Nghiên cứu buồng trứng và khả năng sinh sản của các dòng tôm sú gia hóa (penaeus monodon)

Đà Nẵng có sức đẻ cao nhưng chất lượng con giống không bằng giống Châu Phi. Lựa chọn dòng nào cho thích hợp là việc cần nghiên cứu thêm hoặc cho lai kinh tế giữa hai dòng này để thử nghiệm trong tương lai có thể mang nhiều triển vọng.

doc84 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 5083 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiên cứu buồng trứng và khả năng sinh sản của các dòng tôm sú gia hóa (penaeus monodon), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
R, Bỉ). Năm 2007, chương trình đã nghiên cứu thành công trong việc khép kín vòng đời tôm sú bố mẹ trong bể nuôi tuần hoàn kín, và sản xuất được sản lượng lớn tôm bố mẹ sạch bệnh và tôm sú giống gia hóa. Hơn 300 cặp tôm bố mẹ sạch bệnh và 7 triệu tôm sú giống gia hóa Pl-15 đã được sản xuất trong năm 2008. Có rất nhiều đề tài nghiên cứu tạo nguồn tôm giống sạch bệnh khác nhưng hiện nay vẫn chưa được áp dụng nhiều, do chi phí tạo ra cao không phù hợp cho các trại giống vừa và nhỏ hoặc khó áp dụng do không có điều kiện. 4. Tình hình nghiên cứu về tôm sú gia hóa 4.1. Tình hình nghiên cứu về tôm sú gia hóa trên thế giới Gia hóa tôm sú ở Thái Lan bắt đầu bằng dự án 6 năm từ năm 1992 đến năm 1998 đã tạo ra được đàn tôm giống thế hệ F2. Quy trình gia hóa bắt đầu bằng việc tuyển chọn những con tôm đạt trọng lượng bình quân từ 50÷70g, ở các ao nuôi thịt thương mại lập thành đàn gia hóa đầu tiên (gọi là F0) những con tôm này được sang lọc sạch bệnh rồi thả nuôi trong ao đất 1.600m2 ở mật độ 4-8 con/m2 với tỷ lệ đực : cái là 1 : 3. Sau 8 tháng, khi tôm cái dạt trọng lượng 150÷180g và tôm đực đạt 80÷10g (tỷ lệ sống khoảng 30%) thì tôm được tuyển chọn và nuôi thành thục cắt mắt trong trại giống. Tôm giống F1 sản xuất được lại được lặp lại quy trình để sản xuất tôm giống F2. Kết quả cho thấy sức sinh sản đạt 300.000 trứng, trung bình cho 30.000 tôm giống cho mỗi tôm mẹ, tỷ lệ đẻ đạt 50%, tỷ lệ nở đạt 30%. Hiện giờ, nghiên cứu tôm sú bố mẹ sạch bệnh tại Thái Lan tập trung chủ yếu ở Trường Đại học Mahidol và Trung tâm Công nghệ Sinh học Quốc gia về Sinh sản và Cải thiện tôm do nhóm giáo sư chuyên ngành về nghiên cứu tôm và công nghệ sinh học như Prof. Dr Vichai Boonsaeng, Prof. Dr Timothy, W. Flegei, và Prof. Dr. Boonsim Withyachumnarnkul chủ trì với 2 chương trình lớn cho nghiên cứu tôm là Dự án về nghiên cứu dinh dưỡng cải thiện sinh sản tôm và dự án về phát triển và hoàn thiện tôm sú gia hóa và sạch bệnh, cũng nằm trong chương trình hợp tác với CSIRO tại Úc. Các nghiên cứu ở Thái Lan cũng ít được xuất bản chi tiết. Chủ yếu là các bài báo đi riêng từng khía cạnh hoặc tóm tắt các hội thảo chuyên đề Chương trình nghiên cứu về tôm sú bố mẹ sạch bệnh tại Malaysia thuộc Cục Thủy sản Malaysia bắt đầu từ năm 2001 với tham vọng nhằm sản xuất 10 tỷ tôm sú sạch bệnh cho sản lượng nuôi đạt 180.000 tấn vào năm 2010. Quy trình gia hóa bắt đầu từ việc tuyển chọn tôm bố mẹ tự nhiên đưa về khu cách ly nhằm tuyển chọn tôm bố mẹ sạch các bệnh nguy hiểm như virus đốm trắng WSSV, virus đầu vàng YHV, virus gây còi MBV, virus gan tụy HPV. Sau khi nuôi ở khu vực sang lọc cách ly 1, tôm được sang lọc các bệnh này và đưa vào khu vực nuôi cách ly 2 gồm các thiết bị nuôi thành thục , cho đẻ và ương nuôi ấu trùng nhằm sản xuất đàn tôm giống sạch bệnh thế hệ F1 dùng cho gia hóa khép kín vòng đời. Quy trình gia hóa lúc này bắt đầu bằng nguồn tôm giống PL15 sạch bệnh thả trong ao ngoài trời lót bạt với các điều kiện kiểm soát an toàn sinh học và chỉ những ấu trùng và tôm giống khỏe cho tăng trưởng và tỷ lệ sống cao được chọn lại cho chương trình nghiên cứu này. Tôm được nuôi trong lồng bè đến 2g thì được đánh dấu và thả nuôi trong ao đến khi đạt kích cỡ thành thục. Trong toàn bộ chu trình nuôi tôm được lấy mẫu sang lọc bệnh 2 tháng/lần. Tôm đực và tôm cái sau đó được tuyển chọn cho hoạt động sản xuất. Sinh sản bằng cách tự giao phối giữa các gia đình trong quần đàn được thiết lập cũng như cho lai chéo giữa 2 quần đàn nhằm giảm thiểu cận huyết và gia tăng nguồn biến dị gen. Quy trình được lặp đi lặp lại từ năm 2003 đến năm 2006 đã sản xuất được tôm sạch bệnh thế hệ F3. Chất lượng tôm sú bố mẹ gia hóa F1, F2 cho thấy mỗi tôm mẹ trọng lượng 80-100g sản xuất bình quân 200.000 Nau cho mỗi lần đẻ và theo tác giả điều này tương đương với tôm bố mẹ tự nhiên nếu so sánh sản lượng ấu trùng trên trọng lượng tôm mẹ. Đặc biệt, tỷ lệ sống của ấu trùng khá cao ở tôm sú gia hóa F2, F3 đạt 57% từ Nau đến PL15 trong khi tôm tự nhiên chỉ đạt 27,8%. Như vậy, hầu hết các chương trình nghiên cứu sản xuất tôm sú bố mẹ được triển khai trong ao đất giai đoạn đầu, sau đó nuôi thành thục trong bể nuôi trong nhà. Gia hóa khép kín vòng đời từ trứng đến bố mẹ để sản xuất tôm sú bố mẹ trong điều kiện bể nuôi an toàn sinh học trong nhà để sản xuất tôm sạch bệnh mới được bắt đầu từ những năm giữa thập niên 1990 tại Hawaii ở Mỹ và CSIRO ở Úc. Kết quả nghiên cứu ở Mỹ hầu như không được công bố trên các tạp chí do bí mật công nghệ của công ty nhằm kinh doanh thương mại tôm sú sạch bệnh. Kết quả nghiên cứu tại úc từ những năm 1997 cũng có quy trình tương tự là chọn lọc tôm bố mẹ tự nhiên sạch bệnh, cũng qua quá trình chọn lọc sơ cấp và thứ cấp để sản xuất tôm 1g sạch bệnh. Quy trình gia hóa sau đó được thực hiện trong hệ thống tuần hoàn kín giá thể cát an toàn sinh học, sử dụng nguồn tôm sạch bệnh 1g nuôi đến 100g cho cắt mắt sinh sản với thời gian gia hóa kéo dài 10÷12 tháng nuôi. Bể nuôi tuần hoàn kín giá thể cát10m2, đường kính 3,6m, độ sâu nước 0,9m. Nước tuần hoàn bằng cơ chế đảo khí và nước chảy tràn 3 lít/phút (50%/ngày), hoặc bể nuôi tuần hoàn giá thể cát thay nước ít (5%/ngày). Độ kiềm 80÷145mg/l thông qua bổ sung định kỳ NaHCO3, nhiệt độ trong bể nuôi khoảng 280C (1997), 290C (2003), độ mặn khoảng 35 phần nghìn, mật độ thả tôm 1g là 10 con/m2 và giảm dần từ tháng thứ 8 xuống còn 3 con/m2, với tỷ lệ đực : cái là 1 : 1. Thức ăn bao gồm mực 30%, nhuyễn thể 20%, trùng biển 5% và thức ăn viên 45%. Với hệ thống và kỹ thuật nuôi này hầu hết tôm thành thục sinh sản ở tháng tuổi 11 và cho sức sinh sản biến động từ 0÷450.000 trứng, tỷ lệ đẻ nở đạt 77,1%, tỷ lệ nở của trứng đạt 31,6%. Nhìn chung, các chương trình nghiên cứu trong thập niên 70 và 80 thế kỷ XX (Aquacop, Seafdec) do thiếu kiểm soát dịch bệnh đầu vào và triển khai trong ao đất nên các vấn đề an toàn sinh học không được kiểm soát nên cuối cùng bỏ dỡ và không thương mại hóa được. Các chương trình nghiên cứu kể từ những năm cuối thập niên 90 (CSIRO, Malaysia, Viện NTTS 2) do kiểm soát được vấn đề dịch bệnh nên chương trình tồn tại được nhiều năm và đạt được nhiều tiến bộ. Tuy nhiên nhiều nghiên cứu cho thấy tôm tự nhiên có hiệu quả sinh sản cao hơn tôm nuôi ao và tôm gia hóa về phương diện thành thục, bắt cặp và sinh sản, chất lượng sinh sản (Moor và ctv, 1974). Giải thích về sự kém chất lượng của tôm nuôi trong ao đất với tôm tự nhiên chủ yếu tập trung vào các lý do như chất lượng dinh dưỡng kém, cận huyết, chất lượng tôm đực và tôm cái kém. Chúng ta có thể thấy các khó khăn về chất lượng tôm sú gia hóa là sức sinh sản chưa cao, tỷ lệ giao vỹ thấp, tỷ lệ đẻ, tỷ lệ nở thấp. 4.2. Tình hình nghiên cứu về tôm sú gia hóa tại Việt Nam Tại Việt Nam, đã có nhiều chương trình nghiên cứu trong nước về tôm sú bố mẹ được báo cáo. Từ những năm 1984 tại Việt Nam đã có nhiều chương trình nghiên cứu về sinh sản nhân tạo tôm sú của Viện Nghiên cứu Hải sản, Trung tâm Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, II, III, Viện Nghiên cứu Biển… Năm 1984÷1990, Viện Nghiên cứu Hải sản đã nghiên cứu kỹ thuật sản xuất giống tôm biển trên một số loài có giá trị kinh tế trong đó có tôm sú (Đoàn Văn Đẩu, 1990). Năm 1986÷1994 Viện Nghiên cứu Biển đã thành công trong việc nghiên cứu sự thành thục sinh dục của tôm sú trưởng thành và sự sinh sản của tôm sú mới trưởng thành trong điều kiện nuôi nhốt trong bể xi măng và lồng nuôi vên biển. Kết quả tôm lột xác, giao vỹ, thành thục và đẻ sau 28 ngày cắt mắt, tỷ lệ sống của ấu trùng đến PL15 có thể lớn hơn 50%. Năm 1987÷1998, Trung tâm Nghiên cứu Sản xuất tôm Vũng Tàu – Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II nghiên cứu thành công việc nuôi vỗ tôm sú bố mẹ trong bể xi măng có nhiều nguồn gốc khác nhau từ biển, đầm nuôi quảng canh. Kết quả sau 21÷45 ngày nuôi tỷ lệ thành thục lớn hơn 30%, thu được ấu trùng từ 200.000÷300.000/ cá thể, đồng thời xây dựng quy trình sản xuất giống tôm sú chất lượng cao. Năm 1988÷1996, Trại Thực nghiệm Nuôi trồng Hải sản - Trường Đại học Thủy sản thử nghiêm sản xuất giống tôm sú từ nguồn tôm bố mẹ giao vỹ tự nhiên và cấy ghép tinh nhân tạo bằng phương pháp cắt mắt trong bể xi măng , kết quả thu được là tỷ lệ thành thục 88,8%, sức sinh sản thực tế 475.000 ấu trùng/tôm mẹ, tỷ lệ sống đến giai đoạn Zoea lớn hơn 80%. Đối với tôm mẹ cấy tinh nhân tạo có tỷ lệ thành thục 83.3%, sức sinh sản thực tế 465.000 ấu trùng/ tôm mẹ, tỷ lệ sống đến giai đoạn Zoea lớn hơn 75%. Năm 1993÷1996, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III đã nghiên cứu tạo ra nguồn tôm sú bố mẹ thành thục bằng phương pháp nuôi lồng trên biển tại Khánh Hòa và đối chứng trên bể xi măng với nguồn tôm thí nghiệm có nguồn gốc từ ao, đầm nuôi. Kết quả cho thấy hình thức nuôi lồng có tỷ lệ thành thục lần lượt là 44%, 68%, sức sinh sản thực tế 283.000÷458.000 ấu trùng/tôm mẹ, tỷ lệ sống đến giai đoạn Zoea 82%÷87,5% và hình thức nuôi trên bể xi măng với tỷ lệ thành thục là 86,6%. Năm 1995÷2000 , Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Giống Hải sản Miền Bắc (Cát Bà)-Viện Nghiên cứu Hải sản (nay thuộc Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I) đã nghiên cứu thử nghiệm nuôi vỗ tôm sú bố mẹ tại vịnh Hạ Long và Cát Bà đồng thời sau đó áp dụng và từng bước hoàn thiện công nghệ nuôi vỗ tôm sú bố mẹ. Kết quả cho thấy tỷ lệ thành thục từ 77,7%÷100%, sức sinh sản thực tế 358.000 ấu trùng/ tôm mẹ. Năm 2000÷2001 Trung tâm Nghiên cứu Sản xuất tôm Vũng Tàu (nay là Trung tâm Quốc gia Giống Hải sản Nam Bộ)- Viện NCNTTS II đã tiến hành đề cấp Bộ về nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh học và kỹ thuật làm cơ sở khoa học cho chương trình cải thiện chất lượng di truyền tôm sú tại Việt Nam. Trong đó với nội dung xây dựng đàn tôm sú bố mẹ nhân tạo làm vật liệu phục vụ nghiên cứu đã bước đầu nuôi vỗ được đàn tôm sú trong điều kiện nhân tạo từ các nguồn gốc khác nhau. Kết quả tỷ lệ thành thục lớn hơn 30%, sức sinh sản thực tế 200.000 ấu trùng/ tôm mẹ, thu được 127.000 PL15 đạt tiêu chuẩn chất lượng. Mặc dù, nhiều chương trình nghiên cứu trong nước về tôm sú bố mẹ được báo cáo nhưng việc khép kín vòng đời tôm sú từ trứng đến tôm mẹ và tạo ra các thế hệ gia hoá trong điều kiện nuôi bể trong nhà ở Việt Nam lần đầu tiên đã thành công và bước đầu thương mại hóa quy mô nhỏ đó là chương trình gia hoá khép kín vòng đời và sản xuất tôm sú bố mẹ và tôm sú giống sạch bệnh được triển khai tại Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II từ tháng 06/2004 đến tháng 12/2008 trên cơ sở 2 đề tài nghiên cứu (đề tài nhánh cấp Bộ và đề tài cơ sở cấp Viện) phối hợp với nguồn kinh phí và chương trình Nghiên cứu sinh của ThS. Nguyễn Duy Hòa tại Đại học Ghent, Bỉ (tài trợ bởi Tổ chức Hợp tác Phát triển các Trường Đại học Flemish – VLIR, Bỉ). Chương trình hầu như thất bại trong 2 năm đầu tổ chức và triển khai nghiên cứu do những hạn chế trong quản lý nghiên cứu và cách tiếp cận về hệ thống nuôi và dinh dưỡng trong quá trình khép kín vòng đời tôm sú và sản xuất tôm sú bố mẹ sạch bệnh. Đến giữa năm 2006, thông qua các quan hệ hợp tác với tổ chức CSIRO (Úc), Viện Hải dương Hawaii (Ocean Institute of Hawaii) và thông qua chương trình Nghiên cứu sinh của cán bộ Viện NCNTTS II tại đại học Ghent, Bỉ, chương trình nghiên cứu tại Viện NC NTTS II đã tiếp cận được những tiến bộ về công nghệ tuần hoàn và các biện pháp an toàn sinh học trong phát triển hệ thống nuôi tôm mẹ, nghiên cứu thức ăn cho các giai đoạn nuôi tăng trưởng và thành thục, ứng dụng công nghệ sinh học trong sàng lọc bệnh các bệnh virus (WSSV, YHV, MBV, HPV) 2 giai đoạn (nuôi sàng lọc cách ly sơ cấp và thứ cấp). Nhờ đó năm 2007 chương trình đã thành công trong việc khép kín vòng đời tôm sú bố mẹ trong bể nuôi tuần hoàn kín giá thể cát (dưới đáy hệ thống có lớp san hô và một lớp ống gồm 2 loại, một loại có lỗ và một loại không có lỗ đan xen nhau, phía trên gần mặt nước có vòi đẩy nước xuống và một vòi hút nước ra. Nhờ đó luôn có một dòng nước mới vừa chảy vòng quanh bể và vừa đảo đều từ trên xuống dưới. Hệ thống này gọi là hệ thống tuần hoàn kín đáy cát để tạo ra hệ sinh thái gần như môi trường tự nhiên) và đã sản xuất được sản lượng lớn tôm bố mẹ sạch bệnh và tôm sú giống gia hoá (hơn 300 cặp tôm bố mẹ sạch bệnh và 7 triệu tôm sú giống gia hoá PL15 được sản xuất trong năm 2008). Kết quả nuôi tăng trưởng, thành thục và sinh sản cho thấy pha nuôi tăng trưởng từ 1g đến 40g cho tỉ lệ sống khá cao, từ 81,56÷84,33% với thời gian nuôi 4 tháng, pha nuôi tăng trưởng tôm cái từ 40g đến 80g, tôm đực từ 40g đến trên 60g đạt tỉ lệ sống 62,29÷67,93% tương ứng thời gian nuôi 95 ngày. Nuôi thành thục tôm cái từ 80g đến trên 100g và tôm đực từ 60g đến trên 70g khoảng 2÷3 tháng có thể tiến hành cắt mắt sinh sản. Kết quả cắt mắt sinh sản 45 tôm cái bước đầu cho thấy: tỉ lệ sống tôm mẹ sau cắt mắt đạt 95,55%, tỉ lệ tôm thành thục buồng trứng giai đoạn IV đạt 97,67%, tỉ lệ tôm sinh sản đạt 88,09%, tỉ lệ đẻ bình quân/tôm mẹ đạt 3,56 lần, tỉ lệ nở của các lần đẻ đạt 95,54%. Tính trên 132 lần đẻ (126 lần đẻ nở được) của bình quân số tôm đẻ từ 12 bể nuôi tôm mẹ cho thấy: Sức sinh sản bình quân đạt 291.875±43.958 trứng/lần đẻ, sản lượng ấu trùng đạt 205.609±32.251 ấu trùng nauplii/lần đẻ, tỉ lệ nở bình quân của trứng tính cả những lần đẻ không nở đạt 64,54±9,38%, tỷ lệ nở bình quân của trứng chỉ tính những lần đẻ nở đạt 68,08±7,01% và tỉ lệ biến thái ấu trùng đạt 94,46±2,16%. Tôm nuôi thành thục được bổ sung 60% thức ăn viên bán ẩm cải thiện được tỉ lệ nở và tỉ lệ biến thái ấu trùng (P<0,05). Kết quả này cho thấy triển vọng rất lớn trong việc sản xuất đồng loạt tôm bố mẹ nhân tạo sạch bệnh phục vụ cho ngành công nghiệp nuôi tôm sú của nước ta. Tuy nhiên, hiện tượng bắt cặp tự nhiên thấp, tỷ lệ nở thấp, đặc biệt rất nhiều lần đẻ trứng không nở mặc dù vẫn có túi tinh trong thelycum của tôm cái là những khó khăn nổi bật về chất lượng sinh sản tôm gia hoá và cần được nghiên cứu để hoàn thiện hơn quy trình sản xuất tôm sú bố mẹ trước khi có thể thương mại hóa đại trà. Tôm bố mẹ tự nhiên sàng lọc sạch bệnh qua 2 bước cách ly sơ cấp và thứ cấp Lựa chọn tôm bố mẹ tham gia sinh sản Pha 3: nuôi tôm 80g đến 120g trong bể nuôi tuần hoàn kín giá thể cát, sàng lọc bệnh cuối giai đoạn Tuần hoàn nước cao Sản xuất tôm giống PL15 trong điều kiện an toàn sinh học, sang lọc tôm sạch bệnh Che tối hoàn toàn Thức ăn viên, thức ăn tươi sống Ương tôm PL15 đến tôm 1g, sàng lọc dịch bệnh Pha 1: nuôi tôm 1g đến 40- 50g trong bể nuôi tuần hoàn giá thể cát, sàng lọc bệnh cuối giai đoạn Pha 2: nuôi tôm 40g đến 80g trong bể nuôi tuần hoàn kín giá thể cát, sàng lọc bệnh cuối giai đoạn Hình 16 : Sơ đồ gia hóa sản xuất tôm bố mẹ sạch bệnh trong hệ thống tuần hoàn kín. PHẦN II. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thời gian và địa điểm nghiên cứu * Thời gian: 4/4->31/5/2012 * Địa điểm: Trung tâm quốc gia giống hải sản Nam Bộ_167 Thùy Vân, TP Vũng Tàu. 2. Điều kiện tự nhiên và khí hậu Vũng Tàu Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, một năm chia hai mùa rõ rệt. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10, thời gian này có gió mùa Tây Nam. Mùa khô bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, thời gian này có gió mùa Đông Bắc. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 27 độ C, tháng thấp nhất khoảng 24,8 độ C, tháng cao nhất khoảng 28,6 độ C. Số giờ nắng rất cao, trung bình hàng năm khoảng 2400 giờ. Bà Rịa - Vũng Tàu nằm trong vùng ít có bão. 3. Đối tượng nghiên cứu Tôm sú gia hóa thuộc các dòng + Dòng Đà Nẵng (dòng thuần) + Dòng ♀ Rạch Gốc + ♂ Đà Nẵng (lai chéo) + Dòng Châu Phi (ngoại nhập) Về cơ bản đặc điểm hình thái cấu tạo thì 3 dòng này gần như giống nhau, không thể phân biệt bằng mắt thường. Khi chuyển về nghiên cứu thì phải đánh dấu để nhận biết. Dòng Đà Nẵng: nhập tôm bố mẹ có nguồn gốc tự nhiên tại vùng biển Đà Nẵng, sau đó cho sinh sản lấy F1 nuôi tới 120-180g (với tôm cái), 80-120g ( đối với tôm đực) làm tôm bố mẹ. Quá trình nuôi vỗ F1 của tôm tự nhiên gọi là gia hóa tôm sú. Dòng ♀ Rạch Gốc + ♂ Đà Nẵng: cũng tương tự như dòng Đà Nẵng, F1 của tôm bố mẹ tự nhiên được nuôi trong điều kiện an toàn sinh học, sử dụng hệ thống nuôi tuần hoàn. Trong quá trình nuôi được kiểm soát tối đa về dịch bệnh. Trước khi cho tham gia sinh sản được sàng lọc và xét nghiệm đầy đủ. Dòng Châu Phi: PL15 được nhập từ một công ty giống ở Bình Thuận, tôm bố mẹ có nguồn gốc Châu Phi. Tôm Châu Phi có đặc điểm là trọng lượng nhỏ: tôm cái từ 90-135g, tôm đực 65-100g. Sau đó được gia hóa cùng một quy trình với các dòng nội địa. Tôm bố mẹ cũng đảm bảo sạch bệnh và sức khỏe tốt trước khi cho tham gia sinh sản. 4. Nội dung nghiên cứu - Biến động các yếu tố môi trường trong các bể thí nghiệm - Buồng trứng + Mô tả các dạng buồng trứng giai đoạn 4 - Khả năng sinh sản của các dòng tôm sú gia hóa + Sức sinh sản (sức sinh sản tuyệt đối) + Sức sinh sản tương đối + Sức sinh sản thực tế + Tỷ lệ thụ tinh + Tỷ lệ nở 5. Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu Sức sinh sản tương đối Sức sinh sản thực tế Tỷ lệ thụ tinh Tỷ lệ nở Các yếu tố môi trường Kết luận và đề xuất Sức sinh sản (sức sinh sản tuyệt đối) Mô tả các dạng buồng trứng giai đoạn IV. Buồng trứng Khả năng sinh sản của các dòng tôm sú gia hóa Nghiên cứu buồng trứng, khả năng sinh sản và những tác động nên tỷ lệ nở của các dòng tôm sú gia hóa (Penaeus monodon) Biến động các yếu tố môi trường 6. Phương pháp nghiên cứu Có 3 công thức thí nghiệm. Công thức 1 (CT1): Dòng tôm sú Đà Nẵng (dòng thuần) Công thức 2 (CT2): Dòng tôm sú ♀Rạch Gốc + ♂Đà Nẵng (lai chéo) Công thức 3 (CT3): Dòng tôm sú Châu Phi (ngoại nhập) - Tôm được nuôi trong các bể xi măng có thể tích 6m3. - Cho đẻ trong bể composit có thể tích 1-2m3, trứng được ấp trong bể composit 0.5m3. - Tôm mẹ cấy tinh sau khi lột xác, tiến hành cắt mắt sau 5 đến 7 ngày để kích thích sinh sản. - Tôm được buộc đuôi và đeo dấu mắt để theo dõi từng con trong bể. - Các yếu tố phi thí nghiệm trong các bể được kiểm soát. - Các chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng: Tôm được nuôi ở các bể cho ăn thức ăn giống nhau và chế độ chăm sóc quản lý như nhau. 7. Phương pháp thu thập số liệu 7.1. Xác định các yếu tố môi trường Xác định nhệt độ bằng nhiệt kế Xác định độ mặn bằng tỷ trọng kế Xác định PH bằng bộ test PH Bảng 8: Xác định các yếu tố môi trường Yếu tố Dụng cụ đo Thời gian đo Độ chính xác T0 (0C) Nhiệt kế 7 – 14h 0.5 Độ mặn Tỷ trọng kế 7h 0.5 PH Test PH 7 – 14h 0.5 Xác định các yếu tố sinh học - Xác định các chỉ tiêu nghiên cứu + Tính tổng lượng trứng: Trứng sau khi thu cho vào xô nhựa có thể tích nhất định. Tiến hành đảo đều dùng pipet hút 5 lần, mỗi lần 1ml cho vào đĩa Peptri và soi lên kính hiển vi đếm và lấy giá trị trung bình của 5 mẫu.                               Số lượng trứng trong cốc (số trứng) + Số lượng trứng =------------------------------------- x V (thể tích của bể) ml             v cốc (ml) Số lượng trứng + Sức sinh sản tương đối = -------------------------------- Khối lượng tôm mẹ (g) Số lượng Nauplius + Sức sinh sản thực tế = ------------------------------ Khối lượng tôm mẹ (g) + Tỷ lệ thụ tinh                                            Số trứng được thụ tinh        TLTT (%) =    --------------------------- x 100                                                 Tổng số trứng + Tỷ lệ nở:                                     Số trứng nở               TLN (%) = ---------------------- x 100                                Tổng  số trứng 8. Dụng cụ sử dụng trong nghiên cứu - Tôm đưa vào làm thí nghiệm thuộc 3 dòng, tôm được đánh dấu đuôi, dấu mắt để phân biệt giữa các dòng trong thí nghiệm và giữa các con trong 1 bể. - Nuôi vỗ sinh sản trong bể xi măng - Cho tôm đẻ và ấp trứng trong bể composit. - Các dụng cụ để đo các yếu tố môi trường: Máy đo pH, nhiệt kế, tỷ trọng kế.... - Cân điện tử, thước. - Đĩa Peptri, lam kính, lamen, pipet. - Kính hiển vi. - Vợt, khay, cốc nhựa. 9. Phương pháp xử lý số liệu. - Sử dụng phần mềm excel 2007 PHẦN III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN Biến động các yếu tố môi trường trong các bể thí nghiệm Nhiệt độ Bảng 9. Nhiệt độ trong các bể thí nghiệm Công thức Sáng MIN→MAX Chiều MIN→MAX CT1 27.80→28.22 28.23→28.75 CT2 27.90→28.20 28.10→28.80 CT3 27.95→28.22 28.30→28.80 Hình 17: Nhiệt độ trong các bể thí nghiệm Nhiệt độ có ảnh hưởng lớn tới sinh trưởng, phát triển của động vật thủy sản nói chung và tôm sú nói riêng. Trong quá trình làm thí nghiệm chúng ta thấy nhiệt độ nằm trong khoảng 27.8-28.80C. Đây là ngưỡng nhiệt độ phù hợp cho sự phát triển của tôm sú. Sự chênh lệch nhiệt độ giữa các bể là không đáng kể, không ảnh hưởng tới kết quả nghiên cứu. Tuy nhiên có một số ngày nhiệt độ vượt ngưỡng cho phép phần nào cũng ảnh hưởng đến sức khỏe và sức sinh sản của tôm. Nhiệt độ giảm buồng trứng chậm phát triển, tỷ lệ nở giảm và gây tình trạng bỏ ăn, biếng ăn… 1.2. PH Bảng 10. PH trong các bể thí nghiệm. Công thức Sáng MIN→MAX Chiều MIN→MAX CT1 7.665→7.700 7.750→7.770 CT2 7.670→7.695 7.760→7.780 CT3 7.670→7.690 7.740→7.780 Hình 18: Diễn biến PH Cũng giống như nhiệt độ, pH là một yếu tố môi trường có ảnh hưởng tới sinh trưởng, phát triển của tôm sú, nếu các yếu tố môi trường trong đó có pH nằm trong ngưỡng thích hợp cho tôm sú phát triển thì chúng sẽ phát triển tốt. Trong quá trình làm thí nghiệm pH chênh lệch giữa các bể không đáng kể, pH dao động từ 7.665-7.780 nằm trong ngưỡng phát triển tốt cho tôm sú. Buồng trứng * Mô tả các dạng buồng trứng giai đoạn 4 Trong phần I như đã trình bày, buồng trứng tôm phát triển qua 5 giai đoạn. Trong phần này tôi xin mô tả các dạng buồng trứng phát triển ở giai đoạn 4, những dạng nào có thể đẻ ngay trong đêm, dạng nào chưa đẻ ngay để việc bắt tôm cho đẻ thuận lợi, tránh tình trạng tôm bị bắt nhiều lần không đẻ có thể trứng bị thoái hóa, ảnh hưởng tới tỷ lệ nở và sức khỏe của tôm. Hình 19: Các dạng buồng trứng giai đoạn 4 Buồng trứng của tôm phát triển ở đầu ngực và thân, nhưng do khó quan sát bằng mắt thường nên tôi chỉ mô tả buồng trứng ở phần thân tôm, nơi dễ quan sát nhất bằng mắt thường dưới ánh đèn pin. Hình 19.I. Buồng trứng phát triển đầy đủ trải dài từ đầu đến đuôi, ở đốt giáp đầu ngực trứng xệ sang hai bên, đường trứng đều và đậm. Đây là dấu hiệu cho biết trứng đã phát triển ở giai đoạn 4 và tôm có khả năng đẻ ngay trong đêm. Hình 19.II. Buồng trứng phát triển hơi mờ, phần giữa thân trứng chưa đầy, các đặc điểm khác giống với 19.I, dạng này cũng có khả năng đẻ ngay trong đêm Hình 19.III. Buồng trứng phát triển 2/3 chiều dài thân, nơi có trứng đều và đậm. Dạng này cũng có khả năng đẻ ngay. Hình 19.IV. Trứng phát triển không cân, trứng chỉ chảy xệ bên trái. Nhưng đường trứng đều, đậm. Tôm đẻ trong đêm. Hình 19.V. Trứng phát triển lệch phải, các đặc điểm khác giống 19.IV Hình 19.VI. Trứng phát triển lệch trái, phần giữa thân tôm trứng hơi mờ. Tôm đẻ ngay trong đêm. Hình 19. VII. Trứng phát triển lệch phải, các đặc điểm khác như 19.VI Hình 19.VIII. Trứng phát triển 1/3 thân tôm. Dạng này buồng trứng chưa đầy đủ, tôm cần được nuôi vỗ thêm. Dạng này tôm chưa đẻ ngay. Theo nghiên cứu của chúng tôi, đối với tôm sú có sức sinh sản tốt thì cứ 3 ngày tôm đẻ một lần kể từ lần sinh sản đầu tiên, sau khoảng 2-4 lần đẻ tôm lột xác, sau 12-15 ngày lột tôm tiếp tục đẻ. Trong đời tôm sú đẻ khoảng 6 lần. Cá biệt có những con chỉ đẻ 1-2 lần, có con không đẻ hoặc chết sau vài ngày đưa vào nuôi vỗ. Việc tôm chết hay khả năng sinh sản kém làm ảnh hưởng rất nhiều đến kết quả nghiên cứu chung về sức sinh sản của tôm sú gia hóa và kinh tế trong việc sản xuất giống. Việc tôm chết trong quá trình nuôi vỗ được xác định là do một số nguyên nhân: Tôm bị sốc đột ngột sau khi cắt mắt Tôm sau khi chuyển qua nuôi vỗ phát sinh một số bệnh như đen mang, mòn các phụ bộ, hay chết do lột xác… Vì vậy việc chăm sóc và quản lý tôm phải được đặc biệt quan trọng để có chất lượng sinh sản cao. Đối với tôm mới chuyển qua, sau khi cắt mắt cần được sát trùng và cách ly trong môi trường nước tốt, không nên thả ngay tôm vào bể nuôi vỗ. Việc sát trùng và cách ly có tác dụng ngăn ngừa mầm bệnh, tránh vi khuẩn trong nước tấn công khi tôm đang yếu và sốc nhiệt độ sau cắt mắt. Ngoài ra tôm chết do lột xác là do yếu tố dinh dưỡng và các điều kiện thủy lý, thủy hóa trong bể nuôi không đảm bảo. Khi phát hiện tôm chết do lột xác cần thay nước bể nuôi, đồng thời kiểm tra các thông số môi trường như NH3, NO3…và bổ xung thức ăn chứa nhiều canxi. Tôm chết do nguyên nhân này thường bể nuôi đó kém ăn hoặc bỏ ăn từ 2-3 ngày trước đó. Vì thế cần điều tra rõ nguyên nhân tại sao tôm bỏ ăn, ăn kém để khắc phục kịp thời. Trong thời gian thực tập ngắn ngủi những nghiên cứu và nhận định của chúng tôi chưa thực sự đầy đủ nên cần có những nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này nhằm nâng cao tỷ lệ sống cho tôm mẹ. Trở lại với vấn đề buồng trứng, khi buồng trứng chưa phát triển đến mức độ cực đại tôm vẫn tham gia sinh sản. Đây là vấn đề sinh lý và tập tính của tôm. Quan trọng là trong công tác nuôi vỗ làm thế nào để buồng trướng của tôm phát triển tốt nhất trước khi sinh sản. Khi buồng trứng phát triển kém thì lượng trứng đẻ ít, tỉ lệ nở thấp làm ảnh hưởng rất lớn đến sức đẻ của tôm. Nguyên nhân do một số yếu tố môi trường tác động lên tình trạng sức khỏe và dinh dưỡng cho tôm. Vì thế trong quá trình nuôi vỗ cần xiết chặt quản lý chất lượng nước và tình trạng sử dụng thức ăn của tôm sú để có biện pháp khắc phục. Quan sát của tôi cho thấy các cá thể tôm mẹ có những con có những con buồng trứng phát triển rất tốt, ngay sau 24h sinh sản buồng trứng đã phát triển giai đoạn 3. Những con này trong quá trình nuôi vỗ chúng sử dụng tốt nguồn thức ăn và sức khỏe tốt. Qua tham khảo tài liệu và ý kiến của những kỹ sư lâu năm kinh nghiệm trong lĩnh vực cho đẻ được biết sức sinh sản của tôm mẹ tự nhiên nếu nuôi vỗ tốt thì sức đẻ khá lớn từ 0.9→2.5 triệu trứng/lần đẻ, nhưng một số trại cũng sử dụng tôm mẹ tự nhiên cho sinh sản chỉ đạt lượng trứng từ 0.6→2.0 triệu trứng/lần đẻ. Điều này được lý giải là do thức ăn (các nghiên cứu về thành phần dinh dưỡng và tác dụng của các thành phần này nên sức sinh sản của tôm sú sẽ được trình bày trong phần sức sinh sản). Vậy tại sao tôm mẹ tự nhiên lại có sức đẻ lớn như vậy, trong khi tôm sú gia hóa chỉ đạt 0.3→1.2 triệu trứng/lần đẻ, cao nhất cũng chỉ 1.8 triệu trứng. Trong khi nuôi vỗ cùng thức ăn, chế độ chăm sóc và môi trường gần như nhau mà sức đẻ tôm tự nhiên trung bình khoảng 1.2 triệu, còn tôm sú gia hóa trung bình đạt 0.57 triệu trứng/lần đẻ. Để giải thích thắc mắc này tôi xin trình bày một số quan điểm trong phần sau. Khả năng sinh sản của các dòng tôm sú gia hóa 3.1. Sức sinh sản (sức sinh sản tuyệt đối) Để phát triển nuôi thương phẩm tôm sú điều không thể không quan tâm, đó là con giống. Càng đi lên phát triển nuôi tôm sú quy mô lớn, nuôi công nghiệp chúng ta càng cần một số lượng lớn con giống. Lúc này chúng ta không thể dựa vào con giống tự nhiên, vì vậy con người đã đánh bắt tôm bố mẹ về nuôi để cho đẻ trong điều kiện nhân tạo. Những năm gần đây người ta sử dụng F1 của tôm mẹ tự nhiên nuôi thành tôm bố mẹ cho sinh sản nhân tạo gọi là tôm sú gia hóa. Tôm sú gia hóa là một vấn đề kỹ thuật khá phức tạp. Trung tâm Quốc gia Giống Hải sản Nam Bộ đang nuôi và cho 3 dòng tôm sú gia hóa đẻ trứng, sức đẻ trứng của 3 dòng tôm sú gia hóa như thế nào, chúng ta hãy xem kết quả thu được của chúng tôi trên bảng 11, hình 20. Bảng 11: Sức sinh sản của các dòng tôm sú gia hóa Công thức Trứng/ lần đẻ CT1 525.290 CT2 609.200 CT3 547.940 Hình 20: Biểu đồ sức sinh sản Sức sinh sản là yếu tố đầu tiên để đánh giá chất lượng tôm mẹ. Nếu tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ nở lớn mà sức đẻ thấp thì hiệu quả đem lại chưa chắc cao. Nhìn trên biểu đồ ta nhận thấy một điều rất rõ ràng là sức đẻ của dòng lai chéo là tốt nhất đạt 609.200 trứng/lần đẻ, tiếp đến là dòng Châu Phi đạt 547.940, thấp nhất là dòng thuần 525.290. Nếu chỉ nhìn trên số liệu ta thấy một điều hơi lạ là tại sao dòng thuần lại đẻ kém hơn dòng ngoại nhập và càng thấp hơn dòng lai chéo? dòng lai chéo lại có sức sinh sản lớn nhất là do. + Dòng lai chéo ♀RG + ♂ĐN. Con cái là dòng Rạch Gốc được biết đến là nơi có chất lượng tôm tốt, khỏe, có sức sinh sản cao. + Điều kiện tự nhiên và khí hậu giữa hai vùng tôm bố mẹ sinh sống là tương đương nhau không ảnh hưởng nhiều đến kết quả nghiên cứu. + Tôm bố và tôm mẹ ở hai vùng khác nhau tuy có cách ly về địa lý nhưng vẫn là một loài, không có gì khác nhau về tập tính, đặc điểm sinh sản và hình thái. Mà khi cách ly về địa lý thì ít có khả năng cận huyết. Từ những nguyên nhân trên ta thấy dòng lai chéo có sức sinh sản tốt nhất là hợp lý. Vậy tại sao dòng Châu Phi lại có sức đẻ lớn hơn dòng thuần? trong khi dòng thuần là giống bản địa, Châu Phi là dòng ngoại nhập? + Dòng Châu Phi có một đặc điểm nổi bật là chúng sử dụng nguồn thức ăn khá tốt mặc dù khi mới đưa vào nuôi vỗ dòng ngoại nhập này khá biếng ăn và thích nghi kém hơn so với dòng nội địa. Nhưng sau một thời gian nuôi vỗ chúng lại ăn tốt hơn và khỏe hơn dòng nội địa. Điều quan trọng nhất chúng ta thấy là sức đẻ của cả ba dòng có chênh lệch nhau nhưng không nhiều. Nếu xử lý thống kê bằng ANOVA, kiểm định LSD0,05 so sánh sức đẻ của chúng thì sự khác nhau không có ý nghĩa. Vậy thử so sánh thực tế chúng có gì khác biệt? Bảng 12: Đánh giá hiệu quả kinh tế chênh lệnh Nghiên cúu Thực nghiệm Kết quả Ghi chú Hiệu số sức sinh sản CT2 – CT1 609.200 – 525.290 83.910 (trứng) Tỷ lệ nở (TB) 59.13 % 49.620 (Nau) Tỷ lệ PL15 60% 29.772 (PL15) Theo kỹ sư Nguyễn Thành Luân Hiệu quả kinh tế 100đ /PL15 2.977.200 đ/lần đẻ Vậy với một tôm mẹ có sức sinh sản tốt hơn thì hiệu quả kinh tế tăng thêm 2.977.200 đ /lần đẻ, trung bình tôm đẻ 6 lần trong đời thì hiệu quả kinh tế trên một tôm mẹ tăng thêm 17.863.250 đ . Nếu cho đẻ với số lượng lớn và thời gian dài thì hiệu quả của những tôm mẹ này là rất lớn. Sức đẻ của tôm phụ thuộc rất lớn về dinh dưỡng và thức ăn. Các nghiên cứu về dinh dưỡng và thức ăn động vật đã cho thấy, dinh dưỡng là yếu tố quan trọng nhất góp phần quyết định đến chất lượng thành thục và sinh sản của động vật. Ở tôm Penaeid nói chung, tôm sú nói riêng trong quá trình thành thục, dinh dưỡng dự trữ từ gan tụy (hepatopancreas) được huy động phục vụ cho sự thành thục của buồng trứng thông qua quá trình tổng hợp noãn hoàng. Các mô dự trữ ở gan tụy nhanh chóng cạn kiệt, vì vậy thức ăn thành thục là nguồn dinh dưỡng quan trọng cho quá trình phát triển trứng và điều này càng quan trọng đối với tôm sú trong quá trình nuôi nhốt. Chamberlain và Lawrence (1983) cũng cho biết gan tụy của 2 loài tôm P. setiferus và P. aztecus chứa một lượng khá ít chất dinh dưỡng cần cho sự phát triển buồng trứng, vì vậy hầu hết dưỡng chất phải được cung cấp từ thức ăn. Ngoài ra, theo tổng quan của Benzie (1997) thì trong thực tế hầu hết các nghiên cứu nâng cao chất lượng tôm bố mẹ tập trung vào lĩnh vực dinh dưỡng, bởi đã có những bằng chứng rõ rệt về sự khác biệt thành phần thức ăn dùng cho tôm mẹ giữa các trại giống đều cho kết quả khác nhau về sản lượng trứng và chất lượng ấu trùng (Menasvesta và ctv, 1993). Các nguồn dinh dưỡng tích lũy ở trứng chủ yếu đến từ cơ thể tôm mẹ nên số lượng trứng và chất lượng trứng phụ thuộc nhiều vào yếu tố thức ăn. Thức ăn sử dụng cho tôm sú mẹ là mực, trùn biển và hầu sữa. Khi chúng ta cắt mắt để kích thích cho quá trình sinh sản tôm mẹ thì chúng ta cho ăn thêm ốc càng, vì ốc càng sẽ kích thích quá trình lên trứng. Bốn loại thức ăn ốc càng, mực, trùn biển, hầu sữa chúng ta sử dụng để nuôi chúng là các loại thức ăn được sử dụng nhiều và cho kết quả thành thục và sinh sản tốt. Phân tích thành phần axit béo của Marsden và ctv (1992), cũng như của Viện nghiên cứu NTTS II và Đại học Ghent (Chương trình Nghiên cứu sinh của ThS. Nguyễn Duy Hòa) cho thấy, các nguồn thức ăn này chứa lượng có ý nghĩa DHA, EPA và ARA. Nhóm EPA và ARA là dẫn xuất của hormone prostaglandin, là hormone rất quan trọng cho quá trình thành thục và đẻ trứng; trong khi DHA có ý nghĩa trong việc phát triển hệ thống thần kinh trung ương của giáp xác. Vì thế, EPA và ARA có vai trò trong nâng cao sản lượng trứng (EPA, ARA) và tỷ lệ đẻ (ARA) ở tôm Penaeid trong khi DHA có vai trò nâng cao tỷ lệ nở của trứng (Meunpol, 2005b). Kết quả nghiên cứu của Coman và ctv (2007) cho thấy, việc thay thế một phần thịt mực và nhuyễn thể bằng thịt tôm trong thức ăn của tôm bố mẹ làm giảm có ý nghĩa (P<0,05) các chỉ tiêu như tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ nở của trứng. Ngoài ra, kết quả Nghiên cứu sinh của ThS. Nguyễn Duy Hòa (chưa xuất bản) cũng cho thấy, trong thời gian nuôi thành thục từ khối lượng 80g đến trên 100g/con mà không sử dụng trùn biển (chứa ARA và EPA cao hơn DHA) thì tỷ lệ đẻ và sức sinh sản giảm rõ rệt ở đàn tôm này so với đàn tôm trước đó nuôi thành thục có bổ sung trùn biển. Điều này càng khẳng định kết quả nghiên cứu của các tác giả đã đề cập về vai trò của EPA và ARA trong việc nâng cao sản lượng trứng và tỷ lệ đẻ. Vì vậy, vận dụng các hiểu biết này chúng ta có thể phối chế loại thức ăn tươi sống và bán ẩm trong tương lai vừa nâng cao tỷ lệ nở và sản lượng trứng cho tôm sú nhằm nâng cao sản lượng và chất lượng ấu trùng. Ở tôm sú bố mẹ nhu cầu đạm protein ít nhất 50% (Marsden và ctv, 1997). Các chương trình gia hoá tôm sú bố mẹ cũng sử dụng thức ăn tươi sống như ốc càng, mực, hầu, trùn biển đều có hàm lượng đạm khá cao trong khi thức ăn viên sử dụng trong nuôi tôm mẹ của Aquacop cao nhất cũng chỉ đạt 60%. Trên thực tế, thức ăn độ đạm cao có ý nghĩa cho tăng trưởng hơn là thành thục, trong khi lipid (đặc biệt axít béo) mới là dinh dưỡng quan trọng cho sự thành thục. Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là thường trong các nguyên liệu có độ đạm cao luôn đi kèm sự cân đối về acid amin, đặc biệt acid amin thiết yếu và thường có sự hiện diện của các vi chất cần thiết cho thành thục. Qua các kết quả thu được về sức đẻ trứng của 3 dòng tôm sú gia hóa như trên chúng ta thấy, sức sinh sản của các dòng tôm sú gia hóa không lớn như tôm sú ngoài tự nhiên. Điều này có thể do rất nhiều nguyên nhân như chất lượng thức ăn, môi trường sống, nguồn gốc tôm mẹ, trọng lượng tôm mẹ... Trong tương lai không xa bằng những thí nghiệm, những công trình nghiên cứu chúng ta sẽ tìm ra cách để nâng cao sức sinh sản của các dòng tôm sú gia hóa làm cho sức sinh sản của chúng bằng hoặc cao hơn tôm sú ngoài tự nhiên. Điều này sẽ góp phần giải quyết tình trạng cạn kiệt nguồn tôm bố mẹ tự nhiên, chủ động và cung cấp kịp thời nguồn tôm giống cho thị trường, giúp cho nuôi trồng thủy sản nói chung và nghề nuôi tôm nói riêng phát triển và phát triển bền vững. 3.2. Sức sinh sản tương đối Hình 21: Biểu đồ trọng lượng và sức sinh sản Hình 22: Sức sinh sản tương đối Như trình bày trong bảng 11 và hình 20: sức đẻ của dòng ngoại nhập nhỏ hơn dòng lai chéo 61.260 trứng/lần đẻ, nhưng trọng lượng trung bình (hình 21) lại nhỏ hơn 24.25g/con. Tức là với 1g tôm mẹ dòng ngoại nhập cho số lượng trứng là 4.823 trứng/g, dòng lai chéo là 4.419 trứng/g, thấp nhất vẫn là dòng thuần 4.349 trứng/g. Nhắc lại là hiệu quả đạt được trong sản xuất giống tôm trực tiếp là số lượng tôm giống được tạo ra, liên quan và chịu ảnh hưởng của rất nhiều khâu từ công tác gia hóa, nuôi vỗ thành thục, tuyển chọn tôm cho đẻ, nuôi vỗ cho đẻ, thu và ấp trứng, ương ấu trùng…Làm tốt từng khâu thì sẽ kiểm soát tối đa về dịch bệnh, nâng cao tỷ lệ PL được tạo ra trên số lượng tôm mẹ. Việc nuôi vỗ chú trọng đến chất lượng nước và chế độ chăm sóc. Kiểm tra nước và kịp thời thay nước khi cần thiết (tôm gia hóa nuôi trong hệ thống lọc tuần hoàn ít phải thay nước), đi đôi với đó là đánh giá tình hình sức khỏe, hiệu suất bắt mồi của tôm để thay đổi cho hợp lý. Khi tôm có hiện tượng biếng ăn do thức ăn thì phải thay đổi thức ăn và sử dụng xen kẽ nhiều loại thức ăn trong ngày. Việc xiphong phải thực hiện 3 lần/ngày: 8h, 13h, 17h, vì thức ăn tươi nhất là thức ăn đông lạnh rất nhanh bị phân hủy trong nước tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn phát triển, làm phát sinh mầm bệnh. Dập tắt nguy cơ phát sinh dịch bệnh ngay từ đầu sẽ có tác dụng tốt đối với sức khỏe của chúng làm tăng tần suất bắt mồi và trứng phát triển tốt hơn. Những ngày thời tiết thay đổi như giao mùa, lạnh đột ngột, đêm có mưa lớn… đều làm giảm khả năng ăn của tôm, những ngày này nên giảm lượng cho ăn tránh dư thừa và ô nhiễm nguồn nước. Điều chỉnh lượng cho ăn hợp lý cũng làm giảm một phần chi phí sản xuất. Với 6 bể nuôi vỗ, số lượng trên 100 tôm mẹ thì mỗi ngày chỉ cần dư 1kg thức ăn thì mỗi tháng chi phí tăng thêm 5 triệu/ tháng. Tiết kiệm được phần chi phí không cần thiết này vừa nâng cao thu nhập lại đảm bảo được môi trường ổn định và sạch bệnh cho bể nuôi. Sức sinh sản thực tế Sức sinh sản thực tế là số lượng Nau/g tôm mẹ (chỉ tính với những con tham gia sinh sản). Theo một số tài liệu được biết cứ 1g tôm mẹ trung bình cho 1000Nau, tức là 1con trọng lượng trung bình 124.08g cho 124.080Nau /con (tính cả những con chết và sức sinh sản kém). Vậy kết quả về sức đẻ thực tế của chúng tôi như thế nào hãy theo dõi bảng và hình dưới đây. Bảng 13: Sức sinh sản thực tế Dòng Sức sinh sản thực tế (Nau/g tôm mẹ) CT1 2.230 CT2 2.700 CT3 3.137 Hình 23: Biểu đồ sức sinh sản thực tế Sức sinh sản thực tế chính là chất lượng đẻ của tôm sú. Nó đánh giá được toàn diện về hiệu quả kinh tế và chất lượng tôm bố mẹ khi cho tham gia sinh sản. Theo kết quả trình bày thì dòng Châu Phi cao nhất đạt 3.137Nau/g tôm mẹ, dòng lai chéo là 2.700, Đà Nẵng là 2.230Nau/g tôm mẹ. Chúng ta thử phân tích hiệu quả chênh lệch giữa dòng ngoại nhập và dòng thuần. Bảng 14: Hiệu quả kinh tế chênh lệch Nghiên cúu Thực nghiệm Kết quả Ghi chú Hiệu số CT3-CT1 3.137-2.230 906 Nau/g Tỷ lệ PL15 (TB) 60% 544PL15/g Hiệu quả kinh tế 100đ /PL15 54.400 đ /g 6.749.897 đ /con Rõ ràng là dòng Châu Phi đạt hiệu quả kinh tế cao hơn nhiều so với dòng thuần nguồn gốc bản địa. Vì thế xác định được chất lượng các dòng tôm là cần thiết do chúng không chỉ ảnh hưởng tới chất lượng giống mà còn ảnh hưởng đến lợi nhuận chúng ta đạt được. Dòng Châu Phi được biết đến là có sức khỏe tốt, sử dụng thức ăn tốt, sức sinh sản tuy không cao nhưng tỷ lệ thụ tinh và nở cao dẫn đến sức đẻ thực tế vượt trội so với các dòng khác. Sử dụng dòng tôm sú ngoại nhập này để phát triển các mục đích sản xuất giống là tối ưu nhất cho các trại tôm giống hiện nay. Không chỉ thế mà chất lượng ấu trùng và giống của dòng này cũng có nhiều điểm nổi bật hơn hẳn các dòng khác. Theo ý kiến của các kỹ sư có kinh nghiệm lâu năm thì tôm giống dòng Châu Phi đem nuôi thương phẩm chúng bắt mồi mạnh hơn và sức sinh trưởng, phát triển nhanh hơn dòng bản địa. Tuy nhiên dòng này chỉ phát triển tốt từ ấu trùng tới cỡ 100g/con sau đó hầu như không lớn nữa, còn các dòng bản địa phát triển chậm hơn nhưng chúng tăng trọng tới 150→200g/con mới ngưng phát triển. Nhưng khi nuôi thương phẩm tôm chỉ cần đạt cỡ 40→50g/con là đạt yêu cầu tôm thương phẩm loại I. Vậy dòng Châu Phi cần được mở rộng nghiên cứu và đầu tư để có những đàn tôm bố mẹ tốt hơn nữa. Tỷ lệ thụ tinh Thụ tinh là sự kết hợp giữa trứng của con cái và tinh trùng của con đực. Con cái đẻ nhiều trứng, trứng có khả năng hữu thụ cao nhưng tinh trùng của con đực có chất lượng kém thì tỷ lệ thụ tinh cũng sẽ bị hạn chế. Ngược lại chất lượng tinh trùng của con đực tốt nhưng trứng của con cái có khả năng hữu thụ thấp thì tỷ lệ thụ tinh cũng sẽ không cao. Điều đó có nghĩa là tỷ lệ thụ tinh của trứng là sự tương tác của khả năng sinh sản giữa con đực và con cái. Kết quả đánh giá tỷ lệ thụ tinh của trứng ở 3 dòng tôm sú gia hóa trong nghiên cứu của chúng tôi có trên bảng 15 và hình 24 Bảng 15: Tỷ lệ thụ tinh Dòng Tỷ lệ thụ tinh (%) CT1 94.00 CT2 96.01 CT3 95.35 Hình 24: Tỷ lệ thụ tinh Tỷ lệ thụ tinh mà chúng tôi thu thập được cũng có phần chưa chính xác vì theo tài liệu “hướng dẫn xác định quá trình thụ tinh trứng tôm sú” của Michael R. Hall, Neil Young và Matt Kenway cho biết: Phương pháp thích hợp và thực tế nhất cho các trại giống thương mại xác định tỷ lệ thụ tinh là quan sát trứng dưới kính hiển vi phân tích 3 chiều (nổi) độ phóng đại thấp nhất 40X (a stereo low-power dissection microscope). Trứng thu mẫu cần được phân tích ngay tại từng thời điểm xác định sau khi đẻ. Nhưng trong thực tế trứng sau khi đẻ 6→12h mới được xác định tỷ lệ thụ tinh. Tỷ lệ thụ tinh của dòng lai chéo là tốt nhất đạt 96.01%, tiếp đến là dòng Châu Phi 95.35%, thấp nhất là dòng thuần 94.00%. Vì sự chênh lệch này là không nhiều nên không đánh giá được sự khác biệt giữa các dòng. Với dòng Đà Nẵng có tỷ lệ thụ tinh thấp nhất. Về mặt sinh học, sự thụ tinh nghèo nàn có thể là do chất lượng trứng kém, chất lượng tinh trùng kém, ít tinh trùng trong túi tinh hoặc là do tôm bố mẹ trong điều kiện ép buộc căng thẳng. Cấu trúc của bể đẻ cũng là một yếu tố phá vỡ hoạt động bình thường của tôm khi đẻ, ví dụ tôm cái đụng vào thành bể nhỏ sẽ làm cho trứng và tinh trùng trộn lẫn dưới mức tối ưu, dẫn đến tỷ lệ thụ tinh thấp. Tỷ lệ nở Trứng sau khi thu được ấp trong điều kiện nhân tạo với chất lượng nước tốt và sạch khuẩn, nhờ vậy chúng ta có thể kiểm soát và xác định được tỷ lệ nở của chúng. Tỷ lệ nở của trứng tôm sú gia hóa ở 3 dòng mà chúng tôi thu được trong nghiên cứu này được trình bày trên Bảng 16 và Hình 25 Bảng 16: Tỷ lệ nở của các dòng tôm Dòng Tỷ lệ nở (%) CT1 51.29 CT2 61.09 CT3 65.03 Hình 25: Biểu đồ tỷ lệ nở Ta thấy dòng Châu Phi có tỷ lệ nở cao nhất là 65.03%, tiếp đến là dòng lai chéo 61.09%, dòng thuần 51.29%. Khác với kết quả thu được ở sức sinh sản và tỷ lệ thụ tinh thì tỷ lệ nở cao nhất không phải dòng lai chéo mà là dòng ngoại nhập. Có một số nguyên nhân tác động đến tỷ lệ nở của trứng: + Chất lượng trứng + Chất lượng tinh trùng + Chất lượng nước ấp + Yếu tố môi trường (chủ yếu là nhiệt độ) + Tỷ lệ thụ tinh + Số lần đẻ của tôm mẹ + Thao tác thu và ấp trứng… Nhược điểm lớn nhất của tôm sú gia hóa là nguồn tôm đực không đủ đáp ứng nhu cầu cấy tinh cho tôm cái. Thường với tôm tự nhiên tôm đực chỉ được lấy tinh một lần, nhưng với tôm gia hóa tôm đực được sử dụng lại 2→3 lần. Chính điều này ảnh hưởng rất lớn vì khi lấy tinh lần 2,3 chất lượng tinh trùng không đảm bảo và tỷ lệ hữu thụ thấp. Theo quan sát của tôi cho thấy petasma của tôm đực có nhiều con bị dị hình dị dạng, lên tinh một bên hay tinh không kịp thời sử dụng bị hư hỏng, chuyển màu đen. Có con tinh lên ít, túi tinh trong suốt chứ không trắng đục như tinh tốt. Chất lượng túi tinh như vậy là không đạt tiêu chuẩn để có tỷ lệ nở cao, hoặc tinh trùng yếu có thụ tinh nhưng sau vài giờ phân chia trứng bị hỏng. Hiện nay chúng tôi đang bắt đầu thử nghiệm tiêm kích dục tố cho tôm đực lên tinh, bước đầu có vẻ khả quan vì tinh lên tốt và đều, tuy nhiên chưa thể đánh giá được chất lượng tinh vì nguồn tinh này chưa được sử dụng nên tỷ lệ nở chưa được nghiên cứu. Tôi hy vọng những kỹ thuật ngày càng được nâng cấp và đáp ứng nhu cầu sản xuất nhằm nâng cao tỷ lệ nở và chất lượng ấu trùng. Chất lượng trứng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến tỷ lệ nở vì trứng thiếu dinh dưỡng, bị thoái hóa… thì tỷ lệ nở thấp. Có con đẻ trứng dính, trứng nổi hay vón cục dưới đáy bể cũng làm ảnh hưởng nhiều tới kết quả sinh sản nói chung. Ngoài ra tỷ lệ nở còn phụ thuộc vào thao tác thu, ấp trứng và chất lượng nước, mà nguyên nhân này là do con người. Khi thu trứng phải nhẹ nhàng và thu trứng càng sớm (sau khi đẻ) càng tốt. Vì khi trứng đã phân cắt rất dễ bị bể làm hư hỏng trứng. Tôm đẻ về đêm từ 21h tối hôm trước tới 2h sáng hôm sau, vậy thu trứng lúc 5→6h sáng là thích hợp Chất lượng nước phải đảm bảo. Trong bể đẻ và bể ấp nước phải được lọc qua ba bước: lọc thô, xử lý hóa chất, diệt khuẩn bằng hệ thống lọc UV. Trước khi cấp nước vào bể đẻ và bể ấp cần kiểm tra dư lượng chlorine và đánh EDTA 10ppm để làm giảm tỷ lệ trứng bể trong nước. Khi ấp và ương ấu trùng thường bị nấm đỏ ở đáy bể, thao tác phải khéo léo và sử dụng riêng dụng cụ để tránh lây truyền từ bể này qua bể khác. Khi có nấm đỏ thì xử lý ngay, tiêu diệt mầm bệnh và tránh lây lan. PHẦN IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Ý KIẾN Kết luận Trong thời gian nghiên cứu các yếu tố môi trường nằm trong khoảng thích hợp cho tôm sú sinh trưởng và phát triển tốt, sự chênh lệch không đáng kể, không ảnh hưởng nhiều tới sức sinh sản của tôm. Buồng trứng phát triển như thế nào phụ thuộc rất lớn vào chất lượng thức ăn. Khi đến chu kỳ sinh sản tôm vẫn đẻ trứng ngay cả khi buồng trứng chưa phát triển đầy đủ. Vậy nên công tác nuôi vỗ cho đẻ như thế nào để tôm sử dụng thức ăn tốt nhất nhằm tích lũy đầy đủ dưỡng chất cho việc lên trứng và hiệu quả sinh sản tốt nhất. Sức sinh sản của dòng lai chéo là tốt nhất, điều này liên quan rất lớn đến chế độ chăm sóc, cho ăn và các thành phần dinh dưỡng trong thức ăn. Trong nghiên cứu sức sinh sản thì các đánh giá sức sinh sản tương đối và thực tế mới có ý nghĩa nhất. Trọng lượng tôm mẹ cũng ảnh hưởng tới sức sinh sản của tôm. Ta thấy dòng Châu Phi trọng lượng nhỏ nhất, sức sinh sản không phải là cao nhất nhưng đánh giá qua trọng lượng cho thấy dòng này lại có sức sinh sản thực tế tốt nhất. Nói tóm lại: dòng Châu Phi có những đặc điểm nổi bật về tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ nở. Các đánh giá về sức sinh sản thực tế, sức sinh sản tương đối càng khẳng định rõ hiệu quả kinh tế khi cho dòng này đẻ. Với dòng lai chéo ♀ Rạch Gốc + ♂ Đà Nẵng có sức đẻ cao nhưng chất lượng con giống không bằng giống Châu Phi. Lựa chọn dòng nào cho thích hợp là việc cần nghiên cứu thêm hoặc cho lai kinh tế giữa hai dòng này để thử nghiệm trong tương lai có thể mang nhiều triển vọng. Đề xuất ý kiến Quản lý chặt chẽ chế độ chăm sóc, nuôi vỗ. Tận dụng tối đa nguồn thức ăn tươi, hạn chế thức ăn đông lạnh Thay đổi giờ làm việc cho phù hợp với đặc điểm sinh sản của tôm sú Bổ xung các thiết bị máy móc dùng cho nghiên cứu Qua những nghiên cứu lựa chọn những dòng tôm tốt nhất cho tham gia sinh sản. Kiểm soát tối đa dịch bệnh và cách ly điều trị kịp thời những con tôm yếu, nhiễm khuẩn tránh lây lan. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt: 1. Nguyễn Văn Chung, 1991. Nghiên cứu sự thành thục một số loài tôm biển trong điều kiện nuôi nhốt. Tuyển tập báo cáo khoa học về biển lần thứ III. Trang 40 - 50. Đề tài cấp Ngành. 2. Nguyễn Văn Chung, 1994. Nghiên cứu khả năng sinh sản của tôm sú (Penaeus monodon) mới trưởng thành trong điều kiện nuôi nhốt. Tuyển tập Nghiên cứu biển. Tập V. Trang 97 - 102. Đề tài cấp Ngành, 1994. 3. Đoàn Văn Đẩu, 1991. Nghiên cứu ứng dụng quy trình sản xuất giống tôm biển trong điều kiện Việt Nam. Đề tài cấp Ngành, 1991. 4. Nguyễn Quốc Hưng, 2003. Nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh học và kỹ thuật làm cơ sở khoa học cho chương trình cải thiện chất lượng di truyền của tôm sú (Penaeus monodon) tại Việt Nam. 5. Vũ Trọng Nho, Tạ Khắc Tường, Lục Minh Diệp, 2006. Kỹ thuật nuôi giáp xác. NXB TP Hồ Chí Minh. 6. Nguyễn Cơ Thạch, 1996. Nghiên cứu tạo nguồn tôm sú (Penaeus monodon Fabricius) bố mẹ thành thục bằng phương pháp nuôi lồng ở biển. Đề tài cấp Ngành, 1996. 7. Phạm Văn Tình, 1998. Nghiên cứu quy trình sản xuất giống tôm sú (Penaeus monodon) chất lượng cao. Đề tài cấp Ngành, 1998. 8. Ngô Anh Tuấn, 1996. Thử nghiệm sản xuất giống nhân tạo tôm sú (Penaeus monodon, Fabricius) từ nguồn tôm mẹ giao vỹ và cấy ghép tinh nhân tạo. Đề tài cấp Ngành, 1996. 9. Ong Mộc Qúy, 2011. Bài giảng kỹ thuật nuôi giáp xác. Trường CĐ Kỹ Thuật_ Công Nghệ Vạn Xuân. 10. Lê Xân, 1998. Thử nghiệm nuôi vỗ tôm sú bố mẹ tại vịnh Hạ Long - Cát Bà. Đề tài cấp Ngành (1995 - 1998). Tài liệu tiếng Anh: 11. Benzie, J.A.H., 1997. A review of the effects of genetics and environment on the maturation and larval quality of the giant tiger prawn Penaeus monodon. Aquaculture 155: 69-85. 12. Harrison, K.E., 1990. The role of nutrition in maturation, reproduction and embryonic development of decapod crustacean, a review. J. Shellf. Res., 9: 1-28. 13. Wurts, W.A., Stickney, R.R., 1984. An hypothesis on the light requirements for spawning penaeid shrimp, with emphasis on Penaeus stylirostris. Aquaculture 41: 93-98. 14. Xu, X.L., Ji, W.J., Castell, J.D., O’Dor, R.K., 1994. Influence of dietary lipid sources on fecundity, egg hatchability and fatty acid composition of Chinese prawn (Penaeus chinensis) broodstock. Aquaculture 119, 359-370. 15. Michael R. Hall, Neil Young và Matt Kenway, 1996 – 2002. Manual for the Determination of egg fertility in Penaeus monodon. PHỤ LỤC HÌNH ẢNH Hình 1: Cấy tinh cho tôm Hình 2: Đánh dấu tôm bằng cách buộc đuôi và đeo dấu mắt Hình 3: Bể đẻ Hình 4: Vợt thu trứng Hình 5: Đếm trứng, xác định tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ nở Hình 6 : Bể ấp trứng Hình 7: Bố trí các khu vực trong trung tâm Hình 8: Thiết kế nhà nuôi vỗ và bể đẻ Hình 9: Thiết kế nhà ấp và ương ấu trùng (số lượng bể chỉ mang tính minh họa) Tủ lạnh (Hình 7) Phòng trực (Hình 9) Cửa chính Cửa bên Đường ngầm dẫn nước: Ống dẫn nước nổi: Ống dẫn khí: Đường thoát nước: Nhà sản xuất và nghiên cứu: 1→14 (Hình 7) Bể nuôi vỗ tôm mẹ: 1→5 (Hình 8) Bể đẻ: 9→20 (Hình 8) Bể nước cấp: 6→8 (Hình 8), 19→21 (Hình 9) Khu chứa dụng cụ: 21 (Hình 8), 22 (Hình 9) Máy lọc nước & máy bơm: 22 (Hình 8), 18 (Hình 9) Bể ấp và ương ấu trùng: 1→17 (Hình 9) NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN ………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan_van_nghien_cuu_buong_trung_va_kha_nang_sinh_san_cua_cac_dong_tom_.doc
Luận văn liên quan