Về mặt này, cần phải khẳng định trình độ cao và 
kỹ thuật lập hiến rất chặt chẽ của nhà làm luật Việt 
Nam vào năm đầu tiên sau Cách mạng tháng 8-1945 
khi sử dụng phạm trù “sẽ do luật định” trong một loạt 
các điều khoản của Hiến pháp Việt Nam DCCH năm 
1946 như: về cách thức tuyển cử (Điều 19), về số đại 
biểu Nghị viện nhân dân (Điều 24), về cách thức 
phúc quyết của nhân dân những việc quan hệ đến vận 
mệnh quốc gia (Điều 32), về phụ cấp của các nghị 
viên (Điều 42) và về cách thức bãi miễn nhân viên 
HĐND và UBHC các cấp (Điều 62).
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 36 trang
36 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2736 | Lượt tải: 3 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những vấn đề lý luận về chế định quyền công tố, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬNVỀ CHẾ ĐỊNH 
QUYỀN CÔNG TỐ 
(NHÌN NHẬN TỪ GÓC ĐỘ NHÀ NƯỚC PHÁP 
QUYỀN) 
LÊ CẢM 
TSKH, Q. Chủ nhiệm Khoa, Trưởng Bộ môn Tư 
pháp hình sự, Khoa Luật trực thuộc ĐHQG Hà Nội 
I. CÁCH ĐẶT VẤN ĐỀ 
1.1. Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền 
(NNPQ) của dân, do dân và vì dân ở Việt Nam và 
đứng trước yêu cầu cấp thiết của việc sửa đổi phần về 
tổ chức bộ máy Nhà nước trong Hiến pháp năm 1992 
hiện nay, việc nghiên cứu từ góc độ NNPQ những 
vấn đề lý luận về chế định quyền công tố để góp phần 
hoàn thiện các cơ chế bảo vệ pháp luật trong hoạt 
động tư pháp hình sự (TPHS) là một trong những 
nhiệm vụ quan trọng và đồng thời cũng là hướng 
nghiên cứu cơ bản của khoa học pháp lý nước ta, mà 
khoa học luật tố tụng hình sự (TTHS) là một chuyên 
ngành và là một bộ phận cấu thành. Bởi lẽ: 
Một là, về mặt thực tiễn, mặc dù quyền công tố là 
một nhiệm vụ quan trọng đã được các cơ quan của hệ 
thống Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) nước ta 
(trước khi thông qua Hiến pháp Việt Nam dân chủ 
cộng hòa năm 1959 và ban hành Luật tổ chức 
VKSND ngày 26-7-1960 là Viện Công tố trực thuộc 
Chính phủ) thực hiện suốt mấy chục năm qua, nhưng 
cho đến nay trong thực tiễn TPHS khái niệm quyền 
công tố vẫn chưa được hiểu thống nhất và chưa được 
thừa nhận chung ở các cán bộ của ngành Kiểm sát, 
cũng như của các cơ quan bảo vệ pháp luật khác và 
của Tòa án. 
Hai là, về mặt lý luận, hiện nay xung quanh những 
vấn đề liên quan đến chế định quyền công tố như a) 
khái niệm, b) bản chất pháp lý, c) phạm vi (giới hạn) 
của quyền công tố, d) nội dung của nó do các yếu tố 
nào hợp thành và đ) thông qua đó xác định vị trí của 
VKS trong bộ máy quyền lực NNPQ như thế nào, 
nhất là trong tình hình hiện nay nếu như VKS không 
thực hiện chức năng kiểm sát chung (mà chỉ thực 
hiện hai chức năng chủ yếu – thực hành quyền công 
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp), v.v… vẫn chưa 
được nghiên cứu để làm sáng tỏ một cách thỏa đáng 
về mặt khoa học. Trong khoa học pháp lý nói chung 
và khoa học luật TTHS nói riêng ở Việt Nam vẫn 
chưa có công trình nghiên cứu nào làm sáng tỏ về 
mặt lý luận một cách có căn cứ và đảm bảo sức 
thuyết phục, tương đối hoàn chỉnh và có hệ thống 
những vấn đề này với tính chất là các đối tượng 
nghiên cứu khoa học riêng biệt. 
Ba là, về mặt lập pháp, hiện nay khi nghiên cứu để 
sửa đổi Hiến pháp năm 1992 chúng ta không thể nào 
cố tình phủ nhận được tình trạng vi hiến đang tồn tại 
như: theo Điều 146 thì Hiến pháp là luật cơ bản của 
Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất; Mọi văn bản 
pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp; mặt khác 
Điều 137 cũng không hề quy định cho VKS nói 
chung và VKSNDTC nói riêng thực hiện chức năng 
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét 
xử của hệ thống Tòa án nói chung và của TANDTC 
nói riêng. Nhưng trong khi đó, thì lại có một văn bản 
dưới Hiến pháp – Luật tổ chức VKSND năm 1992 – 
lại có hẳn một Chương VI riêng “Công tác kiểm sát 
xét xử” (với bốn điều) giao cho VKS chức năng này 
và hiện tại VKS vẫn đang thực hiện chức năng đã 
nêu(1 ). Thiết tưởng, ở đây nếu như nhà làm luật bổ 
sung thêm đoạn 3 vào Điều 137 Hiến pháp một quy 
phạm mới với nội dung: “Các chức năng và thẩm 
quyền, tổ chức và hoạt động của các Viện kiểm sát 
nhân dân sẽ do luật định”(2 ), thì việc Luật tổ chức 
VKSND năm 1992 – một văn bản dưới Hiến pháp – 
giao cho VKS thực hiện chức năng đó (thậm chí thêm 
nhiều chức năng khác nữa) là hoàn toàn hợp hiến và 
chẳng có gì phải bàn cãi cả (!). 
Và cuối cùng bốn là, việc suy ngẫm và phân tích nội 
dung của chế định quyền công tố (như bản chất pháp 
lý, phạm vi và các đặc điểm cơ bản của từng chức 
năng của chế định này), để thông qua đó lý giải và 
luận chứng cho vị trí của VKS trong bộ máy quyền 
lực Nhà nước – không chỉ góp phần lấp một khoảng 
trống trong khoa học pháp lý (kể cả khoa học luật 
TTHS), mà còn hỗ trợ tích cực cho việc tăng cường 
pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân 
trong hoạt động TTHS(3 ). 
1.2. Như vậy, tất cả những điều nói trên cho phép 
khẳng định ý nghĩa chính trị – xã hội và pháp lý, 
cũng như ý nghĩa khoa học-thực tiễn quan trọng và 
cấp bách của việc nghiên cứu những vấn đề lý luận 
về chế định quyền công tố hiện nay. Tuy nhiên, do 
tính chất đa dạng, phức tạp và nhiều khía cạnh của 
những vấn đề khoa học còn đang được tranh luận 
xung quanh chế định quyền công tố, nên trong bài 
viết này chúng tôi chỉ có thể đề cập những vấn đề nào 
mà theo quan điểm của chúng tôi là chủ yếu và quan 
trọng hơn cả. 
II. NỘI DUNG VẤN ĐỀ 
2.1. Việc nghiên cứu so sánh lịch sử TPHS trên thế 
giới đã cho thấy, về cơ bản khái niệm quyền công tố 
– hoạt động tố tụng vì lợi ích công cộng (lợi ích của 
Nhà nước hay của xã hội) đối với người phạm tội – 
đã được biết đến ngay từ những thời đại xa xưa của 
xã hội loài người. Chẳng hạn, ở nhà nước chiếm hữu 
nô lệ Hy Lạp cổ đại vào thế kỷ V trước CN đã tồn tại 
hai hình thức tố tụng – công tố (hoạt động tố tụng đối 
với các vụ án mà trong đó động chạm trực tiếp hay 
gián tiếp đến các lợi ích của Nhà nước khi mà người 
đại diện của nó bị thiệt hại do sự vi phạm pháp luật) 
và tư tố (hoạt động tố tụng đối với các vụ án xảy ra 
do sự vi phạm đến các lợi ích riêng của ai đó); còn ở 
La Mã cổ đại trong thời kỳ tan rã của nền dân chủ 
quân sự và hình thành Nhà nước chiếm hữu nô lệ, thì 
công tố đã được tiến hành đối với cả các vụ án quan 
trọng nhất trực tiếp xâm hại (hoặc đe dọa nghiêm 
trọng) đến trật tự xã hội – các lợi ích công cộng 
(delicta publica), khác với các vụ án động chạm đến 
các lợi ích cá nhân (delicta privata)(4 ). 
2.2. Cùng với thời gian, quyền công tố đã dần dần 
được hình thành một cách riêng biệt và đến hôm nay 
nó là một chế định pháp lý độc lập được thừa nhận 
chung trong luật TTHS của các NNPQ, đặc biệt là 
của các nước văn minh và phát triển cao trên thế giới. 
Chẳng hạn, theo các nhà luật học Liên bang (LB) 
Nga thì mặc dù chế định VKS không nằm trong số 
các chế định được ghi nhận trong các Hiến pháp của 
đại đa số các nước dân chủ (vì vị trí pháp lý của VKS 
ở các nước này thường được điều chỉnh bằng các luật 
riêng biệt về tổ chức VKS và bằng pháp luật tố tụng 
tư pháp), nhưng quyền công tố đều được thực hiện 
trong hoạt động TPHS của các nước này, mà về cơ 
bản có thể chia thành bốn nhóm như sau: 
- Nhóm thứ nhất, bao gồm các nước có VKS nằm 
trong thành phần Bộ Tư pháp (như Mỹ, Pháp, Ba 
Lan, Nhật Bản, v.v…); 
- Nhóm thứ hai, các nước có VKS nằm trong thành 
phần các Tòa án (như Tây Ban Nha, Italia, v.v…); 
- Nhóm thứ ba, các nước không có chế định VKS (ví 
dụ: nước Anh, nhưng trong các trường hợp cần thiết 
thì vẫn có những người đại diện cho vị lãnh đạo cao 
nhất của đoàn luật sư là các công tố viên phát biểu tại 
các phiên tòa với tính chất là những người buộc tội, 
hoặc khi xét xử các vụ án hình sự đặc biệt quan trọng 
thì việc buộc tội vẫn do một người có chức vụ đặc 
biệt thực hiện); 
- Và nhóm thứ tư, các nước có hệ thống VKS riêng 
biệt nằm dưới sự giám sát của nghị viện (các nước 
XHCN cũ ở Đông Âu và các nước Cộng hòa Liên 
bang thuộc Liên Xô trước đây)(5 ). 
2.3. Riêng tại một số nước thuộc Cộng đồng các quốc 
gia độc lập (SNG) hiện nay, ở một mức độ nào đó nội 
dung quyền công tố cũng được đề cập tại các điều nói 
về “việc buộc tội nhân danh Nhà nước của kiểm sát 
trưởng” trong các luật tổ chức VKS của các nước này 
(ví dụ: đoạn 1 Điều 29 Luật ngày 29-1-1993 của 
nước CH Belarux “Về Viện kiểm sát của nước Cộng 
hòa Belarux”, đoạn 2 Điều 35 Luật ngày 9-12-1992 
của nước CH Uzơbêkixtan “Về viện kiểm sát”, điểm 
4 Điều 5 và đoạn 1 Điều 36 Luật ngày 5-12-1991 của 
nước Ukraina “Về viện kiểm sát”)(6 ). 
2.4. Tuy nhiên, trong bất kỳ NNPQ nào trên thế giới 
(dù là NNPQ theo mô hình dân chủ tư sản như các 
nước Anh, Mỹ, CHLB Đức, Italia, v.v… hay là 
NNPQ theo mô hình của CNXH dân chủ và nhân đạo 
như các nước Bắc Âu – Thụy Điển, Phần Lan, Đan 
Mạch, Na Uy, v.v…) thì nhánh quyền lực thứ ba (tư 
pháp) chính là quyền xét xử, nên việc thực hiện 
quyền công tố nhân danh Nhà nước của VKS chính là 
sự hỗ trợ cho nhánh quyền tư pháp (chứ VKS không 
thực hiện quyền xét xử – quyền của Tòa án). Vậy thì 
NNPQ là gì?. Xuất phát từ việc nghiên cứu sự hình 
thành và phát triển của lý luận về NNPQ trong lịch sử 
các học thuyết chính trị-pháp luật, đồng thời trên cơ 
sở khái quát và tổng kết các quan điểm về những dấu 
hiệu chủ yếu của NNPQ hiện nay(7 ), theo quan điểm 
của chúng tôi khái niệm khoa học đầy đủ về NNPQ 
có thể được định nghĩa như sau: Nhà nước pháp 
quyền là tổ chức công quyền trong hệ thống chính trị 
của xã hội công dân được xây dựng trên nền tảng các 
tư tưởng pháp lý tiến bộ của nhân loại như công 
bằng, nhân đạo, dân chủ và pháp chế, nhằm đảm bảo 
thực sự những giá trị xã hội được thừa nhận chung 
của nền văn minh thế giới – sự tôn trọng và bảo vệ 
các quyền và tự do của con người, sự ngự trị của 
pháp luật trong các lĩnh vực sinh hoạt của xã hội, tính 
tối cao của luật trong các lĩnh vực hoạt động của Nhà 
nước, sự phân công quyền lực (lập pháp, hành pháp 
và tư pháp) và, chủ quyền của nhân dân”(8 ). 
Do đó, nếu như xét về vị trí của VKS trong hệ thống 
ba nhánh quyền lực của NNPQ, thì VKS thuộc nhánh 
quyền lực thứ hai – quyền hành pháp, nhưng VKS là 
cơ quan chủ đạo và đóng vai trò quan trọng nhất 
trong hệ thống các cơ quan bảo vệ pháp luật (vì Tòa 
án trong NNPQ với tính chất là cơ quan xét xử bao 
giờ cũng độc lập với các cơ quan bảo vệ pháp luật và 
thuộc nhánh quyền lực thứ ba – quyền tư pháp), đồng 
thời VKS chỉ thực hiện ba chức năng chủ yếu: a) 
hướng dẫn và phối hợp hoạt động của tất cả các cơ 
quan bảo vệ pháp luật trong việc đấu tranh chống tội 
phạm; b) kiểm sát việc thi hành pháp luật của các cơ 
quan này; c) buộc tội nhân danh Nhà nước tại các 
Tòa án để đạt được các bản án có căn cứ, công minh 
và đúng pháp luật(9 ). 
2.5. Ở Việt Nam, có thể nhận xét quyền công tố trên 
các bình diện dưới đây. 
- Trước hết, về mặt lập pháp: cụm từ “quyền công tố” 
chính thức được ghi nhận lần đầu tiên về mặt hiến 
định trong Hiến pháp năm 1980 (Điều 138) và hiện 
nay – trong Hiến pháp năm 1992 (Điều 137), ngoài ra 
cụm từ này còn được đề cập trong Bộ luật TTHS năm 
1988 (Điều 23) và trong Luật ngày 8-10-1992 về tổ 
chức VKSND (các điều 15-16). Tuy nhiên, cho đến 
nay vẫn chưa có văn bản pháp luật nào của Nhà nước 
ta (từ Ủy ban Thường vụ Quốc hội đến VKSNDTC) 
chính thức giải thích nội dung của quyền công tố. 
- Về mặt thuật ngữ: theo cuốn Từ điển tiếng Việt in 
lần thứ 6, đợt 2 của Viện Ngôn ngữ học do GS. 
Hoàng Phê chủ biên (Nxb Đà Nẵng – Trung tâm từ 
điển, Hà Nội-Đà Nẵng, 1998, tr. 204), thì công tố có 
nghĩa là “điều tra, truy tố và buộc tội kẻ phạm pháp 
trước tòa án”. 
- Về mặt thực tiễn: hoạt động điều tra đúng pháp luật 
(1) là điều kiện tiên quyết và là tiền đề đảm bảo pháp 
chế cho việc tiến hành tốt hai chức năng của quyền 
công tố tương ứng trong hai giai đoạn tiếp theo sau 
đó – truy tố bị can trước pháp luật (2) và buộc tội bị 
cáo tại phiên tòa xét xử của Tòa án (3). Và chính vì 
vậy, thực tiễn áp dụng pháp luật TTHS của nước ta 
cho thấy, khi thực hành quyền công tố, VKS cũng 
tiến hành cả chức năng đầu tiên và độc lập của quyền 
này – kiểm sát tính hợp pháp của việc điều tra (mà 
điều này trên thực tế cũng được nhà làm luật nước ta 
giao cho VKS). 
2.6. Từ những khiếm khuyết đã được phân tích trên 
đây cho thấy một thực tế khách quan mà không ai có 
thể phủ nhận được – là hiện nay trong thực tiễn 
TPHS và trong khoa học luật TTHS Việt Nam vẫn 
còn có sự nhận thức chưa đúng hoặc chưa thống nhất 
về khái niệm “quyền công tố”. Chính vì lẽ đó, nhiệm 
vụ làm sáng tỏ những vấn đề xung quanh khái niệm 
này là không đơn giản. Tuy phạm vi bài viết này 
không cho phép đi sâu phân tích từng quan điểm khác 
nhau của từng tác giả về khái niệm quyền công tố 
nhưng theo ý kiến của chúng tôi dưới góc độ khoa 
học luật TTHS có thể đưa ra định nghĩa của khái 
niệm quyền công tố như sau: Quyền công tố là quyền 
nhân danh Nhà nước thực hiện các chức năng do luật 
TTHS quy định để kiểm sát tính hợp pháp của việc 
điều tra tội phạm, truy tố và buộc tội người đã thực 
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự 
cấm trước Tòa án nhằm góp phần ra được các bản án 
có căn cứ, công minh và đúng pháp luật, đồng thời 
bảo vệ các quyền tự do của công dân, cũng như các 
lợi ích hợp pháp của xã hội và của Nhà nước trong 
hoạt động tư pháp hình sự. Trên cơ sở khái niệm 
khoa học này, tại các điểm từ 2.7 đến 2.13 dưới đây 
chúng ta sẽ lần lượt xem xét để làm sáng tỏ về mặt lý 
luận bản chất pháp lý, nội dung và các đặc điểm cơ 
bản của từng chức năng của quyền công tố, đồng thời 
từ đó khẳng định vị trí hợp lý của VKS trong bộ máy 
quyền lực Nhà nước. 
2.7. Việc phân tích các quy định của luật thực định 
(Điều 137 Hiến pháp năm 1992, các Điều 15-16 Luật 
tổ chức VKSND năm 1992, và các Điều 23, 141-144, 
156, 164, 169-170, v.v… Bộ luật TTHS năm 1988) 
và nghiên cứu thực tiễn TPHS cho thấy, quyền công 
tố mà VKS nhân danh Nhà nước thực hiện có thể 
được hiểu theo hai nghĩa (trên hai bình diện) như sau: 
a) hẹp – khi nó được hiểu là quyền nhân danh Nhà 
nước thực hiện trên cơ sở các quy định của pháp luật 
TTHS các chức năng truy tố và buộc tội trước Tòa án 
người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị 
luật hình sự cấm; và b) rộng – khi nó được hiểu là 
quyền nhân danh Nhà nước thực hiện trên cơ sở các 
quy định của pháp luật TTHS các chức năng kiểm sát 
việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra tội phạm, 
truy tố và buộc tội trước Tòa án người đã thực hiện 
hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm. Từ 
hai cách hiểu này, chúng ta cần phải lần lượt tìm hiểu 
xem nội dung của quyền công tố mà VKS nhân danh 
Nhà nước được thể hiện trong phạm vi (giới hạn) nào 
của quá trình TTHS và tương ứng với việc thực hiện 
các chức năng nào (?). 
2.8. Trước hết, nếu như chỉ hiểu theo nghĩa hẹp, thì 
nội dung của quyền công tố chỉ được thể hiện trong 
phạm vi (giới hạn) từ sau khi kết thúc việc điều tra tội 
phạm và vụ án hình sự được chuyển sang VKS để 
truy tố người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã 
hội bị luật hình sự cấm trước Tòa án (1) và, chấm dứt 
sau khi Tòa án xét xử xong với việc tuyên một bản án 
(quyết định) có hiệu lực pháp luật đối với người đó 
(2), tức là trong hai giai đoạn của hoạt động TPHS – 
truy tố bị can (1) và buộc tội bị cáo của VKS tại 
phiên tòa xét xử của Tòa án (2). Hai giai đoạn này 
tương ứng với việc thực hiện hai chức năng của VKS 
nhân danh Nhà nước – chức năng truy tố (1) và chức 
năng buộc tội (2). 
2.9. Còn nếu như hiểu theo nghĩa rộng, thì nội dung 
của quyền công tố được thể hiện trong phạm vi (giới 
hạn) từ khi bắt đầu việc điều tra tội phạm (1) ® vụ án 
hình sự được chuyển sang VKS để truy tố người đã 
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình 
sự cấm trước Tòa án (2) và, chấm dứt khi Tòa án xét 
xử xong với việc tuyên một bản án (quyết định) có 
hiệu lực pháp luật đối với người đó (3), tức là trong 
ba giai đoạn của hoạt động TPHS – điều tra tội phạm 
(1), truy tố bị can (2) và buộc tội bị cáo của VKS tại 
phiên tòa xét xử của Tòa án (3). Ba giai đoạn này 
tương ứng với việc thực hiện ba chức năng của VKS 
nhân danh Nhà nước – chức năng kiểm sát tính hợp 
pháp của việc điều tra (1), chức năng truy tố (2) và 
chức năng buộc tội (3). Từ cách hiểu theo nghĩa rộng 
này, để đảm bảo sự nhận thức đúng đắn và thống nhất 
về bản chất pháp lý của quyền công tố, thì dưới đây 
chúng ta cần phải lần lượt làm sáng tỏ các đặc điểm 
cơ bản của từng nội dung quyền này qua việc thực 
hiện mỗi chức năng của nó. 
2.10. Chức năng kiểm sát tính hợp pháp của việc điều 
tra – nội dung thứ nhất của quyền công tố mà VKS 
nhân danh Nhà nước thực hiện trong quá trình điều 
tra tội phạm – có các đặc điểm cơ bản dưới đây: 
- Thực hiện tốt chức năng này không những là điều 
kiện quan trọng nhằm loại trừ các vi phạm pháp luật 
có thể xảy ra trong quá trình thực hiện một loạt các 
hành vi TTHS của cơ quan điều tra (như khởi tố và 
hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, khám 
xét, thu giữ, kê biên tài sản, v.v…), mà còn là cơ sở 
đảm bảo cho việc truy tố được khách quan, đúng tội, 
đúng người và đúng pháp luật. 
- Về cơ bản, chức năng này được VKS thực hiện 
bằng việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ 
quan điều tra trong việc khởi tố bị can, kiểm sát hoạt 
động điều tra và một loạt các hành vi TTHS khác 
(khám xét, tạm giữ, tạm giam, v.v…) được quy định 
tại các Điều 64-71, 90-92, 97, 104, 115-124, 137-141 
Bộ luật TTHS. 
- Việc thực hiện chức năng thứ nhất này của quyền 
công tố là phải nhằm đạt được mục đích – sau khi kết 
thúc hoạt động điều tra, thì cơ quan điều tra phải ra 
quyết định trong từng trường hợp tương ứng theo các 
quy định của Bộ luật TTHS để gửi cho VKS: làm 
Bản kết luận điều tra đề nghị VKS truy tố (Điều 138) 
hoặc là ra quyết định đình chỉ điều tra (Điều 139). 
2.11. Chức năng truy tố – nội dung thứ hai của quyền 
công tố mà VKS nhân danh Nhà nước thực hiện sau 
khi kết thúc việc điều tra – có các đặc điểm cơ bản 
dưới đây: 
- Thực hiện tốt chức năng này không những là điều 
kiện quan trọng nhằm loại trừ các vi phạm pháp luật 
có thể xảy ra trong quá trình VKS chuyển vụ án sang 
Tòa án để xét xử, mà còn là cơ sở đảm bảo cho việc 
buộc tội của VKS đúng hành vi, đúng người và đúng 
pháp luật trong giai đoạn tiếp theo. 
- Về cơ bản, chức năng này được thực hiện bằng việc 
sau khi nhận được hồ sơ vụ án hình sự và bản kết 
luận điều tra, VKS ra quyết định đúng trong từng 
trường hợp tương ứng (như truy tố bị can trước Tòa 
án bằng bản cáo trạng, trả lại hồ sơ để điều tra bổ 
sung, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án) – thực hiện 
một loạt các hành vi TTHS được quy định tại các 
Điều 142-143b Bộ luật TTHS. 
- Việc thực hiện chức năng thứ hai này của quyền 
công tố là phải nhằm đạt được mục đích – sau khi 
quyết định truy tố bị can trước Tòa án, VKS phải 
đảm bảo tuân thủ nghiêm chỉnh và đầy đủ các quy 
định của Bộ luật TTHS để: a) giao bản cáo trạng cho 
bị can, cho người bào chữa đọc bản cáo trạng, ghi 
chép nội dung và đề xuất yêu cầu (đoạn 3 khoản 1 
Điều 142); b) gửi hồ sơ và quyết định truy tố đến Tòa 
án trong thời hạn ba ngày kể từ khi ra quyết định truy 
tố bị can (khoản 3 Điều 142); c) sao cho nội dung của 
bản cáo trạng phù hợp với quy định của pháp luật 
(Điều 143). 
2.12. Chức năng buộc tội – nội dung thứ ba và là chủ 
yếu nhất của quyền công tố mà VKS nhân danh Nhà 
nước thực hiện trong quá trình xét xử tại phiên tòa – 
có các đặc điểm cơ bản dưới đây: 
- Thực hiện tốt chức năng này không những là điều 
kiện quan trọng nhằm loại trừ các vi phạm pháp luật 
có thể xảy ra trong quá trình xét xử của Tòa án, mà 
còn là cơ sở đảm bảo cho việc Tòa án xét xử đúng 
tội, đúng người và đúng pháp luật để tuyên một bản 
án (quyết định) có hiệu lực pháp luật thực sự công 
minh, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục đối với 
công luận. 
- Về cơ bản, chức năng này được thực hiện bằng việc 
sau khi đọc bản cáo trạng luận tội bị cáo, VKS tham 
gia vào việc điều tra tại phiên tòa, hỏi những người 
tham gia tố tụng, nghiên cứu các vật chứng, tranh 
luận, quyết định rút truy tố hoặc định tội danh nhẹ 
hơn, v.v… - thực hiện một loạt các hành vi TTHS 
được quy định tại các Điều 145-195 Bộ luật TTHS để 
góp phần làm cho quá trình xét xử của Tòa án được 
tiến hành theo đúng các trình tự do luật định, đảm 
bảo sự bình đẳng của các bên tranh tụng, cũng như 
tính công khai và dân chủ của quyền tư pháp trong 
giai đoạn xây dựng NNPQ. 
- Việc thực hiện chức năng thứ ba này của quyền 
công tố là phải nhằm đạt được mục đích – sau khi 
nhân danh Nhà nước buộc tội bị cáo đã bị xét xử tại 
phiên tòa, hoạt động của VKS phải góp phần đạt 
được việc làm cho bản án (quyết định) có hiệu lực 
pháp luật của Tòa án thực sự công minh, có căn cứ và 
đảm bảo sức thuyết phục đối với công luận. 
2.13. Như vậy, xuất phát từ bản chất pháp lý, các đặc 
điểm cơ bản của ba chức năng với tính chất là ba nội 
dung cơ bản của quyền công tố chúng ta có thể khẳng 
định rằng, a) để xây dựng một NNPQ đúng với nghĩa 
của nó ở Việt Nam, b) để hoạt động kiểm sát hoạt 
động tư pháp và thực hành quyền công tố của VKS 
thực sự có hiệu lực, c) để góp phần nâng cao hiệu quả 
của việc đấu tranh phòng và chống tội phạm, thì 
trong giai đoạn hiện nay với việc sửa đổi Hiến pháp 
năm 1992 sẽ là hợp lý nếu như chức năng kiểm sát 
chung được giao cho các cơ quan Thanh tra, còn 
VKS cần tập trung làm tốt hai chức năng đã nêu và 
được xếp vào hệ thống các cơ quan bảo vệ pháp luật 
(bao gồm các cơ quan an ninh, cảnh sát, thanh tra, hải 
quan, thuế vụ, v.v…) thuộc nhánh quyền lực thứ hai 
– hành pháp, nhưng VKS là cơ quan chủ đạo và quan 
trọng nhất trong toàn bộ hệ thống các cơ quan này. 
2.14. Từ tất cả sự phân tích trên đây, để góp phần 
hoàn thiện các quy phạm hiến định về bộ máy quyền 
lực Nhà nước trong Hiến pháp Việt Nam năm 1992, 
theo quan điểm của chúng tôi: trước hết cần làm cho 
quy phạm hiến định rất hay tại Điều 146 của Luật cơ 
bản hiện hành về tính tối thượng của Hiến pháp so 
với các văn bản pháp luật khác (như đã nêu ở phần 
Cách đặt vấn đề) không bị trở thành các quy phạm 
“chết” mà phải được trở thành hiện thực trong các 
lĩnh vực hoạt động của Nhà nước bằng cách thành lập 
một cơ quan chuyên môn kiểm tra Hiến pháp với tính 
chất là: a) Tòa án Hiến pháp độc lập (ở TW) hoặc b) 
một Tòa chuyên trách của TANDTC, vì thực tiễn 
pháp lý Việt Nam trong những năm qua đang đặt ra 
một đòi hỏi cấp bách phải nhanh chóng khắc phục 
nhược điểm lớn nhất của việc thực hiện quyền tư 
pháp ở nước ta là: cho đến nay ở nước ta vẫn chưa có 
một cơ chế pháp lý hữu hiệu nào để đảm bảo thực thi 
một trong các nguyên tắc được thừa nhận chung của 
NNPQ – nguyên tắc đảm bảo tính tối cao của luật 
(mà trước hết là của Hiến pháp) trong các lĩnh vực 
hoạt động của Nhà nước. Nói một cách khác, ở Việt 
Nam hiện nay vẫn chưa có một cơ quan tài phán nào 
thực hiện chức năng quan trọng nhất trong việc đảm 
bảo sự tuân thủ nghiêm chỉnh pháp chế – chuyên 
kiểm tra tính hợp hiến (hay không?) của các văn bản 
do các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ 
trang nhân dân và những người có chức vụ ban hành, 
cũng như những hành vi của các “quan chức” được 
thực hiện trên cơ sở các văn bản vi hiến. Đồng thời 
với công việc này, cần phải xác định vị trí của VKS 
theo một trong hai hướng dưới đây: 
- Một là, nếu muốn giữ nguyên chức năng kiểm sát 
việc tuân theo pháp luật của VKS, thì cần bổ sung 
thêm đoạn 3 vào Điều 137 Hiến pháp Việt Nam năm 
1992 một quy phạm mới (với nội dung như đã nói ở 
phần Cách đặt vấn đề) để khắc phục sự tồn tại của 
thực trạng vi hiến như đã nêu bổ sung. Có như vậy, 
thì chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của 
VKSNDTC trong hoạt động xét xử của TANDTC nói 
riêng và các quy định tương ứng được cụ thể hóa 
trong Luật ngày 8-10-1992 về tổ chức VKSND nói 
chung mới có thể được coi là “phù hợp với Hiến 
pháp”, nếu không thì chức năng kiểm sát việc tuân 
theo pháp luật của VKSNDTC trong hoạt động xét 
xử của TANDTC hiện nay – sẽ bị coi là vi hiến. 
- Hai là, còn nếu như chúng ta thực sự mong muốn 
xây dựng một NNPQ ở Việt Nam, thì cần ban hành 
hai đạo luật – Luật “Về tổ chức và hoạt động của Ủy 
ban điều tra” (hệ thống cơ quan này cần được tách ra 
khỏi Bộ Công an và sát nhập với Cục điều tra của 
VKSNDTC hiện nay) và Luật “Về tổ chức và hoạt 
động của Viện công tố” để thành lập hai hệ thống cơ 
quan riêng biệt tương ứng với việc thực hiện hai chức 
năng cơ bản trong hoạt động TPHS – điều tra và truy 
tố; đồng thời xếp các cơ quan trung ương (Ủy ban 
điều tra TW và Viện Công tố TW) của hai hệ thống 
này trực thuộc Chính phủ (tương đương như hai Bộ) 
với tính chất là các cơ quan thuộc nhánh quyền hành 
pháp. Mặt khác, cần sửa đổi và cụ thể hóa khoản 1 
Điều 16 Luật ngày 8-10-1992 về tổ chức VKSND 
(mà sau này sẽ gọi là Luật “Về tổ chức và hoạt động 
của Viện công tố”), cũng như tách các từ “thực hành 
quyền công tố” ra khỏi đoạn 1 Điều 23 Bộ luật TTHS 
năm 1988 hiện hành thành một điều luật riêng biệt 
tương ứng trong hai văn bản pháp luật này với nội 
dung là: 
“Điều… Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình 
sự 
1. Viện kiểm sát nhân dân (nếu có ban hành Luật mới 
thì thay thuật ngữ “VKSND” = thuật ngữ “Viện công 
tố”) có nhiệm vụ thực hành quyền công tố trong tố 
tụng hình sự bằng các chức năng sau đây: 
a) Kiểm sát tính hợp pháp của việc điều tra; 
b) Truy tố bị can trước pháp luật; 
c) Buộc tội bị cáo tại phiên tòa xét xử của Tòa án. 
2. Việc thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát 
nhân dân trong tố tụng hình sự phải nhằm góp phần 
ra được bản án có căn cứ, công minh và đúng pháp 
luật, đồng thời bảo vệ các quyền và tự do của công 
dân, cũng như các lợi ích hợp pháp của xã hội và của 
Nhà nước”. 
III. KẾT LUẬN VẤN ĐỀ 
Tóm lại, xuất phát từ việc nghiên cứu dưới góc độ 
NNPQ những vấn đề lý luận về chế định quyền công 
tố chúng ta có thể đến một số kết luận chung dưới 
đây. 
3.1. Chỉ khi nào và ở đâu có việc thực hiện tội phạm, 
thì khi ấy và ở đó mới có thể nói đến sự buộc tội nhân 
danh Nhà nước – chức năng quan trọng nhất của 
quyền công tố và như vậy, chức năng buộc tội là 
thuộc tính và là bộ phận cấu thành chủ yếu tạo nên 
nội dung cơ bản của quyền công tố với tính chất là 
một chế định pháp lý độc lập của luật TTHS. Nói một 
cách khác, quyền công tố chỉ tồn tại trong hoạt động 
TPHS và chính vì thế, không thể nói đến quyền công 
tố trong các hoạt động tư pháp khác không liên quan 
đến việc truy tố và buộc tội người đã thực hiện hành 
vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm (như tư 
pháp dân sự, tư pháp hành chính, v.v…). 
3.2. Toàn bộ phạm vi (giới hạn) của quyền công tố 
trong luật TTHS diễn ra trong ba giai đoạn tương ứng 
với ba chức năng mà VKS thực hiện là: a) ở giai đoạn 
điều tra – VKS kiểm tra tính hợp pháp của việc điều 
tra (1); b) ở giai đoạn truy tố – VKS quyết định truy 
tố bị can và viết cáo trạng để gửi cùng với hồ sơ đến 
Tòa án, nếu như VKS không nhận thấy có các căn cứ 
trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc đình chỉ hay 
tạm đình chỉ vụ án theo luật định (2) và cuối cùng c) 
ở giai đoạn buộc tội – VKS buộc tội bị cáo tại phiên 
tòa xét xử và thực hiện các hành vi TTHS khác do 
luật định để góp phần đạt được mục đích cuối cùng là 
sau kết thúc phiên tòa xét xử, thì Tòa án tuyên một 
bản án (quyết định) có hiệu lực pháp luật thực sự 
công minh, có căn cứ và đúng pháp luật (3). 
3.3. Ba chức năng đã nêu trên đây của quyền công tố 
trong luật TTHS mà VKS nhân danh Nhà nước thực 
hiện luôn luôn có mối quan hệ chặt chẽ và hữu cơ, 
thống nhất và biện chứng với nhau, mà nếu không 
thực hiện tốt bất kỳ một chức năng nào, thì sẽ dẫn 
đến tình trạng không đồng bộ, thiếu sự nhất quán và 
do đó, quyền công tố sẽ không thể đạt được hiệu quả 
và mục đích cao cả của nó. 
3.4. Bản chất pháp lý của quyền công tố trong luật 
TTHS, chính vì vậy, là ở trong nội dung của nó, được 
phản ánh bằng việc thực hiện ba chức năng của VKS 
tương ứng với ba giai đoạn đã nêu trên đây của hoạt 
động TPHS. 
3.5. Nhiệm vụ chủ yếu của hệ thống VKS trong 
NNPQ là thực hành quyền công tố và chính vì vậy, 
nó cần phải được xếp vào hệ thống các cơ quan của 
Chính phủ và thuộc nhánh quyền lực thứ hai – quyền 
hành pháp. 
3.6. Nhằm góp phần xây dựng thành công NNPQ ở 
Việt Nam, việc Ủy ban Pháp luật của Quốc hội nước 
ta tiến hành Hội nghị khoa học để bàn vấn đề tổ chức 
và hoạt động của VKS hiện nay là rất cần thiết và bổ 
ích; ngoài ra chúng ta cũng cần phải có nhiều hội 
thảo khoa học khác nữa với sự tham gia rộng rãi của 
các chuyên gia trong lĩnh vực TPHS để tổng kết thực 
tiễn công tác kiểm sát của đất nước. Vì từ các hội 
thảo khoa học như vậy chúng ta sẽ rút ra được những 
kết luận có căn cứ, xác đáng và đảm bảo sức thuyết 
phục, đồng thời kết hợp chúng với kinh nghiệm có 
chọn lọc của các NNPQ trên thế giới và, sau khi đã 
sửa đổi Hiến pháp năm 1992 thì: a) hoặc là ban hành 
Luật “Về tổ chức và hoạt động của Viện công tố” 
(bên cạnh Luật “Về tổ chức và hoạt động của Ủy ban 
điều tra”); hoặc là b) bổ sung về cơ bản Luật tổ chức 
VKSND năm 1992 hiện hành sao cho Luật mới vừa 
phù hợp với những điều kiện cụ thể của nước ta, vừa 
không trái với các tư tưởng pháp lý tiến bộ của nền 
văn minh nhân loại (như công bằng, nhân đạo, dân 
chủ và pháp chế), cũng như các nguyên tắc cơ bản 
được thừa nhận chung của NNPQ(10 ). 
 (1) Xem cụ thể hơn: Lê Văn Cảm, Quyền tư pháp ở 
Việt Nam: Thực trạng và những phương hướng cơ 
bản của học thuyết về cải cách, Tạp chí Pháp luật và 
cuộc sống của Học viện pháp lý quốc gia Matxcơva, 
1996, No 10, tr. 120 – 125 (tiếng Nga). 
(2) Về mặt này, cần phải khẳng định trình độ cao và 
kỹ thuật lập hiến rất chặt chẽ của nhà làm luật Việt 
Nam vào năm đầu tiên sau Cách mạng tháng 8-1945 
khi sử dụng phạm trù “sẽ do luật định” trong một loạt 
các điều khoản của Hiến pháp Việt Nam DCCH năm 
1946 như: về cách thức tuyển cử (Điều 19), về số đại 
biểu Nghị viện nhân dân (Điều 24), về cách thức 
phúc quyết của nhân dân những việc quan hệ đến vận 
mệnh quốc gia (Điều 32), về phụ cấp của các nghị 
viên (Điều 42) và về cách thức bãi miễn nhân viên 
HĐND và UBHC các cấp (Điều 62). 
(3) Xem cụ thể hơn: Lê Văn Cảm, Ý nghĩa của việc 
xây dựng Nhà nước pháp quyền và những phương 
hướng cơ bản của việc tăng cường pháp chế ở Việt 
Nam trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Pháp luật và 
cuộc sống của Học viện pháp lý quốc gia Matxcơva, 
1996, No 9, tr. 156 – 163 (tiếng Nga). 
(4) Xem cụ thể hơn: Treltxôv-Bebutôv M.A., Giáo 
trình luật tố tụng hình sự. Lược khảo về lịch sử tòa án 
và tố tụng hình sự ở các nhà nước chiếm hữu nô lệ, 
phong kiến và tư sản, Sant-Pêtécbua, 1995, tr. 90-91, 
128-129 (tiếng Nga). 
(5) Xem: GS. B.A. Xtransun (chủ biên), Luật Hiến 
pháp (nhà nước) của các nước ngoài, tập 1 – 2, Phần 
chung. Giáo trình dùng cho sinh viên các trường Đại 
học và các khoa Luật. In lần thứ 2 có sửa chữa và bổ 
sung, Nxb Béc. Matxcơva, 1996, tr. 647-648 (tiếng 
Nga). 
(6) Xem cụ thể hơn: Các luật về viện kiểm sát của 
các nước SNG và Baltia, Matxcơva, 1995 (tiếng 
Nga). 
(7) Xem cụ thể hơn: Lê Văn Cảm, Học thuyết về Nhà 
nước pháp quyền và thực tiễn của nó ở Liên bang 
Nga, Nxb Sáng tạo thuộc Hội Khoa học-kỹ thuật Việt 
Nam tại LB Nga, Matxcơva, 1997. 
(8) Xem: Lê Cảm, Hoàn thiện pháp luật hình sự Việt 
Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền 
(Một số vấn đề cơ bản của Phần chung), Nxb Công 
an nhân dân, Hà Nội, 1999, tr. 18 – 19; Lê Cảm, Nhà 
nước pháp quyền, các nguyên tắc cơ bản, Tạp chí 
Nghiên cứu lập pháp, số 9/2001, tr. 61. 
(9) Xem cụ thể hơn: Xavitxki V.M., Tổ chức quyền 
tư pháp ở Liên bang Nga, Matxcơva, 1996, tr. 49 
(tiếng Nga). 
(10) Xem cụ thể hơn: Lê Văn Cảm, Công tác kiểm 
sát ở Việt Nam và các biện pháp cải cách nó, Tạp chí 
Pháp chế của Viện tổng kiểm sát Liên bang Nga, 
1997, No 2, tr. 48 (tiếng Nga). 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 27_3107.pdf 27_3107.pdf