trách nhiệm không rõ ràng dẫn đến chưa biết ai gây ra, bộ phận nào phải chịu và như vậy mọi người không đặt trách nhiệm vào mình.
- Giao quyền cho cán bộ quản lý chất lượng thực hiện theo dõi kiểm tra các thông số kỹ thuật có liên quan ở mỗi khâu, trên cơ sở đó đưa ra các dự kiến về sự cố có thể xảy ra ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm và từ đó có biện pháp xử lý đúng đắn kịp thời, khắc phục tình trạng xử lý bị động như hiện nay.
- Đối với những ai do thiếu ý thức trách nhiệm gây ra sự cố kỹ thuật, ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, làm tăng chi phí sửa chữa. Công ty cần có biện pháp xử lý thích đáng để khuyên răn mọi người có ý thức trách nhiệm hơn. Vấn đề này công ty TNHH TM và xây dựng Thái Phương còn chưa đưa ra biện pháp cứng rắn, thậm chí còn quá nhẹ tay trong xử lý vi phạm nên trong những năm qua Công ty gặp nhiều sự cố trong sản xuất, làm tăng chi phí... Bảng phụ lục 2 là bản kiến nghị về quy định xử lý vi phạm đối với những ai thiếu ý thức trách nhiệm trong công tác.
*Tăng cường công tác tổ chức quản lý
Công tác tổ chức quản lý là một trong những nhân tố quan trọng góp phần vào sự thành công của một doanh nghiệp, khi một tổ chức có được một mô hình quản lý phù hợp thì mọi hoạt động trong tổ chức sẽ ăn khớp với nhau tạo ra một sự thống nhất trong tổ chức đó là một điều kiện thuận lợi giúp cho một tổ chức đạt được mục tiêu của mình và có được những phương án để đối phó với những thay đổi của môi trường bên ngoài từ đó tìm ra phương hướng phát triển thích hợp cho tổ chức.
Mặt khác, nói chung trình độ quản lý các doanh nghiệp ở nước ta là còn rất yếu, chưa qua đào tạo nghiệp vụ quản lý một cách chuyên sâu, họ thường quản lý thông qua kinh nghiệm tích lũy được sau nhiều năm công tác. Hơn nữa tác phong lề lối theo kiều cũ vẫn còn. Do đó cần phải có sự đào tạo nhân sự và đổi mới trong công tác tổ chức quản lý tạo ra một cơ cấu gọn nhẹ làm việc có hiệu quả đáp ứng với sự biến đổi phức tạp với môi trường hiện nay, đào tạo, nâng cao trình độ cho cán bộ nghiệp vụ, công ty nên tổ chức các lớp học trong theo khu vực cán bộ, nhân viên. Thực hiện các chương trình đào tạo nghiệp vụ ngắn, trung và dài hạn đồng thời phân loại chương trình theo kinh nghiệm công tác để đào tạo quản lý kinh doanh cho cán bộ chủ chốt. Công ty nên tổ chức và duy trì các lớp đào tạo kiến thức bổ trợ như: ngoại ngữ, tin học cho nhân viên. Ngoài ra luôn chú trọng đến công tác tuyển chọn đào tạo nguồn nhân lực mới của công ty cũng như các chính sách đã ngộ nhân sự sao cho thoả đáng thích hợp.
3.2.4. Xây dựng chính sách giá cả hợp lý.
Mức giá hợp lý phải được tính toán trên cơ sở giá cả thị trường, thu nhập của người tiêu dùng và chi phí sản xuất của công ty. Sản phẩm thông thường chia gói, hộp nhỏ, giá thấp dễ tiêu thụ ở miền núi và nông thôn. Sản phẩm cao cấp, bao bì đẹp, giá cao tiêu thụ được ở thị trường thành thị. Không nên điều chỉnh giá cả theo thời vụ đối với sản phẩm vật liệu xây dựng vì như vậy sẽ gây tâm lý so sánh với giá của sản phẩm cùng loại trên thị trường của người mua. Vì vậy, chính sách giá linh hoạt là lấy lãi của sản phẩm này bù lỗ cho sản phẩm kia, lãi của thời vụ này bù lỗ cho thời vụ khác mà tổng lợi nhuận kinh doanh không giảm, vẫn đảm bảo được yêu cầu ổn định và phát triển thị trường. Đồng thời Công ty cần có biện pháp kế hoạch để ổn định giá, lợi dụng lúc nhu cầu tăng đột biến, các tư thương thường tổ chức gom hàng, ôm hàng để hưởng chênh lệch giá.
Để giữ được giá thấp mà vẫn thu được lời đòi hỏi Công ty phải quan tâm nhiều đến quá trình sản xuất : Thực hiện đồng bộ các biện pháp nhằm giảm giá thành như việc tính toán mua bán vật tư, nguyên liệu thế nào để vừa đảm bảo nhu cầu sản xuất vừa không phải chịu tồn đọng gây ra thất thoát hoặc chịu lãi vốn. Đặc biệt là việc đề cao vai trò quản lý sản xuất, tiết kiệm vật tư nguyên liệu. Hiện nay, chi phí nguyên vật liệu trong giá thành khá cao (chiếm 60 - 75%), Công ty nên có biện pháp giảm chi phí này.
Đa dạng hoá sản phẩm cũng có nghĩa là đa dạng hoá giá bán. Các sản phẩm công ty TNHH TM và xây dựng Thái phương hiện nay được đa dạng hoá bằng cách cải tiến mẫu mã, thay đổi trọng lượng đóng gói, hình thức bao bì. Do vậy, việc định giá các sản phẩm sẽ tạo ra các khoảng cách giá hấp dẫn cho người mua. Chẳng hạn, sơn hộp 20 kg của công ty hiện bán với giá 140.000đ/ hộp, nếu đóng gói hộp 2 kg thì giá bán tương đương là: 20.000đ/ hộp nhưng có thể định giá 20.500đ/ hộp. Khoảng cách giá này có hai ưu thế:
- Thứ nhất là rất khó so sánh, vì người tiêu dùng họ không dùng máy tính để tính toán chính xác, mà đây là một cách tương đối làm lợi cho công ty TNHH TM và xây dựng Thái phương là: Với hộp 2 kg giá 20.500đ thì 10 hộp giá phải là 200.500đ. Công ty dược lợi: 200.500 – 140.000 = 60.500 đ. Ngược lại, hộp 20 kg bán với giá 140.000đ (giảm 60.500đ) người tiêu dùng cảm thấy có vẻ hợp lý vì họ được lợi nhiều hơn.
- Mặt khác, với gói nhỏ 2 kg sẽ có thể đáp ứng cho người có nhu cầu ít, phù hợp với túi tiền. Giá cũng không đắt mà phù hợp với nhu cầu thị trường
Vậy, đa dạng hoá giá bán không chỉ hấp dẫn với người mua mà còn đem lại lợi nhuận cho Công ty.
Các sản phẩm khác cũng nên áp dụng hình thức này nhằm khai thác tối đa các đoạn thị trường có mức thu nhập khác nhau.
Giảm giá thành sản phẩm.
Giá thành sản phẩm được cấu thành bởi chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công trực tiếp sản xuất và khấu hao TSCĐ hay còn gọi là chi phí TSCĐ và một số chi phí khác về nguyên vật liệu, điện nước phục vụ trực tiếp cho sản xuất.
Để giữ được giá bán thấp mà vẫn có lãi, công ty TNHH TM và xây dựng Thái phương cần áp dụng các biện pháp hạ giá thành sản phẩm.
Muốn hạ giá thành sản phẩm, Công ty cần áp dụng các biện pháp làm giảm chi phí về nguyên vật liệu, chi phí nhân công, chi phí TSCĐ... Ngoài ra cần có chính sách, cách tính giá thành hợp lý.
a. Giảm chi phí nguyên vật liệu.
Để giảm được chi phí nguyên vật liệu trong giá thành sản phẩm Công ty cần thực hiện tốt các công tác sau:
* Thứ nhất, tổ chức tốt công tác thu mua nguyên vật liệu.
Chi phí cho công tác thu mua bao gồm: lượng tiền trả cho nhà cung ứng (chi phí này bằng giá bán đơn vị nguyên vật liệu nhân với khối lượng hàng mua) và chi phí mua hàng (chi phí bỏ ra để thực hiện công tác mua hàng). Như vậy để giảm chi phí thu mua, Công ty cần thực hiện một số biện pháp sau:
- Tìm chọn người cung ứng có nhiều lợi thế về giá, chất lượng và sự ổn định... Vì thị trường trong và ngoài nước có nhiều nhà cung ứng nguyên vật liệu cho sản xuất đá xẻ và vật liệu xây dựng, Công ty hiện đang có ưu thế này.
- Đối với nguyên vật liệu trong nước, Công ty có thể thu mua tận gốc để giảm chi phí trung gian.
- Đối với nguyên vật liệu phải nhập ngoại, để tận dụng ưu đãi chiết giá, giảm giá cho mua với khối lượng nhiều, Công ty có thể kết hợp với các đối thủ hoặc các cơ quan khác thực hiện chung một đơn hàng.
- Với chi phí vận chuyển, để giảm chi phí này, Công ty có thể sử dụng phương tiện vận chuyển sẵn có, tạo thêm việc làm cho anh em lái xe của Công ty.
* Thứ hai, tối thiểu hoá chi phí bảo quản dự trữ nguyên vật liệu.
Để giảm chi phí cho công tác bảo quản dự trữ nguyên vật liệu, Công ty giao trách nhiệm cho phòng kế hoạch vật tư thực hiện một số biện pháp sau:
- Trưởng phòng kế hoạch vật tư giao trách nhiệm đồng thời giám sát thủ kho việc kiểm tra số lượng, chất lượng nguyên vật liệu trước khi nhập kho.
- Định kỳ 6 tháng lần một lần kiểm tra, nâng cấp hệ thống kho tàng, tăng cường các biện pháp chống ẩm, chống oxi hoá, hỏng vỡ gây hao hụt nguyên vật liệu trong kho, thực hiện công tác chống ẩm, bảo quản tốt chất lượng nguyên vật liệu, đồng thời có thể tăng được thời gian dự trữ nguyên vật liệu trong kho.
- Chất lượng nguyên vật liệu dùng cho sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng thường đảm bảo trong một thời gian nhất định. Do vậy Công ty nên áp dụng biện pháp xuất kho là: nhập trước xuất trước. Để tránh tình trạng bị quên do sắp xếp lộn xộn, các cán bộ quản lý kho, phải xếp riêng mỗi loại nguyên vật liệu theo đợt nhập và ghi rõ ngày tháng nhập kho từng lô hàng riêng.
- Do sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng mang tính thời vụ rõ rệt. Bởi vậy nhu cầu nguyên vật liệu dùng cho sản xuất cũng mang tính mùa vụ. Mặt khác chất lượng nguyên vật liệu dùng cho sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng chỉ đảm bảo trong giới hạn thời gian nhất định.
- Công ty cần buộc trách nhiệm cho nhân viên quản lý kho về những sự cố phải mất mát, lập kế hoạch cho họ về kiểm tra, kiểm kê, báo cáo tình hình nguyên vật liệu trong kho theo định kỳ có thể là 5 ngày, 1 tuần.
* Thứ ba, xây dựng định mức tiêu hao nguyên vật liệu
Sau đây là bảng định mức nguyên vật liệu cho sản phẩm đá xẻ và gạch men:
stt
nguyên vật liệu
đơn vị tính
khối lượng (số lượng)
độ khô
(%)
giá (đ)
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
Đá nguyên liệu
Gạch men nguyên liệu
Xăng
Đá mài
dầu
Hộp
Nhãn
Bìa lót
Băng dính
kg
kg
kg
kg
kg
cuộn
cái
cái
cuộn
569
388
30
3
4
3
320
70
15
97
93
100
100
100
-
-
-
-
5.800
4.200
225.000
20.000
135.000
5.000
5.000
7.000
Bảng 3.1 - Định mức nguyên vật liệu cho đá xẻ và gạch men
Chỉ tiêu cho phép: Độ ẩm (W): 3%; hao hụt (HH): 3,5%.
- Tổng khối lượng bao bì (Băng dính, bìa lót, hộp, nhãn) cho 1 tấn là: 40 kg
Vậy theo số liệu trên thì sản lượng có thể đạt được từ việc định mức sẽ là:
[(569 x 0.97 + 388 x 0.93 + 40 x 0.81 + 30 + 31 + 4) x] x + 40 = 1045 (kg)
Như vậy định mức còn quá cao so với thực tế tiêu dùng. Công ty nên giảm 2% (vẫn đảm bảo khối lượng sản phẩm đạt được là:
1.045 - 2% x 1.045 = 1.024 kg đối với các nguyên liệu chính, đá, gạch nguyên liệu, xăng, dầu, ). Khi đó định mức mới cho 5 loại nguyên vật liệu này là:
STT
Nguyên vật liệu
Đơn vị
Định mức cũ
Khối lượng giảm(kg)
Định mức lại
1
Đá nguyên liệu
Kg
569
11
558
2
Gạch nguyên liệu
Kg
388
7.5
380.5
3
Xăng
Kg
40
0.8
39.2
4
Dầu
Kg
30
0.6
29.4
5
Đá mài
Kg
3
0.6
3.4
Bảng 3.2 - Định mức sau khi điều chỉnh
Vậy chi phí nguyên vật liệu cho 1 tấn sản phẩm sẽ giảm được là:
11 x 5.800 + 7,5 x 4.200 + 0,8 x 17.000 + 0,6 x 5.000 + 0,6 x 200.000 = 231.900 (đ)
Trong 1 năm, ví dụ như năm 2005 sản lượng sản phẩm là 900 tấn thì chi phí nguyên vật liệu sẽ tiết kiệm được là:
231.900 x 900 = 208.710.000 (đ)
Và do đó sản phẩm từ lăi ít sẽ chuyển sang lãi nhiều hơn.
Ngoài ra để giảm chi phí nguyên vật liệu, Công ty có thể sử dụng nguyên vật liệu thay thế với giá rẻ hơn mà chất lượng sản phẩm vẫn đảm bảo.
Ví dụ như: Thay việc nhập sơn dầu từ Pháp với giá rất cao (200.000đ/kg) bằng việc dùng dầu trong nước với giá rẻ hơn nhiều (125.000đ/kg).
b. Giảm chi phí nhân công trong chi phí sản xuất sản phẩm.
Để giảm chi phí nhân công, Công ty có thể thực hiện một số biện pháp sau:
- Đối với lao động gián tiếp:
Hiện nay lao động gián tiếp trong Công ty còn chiếm tỷ lệ khá cao (khoảng 18 - 19%). Bộ phận quản lý còn quá cồng kềnh, hoạt động chưa hiệu quả. Để khắc phục tình trạng này, Công ty có thể thực hiện một số biện pháp :
+ Cho nghỉ chế độ đối với những người đã đủ tuổi.
+ Kết hợp với thành tích công tác, thực hiện chế độ thi tuyển định kỳ để đề bạt, xa thải hoặc chuyển xuống bộ phận sản xuất.
+ Thường xuyên có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý trẻ.
- Đối với lao động trực tiếp sản xuất :
+ Thực hiện định mức lao động đối với những công việc có tính chất khoán việc, một số các công việc khác như đóng gói thì nên khoán theo sản phẩm.
+ Nâng cao điều kiện làm việc như sửa sang nhà xưởng sạch sẽ thoáng mát, đổi mới công nghệ, thay đổi công cụ làm việc tiện lợi... từ đó sẽ làm tăng năng suất lao động nên Công ty có thể giảm định mức lao động.
+ Thực thi nghiêm ngặt nội quy lao động, tránh tình trạng công nhân đi muộn về sớm. Thực tế điều này Công ty chưa thực hiện được.
+ Các bộ phận phân xưởng phải lên kế hoạch lịch trình sản xuất cho các tổ đội, tránh tình trạng các bước làm việc trên dây truyền phải chờ đợi do không cân đối nhịp nhàng.
+ Giao trách nhiệm cho các phân xưởng tổ đội thực hiện việc chấm công chính xác rõ ràng.
+ Ngoài ra, khi tuyển dụng, Công ty phải đưa ra trước về chế độ sinh đẻ (hiện Công ty không quy định điều này), đó là ít nhất sau 3 năm công tác tại Công ty mới được sinh đẻ... đặc biệt cần phải khám sức khoẻ, kiểm tra năng lực tay nghề khi sơ tuyển và nêu một số các điều kiện, nội quy, quy chế để mọi người nghiêm chỉnh chấp hành.
c. Giảm chi phí cố định, chi phí điện nước.
* Các biện pháp giảm chi phí cố định
Chi phí cố định bao gồm chi phí sử dụng máy móc thiết bị (KHTSCĐ) và chi phí quản lý... Để giảm các chi phí này Công ty cần thực hiện một số biện pháp sau:
- Đối với chi phí cố định là khấu hao TSCĐ. Công ty có thể giảm chi phí này trong đơn vị sản phẩm bằng cách tăng khối lượng sản phẩm sản xuất ra và tìm biện pháp tiêu thụ với phương châm sản xuất đến đâu tiêu thụ hết đến đó. Mặt khác, với sự tiến bộ khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, ngoài hao mòn hữu hình, hao mòn vô hình ngày càng lớn. Do vậy, Công ty nên thực hiện khấu hao nhanh bằng cách tận dụng hết công suất làm việc và tăng ca sản xuất trong ngày.
Đối với những máy móc thiết bị không sử dụng hoặc không còn tiếp tục sản xuất được, Công ty nên tổ chức thanh lý để thu hồi giá trị còn lại, đầu tư vốn vào các thiết bị sản xuất có lợi khác.
Trong sản xuất, mọi công nhân phải có trách nhiệm về dây chuyền sản xuất của mình, phải thường xuyên kiểm tra bảo dưỡng máy móc thiết bị để tránh xẩy ra sửa chữa lớn làm tăng chi phí và ngừng trệ sản xuất.
Đối với chi phí cố định là chi phí gián tiếp, Công ty có thể giảm tỷ lệ chi phí này trong giá thành sản phẩm bằng cách giảm tỷ lệ lao động gián tiếp trong lực lượng lao động của Công ty. Điều đó có thể thực hiện được bằng cách :
+ Sát nhập hai tổ thành một tổ, như vậy Công ty hiện đang có 3 tổ sản xuất sau khi sát nhập chỉ còn 2 tổ. Trong 3 tổ trưởng, phòng tổ chức tiến hành chế độ thi tuyển hoặc bầu chọn để chọn lấy 2 tổ trưởng.
+ Với bộ máy quản lý hành chính, ngoài một số biện pháp đã nêu ở trên, Công ty có thể sa thải hoặc đưa xuống bộ phận sản xuất những cán bộ có năng lực kém thông qua bằng cấp và những vi phạm thực tế (ví dụ: vi pham nội quy kỷ luật, ý thức trách nhiệm trong công tác kém...)
*. Giảm chi phí nhiên liệu, điện nước
- Mặc dù chi phí về nhiên liệu điện nước chiếm một tỷ lệ nhỏ trong giá thành sản phẩm nhưng tiết kiệm chi phí này cũng sẽ làm lợi đáng kể.
- Chi phí cho điện sản xuất là khá lớn. Vì vậy để tiết kiệm điện, Công ty nên lắp các công tơ điện và giao định mức sử dụng điện trong sản xuất và điện phục vụ cho công cộng.
Chi phí nhiên liệu là than, xăng dầu, Công ty nên chọn mua than có chất lượng cao, nhiệt lượng lớn để tăng hiệu quả sử dụng. Bên cạnh đó cần trang bị các loại thiết bị sử dụng nhiên liệu đã lạc hậu, sử dụng tốn nhiên liệu, giữ nhiệt không cao.
- Nước dùng trong sản xuất tuy rẻ tiền nhưng Công ty cần phải tiết kiệm bằng cách cải tạo lại hệ thống dẫn nước tránh rò rỉ nước sạch ra ngoài, lắp đồng hồ đo nước cho các phân xưởng và giáo dục mọi người ý thức tiết kiệm nước sạch.
3.2.5. Nâng cao chất lượng công tác tiêu thụ hàng hoá
3.2.5.1. Tổ chức tốt công tác tiêu thụ
Công ty cần chú ý quan tâm tới việc cung cấp đủ hàng cho đại lý, đáp ứng kịp thời, đúng số lượng và chủng loại nhằm khai thác tối đa thị trường, không nên để khoảng trống thị trường. Khi có các thông tin đột biến về sản xuất hay giá cả cần thông tin kịp thời cho các đại lý hoặc thông tin rộng khắp cho cả người tiêu dùng. Ngược lại, Công ty cũng cần có các thông tin về tình hình tiêu thụ của đại lý: sản phẩm nào tiêu thụ mạnh, sản phẩm nào tiêu thụ kém, tồn đọng bao nhiêu, ý kiến phản ánh của người tiêu dùng... để có biện pháp điều chỉnh kịp thời. Duy trì thông tin hai chiều này bằng các phương tiện thông tin hiện đại như điện thoại, fax, thư tín... và tổ chức cho nhân viên trực tiếp xuống thị trường kiểm tra.
Trong thời gian tới, Công ty cần tiếp tục mở rộng đại lý và các địa điểm bán hàng - cửa hàng giới thiệu sản phẩm, nhất là thị trường thành thị có dân số đông, nhu cầu sản phẩm cao. Công ty nên có biện pháp mở thêm các điểm bán lẻ tại Hà Nội hoặc có chính sách khuyến khích các cửa hàng (hộ kinh doanh ) đến ký hợp đồng trực tiếp với Công ty . Để thực sự khuyến khích các cửa hàng bán lẻ tiêu thụ sản phẩm của mình công ty cần thực hiện một số biện pháp sau:
- Chiết khấu 10% mức lãi trong sản phẩm (không theo khối lượng) đối với khách hàng mới (có địa điểm kinh doanh) trong thời gian 6 tháng.
Biện pháp này có hai ưu thế:
+ Thứ nhất, một cách gần đúng, Công ty có thêm 90% mức lãi từ những sản phẩm tiêu thụ tăng lên từ khách hàng mới so với hiện tại, mục tiêu này đồng mục tiêu mở rộng thị phần.
+ Thứ hai, chiết khấu không theo khối lượng sản phẩm tạo tâm lý thoả mái cho người mới nhập cuộc kinh doanh hàng của Công ty nhưng về bản chất không khác so với chiết khấu theo khối lượng. Vì nếu chiết khấu theo khối lượng, buộc họ phải mua nhiều đủ để hưởng chiết khấu. Với họ điều này sẽ gây cảm giác mạo hiểm (do sợ tồn đọng lâu) và họ phải bán hết số hàng mua về thì mới mua đợt khác. Thành thử số lần mua của họ phải ít, thời gian om hàng lâu, ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm.
- Mặt khác, Công ty có thể cho đội ngũ tiếp thị đi liên hệ trực tiếp với các cơ sở kinh doanh để tạo ra mạng lưới các địa điểm tiêu thụ dày đặc theo phương châm gửi bán hưởng hoa hồng và chịu trách nhiệm cung ứng (đưa đến tận nơi), điều tiết, thu hồi sản phẩm ế đọng lâu (nếu có).
Với các thị trường miền núi, giáp biên giới phía Bắc, Công ty cần tiếp tục tìm kiếm đối tác để mở đại lý tăng thêm sản lượng tiêu thụ ở thị trường mới này. Mở đại lý ở một số tỉnh biên giới giáp Trung Quốc như Lạng Sơn, Yên Bái, Lào Cai... bước đầu chiếm lĩnh thị trường này và dần dần xuất khẩu sang Trung Quốc theo con đường tiểu ngạch. ở thị trường miền Nam xa xôi khó khăn cho khâu vận chuyển và quản lý, Công ty không nên mở nhiều đại lý mà nên đặt tổng đại lý ở mỗi tỉnh, các tổng đại lý này sẽ làm nhiệm vụ phân phối hàng cho các đại lý bán lẻ.
3.2.5.2. Tổ chức tốt các hoạt động hỗ trợ tiêu thụ
Mặc dù sản phẩm của Công ty có chất lượng cao, giá bán hạ nhưng khả năng tiêu thụ còn hạn chế. Đây là một tồn tại lớn mà cán bộ lãnh đạo của Công ty đang hết sức quan tâm. Qua phân tích thực trạng ở phần hai, để giải quyết phần nào tồn tại trên, Công ty có thể thực hiện một số biện pháp hỗ trợ hoạt động tiêu thụ sau:
a. Tích cực hoạt động quảng cáo.
Hoạt động quảng cáo, giao tiếp và khuếch trương của Công ty trong những năm qua chưa được coi trọng đúng mức. Vì vậy, một số loại sản phẩm của Công ty mặc dù có mặt trên thị trường nhưng không được mọi người biết đến, thậm chí đến cả tên Công ty ở một số nơi một số người cũng không biết. Bởi vậy trong thời gian tới, Công ty cần tăng cường các hoạt động quảng cáo bằng các hình thức sau:
- Thứ nhất, tăng cường quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng. Có thể quảng cáo trên truyền hình trung ương và địa phương. Lựa chọn một số tỉnh có khả năng tiêu thụ mạnh (Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tây) để tổ chức quảng cáo trên đài truyền hình và đài phát thanh địa phương, sau đó nhân rộng ra địa phương khác. Nghiên cứu thiết kết nội dung chương trình quảng cáo không chỉ đơn thuần cung cấp các thông tin về sản phẩm của công ty mà trong nó nên xây dựng một biểu tượng hấp dẫn về công ty, có thể thêm vào đó một số kỹ thuật khuyến mại (quà tặng về biểu tượng của công ty, phiếu có thưởng...) - Thứ hai, Công ty nên áp dụng quảng cáo trên panô, áp phích: đây là hình thức rất có hiệu quả, nó không chỉ nhắc nhở về sự tồn tại sản phẩm trên thị trường mà còn gợi ý, hướng dẫn người tiêu dùng mua hàng ở đâu. Do kinh phí hạn chế Công ty không thể quảng cáo bằng panô, áp phích lớn trên ngã ba, ngã tư, trục đường giao thông thì có thể làm bằng cách:
+ Đặt panô áp phích tại các đại lý, điểm bán hàng của công ty để người tiêu dùng biết được ở đó có bán sản phẩm của công ty. Các panô, áp phích phải làm rõ ràng, dễ hiểu, dễ gây ấn tượng...
+ Đặt các panô, áp phích trên các phương tiện vận chuyển của Công ty, của đại lý. Hình thức quảng cáo di động này sẽ cung cấp thông tin trên mỗi chặng đường mà nó đi qua.
- Thứ ba, Công ty nên nghiên cứu quảng cáo bằng tờ rơi giới thiệu về các sản phẩm của công ty, có thể cho vào trong bao gói một số sản phẩm được ưa chuộng và tiêu thụ mạnh. Chẳng hạn đặt trong sản phẩm đá xẻ 20x20, đây là sản phẩm được nhiều hộ gia đình ưa dùng. Khi họ có nhu cầu mua đá xẻ, họ đã có thông tin về sản phẩm của công ty và sẽ tin dùng như tin vào sản phẩm đã dùng.
Bên cạnh quảng cáo sản phẩm của mình, Công ty có thể tăng cường một số hoạt động yểm trợ bán hàng khác như: tham gia các hội chợ, tham gia các hoạt động quần chúng, mở rộng các hoạt động chiêu thị khác.
b. Tăng cường công tác khuyến mại.
Thực tế công ty đã áp dụng một số kỹ thuật khuyến mại trong tiêu thụ sản phẩm như: chiết khấu cho tiêu thụ nhiều, thưởng tiêu thụ sản phẩm mới như đợt khuyến mại sản phẩm thép nhân dịp 30 - 4 - 2005 vừa qua. Nhìn chung, chính sách khuyến mại của công ty đã thúc đẩy hoạt động tiêu thụ và cần tiếp tục phát huy. Để tăng sức hấp dẫn, công ty nên tăng tỷ lệ phần trăm khuyến mại cho đại lý, công ty cũng nên áp dụng các kỹ thuật khuyến mại đối với người tiêu dùng như sau:
- Đối với các loại sản phẩm mới nên thực hiện chính sách khuyến mại kích thích người mua dùng thử lần đầu bằng cách mời khách hàng dùng thử và có thể tặng sản phẩm cho họ.
- Đối với những sản phẩm khác công ty nên thực hiện chính sách khuyến mại kích thích khách hàng mua nhiều hơn, thường xuyên hơn bằng cách in phiếu số có thưởng bỏ vào gói sản phẩm, khách hàng nào may mắn sẽ được thưởng. Ngoài ra công ty có thể thực hiện tặng quà (áo, mũ... có in biểu tượng công ty) theo đợt với những khách hàng mua nhiều hoặc khách quen, điều này không chỉ mang tính chất khuyến mại mà còn có tác dụng quảng cáo.
Trước khi khuyến mại cần phải có các chương trình quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, panô, áp phích để người tiêu dùng biết. Đặc biệt áp dụng khuyến mại đối với sản phẩm mới, thị trường mới. Thực hiện các chiến lược này sản phẩm của công ty có thể dễ dàng thâm nhập thị trường hơn. Khối lượng sản phẩm tiêu thụ sẽ tăng lên.
c. Tạo thuận lợi trong thanh toán và phục vụ khách hàng, mở rông quan hệ hợp tác kinh doanh với các tổ chức khác
Nhìn chung, với sản phẩm là vật liệu xây dựng thì chính sách thanh toán và phục vụ khách hàng chủ yếu được nhằm vào các khách hàng đại lý và người mua buôn.
Công ty TNHH TM và xây dựng Thái phương đã áp dụng một số chính sách thanh toán ưu đãi đối với các đại lý như cho phép các đại lý trả chậm, nhưng chính sách thanh toán của công ty đối với các đại lý còn cứng nhắc so với một số đối thủ cạnh tranh.
Hiện tại công ty không cho các đại lý và người bán buôn hưởng chiết khấu bán hàng, đồng thời cũng không thưởng cho các đại lý trong trường hợp tiêu thụ được nhiều sản phẩm của công ty. Điều này không kích thích các đại lý tiêu thụ sản phẩm một cách mạnh mẽ. Vì vậy công ty nên cho hưởng chiết khấu bán hàng 2% doanh số tiêu thụ đối với những đại lý mua hàng từ 50 triệu đồng trở lên và thanh toán ngay.
Với chính sách phục vụ công ty cần quan tâm đến những vấn đề sau:
- Phục vụ vận chuyển hàng hoá đến tận các đại lý hoặc trợ giúp cho các đại lý một phần chi phí vận chuyển.
- Bố trí nơi ăn nghỉ và tiếp đón nồng nhiệt đối với những khách hàng ở xa lỡ buổi trú lại ở công ty.
- Làm biển quảng cáo với biểu tượng của mình, công ty trợ giúp cho các đại lý biển quảng cáo và có thể cho nhân viên đến lắp đặt, trang trí gian hàng cho các đại lý.
- Cung cấp bao gói và hỗ trợ kinh phí cho việc bao gói lại các sản phẩm hàng hoá bị rách vỡ bao gói trong quá trình vận chuyển...
Thực hiện các giải pháp trên sẽ làm tăng độ tin cậy của khách hàng vào công ty và do đó công ty sẽ giữ được khách hàng của mình, góp phần làm tăng sự ổn định mạng lưới tiêu thụ.
Khi thực hiện quan hệ hợp tác kinh doanh với các tổ chức kinh tế khác, công ty có thể tăng nguồn vốn kinh doanh cho mình, có được những công nghệ sản xuất tiên tiến, trang thiết bị hiện đại, đây là những điều một doanh nghiệp rất cần trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, ngoài ra nó còn tạo ra một cách làm việc mới tác phong công nghiệp, xóa bỏ cách làm vịêc cũ, tạo ra sự năng động sáng tạo trong lao động.
Công ty có thể học hỏi được những kinh nghiệm trong quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh, những vấn đề mà đối tác đã gặp phải song công ty chưa gặp phải qua đó rút ra bài học và có những biện pháp đối phó.
Doanh nghiệp có thể thâm nhập thị trường nước ngoài thông qua đối tác kinh doanh, đây là điều có lợi cho các doanh nghiệp trong nước muốn vươn ra thị trường thế giới.
3.3. Một số kiến nghị với Nhà nước.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường với sự quản lý của Nhà nước thì vai trò của Nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung và trong việc tạo môi trường kinh doanh cho các cơ sở kinh tế nói riêng. Là một doanh nghiệp TNHH, công ty TNHH TM và xây dựng Thái phương cũng như các công ty khác luôn phải chịu dàng buộc bởi “luật ” của cơ chế thị trường. Điều mong muốn của các doanh nghiệp muốn tự khẳng định năng lực của mình trên thương trường là “sân chơi” phải bằng phẳng. Có như vậy môi trường cạnh tranh mới đảm bảo tính lành mạnh, bình đẳng, các doanh nghiệp mới thực sự hài lòng với những thắng lợi đạt được và chấp nhận những gì thua mất.
Để làm được điều đó, không ai khác ngoài Nhà nước cần phải quan tâm hơn nữa đến việc điều chỉnh, nâng cao và hoàn thiện cơ chế, chính sách phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế thị trường.
Dưới đây là một số kiến nghị với Nhà nước
- Một là, Nhà nước sớm ban hành luật cạnh tranh và các luật khác có liên quan để từ đó tạo ra một cơ chế thị trường lành mạnh, bình đẳng. Trong đó một vấn đề nổi cộm hiện nay cần phải ngăn chặn và xử lý nghiêm minh là tệ làm hàng giả, hàng trốn thuế, hàng nhập lậu. Để thực hiện được điều này, Nhà nước phải tăng cường lực lượng kiểm soát thị trường, kiểm soát cửa khẩu, thực hiện thưởng thích đáng đối với những ai phát hiện trình báo các tệ nạn trên, xử phạt thật nặng đối với những kẻ làm ăn phi pháp...
- Hai là, Nhà nước cần phải tiếp tục ban hành các văn bản pháp luật quy đinh chặt chẽ nhập mặt hàng .
- Ba là, thành lập tổ chức tư vấn công nghệ thông tin để giúp các doanh nghiệp khỏi bị thất thố trong việc đầu tư đổi mới bằng công nghệ nhập ngoại.
- Bốn là, để nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp, Nhà nước cần phải khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có đièu kiện phát triển. Có như vậy năng lực, trách nhiệm của các thành phần trong công ty mới thực sự được phát huy, hiệu quả kinh doanh tất yếu sẽ được nâng cao. Nhà nước cần phải có biện pháp định giá, trợ giá hợp lý.
Với công ty TNHH TM và xây dựng Thái phương, thì tất yếu khả năng cạnh tranh sẽ được nâng lên nhiều, vấn đề thắng thua chỉ phụ thuộc vào cơ chế và sự biến động của thị trường.
- Năm là, xây dựng hệ thống thị trường tài chính, trong đó hệ thống các ngân hàng thương mại, các trụ sở giao dịch chứng khoán được coi là nơi đầu tư và huy động vốn một cách thuận tiện nhất cho các doanh nghiệp nói riêng cũng như các chủ thể của nền kinh tế nói chung. Về lĩnh vực này, Nhà nước cần phải kiểm soát chặt chẽ mức lãi suất vay, gửi tránh hiện tượng độc quyền tự ý hoặc gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc huy động và sử dụng vốn.
Kết luận
Cuộc cạnh tranh thị trường nào cũng được diễn ra với một chiến lược cạnh tranh nhất định. Chiến lược cạnh tranh thị trường là toàn bộ hệ thống các quan điểm, mục đích, mục tiêu, chính sách, thị trường nhằm đảm bảo tiêu thụ khối lượng lớn hàng hoá trong thời gian lâu dài và đem lại lợi nhuận theo dự kiến cho doanh nghiệp. Trong quá trình xây dựng và triển khai chiến lược cạnh tranh, một trong những vấn đề cơ bản, xuyên suốt trong mọi thời kỳ hoạt động của các doanh nghiệp là việc nâng cao khả năng cạnh tranh. Một doanh nghiệp cho dù đã giành thắng lợi trong cạnh tranh hiện tại thì sau đó vẫn có thể bị thất bại nếu như doanh nghiệp đó không biết tìm cách nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh của mình. Quán triệt quan điểm đó, các doanh nghiệp phải luôn tìm ra các biện pháp nhằm liên kết các nguồn lực của mình trong hoạt động sản xuất kinh doanh để đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng.
Với công ty TNHH TM và xây dựng Thái Phương tuy bước đầu đã đạt được những kết quả đáng mừng, nhưng vì sự tồn tại và phát triển của công ty trong tương lai nên việc tiếp tục nâng cao khả năng cạnh tranh là rất cần thiết. Đề tài " Nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty TNHH TM và xây dựng Thái Phương trên thị trường " là sự kết hợp giữa các vấn đề lý luận và sự phân tích đánh giá tình hình hoạt động sản xuất của công ty, trên cơ sở đó em đưa ra một số giải pháp mang tính chiến lược. Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do năng lực và thời gian có hạn nên đề tài có thể còn một số vấn đề chưa được giải quyết triệt để, em rất mong được sự đóng góp, hoàn thiện bổ sung của cô giáo hướng dẫn và Ban Giám đốc cũng như các cán bộ phòng ban chức năng để đề tài của em có chất lượng cao hơn.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ của các thầy cô giáo trong trường, các thầy cô trong khoa Quản trị doanh nghiệp, cô giáo Nguyễn Thị Bích Loan, Ban giám đốc, phòng Tổ chức công ty TNHH TM và xây dựng Thái phương đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình.
Em xin chân thành cảm ơn!
Danh mục Tài liệu tham khảo
1. Garry D.S mith, Danny R. Arnold, Boddy R. Bizzell (2005 ),“ Chiến lược và sách lược kinh doanh”; NXB Thống kê .
2. Jean Gui (2000) ,"Cạnh tranh bằng giảm tối đa phí tổn thương mại"
; NXB TPHCM .
3. Micheal E Porter(1999) ,“Chiến lược cạnh tranh” ; NXB khoa học kỹ thuật .
4. Charles J.Woelfet (2000), “ Phân tích hoạt động tài chính ở các doanh nghiệp”; NXB Khoa học kỹ thuật Hà nội.
5. Th.s Vũ Thuỳ Dương ( 2003 ),“ Quản trị dự án”; Nhà xuất bản Thống kê.
6. GS.TS. Phạm Vũ Luận (2004), “ Quản trị doanh nghiệp thương mại” ; Nhà xuất bản Thống kê.
7. PGS.TS. Phạm Công Đoàn(2004), “ Kinh tế doanh nghiệp thương mại” ; Nhà xuất bản Thống kê.
8. Lê Thụ (2002), “Định giá và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp”
; NXB Thống kê .
Tài liệu về:
- Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty năm 2003, 2004, 2005.
- Phương hướng và kế hoạch sản xuất kinh doanh của Công ty 2006 -2010.
10. -Tạp chí công nghiệp số 17, 18, 19- 2002 - Tạp chí kinh tế và dự báo số 1-2005
11. Website: http: www.Vietnam.net
12. Website: http: www.Thị trường.com
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
---------- a b ----------
Giấy xác nhận
Công ty TNHH TM và xây dựng Thái Phương xác nhận:
Sinh viên : Hà Ngọc Đoàn
Lớp : K38 – A1 Khoa: Quản trị Doanh nghiệp
Trường : Đại học Thương Mại
Về việc : Thực tập tại Công ty TNHH TM và xây dựng Thái Phương
Thời gian : Từ ngày 03/04/2006 đến ngày 26/06/2006
Nhận xét của Công ty:
Trong thời gian thực tập tại Công ty, sinh viên Hà Ngọc Đoàn luôn cố gắng học hỏi, chịu khó tìm hiểu, nghiên cứu hoạt động sản xuất kinh doanh để nắm bắt tình hình thực tế của Công ty.
Chấp hành tốt nội quy làm việc của Công ty, tôn trọng các quy định chung của Công ty đối với sinh viên thực tập.
Công ty TNHH TM và xây dựng Thái Phương đánh giá rất cao nội dung bài luận văn đã phản ánh đúng tình hình thực tế ở Công ty và đưa ra những giải pháp rất thiết thực cho việc nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty TNHH thương mại và xây dựng Thái Phương trên thị trường.DOC