MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Qua hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của nhà nước. Yêu cầu đổi mới về kinh tế đã đòi hỏi hoạt động quản lý nhà nước nói chung và hoạt động quản lý hành chính nhà nước nói riêng phải có những thay đổi, cải cách để phù hợp với quy luật phát triển. Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng xây dựng và hoàn thiện các hoạt động quản lý nhà nước để đáp ứng yêu cầu đổi mới. Đặc biệt là trong thời kỳ hội nhập tạo cho Nhà nước ta nhiều yêu cầu mới, thách thức mới trong việc phát triển đất nước.
Nền kinh tế chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang kinh tế thị trường đã làm thay đổi nhiều trong hoạt động quản lý nhà nước . Những trì trệ và tồn đọng trong công tác quản lý theo cơ chế cũ đã được khắc phục và dần được thay thế bằng những cơ chế quản lý mới. Việc thực hiện các nguyên tắc trong quản lý hành chính cũng đạt được những thành tựu đáng kể. Vai trò lãnh đạo của Đảng ngày càng được củng cố và nâng cao thông qua việc thể hiện sự sáng suốt trong đường lối chỉ đạo và định hướng về tư tưởng cho quần chúng nhân dân. Bộ máy nhà nước ngày càng được kiện toàn, việc thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước được tiến hành dựa trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật.
Nền hành chính Việt Nam được tổ chức và thực hiện trên cơ sở hệ thống các nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước, các nguyên tắc này là tư tưởng chỉ đạo, là kim chỉ nam để hoạt động quản lý hành chính nhà nước được thực hiện có hiệu quả. Trong hệ thống các nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước, nguyên tắc quản lý ngành, chức năng kết hợp với quản lý theo địa phương là một nguyên tắc mang tính kỹ thuật của hoạt động quản lý nhưng thực sự đóng vai trò quan trọng khi nhà nước ta chú trọng chuyển đổi từ cơ chế quản lý tập trung sang cơ chế phân cấp quản lý, phát huy được thế mạnh của địa phương. Việc tạo điều kiện cho các địa phương quyền chủ động sáng tạo trong quản lý nhưng phải bảo đảm được sự phát triển một cách đồng bộ, thống nhất trong cả nước đã đòi hỏi phải có sự kết hợp trong quản lý giữa địa phương với trung ương, với cơ quan quản lý ngành.
Sự kết hợp quản lý giữa ngành với địa phương đã được thực hiện đã đạt được những thành tựu đáng kể song việc thực hiện nguyên tắc này trong thực tiễn vẫn còn nhiều bất cập và chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế của đời sống xã hội. Đó là: sự không thống nhất trong quản lý giữa các bộ ngành và địa phương; sự phối hợp kém hiệu quả trong hoạt động ban hành văn bản của các địa phương vẫn còn nhiều văn bản trái với quy định của ngành; sự không đồng bộ trong công tác thực hiện các quy định của ngành tại các địa phương ; tình trạng “mạnh ai nấy làm” hay công tác kiểm tra, giám sát thực hiện các quy định của ngành tại các địa phương cũng chưa được quan tâm đúng mức . Những hạn chế này dẫn tới hiệu quả quản lý nhà nước còn yếu kém.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam (Ngày 18 tháng 12 năm 1986) đã chỉ ra rằng: “ Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước. Nêu cao vị trí và vai trò của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, tạo điều kiện cho các cơ quan dân cử thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn theo Hiến pháp quy định. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và quản lý xã hội bằng pháp luật. Phân định rành mạch nhiệm vụ, quyền hạn trách nhiệm của cơ quan nhà nước từng cấp theo nguyên tắc tập trung dân chủ, phân biệt rõ chức năng quản lý hành chính - kinh tế với quản lý sản xuất - kinh doanh, kết hợp quản lý theo ngành, chức năng với quản quản lý theo địa phương và vùng lãnh thổ ”.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của nguyên tắc kết hợp quản lý ngành chức năng với quản lý theo địa phương trong việc xây dựng và phát triển đất nước thì việc xem xét và nghiên cứu nguyên tắc quản lý theo ngành, chức năng kết hợp với quản lý theo địa phương thực sự là cần thiết, thông qua đó, để xác định các phương hướng hoàn thiện nguyên tắc này nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước.
2. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc trình bày, phân tích quá trình hình thành và tổ chức thực hiện của nguyên tắc quản lý theo ngành, chức năng kết hợp với quản lý theo địa phương, khóa luận sẽ đánh giá những thành tựu và hạn chế, yếu kém của việc thực hiện nguyên tắc này trong thực tiễn quản lý hành chính hiện nay. Qua đó, khóa luận sẽ đề xuất các phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc này trong điều kiện hiện nay.
3. Nội dung và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Để nghiên cứu một cách toàn diện đề tài “Nguyên tắc quản lý ngành, chức năng kết hợp với quản lý theo địa phương”, khóa luận sẽ dựa trên cơ sở lý luận của nguyên tắc quản lý theo ngành, chức năng kết hợp với quản lý theo địa phương và thông qua tìm hiểu và phân tích thực trạng áp dụng nguyên tắc này trong thực tế quản lý hành chính hiện nay, để từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc trong thực tiễn. Trong thực tế, nguyên tắc này vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định, tuy nhiên trong phạm vi khóa luận này khóa luận chỉ tập trung vào một số hoạt động cụ thể đang là những điểm nóng trong quản lý hành chính và tồn tại nhiều bất cập, cụ thể là các hoạt động sau đây:
- Trong hoạt động ban hành văn bản pháp luật của chính quyền địa phương.
- Trong hoạt động triển khai thực hiện các quy định của ngành ở địa phương;
- Trong hoạt động kiểm tra giám sát thực hiện các quy định của ngành tại địa phương.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng cộng sản về vị trí, vai trò của nguyên tắc quản lý theo ngành, chức năng kết hợp với quản lý theo địa phương trong quản lý nhà nước. Đặc biệt là các quan điểm cơ bản chỉ đạo công cuộc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Về phương pháp cụ thể luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu phổ biến như: so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê, hệ thống, phương pháp lịch sử
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luân văn chia làm 3 chương:
- Chương I. Những vấn đề chung của nguyên tắc quản lý theo ngành, chức năng kết hợp với quản lý theo địa phương
- Chương II. Thực trạng áp dụng nguyên tắc
- Chương III. Nâng cao hiệu quả việc kết hợp quản lý theo ngành, chức năng kết hợp với quản lý theo địa phương
51 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 41944 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nguyên tắc quản lý theo ngành, chức năng kết hợp với quản lý theo địa phương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Những người bị thiệt nhất khi
quyết định này được thi hành vẫn là người dân chưa có sổ đỏ đang sinh sống tại
Hà Nội nếu muốn xây dựng. Nguyên nhân là do tiến độ cấp “sổ đỏ” của Hà Nội
rất chậm mới đạt khoảng 70% diện tích cần cấp. Ngoài ra, còn có gần 27000
trường hợp thuộc diện chưa thể cấp “sổ đỏ” và hơn 65000 “sổ đỏ” khác tồn kho
do người dân không đến nhận vì kinh phí quá cao(1). Việc này còn dẫn đến phá
hỏng những nỗ lực trong việc tháo gỡ về mặt trình tự, thủ tục cho đơn giản,
nhằm khuyến khích người dân thực hiện nghiêm về trật tự trong xây dựng.
Có thể nói UBND thành phố Hà Nội tự làm khó mình khi cho rằng khi
ban hành quyết định này thì sẽ giảm được tình trạng xây dựng không phép đang
diễn ra. Không những việc ban hành văn bản này không phù hợp với những quy
định của Bộ Xây dựng mà còn liên quan đến việc lấy căn cứ là Nghị định 84/CP
25
do Chính phủ ban hành khi cho rằng đây là căn cứ để cấp phép xây dựng, theo
nội dung của Nghị định 84/CP thì nghị định này không liên quan gì đến việc cấp
phép xây dựng, chỉ có duy nhất một điều có nhắc tới là thời điểm ngày 1/1/2008
là: “Các giao dịch dân sự về quyền sử dụng đất, từ 1/1/2008 chỉ được thực hiện
trên cơ sở có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”. Như vậy, việc Ủy ban nhân
dân thành phố Hà Nội ra quyết định phải có sổ đỏ mới được cấp phép xây dựng
là không có căn cứ, và trái với những quy định của Bộ Xây dựng trong việc cấp
phép xây dựng.
Từ những thực tiễn ở một vài địa phương và ngay tại thành phố Hà Nội về
việc ban hành văn bản đó là không có sự kết hợp chặt chẽ với ngành trên địa bàn
mình quản lý, để xẩy ra những hậu quả rồi mới tính đến việc giải quyết những
hậu quả do những văn bản này gây ra. Đây là thực trạng đáng báo động trong
việc ban hành các văn bản của các địa phương khi mà sự kết hợp với Bộ, ngành
là chưa thật sự chặt chẽ, vẫn mang tính cục bộ địa phương và mạnh ai người nấy làm.
2.2. Sự phối hợp không chặt chẽ trong việc tổ chức, thực hiện các quy định
của ngành ở địa phương.
Trên bình diện chung của cả nước ta thì các quy định của ngành được các
địa phương thực hiện tương đối tốt, tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều
vướng mắc và hạn chế trong việc thực hiện các quy định của ngành tại mỗi địa
phương. Cụ thể sự phối hợp không chặt chẽ giữa các Bộ, ngành và địa phương
thể hiện ở một số lĩnh vực sau:
Lập quy hoạch, kế hoạch của địa phương.
Do vị trí địa lý cũng như điều kiện của mỗi địa phương có sự khác nhau
nên việc thực hiện đồng bộ các quy định của ngành cũng còn gặp nhiều khó
khăn. Đa số các địa phương khi thực hiện các quy định của ngành vẫn còn mang
nặng tính thành tích và chưa đạt hiệu quả cao, chưa muốn nói tới một số địa
phương còn làm sai những quy định mà ngành đã đặt ra. Bên cạnh đó, các Bộ
cũng chưa chú ý tới việc xem xét tính thực tế của các quy định của mình có thể
26
áp dụng chung cho tất cả các địa phương hay phải có những điều chỉnh riêng
cho từng khu vực và địa phương cụ thể. Do việc thực hiện của các địa phương
cũng phải phù hợp với điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, và đặc biệt là điều kiện
tự nhiên của mỗi vùng, mỗi địa phương là khác nhau nên việc thực hiện quy
định của ngành cũng có những đặc thù riêng.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc hướng dẫn thực hiện các quy định ngành
tại địa phương vẫn chưa được đồng nhất, dẫn tới các địa phương khi thực hiện
các quy định này thường theo cách riêng của địa phương mình. Điều này được
thể hiện rõ nhất trong lĩnh vực thu hút đầu tư, các địa phương đua nhau tạo ra
những điều kiện đầu tư tốt nhất nhằm thu hút thật nhiều nhà đầu tư vào đầu tư
tại địa phương mình mà không tình đến những hậu quả của việc thu hút này. Bộ
Kế hoạch và Đầu tư đưa ra khung chung về thu hút đầu tư cho các tỉnh thực
hiện, tuy nhiên các địa phương thực hiện những quy định này một cách không
giống ai - mạnh địa phương nào địa phương đó thu hút đầu tư theo cách riêng
của mình. Điều này kéo theo một loạt các Bộ, ngành có liên quan gặp rất nhiều
khó khăn trong việc giải quyết những hậu quả mà các địa phương gây ra khi
không thực hiện đúng quy định mà ngành đã đề ra. Dẫu biết rằng các địa
phương hiện nay được trao quyền tự quyết rất cao xong không vì thế mà xem
nhẹ việc thực hiện các quy định của Bộ, ngành tại địa phương mình theo đúng
tinh thần hướng dẫn của các bộ, ngành trong thực hiện công việc các quy định này.
Không chỉ các địa phương có lỗi trong việc thực hiện các quy định của
ngành, mà ngay chính các chính sách của ngành cũng làm cho các địa phương
gặp nhiều khó khăn khi đem các quy định này áp dụng tại các địa phương.
Nhiều quy định của ngành ban hành khi không có sự nghiên cứu và xem xét va
lấy ý kiến từ các địa phương mà đã ban hành và áp dụng. Điều này dẫn khi áp
dụng tại nhiều địa phương đã không phát huy được hết thế mạnh của từng địa
phương mà còn làm cho các địa phương phải lúng túng trong việc áp dụng các
quy đinh này trong khi thế mạnh đó hầu như không tồn tại. Cụ thể nhiều địa
phương khi xây dựng quy hoạch phát triển ngành tại địa phương mình đã không
27
xem xét và khảo sát kỹ tính khả thi của các kế hoạch này trong thực tế khi triển
khai tại địa phương làm cho hàng nghìn tỷ đồng đầu tư của nhà nước và của các
Bộ, ngành và ngân sách của địa phương đầu tư không có hiệu quả. Những dự án
xi măng lò đứng, nhà máy mía đường, trương trình đánh bắt xa bờ, trương trình
bò sữa… ở nhiều địa phương khi mới bước đầu thực hiện đã không mang tính
khả thi và đi vào bế tắc và thua lỗ. Đây lỗi một phần là do các Bộ, ngành liên
quan không tính kỹ tính khả thi của các dự án tại địa phương mà mình định thực
hiện phát triển ngành của mình, ngoài ra, lỗ cũng do các địa phương nôn nóng
trong thực hiện chính sách, hoặc do thiên về lấy tiếng cho địa phương mình đối
với các địa phương khác.
Ngoài ra, việc kết hợp giữa các địa phương và các Bộ, ngành trong việc
xử lý những vi phạm những quy định của ngành tại địa phương vẫn còn nhiều
hạn chế và yếu kém. Việc các địa phương đua nhau thu hút đầu tư, xây dựng các
khu công nghiệp, khu chế suất, hay khu kinh tế mà không tính tới những hậu quả
mà những khu công nghiệp, khu chế suất, khu kinh tế này gây ra tới môi trường
các địa phương làm cho tình hình ô nhiễm môi trường tại các địa phương diễn ra
ngày một nghiêm trọng. Mặc dù Bộ Tài nguyên và Môi trường đã có những quy
định rất rõ ràng về bảo vệ môi trường xong do các địa phương xem trọng các lợi
ích kinh tế mà bỏ qua những tiêu chuẩn về môi trường mà Bộ đã đưa ra. Gây ra
hậu quả rất nghiêm trọng về môi trường. Hầu như tại tất cả các địa phương đều
để xảy ra vi phạm về môi trường do các cụm công nghiệp hay khu chế suất gây
ra. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Việt Nam hiện nay có 150 Khu công nghiệp,
khu chế suất trên toàn quốc. Các khu công nghiệp này tuy đã mang lại hiệu quả
kinh tế rõ ràng, khi 53,2% số khu công nghiệp này đạt tỷ lệ lấp đầy các dự án và
hơn 70% được vận hành. Tuy nhiên, điều đáng nói nhất là tốc độ phát triển kinh
tế “nóng” của các khu công nghiệp, khu chế suất này đã kéo theo nhiều tác động
tiêu cực đối với môi trường. Theo ước tính, mỗi khu công nghiệp thải khoảng từ
3.000 – 10.000 m3 nước thải/ngày đêm. Như vậy, tổng lượng nước thải công
nghiệp của các khu công nghiệp trên cả nước lên khoảng 500.000-700.000 m3
28
/ngày đêm. Tại các khu công nghiệp, công tác bảo vệ môi trường chưa thực hiện
đồng bộ, nhiều khu công nghiệp chưa xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập
trung. Đến thời điểm hiện nay, mới chỉ có 28 khu công nghiệp có nhà máy xử lý
nước thải tập trung, khoảng 20 khu công nghiệp đang xây dựng hoặc chuẩn bị
đầu tư. Tuy nhiên, ngay cả ở những khu công nghiệp đã có trạm xử lý nước thải
tập trung, thì chất lượng thực tế của các công trình này vẫn còn hạn chế, chưa
đạt được những tiêu chuẩn quy định, gây ô nhiễm môi trường, đặc biệt là ở một
số khu công nghiệp tập trung các ngành công nghiệp nhẹ như dệt may, thuộc da,
ngành hóa chất… độc hại rất cao.Số đông còn lại chưa xây dựng do nhiều
nguyên nhân như năng lực tài chính hạn chế, ý thức tuân thủ pháp luật về bảo vệ
môi trường chưa cao… nhưng phải kể đến một nguyên nhân khá nổi bật đó là sự
làm ngơ của các địa phương trước tình trạng này.
Từ thực trạng ô nhiễm môi trường tại các địa phương kể trên chúng ta
thấy rằng có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến tình trạng ô
nhiễm môi trường, như sự gia tăng dân số, mặt trái của quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, cơ sở hạ tầng yếu kém, lạc hậu: nhận thức của người dân về
vấn đề môi trường còn chưa cao… Đáng chú ý là sự bất cập trong hoạt động
quản lý, bảo vệ môi trường. Nhận thức của nhiều cấp chính quyền, cơ quan quản
lý, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm về nhiệm vụ bảo vệ môi trường nước chưa
sâu sắc và đầy đủ; chưa thấy rõ ô nhiễm môi trường gây nguy hiểm trực tiếp,
hàng ngày và khó khắc phục đối với đời sống con người cũng như sự phát triển
bền vững của đất nước. Các quy định về quản lý và bảo vệ môi trường còn thiếu
(chẳng hạn như chưa có các quy định và quy trình kỹ thuật phục vụ cho công tác
quản lý và bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ nguồn nước nói riêng). Cơ
chế phân công và phối hợp giữa các cơ quan, các ngành và địa phương chưa
đồng bộ, còn chồng chéo, chưa quy định trách nhiệm rõ ràng. Chưa có chiến
lược, quy hoạch khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước theo lưu vực và
các vùng lãnh thổ lớn. Chưa có các quy định hợp lý trong việc đóng góp tài
29
chính để quản lý và bảo vệ môi trường, gây nên tình trạng thiếu hụt tài chính,
thu không đủ chi cho bảo vệ môi trường.
Sử dụng ngân sách (gây lãng phí nghiêm trọng)
Thực tiễn việc phối hợp giữa các Bộ, ngành và địa phương trong việc sử
dụng ngân sách của các địa phương vẫn còn hạn chế. Cụ thể: vai trò của các cơ
quan quản lý chức năng (Bộ, ngành) trong việc lập quy hoạch, kế hoạch đã
không có sự phối hợp với các địa phương dẫn đến những hậu quả gây lãng phí
nghiêm trọng . Điều này được thể hiện rõ trong ngành xây dựng, và Bộ, ngành
có liên quan ở đây chính là Bộ Xây dựng và Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng với
Bộ Tài chính trong việc lên kế hoạch và cấp kinh phí và giám sát việc thực hiện
kinh phí đó tại các địa phương. Theo Tổng Hội Xây dựng Việt Nam vừa công bố
bản danh sách các địa phương có công trình gây thất thoát lãng phí trong sử
dụng vốn đầu tư xây dựng năm 2005 và 6 tháng đầu năm 2006, qua đó có thể
thấy thất thoát, lãng phí xảy ra ở tất cả các lĩnh vực và ở nhiều tỉnh thành. Ví dụ:
Dự án Nhà máy chế biến cà chua, tổng số vốn đầu tư 51,7 tỷ đồng, công suất
200 tấn cà chua/ngày do Cty Xuất nhập khẩu Rau quả Hải Phòng làm chủ đầu
tư, hoàn thành từ năm 2001, nhưng do không xây dựng được vùng nguyên liệu,
mỗi năm nhà máy chỉ thu mua được 1000 tấn cà chua, đủ để khởi động máy
trong 5 - 6 ngày, còn lại là ngừng hoạt động do thiếu nguyên liệu. Dự án Khách
sạn du lịch và công viên của Hải phòng vốn đầu tư lớn như Khách sạn Hùng
Vương đầu tư 29 tỷ đồng, Công viên nước Vạn Sơn đầu tư 64 tỷ đồng trên diện
tích 30.000 m2 đất, công viên Rồng biển đầu tư 31 tỷ đồng, trên diện tích 17.000
m2, Khu vui chơi giải trí tổng hợp Đồ Sơn đầu tư 145 tỷ đồng, công viên nước
Cát Bà đầu tư 30 tỷ đồng… sau 3 năm triển khai, đến nay nhiều dự án bị bỏ dở
dang, một số dự án thành bãi đất hoang để cỏ mọc. Tại tỉnh Thái Bình có Nhà
máy chế biến gạo đầu tư 6 triệu USD, hoàn thành năm 2000, đến khi chạy thử,
thiết bị nhập không phù hợp với gạo Việt Nam, hiện Nhà máy này chỉ chạy được
10% công suất và phải chuyển từ điều khiển tự động sang điều khiển bằng tay.
30
Trong công cuộc “hiện đại hóa” có rất nhiều sai phạm của tỉnh Hà Giang, vừa
qua tỉnh đã đầu tư 42 tỷ đồng xây 4 chung cư cao tầng, sau khi xây xong, bà con
dân tộc vùng cao không mua nhà cao tầng để ở, nhà không bán được, tỉnh đang
nợ chưa có tiền trả cho nhà thầu. Hà Nội cũng có những công trình lãng phí khi
sử dụng các nguồn tài chính không hiệu quả, thành phố đã đầu tư hàng trăm tỷ
đồng để xây dựng các công viên, đến nay có công viên chưa xây xong đã bị đề
nghị phá bỏ vì một số công trình không phù hợp quy hoạch, công viên Yên Sở
đầu tư 188 tỷ đồng nhưng không có khách vào vì nước hồ bị ô nhiễm nặng. Các
dự án kênh tưới nước tại huyện Gia Lâm đầu tư 9,5 tỷ đồng, sau khi hoàn thành
dự án do thiết kế, thi công không bảo đảm chất lượng nên công trình không sử
dụng được. Tỉnh Vĩnh Phúc đầu tư 1.416 tỷ đồng cho 670 dự án, theo điều tra,
chỉ có 8-9% công trình đạt chất lượng tốt, 40% chất lượng trung bình và hơn
50% chất lượng kém. Tổng Cty Du lịch Sài Gòn (TP Hồ Chí Minh) đầu tư 913
tỷ đồng để sửa chữa, nâng cấp 104 khách sạn, đã thất thoát, lãng phí hàng chục
tỷ đồng….
Nguyên nhân dẫn đến thất thoát, lãng phí là do các chủ đầu tư không thực
hiện nghiêm túc các cơ chế, chính sách, luật pháp về xây dựng; các cơ quan
quản lý Nhà nước về đầu tư chưa làm đầy đủ trách nhiệm quản lý, giám sát,
kiểm tra quá trình đầu tư xây dựng cơ bản; lãnh đạo một số địa phương còn chủ
quan, duy ý chí muốn đẩy nhanh quá trình phát triển của địa phương, đã đầu tư
tràn lan chạy theo phong trào mà không nghiên cứu kỹ thị trường và đặc điểm
của địa phương.
Các ví dụ trên thể hiện các địa phương không có sự đánh giá điều kiện của
địa phương, hiểu rõ điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của địa phương mình để
thông qua đó phối hợp với cơ quan quản lý ngành, chức năng tổ chức thực hiện
các chính sách, các hoạt động cho phù hợp với điều kiện của địa phương mình,
dẫn đến hoạt động này không hiệu quả.
Ngoài ra, việc thực hiện các quy định của ngành về sử dụng ngân sách và
các chính sách tại địa phương còn rất nhiều hạn chế, thông thường thì các địa
31
phương khi thực hiện các quy định của ngành thì bao giờ cũng có những sai xót,
khuyết điểm. Một phần của điều này là việc các địa phương không làm công
việc của ngành đến nơi đến chốn, hoặc có sự sai phạm của cấp dưới khi thực
hiện các quy định của cấp trên. Điều này làm cho việc thực hiện quy định của
ngành tại các địa phương rất mang tính cục bộ, và tùy tiện gây ra những hậu quả
to lớn. Làm ảnh hưởng tới uy tín của các Bộ, ngành trực tiếp chỉ đạo và quản lý
thực hiện những chính sách của nhà nước. Ví dụ, trong đợt tết nguyên đán năm
Kỷ Sửu 2009 Bộ Lao động Thương binh và Xã hội và Bộ Tài chính đã tham
mưu cho Chính Phủ trong việc chi tiền Tết cho người dân nghèo trên cả nước và
chính hai Bộ nói trên trực tiếp thực hiện việc chi tiền nay cho các địa phương.
Trong quá trình thực hiện chính sách này nhìn chung thì các địa phương thực
hiện khá tốt, mang lại cho những hộ nghèo một cái tết đầm ấm và no đủ hơn.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một số địa phương có những sai phạm
trong việc chi tiền của nhà nước cho các hộ nghèo.
Những địa phương tồn tại nhiều sai xót phải kể đến tỉnh Quảng Bình, Bắc
Giang, Trà Vinh, Quảng Nam… những sai pham này đều bắt nguồn từ cấp cơ
sở, chủ yếu là tại các xã trong tỉnh. Theo đó, ngoài việc cấp tiền không đúng đối
tượng, trưởng thôn tại hàng loạt tỉnh như Quảng Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh, Bắc
Giang, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Trà Vinh, Sóc Trăng... đã cấp tiền không đủ
định mức với số người nghèo, tranh thủ truy thu các khoản người nghèo còn nợ,
thu thêm các khoản đóng góp để làm việc chung của thôn. Tiền trợ cấp của nhà
nước được các xã này dùng sai mục đích, hoặc chi cho sai đối tượng. Có những
hộ nghèo thì không được tiền trợ cấp trong khi những gia đình không thuộc diện
nghèo lại được tiền trợ cấp, đa số những gia đình này đều là người thân của của
các cán bộ trong xã. Không những vậy tiền trợ cấp cũng bị bòn rút, hoặc chuyển
thành hình thức mà thật sự không phù hợp với nguyện vọng của người dân.
Nguyên nhân của những sai phạm này là do các địa phương không giám sát,
kiểm tra việc thực hiện của các cấp cơ sở, và do chính các cấp cơ sở làm việc
còn mang nặng tính tự phát và đôi khi thiếu công minh (ưu tiên người thân của
32
các cán bộ mà không xem xét đến thực tế của các quy định về đối tượng được
hưởng những ưu đãi này). Đến khi có những phản ánh thì mới kiểm tra và xử lý,
chính điều này làm giảm đi uy tín của cấp lãnh đạo trong quản lý hành chính nhà nước.
Từ những hạn chế ở trên ta thấy một điều đó là việc chỉ đạo và giám sát
của các địa phương trong việc thực hiện những chính sách của nhà nước chưa
thật sự đạt hiệu quả, khi hật quả đã xảy ra rồi thì mới sửa sai, người chịu thiệt
thòi nhất vẫn là những người dân. Để thực hiện tốt công việc trong công tác
quản lý thì không chỉ mình các địa phương có thể đảm đương nổi những công
việc liên quan tới hoạt động của ngành mà không có sự kết hợp từ các Bộ, ngành
có liên quan. Ngoài ra, nâng cao vai trò của các Sở, phòng ban trong việc thực
hiện các quy định của ngành tại địa phương.
Trong quản lý, sử dụng đất đai
Trong giai đoạn hiện nay việc phát triển đồng đều về kinh tế của các địa
phương hầu như vẫn chưa đem lại hiệu quả cao. Có một số địa phương vì muốn
cho tỉnh mình nhanh phát triển nên đầu tư phát triển công nghiệp một cách ồ ạt
mà không xem xét về tình hình phát triển chung của địa phương mình, kết quả là
phát triển một cách gượng ép. Không những vậy việc quản lý đất đai của các địa
phương vẫn còn nhiều điểm bất cập, tuy Luật đất đai năm 2005 đã đi vào thực
tiễn vài năm, cùng với sự hướng dẫn chỉ đạo của Bộ Tài nguyên và Môi trường
thông qua các thông tư, chỉ thị, tuy nhiên hầu như điều đó không đủ để cho các
địa phương có thể quản lý đất đai một cách có hiệu quả. Những thống kê và
những con số “giật mình” trong quản lý đất đai. Đặc biệt phải kể đến các tỉnh
đồng bằng sông Cửu Long một trong những khu vực mà việc quản lý đất đai vẫn
đang còn nhiều vướng mắc và hạn chế. Điều này cho thấy rằng việc kết hợp giữa
Bộ Tài nguyên và Môi trường và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long trong việc
quản lý đất đai vẫn còn nhiều hạn chế cần khắc phục. Ngoài ra Bộ Kế hoạch và
Đầu tư và Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng chưa thực sự phối hợp tốt trong
việc quy hoạch và phát triển kinh tế để phù hợp với sự phát triển chung của mỗi
địa phương. Cụ thể là việc phát triển các khu công nghiệp, khu đô thị mới, khu
33
dân cư, đặc biệt là sự phát triển rất nhanh của hàng loạt các sân golf trong cả
nước, đang lấn dần các ruộng lúa phì nhiêu, nguy cơ sống ở vựa lúa mà thiếu
gạo ăn đang đến rất gần.
Tại các tỉnh như Vĩnh Long, An Giang, Đông Tháp chỉ riêng các khu
công nghiệp, khu đô thị đã và sẽ lấy đi hàng nghìn hécta đất nông nghiệp trước
đây vốn trồng lúa năm 2, 3 vụ với sản lượng rất cao thì nay đã bị các tỉnh nói
trên cho thành các khu công nghiệp, khu kinh tế mà không hề có chút suy nghĩ
gì hậu quả của những chính sách này. Đơn cử tại Vĩnh Long thì chỉ riêng các
khu công nghiệp đã và sẽ lấy đi trên 3.000 ha đất nông nghiệp. Trong đó, riêng
khu công nghiệp Bình Minh đã “xóa sổ” trên 130ha bưởi năm roi- đặc sản của
tỉnh. Hòa Phú (huyện Long Hồ) là khu công nghiệp đầu tiên của Vĩnh Long
được tư xây dựng khiếm 250ha đất trồng lúa bị xóa sổ. Tiếp sau đó là Vũng
Liêm là một trong những huyện trọng điểm lúa của Vĩnh Long cũng mọc lên
một cụm công nghiệp lấy đi hàng trăm hecta đất nông nghiệp của người dân.
Tuyến công nghiệp Cổ Chiên với diện tích 256ha và dự kiến sắp tới sẽ có thêm
356ha đất nông nghiệp được chuyển giao…
Những vi phạm về quản lý đất đai tại các địa phương không chỉ dừng lại ở
việc phát triển các khu công nghiệp hay khu đô thị, khu dân cư mà nó còn phát
sinh trong việc quy hoạch và phát triển dịch vụ, cụ thể là phát triển sân Golf của
các địa phương cũng đang là vấn đề mà yêu cầu đặt ra cho các Bộ, ngành và địa
phương trong việc sử dụng cân đối tài nguyên đất trong sự phát triển kinh tế của
địa phương.
GS.TSKH Trần Duy Quý - nguyên Phó giám đốc Viện Khoa học nông
nghiệp VN nhận định: “Chưa bao giờ trong lịch sử Việt Nam, đất nông nghiệp
lại bị tấn công mãnh liệt, có tổ chức, quy mô rộng và đầy quyết tâm như hiện
nay. Cả nước hiện có 7,5 triệu ha đất trồng trọt, trong khi đất trồng lúa 2 vụ chỉ
còn có 4,3 triệu ha. Với dân số 85 triệu người và không lâu sau sẽ là 100 triệu
người, 4,3 triệu ha sẽ rất mong manh khi mỗi năm lại có vài chục ngàn ha bị mất
đi để phục vụ cho các khu công nghiệp, khu chế xuất, đất ở, rồi sân golf. Đất
34
không sinh thêm nhưng các khu công nghiệp ngày càng lớn để chứng minh cho
sự phát triển của địa phương. Cứ đà này, giả sử mỗi năm Việt Nam chỉ mất
50.000 ha đất nông nghiệp thôi thì 20 năm sau chúng ta có thể mất đi 1/3 diện
tích trồng lúa. Đây sẽ là thách thức lớn cho thế hệ con cháu mai sau. Tuy nhiên,
đến nay chúng ta vẫn chưa có công cụ hữu hiệu bảo vệ đất nông nghiệp. Trong
những "sát thủ" của cây lúa, của nghề nông ngày càng đông, nay là sân golf, mai
có thể là bóng chày hay nhiều môn thể thao quý tộc khác…”.
Từ những thực tế nêu trên đã cho thấy, dù sự phát triển về công nghiệp
hay sự phát triển của đô thị và dịch vụ tại các địa phương này có thể đem lại cho
các tỉnh những thành quả bước đầu, nhưng sự phát triển này không thể làm ngay
trong một thời gian ngắn là đạt được kết quả ngay, nó cần phải có thời gian và
đặc biệt là sự kết hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành và địa phương ngay từ bước
quy hoạch và xây dựng để án phát triển . Làm tốt điều này thì việc phát triển
không đều trong cơ cấu kinh tế của mỗi địa phương sẽ được khắc phục nhanh
chóng, và sẽ đem lại hiệu quả cao trong công tác quản lý của các địa phương
trong việc phát triển ngành tại địa phương mình.
Trong kết hợp quản lý giữa cơ quan quản lý ngành, chức năng ở địa
phương với cơ quan quản lý ngành, chức năng ở trung ương.
Qua những ví dụ nêu trên cho thấy một thực tế là việc kết hợp giữa các
Bộ, ngành và các địa phương thông qua cơ quan quản lý chuyên môn ở địa
phương vẫn còn rất nhiều hạn chế. Các Sở đóng vai trò vô cùng quan trọng trong
việc kết hợp giữa các Bộ, ngành và các địa phương. Có thể nói các Sở như sợi
dây nối giữa địa phương và các Bộ, ngành. Tại địa phương thì các Sở là cơ quan
giúp việc cho Ủy ban nhân dân tỉnh tại địa phương trong các công việc liên quan
đến Sở, còn trong mối quan hệ với Bộ thì các sở lại là cơ quan chuyên môn trực
thuộc của Bộ tại các địa phương. Vừa chịu sự chỉ đạo theo chiều ngang của địa
phương và chiều dọc từ các Bộ nên vai trò của các Sở ở đây là rất quan trọng.
Một khi các sở không thực hiện tốt công việc là cầu nối giữa các Bộ, ngành và
địa phương thì việc phối hợp trong quản lý giữa các Bộ, ngành và địa phương
35
diễn ra còn hạn chế như trên là không sai. Các Sở vẫn chưa phát huy hết những
khả năng của mình trong việc giúp các địa phương thực hiện các quy định của
Bộ, ngành tại địa phương mình, cũng như thực hiện chính công việc của Bộ trực
tiếp quản lý mình giao phó.
Từ thực tế này, các địa phương và các Bộ, ngành cần phải chỉ đạo sát sao
việc thực hiện công tác quản lý của các Sở, và thông qua các Sở tăng cường hơn
nữa sự kết hợp giữa các Bộ và địa phương trong quản lý hành chính nhà nước
nói chung và trong việc thực hiện nguyên tắc quản lý ngành, chức năng kết hợp
với quản lý theo địa phương nói riêng đạt hiệu quả cao hơn.
2.3. Bất cập trong hoạt động kiểm tra giám sát thực hiện các quy định của
ngành tại địa phương.
Hoạt động kiểm tra, giám sát thực hiện các hoạt động của ngành tại các
địa phương được các Bộ, ngành và chính quyền các địa phương phối hợp thực
hiện tương đối tốt. Nhiều vi phạm được phát hiện và xử lý kịp thời. Quan trọng
là việc thực hiện các quy định của ngành tại các địa phương, cũng như việc kết
hợp giữa các địa phương đã có những thành công bước đầu, góp phần không
nhỏ vào công cuộc phát triển kinh tế tại các địa phương.
Bên cạnh những thành tựu kể trên thì vẫn còn nhiều hạn chế và thiếu xót
trong hoạt động kiểm tra, giám sát của ngành tại các địa phương, đặc biệt trong
lĩnh vực môi trường, hiện đang là vấn đề mà còn rất nhiều sai phạm và công tác
giám sát kiểm tra của Bộ, ngành trong lĩnh vực này còn nhiều điều phải nói đến.
Hàng loạt sai phạm trong việc thực hiện quy định của Bộ, ngành về môi trường
của các địa phương không được phát hiện và xử lý kịp thời. Khi hậu quả xảy ra
rồi thì lúc đó Bộ, ngành và địa phương mới bắt tay vào thanh tra, kiểm tra, giám
sát. Đánh giá một cách tổng thể công tác kiểm tra, giám sát của Bộ, ngành đối
với việc thực hiện các quy định của ngành mình tại các địa phương là còn nửa
vời, và thiếu sự kết hợp chặt chẽ giữa các địa phương và các Bộ, ngành trong
việc phát hiện và xử lý sai phạm. Vai trò của các địa phương và các Bộ, ngành
36
trong công tác kiểm tra, giám sát vẫn chưa được phát huy. Các địa phương quản
lý công việc liên quan đến các quy định của ngành chưa được sát sao. Trực tiếp
là các Sở thực hiện công tác kiểm tra không tốt, với tư cách là công tác giúp việc
cho chính quyền địa phương nhưng hiệu quả công tác kiểm tra giám sát vẫn còn
yếu kém. Đôi khi các Sở tại các địa phương còn bao che, biện hộ cho các sai
phạm của địa phương mình trong việc thực hiện những quy định của ngành.
Không những vậy, khi báo cáo lên cấp trên ở đây là các Bộ đôi khi các Sở còn
báo cáo sai sựu thật dẫn đến công tác chỉ đạo kiểm tra, giám sát của các Bộ thực
hiện không đem lại hiệu quả cao. Chúng ta có thể thấy một ví dụ điển hình trong
việc thiếu sự giám sát và kiểm tra các hoạt động của ngành tại các địa phương
dẫn đến hậu quả vô cùng to lớn đó là việc VeDan xả thải làm ô nhiễm sông Thị
Vải. Thực tế này diễn ra trong một thời gian khá dài song việc kiểm tra giám sát
của tỉnh Đồng Nai nói chung và của Bộ Tài nguyên và Môi trường nói chung đã
không quan tâm một cách đúng mức để đến khi người dân sống trên lưu vực
dòng sông kêu cứu thì mới có sự kiểm tra, giám sát. Theo đoàn kiểm tra Bộ Tài
nguyên và Môi trường việc lắp đặt, vận hành hệ thống máy bơm và đường ống
kỹ thuật xả nước thải của Công ty Vedan diễn ra từ năm 1994. Như vậy, trong
thời gian gần 14 năm qua, Vedan đã xả thẳng nước thải chưa qua xử lý xuống
sông Thị Vải, mà không bị phát hiện xử lý. Đoàn kiểm tra Bộ Tài nguyên và
Môi trường đã kiểm tra và đưa ra kết luận về hệ thống xả nước thải mà Công ty
Vedan đang vận hành là trái với quy trình kỹ thuật xử lý chất thải, không đúng
với nội dung báo cáo đánh giá tác động môi trường đã được phê duyệt và đã vi
phạm các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường. Vậy mà hàng năm báo
cáo của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Nai vẫn báo cáo lên Bộ Tài
nguyên và Môi trường về các tiêu chuẩn cho phép xả thải của công ty VeDan là
đúng quy định. Từ thực tế trên cho thấy, công tác phối hợp thực hiện công việc
của Bộ Tài nguyên và Môi trường và tỉnh Đồng nai trong việc kiểm tra, giám sát
việc thực hiện các quy định của Bộ về các tiêu chuẩn môi trường cho phép là
chưa đạt hiệu quả cao.
37
Các Bộ, ngành giám sát các địa phương trong việc thực hiện các quy định
của ngành thông qua các cơ quan chuyên môn của mình tại địa phương là các
Sở. Tuy nhiên, việc thực hiện và kiểm tra của các Sở tại các địa phương vẫn còn
nhiều hạn chế, đội ngũ cán bộ vẫn còn thiếu chưa đáp ứng đủ nhu cầu của thực
tế phát sinh. Hơn nữa, việc chính quyền các địa phương và các Sở thực hiện
công việc của mình chưa đạt hiệu quả. Đóng vai trò là cơ quan giúp việc cho các
chính quyền địa phương, song các Sở cũng là cơ chuyên môn trực thuộc Bộ
quản lý. Vì vậy, để tăng cường sự phối hợp giữa giữa các Sở và chính quyền địa
phương và các Bộ, ngành trong việc kiểm tra, giám sát thực hiện quy định của
ngành tại địa phương thì trước hết các Bộ, ngành tăng cường thêm các đợt thanh
tra chuyên ngành đối với các địa phương, tăng cường vai trò của các Sở trong
việc thực hiện công tác kiểm tra giám sát tại địa phương.
Không chỉ trong việc giám sát các hoạt động của các địa phương trong
việc thực hiện các quy định về môi trường còn yếu kém, mà ngay trong việc
giám sát các khoản kinh phí sử dụng cho sự nghiệp bảo vệ môi trường tại các địa
phương cũng vẫn còn nhiều sai phạm. Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ Tài
chính đã có thông tư liên tịch về sử dụng kinh phí cho sự nghiệp bảo vệ môi
trường là 1% ngân sách Nhà nước. Nhưng trong mấy năm qua, việc chi chưa
đúng và chưa hiệu quả còn diễn ra ở nhiều địa phương. Theo báo cáo của Bộ Tài
nguyên và Môi trường, nhiều tỉnh chỉ giữ lại 10 - 15% cho hoạt động bảo vệ môi
trường ở tỉnh, phần còn lại chia cho các huyện và cũng thiếu cơ chế kiểm tra
việc thực hiện các khoản chi này.Ví dụ: Thông tư liên tịch số 114/2006/TTLT-
BTC-BTNMT có nêu chi hỗ trợ cho thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải, nhưng
hầu hết các địa phương, toàn bộ chi cho thu gom, vận chuyển chất thải sinh hoạt
trước đây (khi chưa hình thành ngân sách sự nghiệp môi trường được chi từ
nguồn vốn sự nghiệp đô thị, thị chính) thì nay chuyển chi từ nguồn vốn sự
nghiệp môi trường (nội dung này chiếm tỉ trọng rất lớn của chi sự nghiệp môi
trường, nhiều địa phương chiếm tới 70-90%). Đơn cử như tỉnh Yên Bái, khoản
chi này là 12,81 tỷ trên tổng số 13,11 tỷ; Thành phố Hồ Chí Minh: 697,5 tỷ trên
38
tổng là 744,6 tỷ; tỉnh Vĩnh Long: 10,2 tỷ trên tổng 16,2 tỷ… Một số hạng mục
chi ở nhiều địa phương lẫn với nguồn vốn chi khác: chi cho xây dựng bãi rác,
cung cấp nước sạch, quản lý hoạt động khai thác khoáng sản, sửa chữa, cải tạo
kênh mương, trạm bơm thủy lợi.
Công tác kiểm tra, giám sát các địa phương của các Bộ, ngành khi đã có
kết quả rồi thì một thực tế là việc ai có thẩm quyền xử lý những sai phạm đó là
một trong những vấn đề mà giữa các Bộ, ngành và địa phương thường đùn đẩy
trách nhiệm cho nhau. Một ví dụ diển hình đó là việc xử lý vụ VeDan giữa Bộ
Tài Nguyên và Môi Trường và tỉnh Đồng Nai trong việc tạm đình chỉ hoạt động
của VeDan. Bộ Tài Nguyên và Môi trường thì cho rằng việc này thuộc thẩm
quyền của UBND tỉnh Đồng Nai, trong khi tỉnh Đồng Nai lại cho rằng việc này
thuộc thẩm quyền của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Theo Nghị định
81/2006/NĐ-CP thì Chủ tịch UBND cấp tỉnh và Chánh thanh tra Bộ Tài nguyên
và Môi trường, cả hai đều có thẩm quyền xử phạt đối tượng gây ô nhiễm môi
trường nhưng không có chuyện cả hai xử phạt cùng một lúc hoặc người trước,
người sau vì một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần, mà là
người nào thụ lý vụ việc trước thì xử phạt.
Điều 42 Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính quy định: “Trong trường
hợp vi phạm hành chính thuộc thẩm quyền xử phạt của nhiều người, việc xử
phạt do người thụ lý đầu tiên thực hiện”. Điều này cho thấy rằng Bộ Tài nguyên
và Môi trường đã ra quyết định xử phạt Vedan thì chỉ bộ này mới có quyền phạt
bổ sung mà ở đây là “tạm thời đình chỉ hoạt động” cho đến khi doanh nghiệp
này thực hiện xong các biện pháp bảo vệ môi trường cần thiết. Còn trong trường
hợp phải đình chỉ vĩnh viễn hoạt động, tức rút giấy phép đầu tư của Vedan thì cả
Chủ tịch tỉnh Đồng Nai lẫn Chánh thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường đều
không có quyền vì không còn trong phạm trù xử phạt hành chính nữa và quyền
này thuộc Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư (nay là Bộ trưởng
Bộ Kế hoạch và Đầu tư) là người đã cấp giấy phép đầu tư cho Vedan vào năm 1991.
39
Trên đây chỉ là ví dụ trong lĩnh vực môi trường, xong qua đó chúng ta có
thể thấy rằng việc thanh tra, kiểm tra giữa các Bộ và các địa phương vẫn còn
nhiều bất cập, chồng chéo và thiếu sự phối hợp, văn bản pháp luật của các Bộ,
ngành và các địa phương cũng chưa mang tính hiệu quả cao trong thực tiễn.
Không những vậy việc xử lý các sai phạm này cũng cho thấy những yếu kém
trong việc kết hợp giữa các Bộ, ngành và địa phương trong việc xử lý những sai
phạm và bất cập trong quản lý những nội dung của ngành tại địa phương. Tuy
không phải tất cả các lĩnh vực đều xảy ra sai phạm như trên, nhưng đây cũng là
tiếng chuông cảnh tỉnh cho việc kết hợp trong quản lý nhà nước giữa các Bộ,
ngành và địa phương.
40
CHƯƠNGIII
NÂNG CAO HIỆU QUẢ KẾT HỢP QUẢN LÝ THEO NGÀNH,
CHỨC NĂNG KẾT HỢP VỚI QUẢN LÝ THEO ĐỊA PHƯƠNG.
Nguyên tắc quản lý ngành, chức năng kết hợp với quản lý theo địa
phương là một trong các nguyên tắc quan trọng trong quản lý hành chính nhà
nước, khi tiến hành hoạt động quản lý các chủ thể quản lý phải đảm bảo thực
hiện tốt nguyên tắc này, nếu không sẽ dẫn đến những hạn chế tiêu cực. Để góp
phần nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý hành chính nhà nước, thì việc kết hợp
quản lý giữa cơ quan quản lý ngành, chức năng với cơ quan quản lý theo địa
phương cần được hoàn thiện, đặc biệt trong các lĩnh vực sau:
1. Trong hoạt động ban hành văn bản pháp luật của Bộ, ngành và của địa phương.
Như đã phân tích ở chương II, hoạt động phối hợp ban hành văn bản quy
phạm pháp luật giữa cơ quan quản lý ngành (Bộ) với chính quyền địa phương
còn bộc lộ nhiều hạn chế nhất định. Hoạt động ban hành văn bản pháp luật nó là
một trong những hoạt động quản lý hết sức quan trọng, do vậy đòi hỏi phải có sự
phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý ngành với chính quyền địa phương khi
tiến hành hoạt động này. Các cơ quan Bộ khi tiến hành ban hành những quy
định của ngành để áp dụng ở địa phương hay khi địa phương ban hành những
văn bản để hướng dẫn thực hiện các quy định của ngành tại địa phương thì cần
phối hợp ngay từ giai đoạn đầu tiên của hoạt động ban hành văn bản quy phạm.
Trong các bước tiến hành ban hành văn bản quy phạm pháp luật, thì bước
đầu tiên là đưa ra sáng kiến ban hành. Bước này đóng vai trò vô cùng quan trọng
bởi vì hoạt động quản lý chỉ đạt hiệu quả thực sự khi những sánh kiến quản lý
mang tính khả thi.Để sáng kiến của cơ quan quản lý ngành có thể áp dụng tại địa
phương một cách hợp lý và khả thi thì sáng kiến đó phải phù hợp với điều kiện
thực tiễn của địa phương. Như vậy, cơ quan Bộ cần phải lấy ý kiến tham khảo
của chính quyền địa phương cho mỗi chính sách quan trọng của ngành.
41
Nói cách khác, khi các Bộ, ngành ban hành các văn bản cần phải tính đến
tính khả thi của văn bản đó có phù hợp với tất cả các địa phương trong cả nước,
hay phải phân vùng để ban hành văn bản dễ thực hiện vì mỗi vùng lại có một vị
trí địa lý khác nhau kéo theo có những ưu thế và hạn chế khác nhau vì vậy đôi
khi Bộ, ngành cần phải quan tâm đúng mức hơn về những văn bản mang tính
chất như thế này. Để giải quyết tình trạng này thì các Bộ, ngành cần xem xét kỹ
lưỡng những đặc điểm mang tính đặc thù của mỗi vùng địa lý ứng với nó là
những lợi thế và hạn chế của từng địa phương để từ đó ban hành những quy định
chung của ngành tại các địa phương sao cho đáp ứng được nhu cầu chung của cả
nước. Muốn làm được như vậy thì chúng ta cần thực hiện tốt công việc sau:
- Phải phù hợp với điều kiện chung của các địa phương, nếu không thì
cần có những văn bản áp dụng đối với mỗi khu vực; tổ chức lấy ý kiến đóng
góp của địa phương để đảm bảo văn bản đó phù hợp với đặc thù của địa
phương. Do điều kiện tự nhiên của các địa phương khác nhau nên mỗi địa
phương có những thế mạnh phát triển riêng đặc trưng cho địa phương mình, và
những nét đặc trưng này còn hình thành theo từng khu vực và được phân bố
khắp cả nước. Vì vậy, để thực hiện tốt yêu cầu này thì trước tiên các Bộ, ngành
nên đưa ra những tiêu chí chung của ngành và xem những tiêu chí đó có thể áp
dụng trên toàn quốc hay cần phải có những ngoại lệ đối với một số khu vực . Từ
đó,khi ban hành văn bản các Bô, ngành nên xem xét tới tính thực tế của của văn
bản khi ban hành có thể áp dụng cho tất cả các địa phương một cách thống nhất
hay phải phân chia theo khu vực với những đặc trưng riêng trong việc phát triển
ngành.
Đối với địa phương khi ban hành văn bản, phải có sự phối hợp với cơ
quan quản lý ngành để đảm bảo các quy định của địa phương không trái với quy
định ngành. Để thực hiện được điều này cũng cần phải có hoạt động phối hợp
lấy ý kiến đóng góp từ phía các Bộ, ngành trong việc ban hành văn bản của các
Bộ, ngành và các địa phương sao cho phù hợp với yêu cầu thực tế.
42
- Tăng cường vai trò của các Sở, ban ngành tại địa phương trong việc
tham mưu cho Bộ, ngành và các địa phương trong việc ban hành văn bản mang
tính thống nhất và đồng bộ trong việc quản lý hành chính nhà nước giữa Bộ,
ngành và địa phương. Đây là một trong những vấn đề rất quan trọng trong việc
kết hợp giữa các Bộ, ngành và các địa phương trong quản lý hành chính nhà
nước. Nếu các Sở, ban ngành làm tốt nhiệm vụ cầu nối giữa Bộ, ngành và địa
phương thì hiệu quả trong việc kết hợp giữa các Bộ, ngành và địa phương sẽ rất
cao. Nó không chỉ giúp cho việc khắc phục những hạn chế trong khâu ban hành
văn bản mà còn trong tất cả các mối quan hệ giữa Bộ, ngành và địa phương
trong quản lý hành chính và trong việc thực hiện nguyên tắc quản lý ngành,
chức năng kết hợp với quản lý theo địa phương.
- Tăng cường sự chỉ đạo, hướng dẫn của các Bộ, ngành trong việc
hướng dẫn các địa phương trong việc ban hành văn bản sao cho phù hợp với quy
định của ngành mình, thông qua các hình thức như: ban hành các quyết định,
thông tư, chỉ thị hay mở các lớp tập huấn cán bộ chuyên trách cho các địa
phương trong việc ban hành văn bản của mình phù hợp với quy định của
ngành... ví dụ, đối với việc ban hành văn bản của Bộ Tài nguyên và Môi trường
trong lĩnh vực quản lý môi trường tại các địa phương thì trong thời gian tới, các
quy định về tiêu chuẩn môi trường cần được hoàn thiện theo các định hướng
nhanh chóng ban hành tiêu chuẩn môi trường đối với một số ngành, lĩnh vực đặc
thù. Tiếp tục ban hành các tiêu chuẩn môi trường mới, phù hợp với các yêu cầu
của Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, đồng thời, rà soát lại hệ thống tiêu chuẩn
môi trường đã ban hành để có những sửa đổi, bổ sung phù hợp…
- Đẩy mạnh hoạt động kiểm tra giám sát việc ban hành các văn bản của
địa phương. Thực hiện tốt công việc này thì sẽ tránh được những sai phạm của
địa phương trong việc ban hành văn bản vi phạm quy định của ngành, cũng như
những sai phạm trong hình thức ban hành văn bản của các địa phương.
43
2. Trong hoạt động phối hợp triển khai thực hiện các quy định của ngành ở
địa phương.
Cùng với việc ban hành các quyết định, chỉ thị, thông tư hướng dẫn các
địa phương trong việc thực hiện các quy định của ngành tại địa phương thì việc
triển khai thực hiện các quy định này là vấn đề rất quan trọng. Đây là một trong
những khâu đóng vai trò quan trọng trong việc phối hợp giữa các Bộ, ngành và
các địa phương. Nếu các địa phương triển khai thực hiện các quy định của ngành
tại địa phương mình không tốt, hay không đúng theo hướng dẫn của ngành thì
hậu quả xảy ra như phần trên đã trình bày thì thật không chỉ làm cho địa phương
lúng túng trong việc giải quyết mà còn làm cho các Bộ, ngành có liên quan cũng
gặp nhiều khó khăn trong công tác kiểm tra và khắc phục hậu quả. Việc phối
hợp thực hiện giữa các địa phương và các Bộ, ngành cần được chú trọng trong
một số nội dung sau:
- Trong xây dựng và chỉ đạo bộ máy chuyên môn: Các Bộ, ngành và các
địa phương cần điều hòa, phối hợp hoạt động của các cơ quan quản lý chuyên
môn tại địa phương nhằm phát huy mọi khả năng vật chất – kỹ thuật trong phạm
vi lãnh thổ để phát triển sản xuất, đảm bảo lợi ích của Bộ, ngành và lợi ích của
địa phương. Điều này thể hiện ở việc chỉ đạo thực hiện các quy định của Bộ,
ngành của cấp chính quyền địa phương sao cho sự phát triển đồng đều giữa các
ngành tại địa phương.
- Xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật: Bộ, ngành chỉ đạo xây dựng cơ sở
vật chất trong toàn ngành, cung cấp cho địa phương các loại vật tư kỹ thuật và
thiết bị chuyên dùng trong phạm vi của Bộ, chính quyền địa phương đảm bảo
kết cấu hạ tầng cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong phạm vi địa
phương như: cung cấp điện, nước, xây dựng đường giao thông… cho các đơn vị
của Bộ, ngành đóng tại địa phương mình. Đây là một trong những yêu cầu cơ
bản trong việc thực hiện các quy định của ngành tại địa phương. Một khi cơ sở
hạ tầng được xây dựng ổn định thì việc thực hiện các quy định của Bộ, ngành và
44
địa phương sẽ thuận lợi hơn rất nhiều, không chỉ địa phương được lợi mà ngành
cũng được phát triển một cách đồng bộ trong cả nước,
Ngoài ra. để thực hiện quy định của ngành thì các địa phương cần phải
thực hiện những yêu cầu sau:
- Tăng cường đào tạo cán bộ có chuyên môn để có thể tiếp thu và thực
hiện các quy định của Bộ, ngành tại địa phương theo đúng những quy định
của ngành. Thực hiện tốt yêu cầu này thì sẽ giúp cho việc triển khai những công
việc của Bộ, ngành và của địa phương diễn ra nhanh hơn, hiệu quả mang lại
cũng sẽ cao hơn.
- Triển khai thực hiện các quy định của Bộ, ngành theo đúng quy định
của Bộ, ngành nói riêng và của pháp luật nói chung. Tránh tình trạng cục bộ
địa phương, mạnh ai nấy làm. Để thực hiện được yêu cầu này thì ngay bản thân
các địa phương phải tìm hiểu thật kỹ các vấn đề của Bộ, ngành tại địa phương
mình trước khi thực hiện những quy định này. Từ đó có thể góp ý với các Bộ,
ngành nếu thấy các quy định này có thiếu sót hay khả năng thực hiện tại địa
phương mình không khả thi để từ đó các Bộ, ngành điều chỉnh các quy định cho
hợp lý.
- Tăng cường học tập và trao đổi giữa các địa phương với nhau về việc
thực hiện các quy định của Bộ, ngành từ đó rút ra những kinh nghiệm và bài
học quý báu trong việc thực hiện này.
- Phát huy cao độ những thế mạnh của địa phương để phát triển
ngành, nghề mà địa phương chiếm ưu thế, tuy nhiên cũng phải phát triển cân
đối và đồng đều tránh tình trạng khủng hoảng thừa, hoặc khủng hoảng thiếu.
- Phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành trên địa bàn tỉnh mình quản lý
trong việc thực hiện các quy định của ngành, ngoài ra, tránh tình trạng “gà
ganh nhau tiếng gáy” giữa các địa phương trong việc phát triển ngành.
45
3. Trong hoạt động kiểm tra, giám sát thực hiện các quy định của ngành tại
địa phương
Để việc thực hiện các quy định của ngành được thực hiện tốt thì công tác
kiểm tra, giám sát đóng vai trò vô cùng quan trọng. Để công tác kiểm tra, giám
sát được thực hiện tốt thì trước tiên phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa các Bộ,
ngành và các địa phương trong công tác thực hiện các quy định của ngành.
Ngoài ra, các Bộ, ngành cần phải thực hiện tốt các yêu cầu sau:
- Tăng cường thanh tra việc thực hiện các quy định theo ngành và lĩnh
vực của các địa phương. Xây dựng cơ chế tự thanh tra, kiểm tra trong nội bộ cơ
quan, tổ chức nhà nước; đề cao trách nhiệm thanh tra, kiểm tra của cấp trên đối
với cấp dưới, của các cấp chính quyền đối với mọi cơ quan, tổ chức trên địa bàn
và lãnh thổ. Thực hiện tốt công tác thanh tra không chỉ giúp cho các Bộ, ngành
quản lý tốt việc thực hiện các quy định của mình tại các địa phương mà còn giúp
các Bộ, ngành nhìn nhận ra những thiếu sót và có phương hướng bổ sung và
hoàn thiện các quy định của mình.
- Tăng cường đào tạo cán bộ thanh tra có trình độ chuyên môn cả về số
lượng và chất lượng. Hiện tại số lượng cán bộ thanh tra ngành vẫn đang thiếu
rất nhiều không đủ đáp ứng nhu cầu công việc của các Bộ, ngành. Điều này hạn
chế rất nhiều công tác kiểm tra, giám sát thực hiện các quy định của ngành tại
các địa phương.
- Rà soát lại toàn bộ hệ thống văn bản pháp luật để từ đó khắc phục
những thiếu sót và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về thanh tra, kiểm
tra các quy định của ngành nói chung và thanh tra nói chung. Làm tốt công
việc này sẽ giúp cho các Bộ, ngành và chính quyền các địa phương phối hợp tốt
hơn trong việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định của ngành tại địa
phương.
- Phối hợp chặt chẽ trong việc thanh tra giữa các địa phương và Bộ,
ngành liên quan khi cần phải kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định
của ngành tại các địa phương. Các địa phương phải tạo điều kiện thuận lợi cho
46
các đoàn kiểm tra, thanh tra của Bộ, ngành khi Bộ, ngành kiểm tra thanh tra việc
thực hiện các quy định của mình tại các địa phương. Tránh tình trạng “mẹ hát
con khen hay” của các địa phương việc kiểm tra, giám sát của các Bộ, ngành,
nhằm bao che cho những vi phạm tại các địa phương trong việc thực hiện các
quy định của ngành.
- Cần tăng cường sự giám sát của các Bộ, ngành trong việc ban hành
các quyết định, thông tư, chỉ thị hướng dẫn cho các địa phương trong việc
kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định của ngành ngay tại địa phương
mình. Nêu cao tinh thần tự quản của các địa phương trong thực hiện công việc
của ngành tại địa phương mình.
- Xử lý tốt những sai phạm xảy ra tại các địa phương trong việc thực
hiện các quy định của ngành. Để xử lý tốt việc này thì các Bộ, ngành và các
địa phương phải kết hợp một cách chặt chẽ trong việc phát hiện sai phạm và xử
phạt sai phạm theo quy định của ngành và theo quy định của pháp luật. Làm tốt
công tác này sẽ tạo điều kiện cho việc xử lý đúng đối tượng và xử lý đúng tội và
hình phạt tương xứng với hành vi sai phạm tại các địa phương.
47
KẾT LUẬN
Quản lý ngành, chức năng là hoạt động quản lý trong một ngành, một lĩnh
vực nhất định, hoạt động quản lý này không diễn ra trên một phạm vi vùng lãnh
thổ nhất định mà nó được thực hiện ở tất cả các địa phương. Tuy nhiên mỗi địa
phương lại có sự phát triển khác nhau về điều kiện văn hóa, chính trị xã hội và
có những đặc thù riêng, do đó sự phát triển của ngành ở mỗi địa phương là khác
nhau. Trong giai đoạn hiện nay, khi Nhà nước ta không ngừng cải cách nền hành
chính, hướng tới xây dựng một bộ máy hành chính ở các địa phương thực sự
vững mạnh bằng việc đẩy mạnh phân cấp quản lý. Việc phân cấp quản lý đã tạo
ra được những thành quả đáng kể trong việc phát huy thế mạnh của đia phương
nhưng mà nó lại dẫn đến tình trạng có sự phát triển không đồng đều ở các địa
phương. Như vậy, để đảm bảo có sự phát triển một cách thống nhất thì việc kết
hợp giữa quản lý ngành với quản lý theo địa phương thực sự là cần thiết.
Trong những năm qua, bên cạnh những thành tựu thì sự kết hợp này còn
bộc lộ những hạn chế nhất định, dẫn đến địa phương có những quy định không
phù hợp với quy định của Bộ, ngành, …các văn bản của địa phương còn mang
tính cục bộ địa phương, các văn bản của ngành thì thiếu tính khả thi. Như vậy,
cần phải đẩy mạnh sự kết hợp để khắc phục những hạn chế nêu trên. Hơn nữa,
sự kết hợp giữa cơ quan quản lý ngành, chức năng với quản lý theo địa phương
đòi hỏi một cách toàn diện, phải được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực, có như
vậy nó mới bảo đảm được hoạt động quản lý hành chính nhà nước đạt hiệu quả
cao và thống nhất trong phạm vi cả nước. Tuy nhiên, trong một số hoạt động
quản lý quan trọng, thì sự kết hợp vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định mà
đã làm suy giảm hiệu quả quản lý hành chính nhà nước dẫn đến chồng chéo,
không thống nhất giữa các ngành, các cấp trong việc thực hiện dẫn tới những
hạn chế nhất định. Để khắc phục tình trạng này thì các Bộ, ngành và các địa
phương cần có sự thống nhất trong việc triển khai và thực hiện các quy định của
ngành tại địa phương sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của các địa
48
phương, từ đó mới phát huy hết khả năng của các địa phương trong việc thực
hiện các quy định của ngành. Đặc biệt địa phương và các Bộ, ngành cần phải chỉ
đạo sát sao việc thực hiện công tác quản lý của các Sở, và thông qua các Sở tăng
cường hơn nữa sự kết hợp giữa các Bộ và địa phương trong việc thực hiện các
quy định của ngành đạt hiệu quả cao hơn.
Nguyên tắc quản lý ngành, chức năng kết hợp với quản lý theo địa
phương là một trong các nguyên tắc quan trọng trong quản lý hành chính nhà
nước, khi tiến hành hoạt động quản lý các chủ thể quản lý phải đảm bảo thực
hiện tốt nguyên tắc này. Để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý hành
chính nhà nước, thì việc kết hợp quản lý giữa cơ quan quản lý ngành, chức năng
với cơ quan quản lý theo địa phương cần được thực hiện một cách thống nhất.
Các Bộ, ngành và các địa phương cần thường xuyên trao đổi và đóng góp ý kiến
cho nhau trong việc thực hiện các quy định của ngành tại địa phương, cũng như
trong việc ban hành văn bản hay quy định của ngành tại các địa phương. Tăng
cường hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định của
ngành tại các địa phương. Thực hiện tốt công tác này sẽ nâng cao hoạt động
quản lý nhà nước nói chung và hoạt động quản lý ngành và địa phương nói riêng
trong giai đoạn hiện nay./.
49
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam 2008 - Trường đại học Luật Hà Nội
- NXB Công an nhân dân;
2. Giáo trình Luật Hành chính, khoa Luật trường đại học Quốc Gia Hà Nội;
3. Từ điển giải thích từ ngữ Luật học - Trường đại học Luật Hà Nôi - NXB
Công an nhân dân;
4. Từ điển tiếng Việt, NXB Giáo dục, H.1994
5. Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980;
6. Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi
bổ sung năm 2001);
7. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt
Nam (Ngày 18 tháng 12 năm 1986);
8. Luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm 2003;
9. Quyết định số 79/2007/QĐ-UBND ngày 11/07/2007 về việc ban hành quy
định Cấp giấy phép xây dựng các công trình trên địa bàn thành phố Hà Nội;
10. Nghị định 84/2007/NĐ-CP ban hành ngày 25/5/2007 Quy định bổ sung về
việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền
sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, và giải quyết khiếu nại về đất đai;
11. Thông tư liên tịch số 114/2006/TTLT-BTC-BTNMT về việc hướng dẫn
việc quản lý kinh phí sự nghiệp môi trường do Bộ Tài chính - Bộ Tài
nguyên và Môi trường ban hành
12. Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung 2008);
50
13. Xé rào ưu đãi đầu tư của các tỉnh trong bối cảnh mở rộng phân cấp ở Việt
Nam” “Sáng kiến” hay “lợi bất cập hại”? - UNDP Việt Nam (Vũ Thành
Tự Anh, Lê Viết Thái, Võ Tất Thắng);
14.
15.
16.
17.
18.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nguyên tắc quản lý theo ngành, chức năng kết hợp với quản lý theo địa phương.pdf