Đổi mới, nâng cao hiệu quả của việc tiếp thị, tìm kiếm thị trường là
yêu cầu bức thiết của ngành cà phê. Hiện nay cà phê Việt Nam được xuất
sang trên 50 quốc gia và vùng lãnh thổ nhưng còn thiếu những thị trường
truyền thống. Những bạn hàng lâu năm, đáng tin cậy còn chưa thật nhiều.
Ngành cà phê Việt Nam cũng còn chưa tham gia các thị trường kỳ hạn.
Đó là các mặt còn non yếu của ngành cà phê
32 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2652 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiên cứu luận cứ khoa học để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp - Nông thôn theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, người
ta đầu tư nhiều vào đa dạng hoá mặt hàng cà phê hữu cơ đặc biệt bởi xu
hướng này cũng đang phát triển khá mạnh.
Ở Ấn Độ, tiêu thụ cà phê trong thập kỷ vừa qua gần như không có
chuyển biến nhiều, giữ ở mức 0,92 đến 1 triệu bao mỗi năm, trong đó
80% ở các thị trấn lớn ở vùng trồng cà phê phía nam. Ở các khu vực
khác, người ta rất ít uống cà phê. Đối thủ chính của cà phê ở các vùng này
là trà và các loại đồ uống lạnh. Người dân phía bắc lại có vẻ thích cà phê
nhập khẩu hơn nhưng như vậy giá cả lại khá đắt và vượt quá khả năng
của một số khách hàng tiềm năng. Ấn Độ là một trong những nước đông
dân nhất thế giới nên phạm vi phát triển khá rộng, tuy nhiên để đạt được
sự chấp thuận của công chúng thì còn nhiều việc cần phải làm. Giá cả là
điều kiện khá quan trọng trong quyết định của người tiêu dùng nước này
do có nhiều loại đồ uống khác có giá rẻ hơn nhiều.
5
Dự trữ cà phê đầu niên vụ 2000/01 tại những nước nhập
khẩu cà phê giảm 0,74 triệu bao xuống còn 20,35 triệu bao. Tuy nhiên
kho dự trữ chiến lược tăng từ 16 triệu bao năm 2000 lên 20 triệu bao năm
2002. Tiêu thụ cà phê toàn cầu mấy năm gần đây ở mức 109 triệu bao.
Các nước nhập khẩu tiêu thụ 81,75 triệu bao năm 2002 so với mức 82
triệu bao năm 2001. Lượng cà phê tiêu thụ ở 5 nước tiêu thụ cà phê nhiều
nhất thế giới, trong đó Nhật bản đứng thứ ba thế giới tiêu thụ 7 triệu
bao/năm lại đang giảm mạnh.
Bảng 2: Tiêu thụ tại các nước nhập khẩu đứng đầu
Đơn vị: 1000 bao
Nước 2001/02 2000/01 1999/00 1998/99
Mỹ 19500 19400 18700 19100
EU 34800 34600 34400 34400
Nhật 7000 6900 6800 6500
Tổng ở các nước
NK 78600 78100 77100 77000
Nguồn: www.vicofa.org.vn
Nhìn vào bảng trên ta thấy tốc độ tăng trưởng tiêu dùng cà
phê tại các nước nhập khẩu phát triển quá chậm, thậm chí chậm hơn
nhiều so với dự đoán, mặc dù giá đã giảm quá mạnh. Tuy nhiên nhu cầu
cà phê đặc sản vẫn tiếp tục chuyển biến theo chiều hướng tốt, đặc biệt ở
các nước EU. Tốc độ tăng của tiêu thụ cà phê ở khối EU hoàn toàn phản
ánh được sự phát triển của thị trường cà phê đặc sản, đặc biệt ở Đức và
Anh quốc.
Trong khối EU, Vương quốc Anh có lượng tiêu thụ cà phê
theo đầu người thấp nhất, khoảng 2,4 kg mỗi năm, trong khi Thuỵ Sĩ
đứng đầu với 11,9 kg/người/năm. Hiện tượng cà phê đặc sản cũng đang
lan rộng tại nước này và các hiệp hội cấp khu vực và cấp quốc gia đang
nỗ lực tìm kiếm biện pháp đẩy mạnh nhu cầu.
Tốc độ tăng trưởng nhu cầu cà phê tại Nhật Bản mấy năm lại
đây có xu hướng khá tốt do lượng cà phê được uống tại nhà tăng đáng kể
cộng thêm sự mở rộng của mạng lưới các cửa hàng cà phê đặc sản. Trong
năm 2000 nước này đã nhập khẩu 7,36 triệu bao cà phê. 11 tháng đầu
6
năm 2001 Nhật Bản đã nhập khẩu tăng 1,2% so với cùng kỳ năm 2000.
Công nghệ tiên tiến, ví dụ như sản xuất loại phin pha cà phê dùng 1 lần,
chiếm vị trí quan trọng trong bước phát triển này.
Với chương trình khuyến khích tiêu thụ cà phê của ICO, cà
phê ngày càng được coi là thời thượng ở Nga, nhu cầu tăng lên khá rõ rệt.
Tuy nhiên các công ty trong nước chi chiếm 15% thị phần, 85% còn lại
thuộc về các tập đoàn lớn như Nestle. Năm 2001 nước này đã nhập 21400
tấn cà phê, tăng 5,4 lần so với năm 2000. ICO cho biết tiêu thụ tại thị
trường này sẽ tăng 19% mỗi năm. Cà phê hoà tan hiện nay khá được ưa
chuộng tại Nga và ngày càng nhiều công ty trong nước tham gia vào sản
xuất loại sản phẩm này. Cà phê được nhập khẩu thâm nhập vào thị trường
thông qua việc đẩy mạnh sản xuất và thiết lập các nhà máy đóng gói và
các cơ sở phân phối. Tuy Nga là nước có truyền thống uống trà, mặc dù
nhập khẩu chè vẫn không mấy thay đổi, nhập khẩu cà phê vẫn tăng khá
đều.
Theo ICO, Trung Quốc cũng là nước mục tiêu của ICO bên
cạnh Nga, mỗi năm tiêu tụ tăng tới 30%. Tuy nhiên đây chỉ là bước nhảy
vọt từ con số ban đầu quá nhỏ bé do văn hoá trà đã ăn sâu vào tiềm thức
người dân, mọi ý định thay đổi đều gặp những phản kháng khá mạnh. Các
quán bar đã được đưa vào, chủ yếu đặt tại Bắc Kinh và Thượng Hải.
Bảng 3: Tổng tiêu thụ toàn cầu.
Đơn vị: Triệu bao
Nhóm 2001/02 2000/01 1999/00 1998/99
Nước NK 78,6 78,1 77,1 77
Nước SX 27,0 26,4 25,9 25,0
Tổng 105,6 104,5 103,3 102,0
Nguồn: www.vicofa.org.vn
Với khoảng 1/4 dân số thế giới hiện uống cà phê thường xuyên,
triển vọng tăng tiêu thụ là rất khả quan. Tuy nhiên, nếu chúng ta chỉ chờ
đợi và không có hành động tích cực nào để đẩy mạnh, e rằng tốc độ tăng
chắc chắn sẽ còn chậm chạp chẳng khác gì những năm vừa qua. Và nếu
7
cứ giữ mức tăng chưa đầy 5% mỗi năm hiện nay có lẽ tới vụ 2005/26
chúng ta mới hy vọng tổng lượng tiêu thụ đạt mức 110 triệu bao.
3. THỊ TRƯỜNG QUỐC TẾ CỦA CÀ PHÊ VIỆT NAM.
Tuy sản lượng bắt đầu giảm, Việt Nam vẫn là nước sản xuất cà phê
lớn thứ hai thế giới, chỉ sau Braxin, đồng thời ở Việt Nam cà phê cũng là
mặt hàng nông sản xuất khẩu có giá trị lớn đứng thứ hai sau gạo. Giá trị
cà phê xuất khẩu thường chiếm gần 10% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng
năm. Vụ 2000/01 Việt nam đã xuất cà phê đi 61 nước, trong đó 10 nước
nhập khẩu cà phê đứng đầu gồm:
Bảng 4: 10 nước nhập khẩu hàng đầu của ngành cà phê Việt Nam
STT Tên nước Số lượng (tấn)
Trị giá
(USD)
% so với tổng xuất
khẩu
1 Bỉ 138603 57947984 15,85
2 Mỹ 137501 59371585 15,72
3 Đức 134321 60054805 15,36
4 Tây Ban Nha 73852 31666889 8,44
5 Ý 62559 27796789 7,15
6 Pháp 45998 20147381 5,26
7 Ba Lan 38155 17171839 4,36
8 Anh 30153 13055058 3,45
9 Nhật 26905 13274686 3,08
10 Hàn Quốc 26288 11310104 3,01
Nguồn: www.vicofa.org.vn
Trong vụ 2001/02 dù tình hình giá cả biến động không lợi cho
chúng ta nhưng thị trường tiêu thụ cà phê Việt Nam không những không
giảm mà còn tăng lên từ 61 lên 64 quốc gia và vùng lãnh thổ. Tuy nhiên
về lượng tiêu thụ của từng nước có những thay đổi lớn. Đức lại nổi lên là
khách hàng số 1 của Việt Nam với 112739 tấn, Mỹ nhập cà phê Việt Nam
ít đi ở vị trí thứ hai với số lượng nhỏ đi nhiều là 89288 tấn.
Vụ 2000/01 có 15 nước hàng đầu nhập trên 10000 tấn tổng cộng đã
nhập 785086 tấn chiếm 89,75% thị phần. Vụ 2001/02 này cũng có 15
8
nước hàng đầu nhập trên 10000 tấn tổng cộng đã nhập 614275 tấn chiếm
86,06% thị phần (624275 tấn). Và danh sách 15 nước này qua hai vụ chỉ
thay đổi 1 nước còn 14 nước giữ nguyên nhưng có thay đổi vị trí. 14 nước
đó là: Đức, Mỹ, Tây Ban Nha, Ý, Bỉ, Ba Lan, Pháp, Nhật, Hàn Quốc,
Anh, Philippines, Hà Lan, Úc, Hungari. Nước thứ 15 ở vụ 2000/01 là
Canada và ở vụ sau là Romania. Trung Quốc cũng là một khách hàng khá
ổn định nhiều năm, Ấn Độ và Indonesia là hai nước sản xuất cà phê vào
hàng lớn ở châu Á nhưng hàng năm vẫn mua cà phê của ta. Riêng thị
trường Nga thì chúng ta chưa bán được nhiều, mỗi năm chỉ vài trăm tấn.
4. TÁC ĐỘNG CỦA THẾ GIỚI.
Năm 1994 do những đợt sương muối và sau đó là hạn hán diễn ra ở
Braxin (nước xuất khẩu cà phê hàng đầu thế giới) vì vậy đã làm cho sản
lượng cà phê của nước này giảm xuống gần 50%, do đó đã góp phần làm
cho giá cà phê tăng vọt, có lợi cho những người trồng và xuất khẩu cà phê
trên thế giới.
Do sự kích thích của giá cả thị trường nên ở Việt Nam, diện tích và
sản lượng cà phê tăng lên quá nhanh, vượt các mục tiêu của kế hoạch,
ngoài tầm kiểm soát của ngành cũng như của Nhà nước. Vấn đề này đã có
tác động quan trọng trong việc cung cấp dư thừa cà phê trên thị trường,
đẩy giá cà phê đến mức thấp nhất trong thời gian mấy chục năm qua,
chính ngành cà phê Việt Nam chịu nhiều thiệt thòi vì sản lượng càng lớn
thua lỗ càng nhiều.
Theo ICO, nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng cà phê
hiện nay là do cung vượt cầu, sản lượng cà phê năm 2002 đạt 120 triệu
bao, tăng 9 triệu bao so với niên vụ trước. Năm 2001, sản lượng cà phê
thế giới là 116,3 triệu bao, cao hơn khoảng 10 triệu bao so với nhu cầu
tiêu dùng. Trong khi đó, sản lượng cà phê Robusta lại tăng từ mức trung
bình 30% lên 39% tổng sản lượng thế giới. Ngân hàng thế giới (WB) cho
biết sản lượng cà phê toàn cầu trong 5 năm trở lại đây ở mức trung bình
114 triệu bao, cao hơn nhiều so với mức trung bình 99 triệu bao trong các
niên vụ từ 1992 – 1997. Yếu tố này gây ra áp lực rất lớn lên ngành cà phê
Việt Nam, nước sản xuất cà phê Robusta lớn nhất thế giới và là nước xuất
khẩu thứ nhì sau Braxin. Giá cà phê Robusta đã giảm từ mức 3000
USD/tấn từ năm 1994 – 1998 xuống còn 320 USD/tấn vào năm 2001.
9
Có thể nói tình hình phát triển chung của ngành cà phê toàn cầu tác
động lớn đến ngành cà phê nước ta. Ngành cà phê Việt nam sau một vài
năm phát triển với tốc độ quá nhanh nên cũng gặp rất nhiều khó khăn.
Giá bán cà phê thấp nên doanh thu không đủ chi phí sản xuất và người
nông dân đã ngừng mua phân bón, nước tưới và không chăm sóc cho cây
cà phê. Nhiều hộ nông dân ở Tây Nguyên đã lâm vào cảnh nghèo đói.
Các tỉnh Đak Lak và Gia Lai cũng đã dự kiến cắt giảm diện tích cà phê
khoảng gần 90000 ha. Sản lượng cà phê cũng đã giảm từ 900000 tấn năm
2000 xuống 700000 tấn trong năm 2001.
Xem xét diễn biến của tình hình xuất khẩu cà phê ở Việt Nam qua
các vụ từ 1995/96 đến 2000/01 có thể thấy sự tăng trưởng nhanh chóng
về lượng xuất khẩu cùng với sự giảm sút nhanh chóng về giá cả:
Bảng 5: Lượng xuất khẩu và đơn giá bình quân.
Niên vụ Xuất (tấn) Đơn giá bình quân (USD/tấn)
1994/95 212038 2633
1995/96 221496 1815
1996/97 336242 1198
1997/98 395418 1521
1998/99 404206 1373
1999/00 653678 823
2000/01 874676 436,6
Nguồn: www.vicofa.org.vn
Các vụ cà phê từ 1998/99 về trước lượng cà phê xuất khẩu tăng
hàng năm không lớn lắm. Nhưng hai vụ 1999/00 và 2000/01 mỗi vụ tăng
trên 200000 tấn tức là tăng khoảng 3,5 triệu bao, và đơn giá xuất khẩu hai
vụ này cũng thấp thảm hại, giá vụ sau chỉ bằng xấp xỉ 60% giá vụ trước.
Tình hình này đem lại cho những người trồng cà phê và các doanh nghiệp
xuất khẩu nhiều khó khăn, nếu kéo dài thì chắc chắn sẽ không chịu đựng
nổi. Kết quả tất yếu dẫn đến là nông dân bỏ không chăm sóc vì hết khả
năng đầu tư và cũng không thu hái sản phẩm để vườn cây suy thoái dần,
thậm chí còn chặt bỏ cà phê để trồng cây khác.
10
Do sản lượng cà phê tăng nhiều, giá cà phê xuống thấp nên việc
xuất khẩu gặp rất nhiều khó khăn và đã phát sinh nhiều tranh chấp về hợp
đồng, bị khách hàng phàn nàn, kiện cáo. Tổ chức cà phê thế giới (ICO) đã
khuyến cáo các nước sản xuất cà phê giảm sản lượng, đưa ra những tiêu
chuẩn khắt khe về cà phê xuất khẩu, huỷ cà phê xấu, không xuất khẩu cà
phê vối có trên 150 lỗi/300 gam, cà phê chè có trên 86 lỗi, cà phê nhân có
thuỷ phần trên 12,5%,.... Nhưng đây cũng lại là một vấn đề: nhiều doanh
nghiệp xuất khẩu cà phê đều thừa nhận việc nâng cao chất lượng cà phê
là yêu cầu bức thiết nhưng loại cà phê chất lượng cao vẫn chưa có đầu ra
ổn định. Cái khó nữa của nhà sản xuất là chi phí đầu tư để sản xuất loại
sản phẩm chất lượng cao thường tốn thêm 30-40 USD/tấn (gồm chi phí
vận chuyển đến nhà máy, giảm tạp chất, giảm hạt vỡ,...) nhưng các nhà
xuất khẩu chỉ chấp nhận mức chênh lệch so với loại cà phê thường
khoảng 20 USD/tấn.
Trước tình hình khó khăn của ngành cà phê, từ năm 2000
đến nay Chính phủ Việt Nam đã đưa ra nhiều chủ trương, biện pháp tích
cực, kể cả biện pháp tài chính huy động ngân sách nhà nước để giúp đỡ
nông dân cũng như các doanh nghiệp qua khỏi khó khăn như:
- Quyết định 116/2000/QĐ/BNN-KH ngày 15-11-2000 về việc ban
hành Quy chế tạm trữ và quản lý lượng cà phê tạm trữ.
- Quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài chính Về việc thưởng theo kim
ngạch xuất khẩu cho các mặt hàng gạo, cà phê, thịt lợn, rau quả hộp trong
năm 2001.
- Thông tư số 01/2000/TT-BTM ngày 5 tháng 1 năm 2001 hướng
dẫn điều khoản giá trong hợp đồng xuất khẩu cà phê.
- Quyết định 1067/QĐ-TTg ngày 27-10-2000 của Thủ tướng Chính
phủ về việc hỗ trợ cà phê xuất khẩu niên vụ 2000-2001 .
- Chính sách khoanh nợ và giãn nợ đối với những khoản vay đầu tư
trồng cà phê trong những năm trước cho các hộ nghèo và đồng bào dân
tộc thiểu số, miễn thuế nông nghiệp cho đất trồng cà phê, tiếp tục cho
nông dân vay tiền để chăm sóc vườn cà phê hoặc trồng cây khác v.v….
Tuy nhiên, những giải pháp đó mang tính chất tạm thời hơn là
những chính sách mang tính dài hạn. Do khả năng tài chính của đất nước
có hạn nên thực hiện các chính sách này cũng còn nhiều khó khăn. Chẳng
hạn chính sách thu mua tạm trữ đã góp phần tăng giá xuất khẩu lên tới
25,4% ngay tại thời điểm áp dụng nhưng việc tạm trữ diễn ra không lâu
sau đó lại phải xuất khẩu nên giá lại giảm. Tác dụng của chính sách này
11
bị hạn chế do người hưởng lợi chính là người kinh doanh xuất khẩu.
Chính sách thưởng theo kim ngạch xuất khẩu có thể nâng giá bán lên
khoảng 3,4% nhưng cũng là mang tính tạm thời vì sản lượng trong và
ngoài nước vẫn tiếp tục tăng lên và không đủ mạnh để giữ giá lâu, và tác
động trực tiếp của nó là các nhà xuất khẩu được lợi chứ không phải là
nông dân trồng cà phê, nhất là những ngừi nghèo....
Để ngành cà phê Việt Nam đứng vững và phát triển ổn định, điều
quan trọng hơn cả là cần có một chiến lược hoàn chỉnh cho ngành cà phê
cả về sản xuất, kinh doanh, các giải pháp và tổ chức quản lý ngành. Chính
phủ cần phải chỉ ra hướng đi cho ngành cà phê và sự điều chỉnh phương
hướng là một vấn đề cần phải làm ngay đối với ngành cà phê Việt Nam.
Cuộc khủng hoảng dư thừa cà phê hiện nay đã tác động rất xấu đến
ngành cà phê Việt Nam. Nhưng cũng có thể nói là bên cạnh những mặt
xấu đó cũng có mặt tốt là chính trong khó khăn này những người làm cà
phê mới thấy rõ những thiếu sót tồn tại của mình và từ đó chọn cho mình
hướng đi đúng đắn hơn.
B. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT TRONG NƯỚC.
1. TÌNH HÌNH CHUNG CẢ NƯỚC
Nước Việt nam nằm trong vành đai nhiệt đới Bắc Bán cầu, trải dài
theo phương kinh tuyến từ 8030’ đến 23030’ vĩ độ Bắc. Điều kiện khí hậu
và địa lý rất thích hợp với việc phát triển cà phê. Miền địa lý khí hậu phía
Nam thuộc khí hậu nhiệt đới nóng ẩm thích hợp với cà phê Robusta.
Miền khí hậu phía Bắc có mùa đông lạnh và có mưa phùn thích hợp với
cà phê Arabica.
Cách đây 25 năm, vấn đề phát triển cây cà phê được đặt ra, chủ yếu
là tại địa bàn hai tỉnh Đak Lak và Gia Lai Kontum ở Tây Nguyên. Vào
thời gian này cả nước mới chỉ có không đầy 20000 ha phát triển kém,
năng suất thấp với sản lượng chỉ khoảng 4000 – 5000 tấn.
Trong vòng 15-20 năm trở lại đây ngành cà phê nước ta đã có
những bước phát triển nhanh vượt bậc, sản lượng cà phê cả nước
tăng lên hàng trăm lần. đến nay đã có hơn 500000 ha, hầu hết sinh
12
trưởng khoẻ, năng suất cao, tổng sản lượng đạt tới 900000 tấn.
Diện tích cà phê ở Việt Nam bắt đầu tăng nhanh vào nửa cuối thập
kỷ 80 của thế kỷ 20. Nguyên nhân dẫn đến những thành tựu đó
trước hết là nhờ chính sách đổi mới của Nhà nước phù hợp với
nguyện vọng của nông dân là làm giàu trên mảnh đất của mình dựa
vào sự cần cù lao động của bản thân mình. Về nguyên nhân khách
quan phải nói rằng đó là do giá cà phê trên thị trường trên thế giới
những năm gần đây diễn biến theo hướng có lợi cho người sản
xuất, cà phê làm ra bán được giá cao hơn và thu nhập của người
nông dân cũng tăng lên đáng kể. Sự kích thích của giá cả là động
lực mạnh nhất thúc đẩy cà phê ở Việt Nam phát triển nhanh chóng.
Từ năm 1992 đến 2001 sản lượng cà phê của Việt nam tăng liên
tục, nhưng đến niên vụ 2001 – 2002 sản lượng cà phê đã bắt đầu
giảm.
Ta có thể thấy sự phát triển quá nhanh của ngành cà phê Việt Nam
qua những con số diện tích và sản lượng 9 niên vụ vừa qua:
Bảng 6: Diễn biến diện tích và sản lượng cà phê Việt nam trong 9
niên vụ vừa qua.
Niên vụ Diện tích (ha) Sản lượng (tấn)
1992/93 140000 140400
1993/94 150000 181200
1994/95 215000 211920
1995/96 295000 236280
1996/97 350000 342300
1997/98 410000 413580
1998/99 460000 404206
1999/00 520000 700000
2000/01 500000 900000
2001/02 612000
13
2002/03 550000
Nguồn: www.vicofa.org.vn
Việc giảm sản lượng do hai nguyên nhân chủ yếu sau:
Bỏ một số diện tích cà phê chuyển sang loại cây trồng khác do hiệu
quả cây cà phê quá kém. Ở Đak Lak, tỉnh tập trung nhiều cà phê,
chiếm tới 60% tổng sản lượng cà phê cả nước đã bỏ tới 40000 ha
cà phê chuyển sang cây ca cao, hồ tiêu, cao su, cây ăn quả, điều và
cả cây bông, ngô...
Giảm đầu tư do thiếu vốn, bón ít phân, tưới không đủ nước,...
Với tổng diện tich đạt trên 500000 ha và sản lượng 10 triệu bao
mỗi năm, cà phê hiện nay được xếp thứ hai sau gạo trong danh mục hàng
nông sản xuất khẩu của Việt Nam. Để đạt được sản lượng cao như vây,
ngành cà phê Việt Nam mỗi năm thu hút khoảng 300000 hộ gia đình, với
trên 600000 lao động, đặc biệt vào 3 tháng thu hoạch, con số này có thể
lên tới 700000 hoặc 800000. Như vậy, số lao động của ngành cà phê đã
đạt tới 1,83% tổng lao động trên toàn quốc nói chung và 2,93% tổng số
lao động trong ngành nông nghiệp nói riêng. Ngoài ra còn có khoảng trên
một triệu người có cuộc sống quan hệ với ngành sản xuất cà phê.
Chính vì vậy, thu hẹp diện tích sản xuất là chính sách ảnh hưởng
mạnh nhất đối với ngành và người trồng cà phê trong thời điểm hiện nay.
Cùng với việc thu hẹp diện tích trồng cà phê, chính sách đa dạng hoá sản
xuất đóng vai trò quan trọng trong việc đa dạng hoá thu nhập, tránh tình
trạng phụ thuộc vào một loại cây trồng.
2. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT CÀ PHÊ Ở TỈNH ĐAK LAK.
Với điều kiện tự nhiên ưu đãi và có khoảng 200000 hộ gia đình
tham gia trồng cà phê, Đăk Lăk là tỉnh sản xuất cà phê chính của Việt
Nam, đóng góp 53% sản lượng và 50% kim ngạch xuất khẩu cà phê cả
nước. Đối với tỉnh Đak Lak cà phê có giá trị xuất khẩu chiếm 85 – 90%
kim ngạch xuất khẩu và 45 – 50% giá trị GDP. Diện tích cà phê tăng từ
153050 ha (1996) lên 173200 ha (1999). Do thị trường cà phê có giá, cà
phê trở thành nguồn thu nhập lớn nhất đối với người dân địa phương, nên
diện tích cà phê đã tăng đột biến, không theo quy hoạch và các cơ quan
14
chức năng của địa phương cũng không thể kiểm soát nổi. Tại các địa
phương đồng bào đã phá rừng trồng cà phê, thậm chí họ còn phá cao su
để trồng cà phê và trồng cà phê trên những diện tích đất không có khả
năng tưới và không đảm bảo độ sâu tầng đất. Diện tích cà phê của các
huyện: Đăk Mil, Đăk Nông, Đăk R’Lấp do dân di cư tự do vào phá rừng
trồng từ những năm 1997 trên các đồi cao, sườn dốc, không có cây che
bóng và không đảm bảo quy trình kỹ thuật nên chất lượng vườn cây kém.
Thập kỷ 90, diện tích trồng cà phê trên địa bàn tỉnh tăng 14,1%/năm, đạt
259.030 ha năm 2000, trong đó 88,4% được trồng trên đất bazan, còn
11,6% được trồng trên đất khác. Hậu quả là diện tích rừng bị giảm nhiều,
tầng nước ngầm có nguy cơ bị cạn kiệt và môi trường bị ô nhiễm nặng.
Năm 2003 diện tích cà phê toàn tỉnh đã giảm, chỉ còn 237000 ha,
chiếm 57,43% đất nông nghiệp và 86,24% diện tích cây công nghiệp lâu
năm trong toàn tỉnh.
Bảng 7: Diễn biến diện tích, năng suất, sản lượng và phê
(Diện tích: ha, năng suất: tạ/ha, sản lượng: tấn)
Mục 1995 1996 1997 1998 1999
Tăng
BQ
(%)
Diện
tích
T.S.
131119 153050 165000 169620 173200 105,72
Kinh
doanh 53000 75192 87939 101667 110000 115,72
Năng
suất 22,00 21,23 24,32 24,29 23,64 101,45
Sản
lượng 154596 159630 212110 246950 260000 114.50
Nguồn: www.vicofa.org.vn
Tuy Đak Lak hiện nay đã trở thành vùng chuyên canh cà phê lớn
nhất cả nước, sản lượng cà phê ở Đak Lak tăng là do diện tích trồng cà
phê được mở rộng chứ không phải do tăng năng suất. Cà phê đã hình
thành được các vùng sản xuất chuyên canh và tập trung: Krông Buk:
27800 ha, Cư M’Ga: 23400 ha, Krông Ana và Krông Păk mỗi huyện trên
17000 ha, Krông Năng, Đăk Mil trên 13000 ha, các huyện Đăk R’Lấp,
15
Đăk Nông và Buôn Ma Thuột mỗi huyện từ 9000 – 10000 ha,... Đăk Lăk
trồng cà phê vối là chính, để thay đổi cơ cấu cà phê năm 1995 tỉnh đã có
chủ trương trồng 5000 ha cà phê chè tại hai huyện Đăk Nông và Đăk
R’Lấp đến nay đã trồng được trên 500 ha nhưng khả năng thực hiện dự án
5000 ha cà phê chè là rất khó vì không còn đủ đất và nông dân chưa yên
tâm với cây cà phê chè Catimor do thời vụ thu hoạch trùng vào thời điểm
mưa lớn tập trung tại các khu vực này.
Trong tổng diện tích cà phê có khoảng 110000 ha cà phê kinh
doanh. Năng suất cà phê từ những năm trước 1990 chỉ xấp xỉ 8 – 9 tạ
nhân/ha, từ năm 1991 trở lại đây, các doanh nghiệp thực hiện cơ chế
khoán vườn cây cho người lao động, gắn lợi ích của người lao động với
kết quả lao động của họ, người lao động nhận khoán đã coi vườn cà phê
là của mình, tích cực đầu tư và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào
chăm sóc vườn cà phê, vì thế mà năng suất cà phê tăng nhanh: 11,69 tạ/ha
(1992); 18,4 tạ/ha (1994); 24,32 tạ/ha (1997) và 23,64 tạ/ha (1999) trên
diện tích 110000 ha kinh doanh. Đặc biệt đã có gia đình đạt năng suất 50
– 60 tạ/ha. Nhưng đối với những hộ nghèo không đủ khả năng để tiếp cận
và áp dụng kỹ thuật mới thì năng suất thấp hơn nhiều. Hầu hết nông dân
đều trồng cà phê theo phương pháp truyền thống, không có điều kiện tiếp
cận nên cũng không áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào chăm sóc cà phê, do đó
các vườn cà phê của họ thường cho năng suất thấp. Nói chung không có
sự khác nhau nhiều về năng suất giữa các hộ trồng cà phê trong một khu
vực nhưng có sự khác nhau lớn về năng suất giữa các vùng sinh thái.
Sản lượng cà phê tăng nhanh từ 130000 tấn (1996) lên 246400 tấn
(1998) và 260000 tấn năm 1999. Năm 1998 sản lượng cà phê xuất khẩu
198000 tấn, góp phần thực hiện kim ngạch xuất khẩu 316,47 triệu USD,
năm 1999 lượng cà phê xuất khẩu 239540 tán cà phê nhân, trị giá xuất
khẩu đạt 306 triệu USD.
Sự rớt giá của cà phê xuất khẩu dẫn đến giảm giá bán cà phê của
nông dân. Ở Đak Lak, giá cà phê nhân khô loại R1 giảm từ 11500
đồng/kg tháng 1/2000 xuống 9100 đồng tháng7/2000 và xuống 4000 –
45000 đồng/kg trong hai tuần đầu tháng 12/2000, tức là giá đã giảm 62%.
Nếu so với mức giá 20500 – 21000 đồng/kg tháng 1/1999 thì giá đã giảm
80%. Với giá cà phê không ổn định như vậy, không những các nông dân
phải huỷ bỏ vườn cây của mình mà không ít nhà kinh doanh thua lỗ, mất
vốn đến mức nghiêm trọng, các công ty xuất khẩu cà phê cũng không
16
dám trữ cà phê như trước nên việc bán cà phê thêm khó khăn đối với
nông dân.
2.1. Các tác nhân tham gia ngành hàng và kênh tiêu thụ sản phẩm cà
phê.
Theo điều tra của ICARD tháng 3/2002 tại Đăk Lăk, các tác nhân
tham gia thị trường cà phê bao gồm hộ gia đình trồng cà phê, các cơ sở
thu gom, các đại lý thu mua của các công ty xuất khẩu/chế biến cà phê và
các công ty xuất khẩu/chế biến cà phê.
Các hộ gia đình bán 93% cà phê quả tươi, cà phê khô và nhân xô
cho các cơ sở thu gom tư nhân với giá bình quân 2.587đ/kg, còn lại 7%
bán trực tiếp cho các doanh nghiệp chế biến hoặc xuất khẩu trực tiếp với
giá bình quân 2.587 đ/kg.
Các cơ sở thu gom bán 100% sản phẩm cà phê thu mua được bán
cho các doanh nghiệp chế biến/xuất khẩu với mức giá bình quân
4.192đ/kg.
Các doanh nghiệp chế biến hoặc xuất khẩu trực tiếp, bán 94% sản
phẩm cà phê nhân xô sau khi chế biến và phân loại ra thị trường thế giới
với giá trung bình là 5.784 đ/kg, trong đó 99,9% xuất khẩu giá FOB tại
cảng Sài Gòn, 0,1% xuất khẩu giá CIF, 6% sản phẩm còn lại được chế
biến thành cà phê bột để bán ở thị trường trong nước với giá 30.000đ/kg.
Dao động giá cùng một loại sản phẩm giữa các tác nhân tham gia
thị trường không cao, khoảng 100 đ/kg. Chênh lệch cao chủ yếu từ khả
năng chế biến của các tác nhân tham gia thị trường.
Như vậy, trong kênh phân phối, người trồng cà phê là người chịu
nhiều thiệt thòi nhất, lợi nhuận dành cho họ thấp nhất và họ là người chịu
nhiều rủi ro nhất. Người tiêu thụ không được lợi gì khi giá cà phê xuống
thấp do giá cà phê chế biến không thay đổi, do đó lợi nhuận tập trung
nhiều nhất vào những người chế biến, rang xay.
Trong các doanh nghiệp và chủ hộ kinh doanh cà phê: các nông
trường quốc doanh hiện nay luôn bị lỗ do mức khoán ở các nông trường
quốc doanh hiện nay không hợp lý, cần phải có một văn bản cho phép
17
điều chỉnh vì: lúc bắt đầu thực hiện khoán là những năm 1990, 1991,
1992 thì mức khoán là hợp lý vì lúc đó nông trường không có vốn và vật
tư, vườn cây thì xuống cấp nghiêm trọng. Nhưng sau 5, 6 vụ cà phê được
giá, được mùa, người nhận khoán được lớn còn nông trường thì thua thiệt
vì giá thành cao hơn giá bán, nông trường bị lỗ nghiêm trọng do vướng
các văn bản Nhà nước về khoán trước đây, không thể tự điều chỉnh mức
khoán.
Nông dân trồng cà phê cũng có hai loại: Những người mới vào
kinh doanh khi cà phê được giá thì mất nhiều hơn được. Còn nông dân có
vườn cây ổn định từ trước thì vẫn có hiệu quả dù rằng thấp hoặc ít nhất
cũng không bị lỗ.
Các doanh nghiệp xuất khẩu cũng có nhiều trường hợp bị lỗ vốn do
thiếu thông tin về thị trường, và quan trọng hơn là do không có khả năng
phân tích thông tin để dự đoán diễn biến giá cả, không dự báo được nhu
cầu nên ký hợp đồng giao kỳ hạn quá dài và chốt giá không đúng thời
điểm, định giá khi giá thấp và phải giao hàng khi giá cao. Thực ra đây là
một khó khăn rất lớn không dễ làm được không chỉ đối với ngành cà phê.
2.2. Chi phí sản xuất.
Đầu tư ban đầu để kiến thiết vườn cà phê khá lớn: khoảng 35 triệu
đồng/ha/3 năm đầu (làm đất, phân bò: 15 m3, NPK: 4 tạ, tưới: 4 triệu,....).
Sau đó vườn bắt đầu cho thu nhập nhưng năm đầu tiên: 1 tấn/ha sau đó
tăng dần 1,5 tấn/ha, 2 tấn/ha, 2,2 tấn/ha, 2,5 tấn/ha rồi đến 2,8 tấn/ha,.....
Sau khoảng 20 năm thì năng suất của vườn bắt đầu giảm.
Đối với các hộ nhận khoán của công ty hoặc nông trường, đầu tư
ban đầu cho kiến thiết cơ bản được công ty hỗ trợ vốn. Nếu công ty
không đủ vốn thì sẽ đứng ra vay vốn ngân hàng hộ nông dân với lãi suất
thấp để đầu tư chăm sóc cà phê.
Chi phí sản xuất cho cà phê chủ yếu là cho phân bón. Lượng phân
bón được sử dụng tăng theo tuổi của vườn cây và phụ thuộc vào thu nhập
của người nông dân và giá cà phê. Chi phí sản xuất còn bao gồm thuốc
trừ sâu, tưới và phụ thuộc vào chất đất, lượng nước có sẵn và kỹ thuật
canh tác. Khi giá cà phê cao, cà phê là nguồn thu nhập chính, người nông
dân đã đầu tư lớn cho việc trồng mới và chăm sóc những vườn đã có.
18
Trung bình đầu tư cho 1 kg cà phê nhân là khoảng 8200 đồng/kg, lượng
đầu tư thay đổi theo từng vùng sinh thái, điều kiện của từng gia đình
nhưng không dưới 7000 đồng/kg. Như vậy nếu giá cà phê xuống đến
4000 đồng/kg thì chỉ thu được 1/2 chi phí sản xuất.
SƠ ĐỒ MÔ TẢ TỔ CHỨC NGÀNH HÀNG CÀ PHÊ
Đại lý bán sỉ
CÔNG TY
Người sản xuất – trồng cà phê
Đại lý
của
công ty
Tổ thu
mua
Đại lý
tư nhân
Cơ sở
thu gom
Xưởng chế
biến
Trạm kinh
doanh cà
phê
Xuất khẩu
sản phẩm thô
CHẾ
biến
Nhà phân
phối
Người bán lẻ
Người tiêu dùng cuối cùng
Các quán cà
phê
Xuất khẩu sản
phẩm đã chế
biến
7% 93%
6%
94%
19
2.3. Chế biến và xuất khẩu cà phê ở Đak Lak.
Cà phê là loại nước uống cao cấp, nhu cầu đòi hỏi của người tiêu
dùng vẫn không ngừng tăng lên, chưa có những sản phẩm nhân tạo được
chấp nhận để thay thế cho cà phê, vì vậy việc trồng, xuất nhập khẩu loại
hàng hoá đặc biệt này vẫn có một ý nghĩa kinh tế lớn đối với nhiều nước.
Vấn đề rất quan trọng cần có nhận thức đầy đủ là: sản phẩm cà phê đem
ra thị trường phải đảm bảo chất lượng. Ngoài các yếu tố ảnh hưởng đến
chất lượng cà phê như: điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng và giống được
trồng, các khâu thu hái, chế biến, phơi sấy, bảo quản cà phê có một vị trí
hết sức quan trọng. Các công đoạn chế biến và bảo quản sau thu hoạch có
mối quan hệ khăng khít với nhau và phải được thực hiện nghiêm túc thì
mới có khả năng tạo ra mặt hàng thương phẩm có giá trị cao trên thị
trường quốc tế, đó cũng là bước quyết định nâng cao lợi tức của người
sản xuất và kinh doanh cà phê.
Vùng cà phê Tây Nguyên đã hình thành khu chế biến công nghiệp
với khoảng trên 63 nhà máy và 500 cơ sở chế biến tư nhân. Tổng cộng
công suất đạt trên 300000 tấn sản phẩm / năm.
Khoảng 80% sản lượng cà phê được chế biến tại các hộ gia đình
nông dân bằng những thiết bị nhỏ, tự chế, lạc hậu, sân phơi bằng nhiều
loại vật liệu khác nhau, thậm chí phơi cà phê trên sân đất, cà phê lẫn
nhiều tạp chất.
Các hộ tự chế biến cà phê chỉ sử dụng phương pháp chế biến khô.
Phương pháp này rất đơn giản, chỉ là phơi khô quả tươi rồi sau đó xát bỏ
vỏ khô bằng máy xay xát nhỏ để có được cà phê nhân và bán cho các cơ
sở thu gom. Phương pháp này có chi phí thấp (khoảng 100000 đồng/tấn),
dễ làm nhưng sản xuất không ổn định vì phụ thuộc vào thời tiết và cho
chất lượng sản phẩm thấp và không đồng đều vì thời gian phơi khô càng
lâu thì chất lượng cà phê càng giảm. Tỷ lệ hạt bị đen do bị lên men nhiều.
Các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê thường phải chế biến lại loại cà phê
20
này với chi phí khoảng 48000 đồng/tấn. Ở Đak Lak, cà phê của các công
ty, nông trường sản xuất ra thường có chất lượng tốt, mặt hàng đẹp, được
khách hàng đánh giá cao, gồm có cà phê của các công ty Thắng Lợi,
Phước An, các công ty Việt Đức, Buôn Hồ, Đ’Rao....
Nhìn chung lâu nay việc mua bán cà phê không theo tiêu chuẩn nhà
nước, việc quy định chất lượng trong các hợp đồng mua bán còn giản đơn
và mang tính chất thoả thuận giữa người mua và người bán nên chưa tạo
thành sức ép thúc đẩy việc cải tiến công nghiệp chế biến nâng cao chất
lượng cà phê.
Hiện nay, sản lượng cà phê Việt Nam vẫn chủ yếu là Rubusta với
phương pháp chế biến chủ yếu là chế biến khô, cà phê thu hái về được
phơi khô tận dụng năng lượng mặt trời. Những năm mưa kéo dài trong vụ
thu hoạch người dân phải sấy trong các lò sấy đốt bằng than đá, củi,...
cũng có một số doanh nghiệp chế biến theo phương pháp ướt dùng máy
đánh nhớt. Một phần nhỏ sản lượng là cà phê Arabica các doanh nghiệp
nhà nước đều chế biến theo phương pháp ướt. Có nơi dùng máy chọn
màu Sortex trong khâu phân loại, loại bỏ cà phê hạt đen, nâu,... Nhìn
chung, cà phê Việt Nam thường cho ra sản phẩm chất lượng chưa cao,
chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường nên thường bị các nhà nhập
khẩu ép giá.
Vấn đề đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp nhà nước còn
gặp nhiều cản trở do một số yếu tố sau:
Nghiên cứu nhu cầu thị trường, tiếp thị yếu Thiếu hiểu biết về
thị trường.
Không nghiên cứu có hệ thống về công nghệ thích hợp với yêu cầu
thị trường Thiếu hiểu biết về công nghệ thích hợp.
Doanh nghiệp nhà nước ít có khả năng lựa chọn về nguồn vốn, phụ
thuộc vào vốn của ngân hàng Chưa có thị trường vốn trung hạn
và dài hạn.
Thủ tục đòi hỏi quá nhiều cấp xét duyệt, mất thời gian, công sức,
tiền bạc Thủ tục đầu tư phức tạp, mất thời gian.
Số người lao động lớn tuổi, ít được đào tạo e ngại không tiếp cận
được với công nghệ mới.
Do ít phải chịu sức ép cạnh tranh nên lãnh đạo doanh nghiệp nhà
nước không cần phải đổi mới công nghệ Lãnh đạo doanh nghiệp
thiếu quyết tâm.
21
Hầu hết người trồng cà phê bán hạt khô của họ cho các cơ sở thu
gom, các đại lý. Các cơ sở này sử dụng xe công nông hoặc xe tải của họ
để vận chuyển cà phê, các loại xe này chỉ vận chuyển được cà phê trên
những con đường khá tốt, còn lại là các hình thức vận chuyển khác làm
tăng chi phí vận chuyển khá nhiều, đặc biệt là trong mùa mưa. 44%
doanh nghiệp cho rằng đường giao thông xấu là trở ngại lớn nhất và đó là
lý do để họ phải sử dụng phương tiện nhỏ hơn và đơn giản hơn.
Bảng 8: Chi phí vận chuyển cà phê.
Phương
tiện Mục đích
Khoảng
cách trung
bình (km)
Đơn vị chi
phí
(đồng/tấn/km)
Tồng chi
phí
(đồng/km)
Ô tô Mua cà phê 14 2000 28000
Công nông Mua cà phê 8 1500 12000
Ô tô Bán cho doanh nghiệp xuất khẩu 22 1625 35750
Ô tô Xuất khẩu qua cảng Sài Gòn 350 1500 52500
Nguồn: Khoa Kinh tế và Quản trị kinh doanh - Đại học Tây Nguyên
Các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê mua, chế biến lại và phân loại
cà phê nhân theo kích cỡ, trọng lượng và màu sắc thành 3 loại: R1 (chiếm
khoảng 44,5%), R2 (50,7%) và R3 (4,8%). Một tỷ lệ nhỏ cà phê nhân
(khoảng 3 – 6%) được chế biến thành cà phê bột ở các doanh nghiệp tư
nhân để tiêu thụ trong nước. Các công ty chế biến ở Đak Lak chủ yếu sử
dụng phương pháp chế biến khô, chi phí cho chế biến khoảng 148200
đồng/tấn.
22
Nguyên liệu
quả tươi
Phương pháp
ướt
Phương pháp
khô
Phơi hoặc sấy cà
phê quả
Ngâm lên men
Phơi hoặc sấy
Cà phê thóc khô
Rửa sạch
Làm ráo nước
Làm sạch tạp
Sát khô
Đánh bóng cà phê
Phân loại cà phê (kích thước, trọng
Cà phê nhân thành
ẩ
Cà phê quả khô
Phân loại theo trọng
Sát tươi
Phân loại trong bể
Thu nhận nguyên liệu (quả Thu nhận nguyên liệu (quả
Sơ đồ quy trình chế biến cà phê
23
Bảng 9: Tiêu chuẩn chất lượng của cà phê Việt Nam.
Đơn vị: %
Đen vỡ
Tạp
chất
Đánh
bóng
Hạt
khác
loại
Độ
ẩm Cỡ hạt
Loại 1 < 1 0,5 50 0 13 90% trên sàng 6,3 mm
Loại 2 2 1 0 3 13 80% trên sàng 5,6 mm
Loại 3 5 2 0 5 13 80% trên sàng 4,8 mm
Nguồn: Khoa Kinh tế và Quản trị kinh doanh - Đại học Tây Nguyên
Trên toàn tỉnh có 2 doanh nghiệp có công nghệ chế biến ướt. Chi
phí chế biến theo phương pháp này khoảng 670.000 đ/tấn cà phê nhân xô.
Chế biến ướt đòi hỏi cà phê nguyên liệu phải chín nên sản phẩm chế biến
có độ đồng đều cao hơn về kích thước, trong lượng và màu sắc. Do đó,
các sản phẩm từ chế biến ướt có chất lượng cao hơn và giá cao hơn.
Hiện nay đã có những thay đổi cơ bản trong xếp hạng cà phê, từ
chỗ căn cứ vào một vài chỉ tiêu đơn giản chuyển sang xếp hạng theo
phương pháp tính số lỗi trong một mẫu cà phê nhân.
Việt Nam phải cố gắng đạt được tiêu chuẩn chất lượng tối thiểu mà
Ủy ban Chất lượng cà phê thế giới đã đề ra (Nghị quyết 407). Các tiêu
chuẩn đó là: độ ẩm của cà phê không quá 12,5%; tổng số lỗi trong một
mẫu (300 gam cà phê vối) không quá 150 lỗi.
C. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGÀNH CÀ PHÊ VIỆT NAM.
24
1. KHUYẾN CÁO ĐỂ TĂNG SỨC CẠNH TRANH CỦA CÀ PHÊ
VIỆT NAM.
Vì sự phát triển bền vững ngành cà phê Đak Lak, nhóm chuyên gia
thuộc Trung tâm Thông tin nông nghiệp và phát triển nông thôn cùng tổ
chức Ofarm Anh và Oxfarm Hồng Kông đã đưa ra những khuyến cáo sau
một nghiên cứu gần đây:
Việc thu hẹp diện tích, nhất là diện tích cà phê ở tỉnh Đak
Lak trên cơ sở quy hoạch lại là vấn đề cực kỳ quan trọng và cấp bách. Kết
quả nghiên cứu cho thấy, nếu Việt Nam giảm 33% sản lượng cà phê thì
giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam có thể sẽ đạt mức 1245 USD/tấn. Như
vậy Đak Lak phải giảm hàng chục nghìn ha, bởi sản lượng của tỉnh này
hiện đang chiếm trên 50% tổng sản lượng cà phê cả nước.
Việc giảm diện tích, sản lượng cần được tính toán kỹ trên cơ sở
nghiên cứu, đánh giá các điều kiện kinh tế - xã hội và tự nhiên cũng như
yêu cầu sinh học của các cơ cấu cây trồng khác, nhằm xác định diện tích
và khu vực cần điều chỉnh, loại cây thay thế, đồng thời tăng năng suất,
chất lượng ở những vùng thích hợp mức độ tối ưu.
Tăng năng suất còn là một trong những giải pháp hiệu quả nhằm
nâng cao khả năng cạnh tranh của cà phê Việt Nam nói chung và của Đak
Lak nói riêng.
Hiện nay, năng suất trung bình trên địa bàn tỉnh Đak Lak ở mức
2,45 tấn/ha. Nếu năng suất cà phê tăng trung bình 42,8% so với mức năng
suất trung bình hiện nay thì sức cạnh tranh của mặt hàng nông sản này sẽ
lớn hơn.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, nếu năng suất cà phê tăng khoảng
25% do áp dụng giống mới và chăm sóc đúng kỹ thuật thì lợi nhuận trên
1 ha tại hộ gia đình sẽ tăng khoảng 35%, giá thành trên 1 ha tại hộ gia
đình giảm khoảng 20%.
Đặc biệt, việc tăng cạnh tranh của sản phẩm còn phụ thuộc vào chi
phí cho khâu thuỷ lợi. Hiện chi phí thuỷ lợi cho tưới cà phê đang chiếm
tới 27% chi phí sản xuất. Cần áp dụng các biện pháp tưới tiên tiến như
tưới phun, tưới giọt, tưới ngầm để giảm số giờ tưới, tăng hiệu quả kinh tế.
25
Nếu số giờ tưới giảm được 5% thì lợi nhuận sẽ tăng thêm 1% và
giá thành giảm khoảng 0,13%.
Biện pháp cải thiện dịch vụ tín dụng và dịch vụ khuyến nông được
đề xuất như những giải pháp không thể thiếu trong việc đảm bảo tính bền
vững của sản xuất cà phê trong tỉnh và cả nước, trong đó có dịch vụ
khuyến nông phục vụ đa dạng hoá sản xuất.
Sản xuất thích hợp, thông tin cho nông dân về thị trường, khả năng
thích nghi sản xuất, các biện pháp sản xuất mới cũng như ban hành các
chính sách hỗ trợ khuyến khích chuyển dịch cơ cấu sản xuất, tín dụng và
đầu tư cho đa dạng hoá, xây dựng các tổ chức sản xuất.... mà không nên
áp đặt hoặc hỗ trợ trực tiếp, dễ gây tâm lý ỷ lại cho người nông dân.
Cần cải tiến một số chính sách trong đó có chính sách tạm trữ vì để
thi hành hiệu quả chính sách này cần thực hiện một số hoạt động đồng bộ
như mua cà phê trực tiếp từ nông dân hoặc khuyến khích các hệ thống thu
mua và chế biến địa phương mua dự trữ, thiết lập một hệ thống kho có
dung lượng thích hợp. Đặc biệt cần nghiên cứu chính sách khuyến khích
và hỗ trợ người dân áp dụng kỹ thuật để nâng cao chất lượng chế biến tại
hộ gia đình và tăng dần khả năng tạm trữ trong dân.
2. CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NGÀNH CÀ PHÊ.
Việt Nam hiện nay đang thực hiện điều chỉnh phương hướng chiến
lược nhằm vào những nội dung chủ yếu sau đây:
a. Chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hai hướng:
Giảm bớt diện tích cà phê Robusta. Chuyển bớt diện tích cà
phê chất lượng kém, không có hiệu quả sang trồng các loại
cây lâu năm khác như cao su, hồ tiêu, hạt điều, cây ăn quả và
cả cây hàng năm như bông, ngô lai,....
Mở rộng diện tích cà phê Arabica ở những nơi có điều kiện
khí hậu đất đai thật thích hợp. Việc mở rộng diện tích cà phê
Arabica theo chương trình sử dụng vốn vay của cơ quan phát
triển Pháp chưa đạt kết quả như mong muốn nhưng các
26
doanh nghiệp Nhà nước vẫn giữ được vai trò chủ đạo nòng
cốt trong việc phát triển cà phê Arabica ở nước ta. Các vườn
cà phê Arabica do các doanh nghiệp nhà nước trồng có chất
lượng cao hơn hẳn phần đông diện tích cà phê Arabica được
trồng trong khu vực kinh tế hộ nông dân.
Mục tiêu cuối cùng trong chiến lược này là giữ tổng diện tích cà
phê không đổi ở mức hiện nay, hoặc giảm chút ít, nằm trong khoảng từ
450000 ha đến 500000 ha nhưng cơ cấu chủng loại cà phê cần thay đổi
trong đó:
Cà phê Robusta: 350000 ha đến 400000 ha (giảm 100000 –
150000 ha).
Cà phê Arabica: 100000 ha (tăng 60000 ha so với kế hoạch
cũ trồng bằng vốn vay của Cơ quan phát triển Pháp).
Tổng sản lượng cà phê đảm bảo ở mức 600000 tấn tương
đương 10 triệu bao so với hiện nay giảm 5 triệu bao và đó là
5 triệu bao cà phê Robusta.
Tham khảo từ kinh nghiệm trong nước và quốc tế cho thấy sự
chuyển dịch cơ cấu này là hựp lý đối với nông nghiệp Việt Nam cũng như
với thị trường cà phê quốc tế.
Điều kiện đất đai khí hậu ở Việt Nam cho phép phát triển nhiều
loại cây trồng có hiệu quả kinh tế cao như cao su, ca cao, hồ tiêu, hạt
điều, cây ăn quả,... giảm bớt đất cà phê để nhường chỗ cho cây trồng khác
là cần thiết. Tất nhiên tiến độ chuyển dịch này nhanh hay chậm cũng tuỳ
thuộc vào khả năng cung cấp tài chính của Nhà nước cho nông dân vì đây
là một việc làm tốn kém và đòi hỏi sự chuyển giao kỹ thuật đầy đủ, chu
đáo. Ngoài ra vấn đề đổi giống mới tốt hơn cho các vườn cà phê cũng là
một khâu quan trọng cần được đầu tư và cũng cần thời gian. Đây là một
chương trình trung hạn của ngành cà phê Việt Nam.
b. Hạ giá thành sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Mặc dù chi phí lao động của ngành cà phê Việt Nam tương đối
thấp so với nhiều nơi khác vì GDP bình quân đầu người cũng thấp, và
27
năng suất cà phê Việt Nam cũng vào loại cao trên thế giới nhưng giá
thành cà phê Việt Nam vẫn chưa thấp đến mức có thể cạnh tranh được.
Nguyên nhân chủ yếu là do nông dân Việt Nam với mong muốn đạt năng
suất cao nhất đã tăng đầu tư phân bón,tưới nước lên mức rất cao đã làm
giảm hiệu quả của đầu tư và nâng cao giá thành sản xuất.
Việc cần phải làm là tìm công thức đầu tư cho hiệu quả kinh tế cao
nhất trong đó giảm thiểu đầu tư vào phân hoá học, thuốc trừ sâu, lượng
nước tưới để đạt một năng suất không phải là cao nhất nhưng có mức lợi
nhuận tốt nhất. Ngành cà phê Việt Nam cũng quan tâm khuyến cáo các
nhà sản xuất sử dụng nhiều phân hữu cơ thay cho việc dùng nhiều phân
hoá học lâu nay, coi đó là một phương hướng tiến bộ trong kỹ thuật.
c. Áp dụng công nghệ sau thu hoạch tiên tiến, đổi mới thiết bị,
nâng cao chất lượng sản phẩm kết hợp với bảo vệ môi trường.
Trong những năm gần đây công nghiệp sơ chế cà phê Việt Nam đã
có nhiều tiến bộ, nhiều thiết bị mới chất lượng tốt cho chế biến đã được
trang bị. Tuy nhiên với cà phê Arabica thì chế biến vẫn còn là một việc
làm có nhiều khó khăn và chưa được giải quyết đến nơi đến chốn, kể cả ở
khu vực quốc doanh, ở đây có cả vấn đề công nghệ, thiết bị và bảo vệ môi
trường, đặc biệt là khâu đầu tiên lột vỏ quả, làm sạch nhớt. Nhiều nơi có
khó khăn vì lượng nước sạch dùng cho chế biến quá lớn và nó cũng dẫn
đến khó khăn về xử lý nước thải không gây ô nhiễm môi trường. Các
chuyên gia nước ngoài trong chương trình GTZ của Đức và dự án ba bên
của các tập đoàn nước ngoài thực hiện ở Công ty hồ tiêu Tân Lâm –
Quảng Trị đã đạt kết quả tốt trong khâu xử lý nước thải. Và Viện nghiên
cứu khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp ở EakMat - Đak Lak đang nghiên
cứu sử dụng máy làm sạch nhớt kiểu Penagos rất tiết kiệm nước của
Colombia cũng hứa hẹn nhiều triển vọng.
Việc chuẩn bị thực hiện sự án nâng cao chất lượng cà phê thông
qua sự ngăn ngừa hình thành nấm mốc cũng có một vị trí quan trọng
trong việc cải tiến chất lượng cà phê Việt Nam.
Xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn cấp Nhà nước về cà phê là
một vấn đề được nhiều người quan tâm, nó là một cơ sở đảm bảo cho
việc nâng cao chất lượng cà phê Việt Nam. Vào thời kỳ mở cửa, ngành cà
phê tiếp xúc trực tiếp với thị trường thế giới trong buổi ban đầu cần có
28
một hệ thống tiêu chuẩn đơn giản, dễ thực hiện hơn nên đã ra đời TCVN
4193 – 86 với 3 chỉ tiêu chất lượng đơn giản: thuỷ phần (%), hạt đen vỡ
(%), và tạp chất (%). Nay ngành cà phê Việt Nam đã trưởng thành và thị
trường đòi hỏi chất lượng cao hơn, cần có tiêu chuẩn cấp Nhà nước phù
hợp với tiêu chuẩn quốc tế do đó ngành cà phê được nhà nước hỗ trợ đã
xây dựng TCVN 4193 – 2001 và đã được Nhà nước cho ban hành. Có thể
coi đây là một tiến bộ của ngành cà phê Việt Nam. Tuy nhiên cũng cần
tích cực chuẩn bị cho việc áp dụng tiêu chuẩn chất lượng tối thiểu đối với
cà phê xuất khẩu theo quyết định của Ủy ban chất lượng của ICO càng
sớm càng tốt.
Hiện nay chúng ta chỉ có hai loại phổ biến là cà phê hoà tan và cà
phê rang xay. Trước đây vấn đề này ít đực quan tâm vì số lượng chưa
nhiều và cũng chưa được tiêu dùng rộng rãi, đến năm 2001, toàn vùng
cũng đã có nhiều cơ sở chế biến cà phê bột nhưng tổng công suất mới chỉ
đạt khoảng 400 tấn / năm. Nay vấn đề cà phê chế biến hay cà phê có giá
trị gia tăng đã nổi lên thu hút dư luận của nhiều người. Cà phê chế biến
chính là khuyến khích sự tiêu dùng trong nước. Trong mấy vụ vừa qua
lượng cà phê hoà tan và cà phê rang xay tiêu thụ đã tăng lên và thị trường
cũng rộng ra. Hiện có hai nhà máy sản xuất cà phê hoà tan đang hoạt
động, một là Nhà máy cà phê Biên Hoà thuộc VNACAFE, một là của
Nestle Thái lan. Tháng 10/2003, công ty TNHH Trung Nguyên đã khởi
công xây dựng nhà máy chế biến cà phê lớn nhất khu vực Tây Nguyên để
chế biến cà phê bột và cà phê hoà tan. Trong đó, phân xưởng chế biến cà
phê bột có công suất 1500 tấn thành phẩm/năm, dự kiến hoàn thành vào
quý 2 năm 2004 và giải quyết việc làm cho gần 200 lao động địa phương.
60% sản lượng cà phê bột được sản xuất tại nhà máy này sẽ được dành để
xuất khẩu vào các thị trường Nhật Bản, Singapore, Thái Lan, Đức,... và
một số thị trường mới như Mỹ, Canađa, Nga, Anh, Pháp,... Riêng phân
xưởng cà phê hoà tan có công nghệ hiện đại của châu Âu sẽ hoàn thành
và cho ra sản phẩm vào cuối năm 2004. Nhà máy đi vào sản xuất, ngoài
việc giải quyết việc làm cho lao động địa phương, sẽ góp phần tiêu thụ cà
phê của nông dân địa phương một cách ổn định. Tìm thị trường, mở rộng
thị trường để tạo điều kiện mở rộng sản xuất cũng là tăng hiệu quả kinh
doanh của ngành. Cà phê dạng lỏng đóng hộp cũng đang được một số cơ
sở nghiên cứu.
29
d. Sản xuất hàng hoá chất lượng cao, cà phê hữu cơ, cà phê đặc biệt
hảo hạng.
Sản xuất cà phê hữu cơ là một phương hướng sản xuất của ngành
cà phê Việt Nam, cần được quan tâm. Tiềm năng để sản xuất cà phê hữu
cơ lớn vì phía Bắc Việt Nam có một vùng núi rộng lớn điều kiện khí hậu
thích hợp cho cà phê Arabica sinh trưởng phát triển. Đồng bào dân tộc
thiểu số ở đây ít sử dụng phân hoá học và thuốc trừ sâu. Đó là điều kiện
thuận lợi để phát triển sản xuất cà phê hữu cơ. Thu nhập từ cà phê hữu cơ
cao hơn sẽ khuyến khích nông dân tham gia sản xuất mặt hàng này. Vấn
đề ở đây lại là việc cấp chứng chỉ cà phê hữu cơ và thị trường tiêu thụ
làm sao cho thuận tiện và có hiệu quả cho nông dân.
Việt Nam cũng có nhiều vùng có khả năng sản xuất cà phê thơm
ngon. Nếu có chủ trương tổ chức sản xuất tốt cộng với chế biến tốt hoàn
toàn có thể đưa ra thị trường những mặt hàng cà phê hảo hạng như cà phê
Buôn Ma Thuột.
e. Mở rộng thị trường cho cà phê Việt Nam ở nước ngoài, xúc tiến
việc tiêu thụ cà phê nội địa.
Đổi mới, nâng cao hiệu quả của việc tiếp thị, tìm kiếm thị trường là
yêu cầu bức thiết của ngành cà phê. Hiện nay cà phê Việt Nam được xuất
sang trên 50 quốc gia và vùng lãnh thổ nhưng còn thiếu những thị trường
truyền thống. Những bạn hàng lâu năm, đáng tin cậy còn chưa thật nhiều.
Ngành cà phê Việt Nam cũng còn chưa tham gia các thị trường kỳ hạn.
Đó là các mặt còn non yếu của ngành cà phê
Một vấn đề đáng quan tâm nữa là tiềm năng thị trường trong nức
còn chưa được khai thác. Mặc dù người Việt Nam có tập quán uống trà từ
lâu đời nhưng với lớp trẻ hiện nay việc xúc tiến tiêu thụ cà phê có nhiều
triển vọng.
f. Phát triển một ngành cà phê bền vững.
Nghề trồng cà phê ở Việt Nam là một nguồn thu nhập cho một
nhóm đông dân cư ở nông thôn. trung du và miền núi. Với hơn 500000 ha
cà phê, nó đã tạo việc làm cho hơn 600000 nông dân và số người có cuộc
sống liên quan đến cây cà phê lên tới hơn một triệu người. Do đó ở Việt
30
Nam cây cà phê cần được đảm bảo cho một sự phát triển bền vững. Muốn
vậy phải có một hướng đi đúng để cây cà phê mang lại lợi ích kinh tế
cũng như lợi ích sinh thái. Ngành cà phê Việt Nam được đánh giá là còn
mới mẻ, nó phải cạnh tranh với ngành cà phê của nhiều nước có truyền
thống lâu đời hơn, vốn có tiếng tăm về mặt chất lượng và sự bền vững.
Đây là một vấn đề mà ngành cà phê Việt Nam phải cố gắng trên nhiều
lĩnh vực từ khâu áp dụng những kỹ thuật sản xuất nông nghiệp tiên tiến
đến công nghệ chế biến tiên tiến, đưa ra thị trường nhiều chủng loại sản
phẩm mới, phát triển sản xuất nhiều loại cà phê hảo hạng, cà phê hữu
cơ,...
Tất cả những nội dung nêu trên nói lên phương hướng điều chỉnh
chiến lược của ngành cà phê Việt Nam nhằm cùng với ngành cà phê toàn
cầu nỗ lực vượt qua khó khăn do tình trạng khủng hoảng sản xuất dư thừa
mang đến và đảm bảo cà phê mang lại lợi ích cho mọi người.
31
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Sỹ Hiếu, Tổng quan ngành cà phê Việt Nam, báo cáo nền,
ICARD, Hà Nội 12/2002.
2. Phan Quốc Sủng, Kỹ thuật trồng, chăm sóc, chế biến cà phê,
NXB Nông nghiệp, 1995.
3. www.vicofa.org.vn
4. www.vneconomy.com.vn
5. Báo cáo rà soát bổ sung quy hoạch nông nghiệp nông thôn tỉnh
Đăk Lăk đến năm 2010. – Viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp,
phân viện miền Trung.
6. Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch 5 năm giai đoạn (1996 –
2000). Định hướng kế hoạch phát triển 5 năm giai đoạn (2001 –
2005). - Sở NN&PTNT.
7. Phân tích và đánh giá tình hình tiêu thụ cà phê của công ty cà phê
Viêt Đức. (Luận văn tốt nghiệp khoa kinh tế - Đại học Tây
Nguyên).
8. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thu mua cà
phê xuất khẩu tại công ty cà phê Việt Đức. (Luận văn tốt nghiệp
khoa kinh tế - Đại học Tây Nguyên).
32
9. Một số giải pháp chủ yếu để mở rộng thị trường xuất khẩu cà phê
tại công ty cà phê Buôn Ma Thuột. (Luận văn tốt nghiệp khoa kinh
tế - Đại học Tây Nguyên).
10. Phân tích đánh giá tình hình tiêu thụ cà phê của công ty cà phê 15
Bộ Quốc phòng. (Luận văn tốt nghiệp khoa kinh tế - Đại học Tây
Nguyên).
MỤC LỤC
a. Tình hình sản xuất và tiêu thụ trên thế giới........................................... 2
1. Tình hình sản xuất. ........................................................................... 2
2. Xu hướng tiêu thụ cà phê. ................................................................ 3
3. Thị trường quốc tế của cà phê Việt Nam. ......................................... 7
4. Tác động của thế giới. ...................................................................... 8
b. Tình hình sản xuất trong nước. ........................................................... 11
1. tình hình chung Cả nước ................................................................ 11
2. Tình hình sản xuất cà phê ở tỉnh Đak Lak. ..................................... 13
2.1. Các tác nhân tham gia ngành hàng và kênh tiêu thụ sản phẩm cà
phê. ................................................................................................ 16
2.2. Chi phí sản xuất. ...................................................................... 17
2.3. Chế biến và xuất khẩu cà phê ở Đak Lak. ................................ 19
C. Định hướng phát triển ngành cà phê Việt Nam. ................................. 23
1. Khuyến cáo để tăng sức cạnh tranh của cà phê Việt Nam. .............. 24
2. Chiến lược phát triển ngành cà phê. ............................................... 25
Tài liệu tham khảo ................................................................................. 31
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nganh_hang_caphe_dac_lac_9808.pdf