An Giang từ tháng 9 năm 2004 đến tháng 4 năm 2005 nhằm tổng kết và theo dõi mô hình nuôi cá lóc trong vèo trong mùa lũ. Kết quả điều tra cho thấy nguồn lực
lao động trong nông hộ tương đối ít, số người trên nông hộ trung bình nhỏ hơn hoặc bằng 5, chiếm 86,7%, có độ tuổi lao động chính (18-60 tuổi) chiếm 76% và
có trình độ học vấn đa phần là thấp (55% là cấp I và 38% là cấp II). Nguồn đất
đai của các hộ tương đối ít, 43,33% nông hộ có diện tích đất canh tác lúa, còn lại
56,67% nông hộ chỉ có diện tích đất vừa đủ để ở và nuôi cá. Diện tích ao và thể tích vèo để nuôi cá lóc trung bình là 884 m2/hộ và 89,41m3/hộ, tương ứng. Nguồn thông tin phục vụ cho hoạt động nuôi cá lóc trong vèo được tiếp nhận chủ yếu từ các chương trình truyền hình (26%). Số năm kinh nghiệm nuôi cá lóc trong vèo của người dân trung bình là 5,34 năm. Nguồn vốn để phục vụ cho việc nuôi cá lóc trong vèo đa phần là kết hợp giữa vốn nhà và vốn vay tư nhân (87%)với lãi suất cao. Lý do chủ yếu mà nông dân áp dụng mô hình nuôi cá lóc trong vèo trong mùa lũ khá đa dạng, trong đó tạo thêm thu nhập chiếm 33%, nguồn nước tốt hơn chiếm 30%, dễ tìm cá mồi chiếm 17% .
Giá thành sản xuất ra 1,0 kg cá lóc thịt tương đối cao (18.420 đồng/kg) do hệ số tiêu tốn thức ăn khá cao (4,71) trong khi đó giá bán của cá lóc thịt là 19.370 đồng/kg. Lợi nhuận mà nông dân thu được sau mỗi vụ nuôi là 29.190 đồng/ m³ vèo (tương đương 2,3 triệu /hộ) và tỷ lời/vốn là 0,04, và nếu không kể công lao động gia đình thì thu nhập trung bình/nông hộ đạt 4,57 triệu/hộ (tỷ lệ lời/vốn là
0,09). Sau 2-12 năm nuôi cá lóc trong vèo, 100% nông dân trong cuộc điều tra cho rằng đời sống của họ thay đổi theo chiều hướng tăng do có lợi nhuận cao và
thu nhập thường xuyên.
Có 3 yếu tố quan trọng quyết định đến sự thành công của mô hình là vốn
để mua thức ăn cho cá, chiếm 79%, kế đến là thị trường đầu ra, chiếm 17% và còn lại là chất lượng thức ăn, chiếm 4%.
MỤC LỤC
-----оOо-----
Nội dung Trang
LỜI CẢM TẠ i TÓM LƯỢC . ii MỤC LỤC .iii DANH SÁCH BẢNG . vii
Bảng số vii
Tựa bảng vii PHỤ CHƯƠNG . pc-1 . viii DANH SÁCH HÌNH ix Chương 1 GIỚI THIỆU . 1
Chương 2: LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 2
2.1. Sự phân loại và phân bố của cá lóc 2
2.1.1. Phân loại 2
2.1.2. Sự phân bố của cá lóc . 2
2.2. Một số đặc điểm của cá lóc 2
2.2.1. Đặc điểm hình thái . 2
2.2.2. Đặc điểm dinh dưỡng .3
2.2.3. Đặc điểm sinh trưởng .3
Giai đoạn nhỏ, cá lóc chủ yếu tăng trưởng về chiều dài, cá càng lớn thì sự tăng
trọng ngày càng nhanh. Trong tự nhiên, sức lớn của cá không đều, phụ thuộc vào điều kiện thức ăn sẵn có trong thuỷ vực. Trong điều kiện nuôi có thức ăn và chăm
sóc tốt cá có thể lớn từ 0,5 đến 0,8 kg/năm, đạt tỷ lệ sống cao và ổn định (Phạm Văn
Khánh, 2000). Sau 1 năm tuổi, thân cá lóc dài 38,5-40 cm, nặng 625-1.395 g, cá 3
tuổi thân dài 45-59 cm, nặng 1.467-2.031 g , con đực và con cái chênh lệch lớn về
trọng lượng (Minh Dung, 2004). 3
2.2.4. Đặc điểm sinh sản 3
2.3. Phương pháp nuôi cá lóc thịt 4
2.3.1. Nuôi trong ao đất . 4
2.3.2. Nuôi cá lóc kết hợp trong ruộng lúa 4
Diện tích vuông ruộng nuôi cá lóc từ 0,5-3 ha, phải có mương và bờ bao xung
quanh. Chiều dài mương bằng chiều dài bờ bao, rộng 1,5-2m, sâu 0,8-1m. Phải có
hệ thống cống bọng cấp thoát nước khi cần thiết. Mật độ thả nuôi là 0,5-1 con/m2
và thời gian nuôi khoảng 6-7 tháng. Trong mô hình này để chủ động được nguồn
thức ăn cho cá lóc người ta thường thả nuôi kết hợp một số loài cá khác như: cá mè vinh để nâng cao năng suất của ruộng nuôi. Việc cho cá ăn có thể là nguồn cá tạp
tự nhiên trong mùa lũ, hay có thể bổ sung thêm thức ăn chế biến (Dương Tấn Lộc,
2001; Đại học An Giang, 2003). 4
2.3.2. Nuôi cá lóc ở rừng . 5
Hai lâm trường Mùa Xuân, Phương Ninh ở Cần Thơ trước đây có khoảng 1000 đìa nhử cá tự nhiên, nay đưa diện tích rừng vào nuôi cá gần 4000 ha. Rừng U Minh,
khu Tràm Chim, các rừng nước ngọt, sông cụt, nước kém lưu thông là nơi nuôi và dưỡng cá lóc tự nhiên. Nơi đây có điều kiện sống thích hợp cho cá lóc, thức ăn tự nhiên rất phong phú có ở tại chỗ. Có thể nuôi cá 2-3 năm, cá đạt vài kg mỗi con
(Dương Tấn Lộc, 2001) . 5
2.3.4. Nuôi cá lóc trong vèo (mùng lưới) .6
Chương 3: VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 8
3.1. Vật liệu 8
3.2. Phương pháp nghiên cứu 8
3.2.1. Thể thức thống kê 8
Phỏng vấn điều tra nông hộ và chọn mẫu điều tra theo chủ đích 8
3.2.2 Phương pháp tiến hành . 8
3.2.2.1. Theo dõi mô hình nuôi cá lóc trong vèo . 8
3.2.2.2. Tổng kết mô hình nuôi cá lóc trong vèo . 8
3.2.3. Chỉ tiêu theo dõi .9
3.2.3.1. Theo dõi 3 nông dân đang nuôi cá lóc trong vèo với những chỉ tiêu cụ
thể như sau 9
3.2.3.2. Tổng kết mô hình nuôi cá lóc trong vèo . 10
3.3. Phân tích thống kê: . 10
Chương 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 11
4.2. Thông tin nông hộ 12
4.2.1. Nguồn nhân lực 12
4.2.2. Đất đai 13
Khi phỏng vấn về nguồn thông tin phục vụ cho hoạt động nuôi cá lóc trong vèo, thì nông dân ở vùng nghiên cứu cho rằng nguồn thông tin trên thường xuyên được tiếp cận chủ yếu từ các nguồn: chương trình truyền hình (tivi), chiếm tỷ lệ 26%, tiếp theo
là đài phát thanh (radio) chiếm tỷ lệ 20% và giữa các nông dân nuôi cá lóc (18%). Ngoài ra, họ còn tiếp nhận những thông tin từ nhiều nguồn khác nữa như: sách báo, bà con thân thuộc, cán bộ kỹ thuật viên của huyện hoặc xã (Bảng 4.3). Điều này cho thấy người dân tại địa bàn nghiên cứu rất quan tâm đến những tiến bộ về
kỹ thuật nuôi cá và thông tin phục vụ cho nuôi cá lóc rất đa dạng. Tuy nhiên các nguồn thông tin trên còn mang tính chấp giá, bị động và chưa được sắp xếp, hệ
thống hóa hoàn chỉnh. Để phục vụ tốt hơn, thiết nghĩ cần phải có một hình thức tiếp nhận và chuyển giao thông tin giữa người nuôi cá và cơ quan khoa học cũng như
thị trường, . dễ dàng hơn như các mô hình câu lạc bộ khuyến nông, hợp tác xã kiểu mới, .14
4.3. Hoạt động nuôi cá trong mùa lũ . 15
4.3.1. Mùa vụ nuôi cá lóc trong vèo 15
Đa phần những hộ được phỏng vấn thì nuôi cá lóc trong vèo quanh năm. Tận dụng
ao sẵn có, họ thường nuôi 3 vụ cá lóc trên một năm: (1) vụ mùa mưa (từ tháng 4 đến
tháng 8 dl), (2) vụ mùa lũ (từ tháng 7-8 đến tháng 11-12 dl) và (3) vụ mùa nghịch
(từ tháng 12 đến tháng 4 dl). Trong năm 2004, kết quả điều tra cho thấy phần đông người dân đã chọn thời điểm thả cá sớm vào đầu tháng 6, chiếm tỷ lệ 86,67% (Bảng
4) và cá được thu hoạch sớm vào đầu tháng 10, chiếm tỷ lệ 76,67% do giá cá thịt
cao. Các hộ còn lại (23,33%) thì neo lại chờ giá cao hơn. Điều này cũng tương tự như nhận định của Dương Tấn Lộc (2001) theo ông, ở ĐBSCL mùa lũ tràn về từ tháng 7 đến tháng 11 hằng năm, do đó người dân nuôi cá lóc cần có nguồn giống sớm, bắt đầu nuôi từ tháng 5 đến tháng 8 cá được 100g/con. Giai đoạn này cá ăn mạnh dựa vào nguồn thức ăn tự nhiên có sẵn và nước lũ lớn thì hiệu quả nuôi sẽ
cao 15
4.3.2. Lý do nông dân áp dụng mô hình nuôi cá lóc trong vèo trong mùa lũ 16
4.3.4. Kỹ thuật nuôi . 17
4.3.4.1. Phương pháp cải tạo ao . 17
4.3.4.2. Phương pháp chuẩn bị vèo nuôi 19
4.3.4.3. Cách đặt vèo và phương pháp cấp nước . 20
4.3.4.4. Nguồn cá giống, mật độ thả và kích cỡ cá thả nuôi . 21
4.3.4.5. Nguồn thức ăn .22
Do nguồn thức ăn không ổn định nên muốn dự trữ thức ăn lại cho cá lóc thì 56,67%
số người nuôi phải mua thức ăn cho cá ở chợ huyện (Bảng 9). Người nuôi cho rằng khi mua cá mồi ở huyện thì giá tương đối rẻ hơn so với ở xã. Do thiếu phương tiện
vận chuyển và dự trữ, 40% nông dân còn lại phải mua thức ăn ở phạm vi xã (chủ
yếu là cua, ốc và cá tạp mà người dân trong xã khai thác được và bán lại cho những người nuôi cá lóc ở địa phương). Nhưng lượng thức ăn này giá cả không ổn định và bấp bênh nên chủ yếu là người dân phải mua cá mồi ở huyện nơi đây tập trung
nhiều trại vựa cá mồi lớn và ổn định. Nếu so sánh với xã Vĩnh Hội Đông của huyện
An Phú thì ngoài việc mua cá mồi ở phạm vi xã hoặc huyện thì người dân còn mua
cá ở phạm vi tỉnh nhiều hơn, do phải đi mua cá mồi xa nên làm tăng thêm chi phí vận hành của người nuôi, thậm chí do điều kiện tự nhiên giáp với nước bạn Campuchia nên một số nông dân ở đây còn sang Campuchia để mua cá mồi. Qua
điều này cho thấy nguồn cung cấp thức ăn ở xã Tân Trung tương đối thuận lợi hơn
so với nơi khác, người dân không phải đi xa để mua cá mồi, góp phần giảm chi phí
vận hành và tăng lợi nhuận sau mỗi vụ nuôi cá lóc trong vèo. . 23
4.3.4.6. Phương pháp cho cá lóc ăn của người dân 23
4.3.4.8. Quản lý dịch bệnh 25
4.3.5. Các chỉ tiêu năng suất và sinh khối lúc thu hoạch của cá lóc trong mô hình
nuôi cá lóc trong vèo trong mùa lũ 2004 26
4.3.6. Hiệu quả kinh tế của mô hình nuôi cá lóc trong vèo trong mùa lũ năm 2004
29
4.4. Đời sống của nông dân sau khi áp dụng mô hình nuôi cá lóc trong vèo . 33
4.5. Các yếu tố quyết định thành công của mô hình nuôi cá lóc trong vèo màu lũ năm 2004 35
4.6. Những khó khăn trở ngại của mô hình nuôi cá lóc trong vèo trong mùa lũ
năm 2004 36
Chương 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ . 40
5.1. Kết luận .40
5.2. Đề nghị 41
TÀI LIỆU THAM KHẢO 43
PHỤ CHƯƠNG . 46
CHÚ THÍCH : TÀI LIỆU GỒM FILE PDF + WORD
69 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2860 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nuôi cá nước ngọt (Nuôi cá lóc trong vèo), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tự nhiên rất đa dạng như các loài phiêu sinh vật, động vật đáy..., thành phần chủng loài tôm, cá, cua, ốc cũng rất phong phú góp phần làm tăng sinh khối lúc thu hoạch khai thác thủy sản nuôi và thủy sản tự nhiên trong vùng. Ngoài ra một số ý kiến khác thì cho rằng họ đã có sẵn ao, mùng lưới đầu tư từ những vụ lũ trước, do đó nếu không nuôi thì phí của nên họ đã tiếp tục thực hiện mô hình này. Như đã đề cập ở trên thì vào mùa lũ nông dân trong xã không sản xuất lúa hay trồng màu được, do đó họ có công lao động nhàn rỗi ở địa phương
rất lớn và thay vì phải đi làm thuê thì một số nông dân đã nghĩ ra cách lấy công lao động làm lời từ việc nuôi cá lóc trong vèo vào thời gian mùa lũ.
4.3.3. Nguồn vốn để sản xuất
Nguồn vốn để sản xuất là một trong những yếu tố rất quan trọng, do chi phí nuôi cá lóc rất cao, và mức sống trung bình nên đa phần người dân tại địa bàn nghiên cứu phải vay thêm vốn bên ngoài. Kết quả điều tra cho thấy có đến
26/30 (86,67%) hộ được phỏng vấn vừa dựa vào vốn tự có và vừa phải vay thêm vốn bên ngoài với lãi suất cao. Có 3 hộ dựa vào nguồn vay của nhà nước với lãi suất thấp hơn chiếm 10% số hộ điều tra và chỉ có 1 hộ (3,33%) có khả năng lo đủ nguồn vốn để nuôi cá lóc (Do hộ này nuôi với số lượng ít).
Bảng 5: Nguồn vốn để thực hiện mô hình nuôi cá lóc trong vèo của người dân ở xã Tân Trung, Phú Tân, An Giang trong mùa lũ năm 2004
Nội dung Tần số Phần trăm (%)
- Vốn nhà và vốn vay của tư nhân
- Vốn vay ngân hàng
- Vốn nhà tự có
26 86,67
3 10,0
1 3,33
4.3.4. Kỹ thuật nuôi
4.3.4.1. Phương pháp cải tạo ao
Cải tạo ao là một trong những khâu kỹ thuật rất quan trọng mà bất cứ người nuôi cá nào cũng phải thực hiện trước mỗi vụ nuôi, vì ngay trong đáy ao
có thể tồn tại nhiều loại tác nhân gây bệnh khác nhau, đặc biệt các ao vừa kết thúc một vụ nuôi. Do đó việc tẩy dọn ao đìa trước mỗi vụ nuôi là những thao tác
kỹ thuật rất quan trọng không chỉ để tiêu diệt hết tác nhân gây bệnh, mà còn có ý nghĩa tạo ra môi trường thích hợp và ổn định. Đây là một công việc rất cần thiết
và quan trọng nên khi được phỏng vấn thì có hầu hết nông dân có cách chuẩn bị khá giống nhau: đó là rút cạn nước, vét bùn ở đáy ao và rải vôi hoặc rải muối và sau đó tiến hành phơi đáy ao; chỉ khác nhau ở chỗ có hộ rải vôi chiếm tỷ lệ
53,33%, trong khi đó 46,67% còn lại cho rằng rải vôi và kết hợp với muối thì
hiệu quả cải tạo ao sẽ cao hơn (Bảng 6). Điều này cũng dễ hiểu bởi vôi thì có tác dụng nâng cao pH và diệt khuẩn, còn muối thì có tác dụng diệt các vi khuẩn gây bệnh sống trong môi trường nước ngọt. Rút cạn nước ao là thao tác đầu tiên khi
tẩy dọn, có thể đào thải ra khỏi ao một lượng tác nhân là vi khuẩn, nấm, ký sinh trùng rất lớn. Thời gian phơi đáy ao của mỗi nông dân đều khác nhau tùy theo thói quen và kinh nghiệm của họ thấp nhất là 1 ngày và cao nhất là 10 ngày, cách làm này có thể tiêu diệt được một số mầm bệnh nhưng tốt nhất là nên phơi đáy
ao từ 1-2 tuần lợi dụng nhiệt độ, độ khô và tác dụng diệt trùng của tia tử ngoại trong ánh sáng mặt trời. Còn việc bón vôi hay muối để sát trùng diệt tạp và nâng cao pH của ao nuôi, góp phần vào việc hạn chế dịch bệnh xảy ra trong quá trình nuôi cá lóc. Cách chuẩn bị ao này cũng được nông dân ở An Phú áp dụng và theo những hộ đã theo dõi và phỏng vấn thì cách làm này mang lại hiệu quả rất cao trong suốt vụ nuôi của họ.
Bảng 6: Phương pháp cải tạo ao của nông dân nuôi cá lóc trong vèo tại xã
Tân Trung, Phú Tân, An Giang trong mùa lũ năm 2004
Phương pháp
Nội dung Tần số Phần trăm (%)
- Rút cạn nước,vét bùn ở đáy ao,bón 16
vôi, phơi đáy ao.
- Rút cạn nước, vét bùn ớ đáy ao, bón 14
muối, vôi, phơi đáy ao.
Tổng 30
Thời gian làm
8-10 ngày trước khi thả 3
4-7 ngày trước khi thả 22
1-3 ngày trước khi thả 5
53,33
46,67
100
10,35
72,41
17,24
Tổng 30 100
4.3.4.2. Phương pháp chuẩn bị vèo nuôi
Phương pháp chuẩn bị vèo trước mỗi vụ nuôi có khác nhau giữa các hộ nuôi (Bảng 7), có 33,33% nông dân cho rằng nên ngâm vèo trong nước vôi một ngày trước khi thả cá, 30% nên giặt sạch, phơi nắng và vá lại vèo trước mỗi vụ nuôi, 26,67% nông dân thì ngâm vèo trong thuốc tím và 10% số nông dân còn lại
có cách làm khác như ngâm vèo trong thuốc hay nước muối, … Theo nông dân
thì những cách làm này có tác dụng tiêu diệt mầm bệnh trên vèo nuôi của các vụ nuôi trước và làm sạch vèo tạo điều kiện trao đổi nước tốt trong quá trình nuôi.
Cách giặt sạch và vá vèo được nông dân thực hiện tương đối nhiều, một
cái vèo lưới tốt (loại lưới Thái) có thể sử dụng được đến 2 năm do đó sau mỗi vụ nuôi nông dân chỉ cần giặt sạch và thay phần lưới cước phía trên là có thể nuôi được vụ thứ hai. Nhìn chung cách thức chuẩn bị vèo của nông dân ở đây cũng tương tự như một số địa phương khác.
Bảng 7: Cách thức chuẩn bị vèo trước mỗi vụ nuôi của nông dân tại địa bàn nghiên cứu
Diễn giải Tần số Phần trăm (%)
Ngâm vèo trong vôi
Ngâm vèo trong thuốc tím Giặt sạch & vá vèo bằng tay Khác
10 33,33
8 26,67
9 30
3 10
Thờigianthựchiệnlàmộtngày trướckhi thảcá
4.3.4.3. Cách đặt vèo và phương pháp cấp nước
Qua kết quả điều tra cho thấy đa số nông dân (60%) thường áp dụng đặt vèo ở góc ao, nơi gần bọng thoát nước ra (Bảng 8). Bởi vì đa phần nông dân ở đây phải dùng máy để cấp nước cho ao nuôi cá (86,67%), với cách làm này thì máy bơm sẽ được đặt ở bọng cấp nước vào, khi cấp nước vào thì một phần nước
ao cũ trong ao cùng với những chất cặn bã còn xót lại trong vèo sẽ theo nước thoát ra ngoài. Một bộ phận nông dân khác thì lại chọn cách đặt vèo của mình ở
giữa ao, chiếm tỷ lệ 40% vì theo họ ở giữa ao thì nước sâu khi đó cá chúi xuống đáy vèo sẽ không đụng đất bùn và không làm cho nước ao bị bẩn.
Do điều kiện đất thấp nên một số hộ cấp nước cho ao mình bằng phương pháp thủy triều chiếm 13,33%, cách này giúp họ giảm được chi phí vận hành và tăng thêm lợi nhuận trong quá trình nuôi cá. Tuy nhiên hình thức này chỉ chiếm một số lượng rất nhỏ.
Bảng 8: Cách thức đặt vèo và phương pháp cấp nước của nông dân
Diễn giải Tần số Phần trăm (%)
Cách đặt vèo trong ao
- Đặt vèo ở góc ao
- Đặt vào ở giữa ao
Phương pháp cấp nước vào ao
- Bơm
- Thủy triều
18 60
12 40
26 86,67
4 13,33
4.3.4.4. Nguồn cá giống, mật độ thả và kích cỡ cá thả nuôi
Qua nhiều năm kinh nghiệm nông dân nuôi cá lóc cho biết muốn việc nuôi cá đạt hiệu quả cao thì cá giống phải tốt và phải chủ động được nguồn cá giống phục vụ cho việc nuôi cá quanh năm. Theo kết quả điều tra có đến 27/30
hộ được phỏng vấn đã tự sản xuất cá giống chiếm tỷ lệ 90% (Bảng 9), còn lại là
10% phải mua cá giống bên ngoài do chưa tự sản xuất được. Việc tự sản xuất ra
cá giống để nuôi có một ý nghĩa rất quan trọng là lựa chọn đựợc giống tốt, kích
cỡ đồng đều và khỏe mạnh. Đây là một trong những yếu tố quyết định đến năng suất cá nuôi về sau. Ngoài ra, có thể có thêm nguồn thu nhập từ việc bán cá giống dư thừa. Kết quả điều tra này cũng tương tự như kết quả điều tra ở xã Vĩnh Hội Đông của huyện An Phú đa số người dân ở đây cũng tự sản xuất giống để nuôi. Điều này rất phù hợp với xu hướng nuôi cá hiện nay do xuất phát từ quan niệm phòng bệnh tổng hợp cho động vật thủy sản nên người ta rất chú trọng đến
khâu sản xuất con giống, chất lượng con giống tốt khỏe mạnh thì cá sẽ lớn nhanh, kích cỡ đồng đều và ít xảy ra dịch bệnh trong quá trình nuôi.
Kích cỡ cá thả ở đây ít biến động, thấp nhất là 40 g/con, cao nhất là 100 g/con và trung bình là 71,03 g/con (Bảng 11). Đối với mật độ thả cá thì biến động rất lớn giữa các hộ nuôi, dao động từ 11,11-152,78 con/m3 vèo nuôi và trung bình là 59,14 con/ m3 vèo nuôi. Mật độ thả này tương đối thấp, bởi theo Nguyễn Văn Dính (2004) thì trên 1m3 vèo có thể thả đến 200 con cá lóc. Ngoài
ra theo kết quả điều tra năm 2004, nông dân ở xã Vĩnh Thạnh Trung huyện Châu Phú, An Giang thả với mật độ trung bình là 102 con/m3 vèo. Tuy nhiên theo ý kiến của những nông dân ở địa điểm nghiên cứu này cho biết qua nhiều năm kinh nghiệm nuôi cá thì thả với mật độ từ 50-100 con/m3 vèo thì cá sẽ lớn nhanh,
ít bệnh và đạt được kích cỡ thương phẩm đồng đều
Hình 4.2. Mật độ và kích cỡ cá thả nuôi của người dân
4.3.4.5. Nguồn thức ăn
Tận dụng một số loại thức ăn sẵn có trong mùa lũ như ốc bươu vàng, cá tạp,…là phương châm của việc nuôi cá lóc trong mùa lũ. Nhưng do lũ năm 2004 không lớn, hơn nữa thời tiết xấu hay có mưa bão nên lượng cá tự nhiên đánh bắt được rất thấp và không ổn định nên phần lớn nông dân phải sử dụng thức ăn chủ
yếu là cá biển cho cá lóc, chiếm tỷ lệ 83,33%, còn lại là 16,67% người nuôi cho
cá lóc ăn cá tạp, cua, ốc (Bảng 9).
Bảng 9: Nguồn cá giống, loại thức ăn và nguồn thức ăn mà người dân ở xã
Tân Trung sử dụng để thực hiện mô hình trong mùa lũ năm 2004
Diễn giải Tần số Phần trăm (%) Nguồn cá giống
- Giống nhà
- Giống mua
Thức ăn cho cá lóc
- Cá biển
- Cá đồng, cua, ốc
Nguồn thức ăn
- Phạm vi xã
- Phạm vi huyện
- Phạm vi tỉnh
27 90,00
3 10,00
25 83,33
5 16,67
12 40,00
17 56,67
1 3,33
Do nguồn thức ăn không ổn định nên muốn dự trữ thức ăn lại cho cá lóc
thì 56,67% số người nuôi phải mua thức ăn cho cá ở chợ huyện (Bảng 9). Người nuôi cho rằng khi mua cá mồi ở huyện thì giá tương đối rẻ hơn so với ở xã. Do thiếu phương tiện vận chuyển và dự trữ, 40% nông dân còn lại phải mua thức ăn
ở phạm vi xã (chủ yếu là cua, ốc và cá tạp mà người dân trong xã khai thác được
và bán lại cho những người nuôi cá lóc ở địa phương). Nhưng lượng thức ăn này
giá cả không ổn định và bấp bênh nên chủ yếu là người dân phải mua cá mồi ở huyện nơi đây tập trung nhiều trại vựa cá mồi lớn và ổn định. Nếu so sánh với xã Vĩnh Hội Đông của huyện An Phú thì ngoài việc mua cá mồi ở phạm vi xã hoặc huyện thì người dân còn mua cá ở phạm vi tỉnh nhiều hơn, do phải đi mua cá mồi xa nên làm tăng thêm chi phí vận hành của người nuôi, thậm chí do điều kiện tự nhiên giáp với nước bạn Campuchia nên một số nông dân ở đây còn sang
Campuchia để mua cá mồi. Qua điều này cho thấy nguồn cung cấp thức ăn ở xã
Tân Trung tương đối thuận lợi hơn so với nơi khác, người dân không phải đi xa
để mua cá mồi, góp phần giảm chi phí vận hành và tăng lợi nhuận sau mỗi vụ nuôi cá lóc trong vèo.
4.3.4.6. Phương pháp cho cá lóc ăn của người dân
Cho cá ăn cũng là một khâu kỹ thuật rất quan trọng quyết định đến năng suất và sinh khối lúc thu hoạch cá nuôi. Giai đoạn cá còn nhỏ khoảng 40 g/con
thì người nuôi tiến hành cho cá ăn nhiều lần trong ngày có thể là từ 3 đến 4 lần, thức ăn phải được rửa sạch và xay nhuyễn. Đến khi cá lớn hơn khoảng 250 g/con
thì tiến hành cho cá ăn 2 lần trong một ngày vào buổi sáng (khoảng 8 hoặc 9 giờ)
và buổi chiều (từ 4 đến 5 giờ). Trong một tháng cuối cùng trước khi bán thì đa phần nông dân chỉ cho cá ăn 1 lần trong ngày, theo họ cách cho ăn này cá vẫn tăng trọng bình thường. Tất cả nông dân ở đây đều cho cá lóc ăn bằng cách rải thức ăn lên sàng ăn (sàng ăn có thể làm bằng tre hoặc làm bằng lưới cước). Cách làm này có thể giúp họ quan sát được lượng thức ăn cũng như tình trạng sức khỏe của cá nuôi, giúp họ có thể điều chỉnh lượng thức ăn hợp lý, nếu không thì
dễ dẫn đến tình trạng thức ăn dư thừa vừa mất hiệu quả kinh tế vừa làm ô nhiễm nước trong ao, dẫn đến tình trạng phải thường xuyên thay nước trong ao và làm tăng chi phí vận hành trong suốt vụ nuôi.
Hình 4.3. Phương pháp cho cá lóc ăn của người dân
4.3.4.7. Quản lý chất lượng nước ao
Việc quản lý chất lượng nước ao cũng là một khâu rất quan trọng. Kết quả điều tra cho thấy nông dân quản lý chất lượng nước ao có chứa vèo cá lóc nuôi bằng các phương pháp như thay nước đinh kỳ (mỗi tuần thay một lần), quan
sát màu nước và xử lý bằng hóa chất (Bảng 10). Quản lý chất lượng nước bằng phương pháp thay nước định kỳ chiếm tỷ lệ cao nhất (50%), kế đến là quan sát màu nước (43,33%) và cuối cùng là xử lý nước ao bằng hóa chất mỗi khi nước
ao bị ô nhiễm. Tùy vào kinh nghiệm nuôi, mà mỗi người nuôi có thể áp dụng
một phương pháp khác nhau.
Nội dung Tần suất Phần trăm (%)
Quan sát màu nước
13
43,33
Thay nước định kỳ
15
50,00
Bằng hóa chất
2
6,67
Tổng
30
100
Bảng 10: Phương pháp quản lý chất lượng nước ao
Qua thực tế và kết quả theo dõi 3 hộ nuôi cho thấy, đối với những nông dân áp dụng việc thay nước ao theo định kỳ thì sẽ mang lại kết quả cao nhất, cá
ít bị dịch bệnh và tăng trọng bình thường. Nhìn chung cách quản lý chất lượng nước ao của nông dân ở Phú Tân tương đối giống ở trường hợp nông dân ở Vĩnh Hội Đông huyện An Phú, quản lý chất lượng nước ao của mình bằng 3 cách nêu trên.
4.3.4.8. Quản lý dịch bệnh
Động vật thủy sản sống trong nước nên quá trình phòng bệnh không giống gia súc trên cạn. Mỗi khi cá trong ao bị bệnh không thể chữa từng con mà phải chữa theo quần đàn. Thuốc dùng phải tính cho tổng số cá sống trong ao nên tốn kém nhiều, các loại thuốc chữa bệnh bên trong cơ thể động vật thủy sản thường phải trộn vào thức ăn, nhưng những con bị bệnh thường không ăn, những
con khỏe lại ăn nhiều, nên dù có sử dụng loại thuốc đúng nhưng hiệu quả sẽ không cao và những con khỏe mạnh cũng phải dùng thuốc làm ảnh hưởng đến sinh trưởng của chúng (Hứa Thị Phượng Liên, 2004). Do đó nguyên tắc trong nuôi thủy sản là phòng bệnh hơn chữa bệnh, ý thức được tầm quan trọng của việc này nên 63,33% nguời dân đã chọn cách trộn thuốc vào thức ăn theo định
kỳ để phòng bệnh cho cá và 36,67% nông dân thì quan sát sức khỏe cá lúc cho
ăn (Bảng 11). Các nhà nuôi trồng thủy sản luôn luôn đặt vấn đề phòng bệnh cho động vật thủy sản lên hàng đầu và họ cho rằng “ Phòng bệnh là chính, chữa bệnh khi cần” (Đỗ Thị Hòa, 2004). Với cách trộn thuốc vào thức ăn theo định kỳ của người dân rất tốn kém chi phí và dễ dẫn đến tình trạng cá bị kháng thuốc và làm ảnh hưởng xấu đến chất lượng nước trong ao. Quan sát tình trạng sức khỏe của
cá nuôi lúc cho ăn cũng là một cách rất hay dễ dàng phát hiện cá bệnh mà có biện pháp phòng trị kịp thời.
Ngày nay để đạt hiệu quả kinh tế cao trong nuôi trồng thủy sản người dân nên áp dụng biện pháp phòng trị bệnh tổng hợp, tức là kiểm tra kỹ về khâu lựa chọn con giống, quản lý môi trường nuôi, dinh dưỡng cho cá nuôi. Nếu làm
tốt các khâu này thì năng suất và chất lượng cá nuôi sẽ cao hơn và người nuôi sẽ đạt hiệu quả kinh tế cao hơn.
Bảng 11: Phương pháp quản lý sức khỏe cá lóc nuôi của người dân tại địa bàn nghiên cứu
Nội dung Tần suất (%)
- Trộn thuốc vào thức ăn theo định kỳ 19
- Quan sát lúc cho cá ăn 11
Tổng 30
63,33
36,67
100
4.3.5. Các chỉ tiêu năng suất và sinh khối lúc thu hoạch của cá lóc trong mô
hình nuôi cá lóc trong vèo trong mùa lũ 2004
Qua kết quả điều tra cho thấy thời gian nuôi cá lóc trong vèo trong mùa
lũ 2004 trung bình là 4,29 tháng (Bảng 12), ngắn nhất là 4 tháng và dài nhất là 5
tháng. Thời gian nuôi có sự biến động như thế cũng tùy thuộc vào kỹ thuật chăm sóc của người nuôi và giá cả trên thị trường (khi nào cá lóc có giá thì người ta sẽ bán); và còn một lý do khác nữa là một số hộ do không có khả năng lo tiền mua thức ăn cho cá nuôi của mình nên phải bán sớm. Tỷ lệ sống của cá lóc trong vèo nuôi dao động trong khoảng từ 33,33% đến 95,2%, trung bình khoảng 75,47%,
tỷ lệ sống này tương đối cao do kích cỡ thả khi bắt đầu nuôi cá thịt tương đối lớn trung bình là 70 g/con (Bảng 12) và trong quá trình nuôi họ cũng thực hiện tốt khâu quản lý chất lượng nước, chất lượng thức ăn và phòng trị bệnh cho cá. Tốc
độ tăng trưởng của cá lóc biến động tương đối lớn thấp nhất là 1,47 g/ngày và cao nhất là 7,83 g/ngày, trung bình mỗi ngày cá tăng khoảng 5,09 g, tốc độ tăng trưởng này là tương đối trung bình, cao hơn so với cá lóc nuôi trong ao và thấp hơn so với cá lóc nuôi trong bè.
Năng suất cá nuôi cũng dao động rất lớn thấp nhất là 7,33 kg/m3, cao nhất đến 95,83 kg/m3, và trung bình là 27,35 kg/m3, còn sinh khối lúc thu hoạch
thì dao động từ 8,3 kg/m3 đến 111,11 kg/m3 và trung bình là 31,09 kg/m3, nếu so với các địa phương khác thì năng suất và sinh khối lúc thu hoạch cá nuôi ở 2 huyện An Phú và Phú Tân không khác nhau (ở An Phú năng suất và sinh khối
lúc thu hoạch cá nuôi lần lượt là 19,19 kg/m3 và 22,21 kg/m3) nhưng lại thấp hơn
so với huyện Châu Phú (năng suất và sinh khối lúc thu hoạch cá nuôi lần lượt là
40,1 kg/m3 và 47,71 kg/m3) do ở huyện Châu Phú mật độ cá nuôi cao hơn và chi phí đầu tư cũng cao hơn (Cao Quốc Nam và ctv, 2005).
Do lựa chọn thời điểm thả nuôi không đồng đều nên thời gian thu hoạch của các hộ nuôi cá ở địa bàn nghiên cứu không giống nhau cho nên kích cỡ lúc thu hoạch dao động rất lớn từ 300 g đến 1000 g và kích cỡ cá trung bình người dân thu hoạch là 713,33 g/con. Một lý do khác dẫn đến kích cỡ cá khác nhau lúc thu hoạch của người dân là do giá cả thị trường khi nào thấy cá có giá là người ta tiến hành bán cá của mình, hơn nữa cách chăm sóc, quản lý, phòng trị bệnh cũng
làm cho kích cỡ cá nuôi không đồng đều.
Giá cá thịt mà nông dân bán tương đối cao so với các vùng khác trong mùa nước lũ năm 2004, trung bình khoảng 19.370 đồng/kg (Bảng 13). Sở dĩ nông dân bán được giá cao như vậy là do qua nhiều năm kinh nghiệm nuôi họ đã lựa chọn đúng thời điểm cá có giá cao khi xuất bán (vào tháng 10). Đây là thời điểm cá lóc có giá cao nhất trong vụ mùa lũ do đến tháng 11 và 12 lượng cá mà nông dân đánh bắt được từ tự nhiên rất cao dẫn đến giá cá nuôi giảm thấp. Hơn nữa do chủ động được nguồn cá giống (Bảng 9) và được tuyển chọn tốt nên kích
cỡ cá thương phẩm tương đối tốt và đồng đều (Bảng 4.12) dẫn đến góp phần nâng cao giá bán của cá lóc thương phẩm. Bên cạnh đó, do làm tốt từ khâu phòng trị bệnh cũng như quản lý chất lượng nước tốt nên người nuôi đã hạn chế được tình hình dịch bệnh, cá lớn nhanh khỏe mạnh nên giá bán cao hơn so với các địa phương khác. Ngoài ra yếu tố thương lái thu mua cũng góp phần ổn định
và nâng cao giá cá thịt. Khi tìm hiểu về thông tin người thu mua thì hầu hết nông dân đều thu hoạch cá đồng loạt một lần và bán 100% cho thương lái tư nhân có quen biết. Bởi theo họ những thương lái này thường mua cá lóc với giá cao và ổn định, hơn nữa mua bán với nhau nhiều năm những thương lái này rất có uy tín
chỉ cần gọi điện thoại là họ đến tận nhà để mua và trả tiền mặt cho nông dân.
Bảng 12: Các chỉ tiêu năng suất, sinh khối lúc thu hoạch, hệ số tiêu tốn thức ăn, giá bán và giá thành sản xuất của cá lóc trong mô hình nuôi cá lóc trong
Nội dung
Trung bình
Cao nhất
Thấp nhất
vèo trong mùa lũ 2004
Thời gian nuôi (tháng)
4,29
5
3,5
Tỷ lệ sống (%)
75,47
95,2
33,33
Tốc độ tăng trưởng (g/ngày)
5,09
7,83
1,47
Năng suất (kg/m3)
27,35
95,83
7,33
Sinh khối lúc thu hoạch (kg/m3)
31,09
111,11
8,3
Kích cỡ thu hoạch (g/con)
713,33
1000
300
Mật độ thả (con/m3)
87,03
270
18
Kích cỡ thả (g/con)
70
100
40
Hệ số tiêu tốn thức ăn (kg/kg tăng
trọng)
4,71 8,1 3,02
4.3.6. Hiệu quả kinh tế của mô hình nuôi cá lóc trong vèo trong mùa lũ năm
2004
Với giá cá lóc thương phẩm là 19.360 đồng/kg và kể cả chi phí công lao
động gia đình thì nông dân sẽ thu được lợi nhuận là 26.120 đồng/m3 vèo nuôi và
tỷ lệ lời trên vốn là 0,04 (chưa trừ lãi suất vay vốn; Bảng 13). Khi xét về hiệu quả kinh tế không kể chi phí công lao động gia đình thì lợi nhuận và tỷ lệ lời trên vốn là 52,53 đồng/m3 và 0,09, tương ứng; và sau mỗi vụ nuôi, lợi nhuận mỗi hộ thu được trung bình là 4,5 triệu, trong đó hộ thu được lợi nhuận cao nhất khoảng
13,8 triệu đồng và hộ bị lỗ khoảng 2,7 triệu đồng sau vụ nuôi.
Bảng 13: Hiệu quả kinh tế nuôi cá lóc trong vèo mùa lũ 2004
Nội dung Trung bình Thấp nhất Cao nhất
A: Tổng thu nhập (1000 đ/m3) 601,90 106,66 1968,11
Sinh khối lúc thu hoạch (kg/m3)
31,09
8,30
111,11
Giá bán (1000đ/kg)
19,37
12,80
26
Giá thành (1000 đồng/kg)
18,42
11,67
30,28
B: Tổng chi phí (1000 đ/m3)
575,78
140,38
1910,01
·
Chi phí cố định (1000 đ/m3)
13,55
1,67
71,70
-
Đào ao
0,60
0
3,50
-
Sên vét ao
5,50
0,70
30,56
-
Vèo cá
2,45
0,63
8,33
-
Vợt, dây, sàng ăn
1,08
0,20
3,13
-
Máy xay thức ăn
1,59
0
9,38
-
Hệ thống ống dẫn
0,55
0,04
1,67
-
Máy bơm
0,92
0
12,50
-
Thùng chưa thức ăn
0,86
0,10
2,63
Chi phí vận hành (1000 đ/m3) 562,23 138,71 1838,40
-
Vôi bột
1,59
0,93
12,50
-
Cá giống
13,75
3,33
45,80
-
Vitamin, premix
14,51
1,90
37,04
-
Thuốc trị bệnh
16,53
1,85
83,33
- Thức ăn 478,39 126,67 1555,56
- Xăng dầu 11,05 0,70 4,17
- Lao động gia đình 26,41 3,33 100
C: Lợi nhuận (C=A-B; 1000 đ/m3) 26,12 -33,72 58,1
D: Lợi nhuận không lao động gia đình (LNKLĐGĐ)
- LNKLĐGĐ (1000 đồng/m³)
- LNKLĐGĐ (1000 đồng/hộ)
Tỉ lệ lời/vốn
- Kể cả lao động nhà (C/B)
- Không kể lao động nhà (D/B)
52,53
4571,69
0,04
0,09
-30,39
-2717,17
-0,24
-0,22
158,10
13759,44
0,03
0,08
So với kết quả báo cáo của huyện Phú Tân thì thu nhập bình quân của
nông dân nuôi cá lóc trong vèo vào mùa lũ 2003 lãi từ 3-10 triệu đồng/hộ (UBND huyện Phú Tân; Phòng Xây dựng và Phát triển nông thôn, 2004) thì thu nhập từ nuôi cá lóc trong vèo trong mùa lũ 2004 tại nơi nghiên cứu không cao. Nguyên nhân dẫn đến thu nhập của mô hình thấp vào năm 2004 là do mùa lũ
2004 không lớn và về chậm nên lượng cá mồi khai thác bị hạn chế, người nuôi phải mua thêm cá biển với giá cao. Ngoài ra, theo thông tin từ người dân giá cá
lóc thịt trong mùa lũ năm 2004 cũng thấp hơn so với các năm trước. Một lý do khác dẫn đến hiệu quả kinh tế của mô hình này không cao trong năm 2004 là do mùa lũ năm nay thấp do đó người dân phải cho cá ăn bằng cá biển nên nguồn nước thường bị dơ hơn, họ phải thay nước thường xuyên (Bảng 10) làm tăng chi phí vận hành (giá xăng dầu năm nay cũng cao hơn so với những năm trước).
Tuy nhiên, nông dân ở đây có thể thu được lợi nhuận nhiều hơn nếu biết ứng dụng các biện pháp kỹ thuật làm giảm chi phí vận hành (cá giống, thức ăn, giảm hệ số chuyển hóa thức ăn, có biện pháp phòng trị bênh tốt hơn…). Ngoài
ra, qua kết quả theo dõi và điều tra cho thấy nếu áp dụng mô hình này, nông dân còn thu thêm một khoản lợi nhuận lớn bằng cách tận dụng diện tích còn lại trong
ao để thả nuôi một số loài cá khác như: cá rô đồng, cá trê, cá tra, cá hường, cá rô phi,…Những loài cá này sẽ sử dụng trực tiếp và gián tiếp thức ăn thừa và chất thải của cá lóc, cá sẽ lớn rất nhanh mà không cần bổ sung thêm thức ăn. Mặt
khác chúng còn góp phần cải thiện môi trường nước trong ao nuôi. Hình thức nuôi kết hợp trong và ngoài vèo này cũng đã được thực hiện tại hộ ông Cao Văn Phước, ấp Tân Hòa II, xã Tân Trung, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang trong mùa
lũ năm 2003 và 2004 (Cao Quốc Namvà ctv, 2005).
Nếu so sánh với một số mô hình canh tác khác trong mùa lũ 2004 thì lợi nhuận trung bình (kể cả công lao động gia đình) của mô hình nuôi cá lóc trong vèo hơi thấp (2,3 triệu/hộ/89 m3 vèo nuôi và tỷ lệ lời/vốn là 0,04). Bởi theo Võ Văn Hà và ctv (2005) thì hiệu quả của mô hình nuôi lươn còn thấp với diện tích nuôi trung bình là 88,6 m2/hộ thì lợi nhuận chỉ đạt khoảng 1,86 triệu đồng/hộ/vụ
và hiệu quả sử dụng đồng vốn của mô hình là 0,13. Cũng theo tác giả này thì lợi nhuận từ việc trồng rau nhút tại Châu Phú và Phú Tân lần lượt là 3,4 đến 6,5 triệu đồng/ha. Qua kết quả này cho thấy mô hình nuôi cá lóc trong vèo mang lại
lợi nhuận và hiệu quả đầu tư không cao nhưng hiệu quả sử dụng diện tích mặt nước thì cao hơn.
Khi phân tích riêng từng trường hợp có lãi và thua lỗ của 30 hộ nông dân trong vùng nghiên cứu, kết quả cho thấy có đến 18/30 hộ thực hiện mô hình này
có hiệu quả, chiếm tỷ lệ 60%, còn lại là 12 hộ thực hiện mô hình không có hiệu quả, chiếm tỷ lệ 40% (Bảng 14). Giữa các hộ có lợi nhuận và các hộ bị thua lỗ có
sự chênh lệch lớn về năng suất nuôi, sinh khối lúc thu hoạch và các thông số đầu
tư. Ở các hộ có lợi nhuận, năng suất đạt 30,78 kg/m3 trong khi đó ở các hộ thua
lỗ chỉ đạt 20,95 kg/m3. Giá thành để sản xuất ra 1 kg cá lóc thịt rất cao ở nhóm
hộ bị thua lỗ (20.700 đồng/kg) do hệ số chuyển hóa thức ăn cao (5,41) nhưng giá bán cá thịt lại rất thấp (16.860 đồng/kg) so với nhóm hộ có lãi. Giá cá thịt bán thấp ở các hộ bị thua lỗ có thể là do kích cỡ thu hoạch thấp hơn so với các hộ có lãi. Đối với trường hợp các hộ có lãi thì con số lợi nhuận và hiệu quả đồng vốn khi kể cả công lao động gia đình tương đối chấp nhận được (130.880 đồng/m3 vèo nuôi và 0,22, tương ứng). Điều này cho thấy, mô hình nuôi cá lóc trong vèo
trong mùa lũ có thể phát triển và khuyến cáo đến người dân nếu như chúng ta loại trừ và khắc phục được các yếu điểm của các hộ chưa thành công.
Bảng 14: So sánh hiệu quả kinh tế giữa hai nhóm hộ có lãi và thua lỗ tại địa bàn nghiên cứu trong mùa lũ năm 2004
Nhóm hộ có lãi
Nhóm hộ bị thua lỗ
(60%) (40%)
A: Tổng thu nhập (1000
Trung bình
Độ lệch chuẩn
Trung bình
Độ lệch chuẩn
đ/m3) 717,10 467,87 443.82 221,08
Năng suất (kg/m3)
30,78
21,63
20.95
10,94
Sinh khối lúc thu hoạch (kg/m3)
32,94
24,49
29.56
15,33
Kích cỡ thu hoạch (g/con)
805,56
134,92
575
142,22
Giá bán (1000 đ/kg)
21,03
2,7
16.86
2,82
Giá thành (1000 đ/kg)
17,31
2,12
20,71
4,3
B: Tổng chi phí (1000 đ/m3) 585,50 406,88 529.4 304,01
Chi phí cố định (1000 đ/m3)
14,31
10,97
11.61
6,66
Chi phí vận hành (1000 đ/m3)
571,19
395,91
547,79
297,93
-
Cá giống
13,43
9,86
14,21
9,2
-
Thuốc trị bệnh, vitamin, …
46,32
30,6
41,44
19,41
-
Thức ăn
487,82
341,85
464,25
253,59
-
Lao động gia đình
25,43
16,77
27,89
27,38
C: Lợi nhuận (C=A-B; 1000
đ/m3) 130,88 127,22 -103,97 116,69
D: Lợi nhuận không lao động gia đình (LNKLĐGĐ)
- LNKLĐGĐ (1000 đồng/m³)
- LNKLĐGĐ (1000 đồng/hộ)
Tỉ lệ lời/vốn
- Kể cả lao động nhà (C/B)
- Không kể lao động nhà (D/B)
Hệ số chuyển hóa thức ăn (kg
156,31
13.342,57
0,22
0,27
132,29
12.278,79
0,31
0,33
-76,08
-6.289,53
-0,19
-0,14
110,1
3280,7
0,39
0,36
thức ăn/kg tăng trọng) 4,3 0,45 5,41 1,27
Từ những kết quả trên cho thấy tuy lợi nhuận không cao nhưng mô hình nuôi cá lóc trong vèo trong mùa lũ có ý nghĩa rất lớn về mặt xã hội. Mô hình đã góp phần tạo thêm công ăn việc làm cho một bộ phận nông dân nghèo đánh bắt thủy sản trong mùa lũ, tận dụng được công lao động nhàn rỗi của gia đình (Bảng
4; Cao Quốc Nam và ctv, 2005). Điều này rất có ý nghĩa về mặt xã hội và cũng
đã được đề cập đến trong báo cáo của Sở Nông Nghiệp và Phát Triển Nông
Thôn, tỉnh An Giang (2003). Tuy nhiên, khi xét về lâu và dài cần phải cân nhắc
lại bởi hệ số chuyển hóa thức ăn của mô hình rất cao, để có được 1kg cá lóc thương phẩm phải tiêu tốn đến 4,71 kg thức ăn cá mồi (Bảng 12). Nghề nuôi cá
lóc sẽ có ảnh hưởng xấu lên nguồn lợi thủy sản tự nhiên và sinh kế cho những người dân hoạt động đánh bắt thủy sản trong mùa lũ. Bên cạnh đó tính rủi ro của mô hình cũng tương đối lớn (tỷ lệ thành công chỉ đạt 60%, Bảng 14) do hiệu quả của mô hình này lại phụ thuộc rất lớn vào giá cả thị trường, thời điểm nuôi, giá
cá mồi trên thị trường, rủi ro về kỹ thuật cũng như dịch bệnh xảy ra trên cá lóc, ….
4.4. Đời sống của nông dân sau khi áp dụng mô hình nuôi cá lóc trong vèo
Qua kết quả theo dõi và phỏng vấn thì 100% nông dân cho rằng sau từ 2-
12 năm áp dụng mô hình nuôi cá lóc thì đời sống thay đổi theo chiều hướng tăng. Trong đó 72,41% cho rằng mô hình này mang lại lợi nhuận cao (Bảng 15). Ông Võ Hữu Đời cho biết sáu năm trước khi chưa áp dụng mô hình này thì đời sống gia đình ông rất khó khăn phải sống bằng nghề làm thuê để nuôi 9 miệng
ăn, nhưng kể từ khi áp dụng mô hình này thì đời sống gia đình hoàn toàn đổi khác, nhà cửa khang trang, không những thế gia đình còn sắm được xe gắn máy, tivi,…và cho con cái được học hành. Theo những người nuôi cá đầu tiên ở xã cho biết những năm trước khi mà số lượng người nuôi ít thì giá cá mồi rất thấp khoảng 2000-2500 đồng/kg và tình hình dịch bệnh tương đối ít. Hơn nữa giá cá thịt cũng ổn định do đó người nuôi có lợi nhuận cao.
Bên cạnh đó, thì do nuôi cá quanh năm nên 27,59% nông dân cho rằng đời sống có thay đổi theo chiều hướng tốt hơn do họ có thu nhập thường xuyên nên ổn định cuộc sống. Họ có thể xoay trở đồng vốn của mình bằng cách: nuôi
vụ mùa lũ rồi lấy tiền vốn và tiền lời từ vụ này để đầu tư nuôi vụ mùa nghịch (vụ này có lợi nhuận cao, do giá cá thịt cao, nhưng rất dễ xảy ra rủi ro do điều kiện thời tiết không thuận lợi). Điều này cũng giống như kết quả báo cáo của huyện Phú Tân mô hình nuôi cá lóc trong vèo mang lại thu nhập bình quân từ 3-10 triệu đồng/hộ (Phòng Xây dựng và phát triển nông thôn huyện Phú Tân, tỉnh An Giang, 2003 ).
Bảng 15: Sự thay đổi đời sống của nông dân và yếu tố quyết định sự thành công khi áp dụng mô hình nuôi cá lóc trong vèo
Diễn giải Phần trăm (%)
1. Đời sống thay đổi theo chiều hướng tăng do:
- Thu nhập thường xuyên nên cuộc sống ổn định
- Lợi nhuận cao
2. Các yếu tố quyết định sự thành công của mô hình:
- Vốn sản xuất: để mua thức ăn và tự sản xuất cá giống
- Thị trường đầu ra
- Thức ăn tốt
100
27,59
72,41
79,31
17,24
3,45
Trên đây là 2 lý do dẫn đến đời sống của người dân thay đổi theo chiều
hướng tăng khi áp dụng mô hình, nhưng nếu so với huyện An Phú thì lý do quan trọng nhất mà người nuôi cho rằng làm thay đổi cuộc sống của họ là thêm nguồn thu nhập - do nơi đây cũng có nhiều hộ nuôi cá lóc trong vèo quanh năm (Cao Quốc Nam và ctv, 2005). Cũng theo tác giả này thì 12% và 37% nông dân ở 2 huyện Châu Phú và An Phú cho rằng đời sống vẫn không thay đổi khi áp dụng mô hình do giá cá thịt không ổn định và cùng với các lý do khác làm cho mô hình nuôi cá lóc trong vèo chưa thật sự mang lại lợi nhuận. Điều này có thể do
điều kiện tự nhiên tại 2 vùng này nên người dân không thể tiến hành nuôi cá lóc sớm nên phải chấp nhận bán cá với giá thấp.
4.5. Các yếu tố quyết định thành công của mô hình nuôi cá lóc trong vèo màu lũ năm 2004
Các yếu tố dẫn đến sự thành công của mô hình đã được trình bày ở bảng
15. Qua đó cho thấy nông dân cần vốn sản xuất để mua thức ăn và tự sản xuất giống chiếm tỷ lệ cao nhất đến 79,31%. Quá trình nuôi thì kéo dài, ít nhất là 4 tháng dài nhất là 5 tháng hơn nữa lượng thức ăn cho cá lóc ăn ngày càng tăng cộng thêm giá cá mồi cao nên họ rất cần vốn để đầu tư mua thức ăn. Vì vậy có
thể xem vốn là yếu tố quan trọng nhất đối với họ và nó có tính quyết định sự thành công của mô hình. Bên cạnh đó thì thị trường đầu ra cũng không kém phần quan trọng chiếm đến 17,24%. Vì đa số nông dân cho rằng nếu cá nuôi đạt năng suất và sinh khối lúc thu hoạch cao nhưng nếu giá cả thị trường bấp bênh, không
ổn định hay giá cá lóc nuôi trên thị trường thấp thì ngừời nuôi sẽ bị lỗ vốn. Do
đó thị trường đầu ra cũng là một yếu tố rất quan trọng. Cuối cùng yếu tố thức ăn
tốt cũng quyết định đến sự thành công của mô hình, chiếm 3,45%. Nhiều nông dân cho biết: nếu thức ăn tươi sống (nhất là cá đồng) thì cá lóc nuôi sẽ mau lớn
và ít bị bệnh khi đó không cần phải trộn thêm thuốc ngừa bệnh và thuốc bồi dưỡng vào thức ăn. Nhưng nếu cho ăn cá biển thì nước ao mau bị dơ và cá dễ mắc bệnh hơn. Do đó trước khi cho ăn bằng cá biển họ phải tốn công rửa thật sạch, chọn lọc cá mồi tốt và trộn thêm thuốc kháng sinh thuốc bồi dưỡng vào thức ăn làm tăng chi phí vận hành dẫn đến lợi nhuận của người nuôi kém đi. Khi
đề cập đến yếu tố kỹ thuật thì nông dân ở vùng nghiên cứu cho rằng nuôi cá lóc trong vèo là một hình thức nuôi khá đơn giản nên đối với họ yếu tố kỹ thuật không quan trọng lắm vì họ đã được tập huấn từ cán bộ khuyến ngư ở huyện từ một năm trước. Nếu so sánh với các địa phương khác như Châu Phú và An Phú
thì các yếu tố vốn, thị trường đầu ra, chất lượng nước là những yếu tố được đề cập đến nhiều nhất (Cao Quốc Nam và ctv, 2005).
4.6. Những khó khăn trở ngại của mô hình nuôi cá lóc trong vèo trong mùa
lũ năm 2004
Những trở ngại khó khăn chủ yếu của mô hình nuôi cá lóc trong vèo trong mùa lũ 2004 tại địa bàn nghiên cứu là chất lượng nước kém (25%), thức ăn (25%), dịch bệnh (25%) và vốn sản xuất (25%) (Bảng 16). Theo Đại học An Giang (2003) vào thời điểm cuối mùa lũ môi trường nước biến động rất lớn và
có thể gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe cá nuôi. Đây cũng là khó khăn lớn của các hộ nông dân đã được phỏng vấn, trong đó 51,72% nông dân cho rằng khi lũ đến mang theo nhiều phù sa nên nước rất đục. Bên cạnh đó thì 48,28% nông dân được phỏng vấn cho rằng trong quá trình nuôi do sử dụng thức ăn là cá biển nên làm cho nguồn nước thường xuyên hôi thối, cá nuôi dễ mắc bệnh do đó họ phải tốn kém nhiều chi phí thuốc, xăng, dầu bơm nước… dẫn đến chi phí sản xuất cao
và giảm lợi nhuận mô hình.
Khó khăn thứ hai mà nông dân gặp phải là thức ăn (cá mồi) có đến
96,55% nông dân cho rằng thức ăn ở thời điểm mùa lũ 2004 giá cá mồi quá cao
và dao động trong khoảng 3500-4000 đồng/kg, trong khi đó ở thời điểm cùng kỳ các năm trước giá cá mồi chỉ 2000-3000 đồng/kg. Một khó khăn trở ngại nữa là
do thời tiết năm nay không ổn định thường xuyên xảy ra mưa bão nên 3,45%
thiếu thức ăn trong quá trình nuôi.
Một khó khăn nữa cũng không kém phần quan trọng quyết định đến năng suất cá nuôi đó là dịch bệnh (25%) - rất thường xảy ra trong quá trình nuôi
và khó điều trị. Bệnh phổ biến và thường gặp nhất trên cá lóc nuôi đó là bệnh xuất huyết chiếm tỷ lệ 34,48 %, kế tiếp là bệnh mất nhớt chiếm đến 24,14%, ngoài ra còn một số bệnh phổ biến khác như: ghẻ, đỏ mang, ký sinh trùng. Một điều đáng lưu ý ở đây là khi điều trị những bệnh này tất cả những nông dân đã được phỏng vấn đều dùng thuốc điều trị quá liều lượng so với hướng dẫn ghi trên nhãn thuốc, điều này dễ dẫn đến trường hợp cá bị ngộ độc thuốc. Ngoài ra, trong quá trình nuôi còn xuất hiện một số bệnh mà nông dân không điều trị được như hiện tượng cá chết rải rác có khi mỗi ngày chết 1 con hoặc trong 1 tuần chỉ
chết 1-2 con, tuy nhiên hiện tượng này không phổ biến lắm chỉ chiếm tỉ lệ
3,45%.
Qua kết quả theo dõi và điều tra một khó khăn lớn nhất và khó giải quyết nhất đối với người nuôi cá lóc ở xã Tân Trung hiện nay là vốn sản xuất. Do quá trình nuôi kéo dài và đầu tư mua cá mồi cao nên những hộ nghèo thiếu vốn phải vay bên ngoài với lãi suất cao chiếm 86,21%, những hộ này không vay được vốn nhà nước do không đủ điều kiện vay cũng như không có bằng khoán đỏ để thế chấp với ngân hàng, vay nóng lãi suất quá cao 2,2-4,85%/tháng dẫn đến nhiều hộ trắng tay sau mỗi vụ nuôi, tính trên lý thuyết thì họ có lời sau mỗi vụ nuôi nhưng tiền lời này chỉ đủ đóng lãi. Đây là một khó khăn rất lớn đối với những hộ nuôi
cá lóc. Bên cạnh đó thì những hộ có đủ điều kiện vay vốn của nhà nước thì vốn vay này không đủ để họ thực hiện mô hình. Qua nhiều năm thực hiện mô hình, những nông dân được phỏng vấn và theo dõi cho biết muốn nuôi 1000 con cá lóc
thì số vốn tối thiểu mà họ phải có là 10 triệu đồng trong khi đó vốn của nhà nước
hỗ trợ cho việc chăn nuôi chỉ từ 5-7 triệu đồng/ hộ. Điều này cũng giống như báo cáo của Phòng Xây dựng và phát triển nông thôn huyện Phú Tân, tỉnh An Giang (2003) vốn vay ngân hàng không đủ và chậm.
Bảng 16: Những khó khăn trở ngại của mô hình nuôi cá lóc trong vèo trong mùa lũ năm 2004 tại xã Tân Trung, Phú Tân, An Giang
Nội dung Phần trăm (%)
1. Chất lượng nước
- Đục
- Hôi thối
2. Thức ăn
- Giá cao
- Mưa bão thiếu thức ăn
3. Dich bệnh
- Xuất huyết
25,00
51,72
48,28
25,00
96,55
3,45
25,00
34,48
- Ghẻ 6,9
- Mất nhớt
- Đỏ mang
- Ký sinh
- Không tự điều trị được
4. Vốn
- Thiếu vốn phải vay bên ngoài với lãi suất cao
24,14
17,24
13,79
3,45
25,00
86,21
- Vốn vay từ nhà nước không đủ cho sản xuất 13,79
Ở các địa phương khác thì người dân cũng gặp những khó khăn tương tự như ở đây. Ngoài ra do mới thực hiện mô hình này khoảng 2,17 năm (ở huyện Châu Phú) nên nhiều nông dân ở đây gặp khó khăn trong kỹ thuật nuôi họ chỉ học qua bạn bè, dẫn đến hiệu quả kinh tế của mô hình không cao. Do chưa chủ động đựợc thời vụ nuôi nên 100% nông dân ở 2 huyện Châu Phú và An Phú gặp khó khăn trong khâu tiêu thụ, giá cả thị trường không ổn định (Cao Quốc Nam
và ctv, 2005).
Qua những kết quả đã phân tích và thảo luận trên đây, thiết nghĩ để việc thực hiện mô hình tại địa phương một cách có hiệu quả hơn người dân cần phải:
· Thay thế dần nguồn thức ăn từ cá biển sang thức ăn chế biến (thức ăn công nghiệp).Vì sử dụng thức ăn công nghiệp cá vẫn tăng trọng nhanh (theo kết quả nghiên cứu của Huỳnh Thu Hòa), giá thức ăn công nghiệp rẻ hơn so với cá biển và sẽ giảm thiểu được tình trạng ô nhiễm môi trường cũng như tình trạng cạn kiệt nguồn cá mồi trong tự nhiên.
· Xử lý tốt nguồn nước ao, thường xuyên thay nước theo định kỳ (mỗi tuần một lần), xử lý tốt nguồn nước ao từ đầu vào đến đầu ra.
· Chon thời vụ nuôi thích hợp để bán sản phẩm của mình được giá cao.
Chương 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
5.1. Kết luận
Qua kết quả theo dõi và điều tra nông hộ nuôi cá lóc trong vèo trong mùa lũ 2004 tại xã Tân Trung, Phú Tân, An Giang chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
Nguồn lực lao động trong nông hộ tương đối ít, có độ tuổi lao động chính chiếm 75,86% và có trình độ học vấn đa phần là thấp.
Nguồn đất đai của các hộ tương đối ít, 43,33% nông hộ có diện tích đất canh tác lúa, còn lại 56,67% nông hộ chỉ có diện tích đất vừa đủ để ở và nuôi cá. Diện tích ao và thể tích vèo để nuôi cá lóc trung bình là 884 m2/hộ và
89,41m3/hộ, tương ứng.
Nguồn thông tin phục vụ cho hoạt động nuôi cá lóc trong vèo được tiếp nhận chủ yếu từ các chương trình truyền hình, đài phát thanh, giữa các nông dân nuôi cá lóc, sách báo, bà con thân thuộc và cán bộ kỹ thuật viên của huyện hoặc
xã. Số năm kinh nghiệm nuôi cá lóc trong vèo của người dân trung bình là 5,34
năm.
Nguồn vốn để phục vụ cho việc nuôi cá lóc trong vèo đa phần là kết hợp giữa vốn nhà và vốn vay tư nhân với lãi suất cao, kế đến là sự kết hợp giữa vốn nhà và vốn vay nhà nước với lãi suất thấp và rất ít là vốn nhà.
Lý do chủ yếu mà nông dân áp dụng mô hình nuôi cá lóc trong vèo trong mùa lũ là: tạo thêm thu nhập, nguồn nước tốt hơn, dễ tìm cá mồi cho cá lóc, tận dụng công lao động nhàn rỗi trong mùa lũ và giá cá mồi trong mùa lũ rẻ.
Thời điểm thả nuôi cá rất sớm khoảng tháng 6 và thu hoạch vào đầu tháng 10 để bán cá được giá cao. Trung bình năng suất và sinh khối lúc thu hoạch cá lóc trong mô hình là 27,35 kg/m3 và 31,09 kg/m3 sau thời gian nuôi
4,29 tháng.
Giá thành sản xuất ra 1,0 kg cá lóc thịt tương đối cao do hệ số chuyển hóa thức ăn và chi phí vận hành cao. Lợi nhuận mà nông dân thu được sau mỗi
vụ nuôi là 29.190 đồng/ m3 vèo (tương đương 2,3 triệu/hộ/vụ) và nếu không kể công lao động gia đình thì thu nhập trung bình/nông hộ đạt 4,57 triệu/hộ/vụ. Tuy nhiên tất cả các ý kiến của nông dân đều cho rằng đời sống của họ thay đổi theo chiều hướng tăng sau khi áp dụng mô hình nuôi cá lóc trong vèo sau từ 2-12
năm.
Vốn để mua thức ăn cho cá, thị trường đầu ra và chất lượng nước là những yếu tố quan trọng quyết định đến sự thành công của mô hình nuôi cá lóc trong vèo trong mùa lũ 2004. Trong khi đó trong mùa lũ 2004 nông dân phải đối mặt với những trở ngại khó khăn lớn như chất lượng nước kém, dịch bệnh nhiều,
giá thức ăn cao và thiếu vốn sản xuất.
5.2. Đề nghị
Tuy thu nhập bình quân trên nông hộ của mô hình nuôi cá lóc trong vèo trong mùa lũ 2004 thấp nhưng xét về mặt xã hội thì đây là mô hình tận dụng tốt công lao động nhàn rỗi trong nông thôn mỗi khi lũ về, thích hợp cho những gia đình có nhiều công lao động, ít đất và ít vốn để sản xuất. Tuy nhiên cá lóc là loài
cá dữ, ăn động vật nên những hoạt động nuôi cá lóc sẽ có những ảnh hưởng rất lớn lên môi trường sinh thái tự nhiên vì vậy để phát triển mô hình nuôi cá lóc một cách có hiệu quả và ổn định cần phải tiếp tục đầu tư nghiên cứu và ứng dụng các tiến bộ khoa học sau:
Cần tiếp tục duy trì và mở thêm các lớp tập huấn về kỹ thuật nuôi, phòng ngừa dịch bệnh và quản lý chất lượng nước cho người dân trong vùng nuôi cá lóc. Xây dựng hợp tác xã thuỷ sản và khuyến khích người dân tham gia vào hợp tác xã này.
Giảm chi phí vận hành và tăng thu bằng cách tác động các biện pháp kỹ thuật thích hợp vào các hoạt động nuôi cá lóc trong vèo và kết hợp nuôi
thêm một số loài cá thích hợp bên ngoài vèo nuôi, ...
Chính quyền địa phương nên có chính sách thích hợp, tạo điều kiện thuận
lợi cho người dân được vay vốn để có thể duy trì và mở rộng mô hình mỗi khi lũ về, nhất là đối với những hộ nghèo cần được hỗ trợ và ưu tiên trong việc vay vốn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Văn Dính. 01.04.2004. Vua cá lóc [trực tuyến] .Đọc từ:
(đọc ngày 23.04.2004).
Minh Dung.10.01.2001. Kỹ thuật nuôi cá lóc [trực tuyến]. Tạp chí khoa học và công nghệ thuỷ sản. Đọc từ:
(đọc ngày 22/09/2004).
Đại học An Giang, 2003. Tài liệu phát triển nông thôn mùa lũ (trang 18).
Võ Văn Hà, Trần Nhựt Phương Diễm, Lê Thị Mỹ Xuyên, Dương Ngọc Thành.
2005. Một số kết quả khảo sát về kỹ thuật và hiệu quả kinh tế mô hình canh
tác có hiệu quả trong mùa lũ 2004 tại tỉnh An Giang. Sở Khoa Học và Công Nghệ tỉnh An Giang - Viện Nghiên Cứu Phát Triển Đồng Bằng Sông Cửu Long. Trang 30-37.
Huỳnh Thu Hòa. 2004. Nghiên cứu xây dựng qui trình nuôi cá lóc ở Đồng Bằng
Sông Cửu Long. Tạp chí khoa học Trường Đại học Cần Thơ. Trang 1, 77-
87.
Đỗ Thị Hòa. 2004.Giáo trình bệnh học thủy sản. Giáo trình: Khoa thủy sản, trường đại học Thủy Sản.
Tuấn Khanh. 26.08.2004. Xã Bình Phú, huyện Châu Phú: Phát triển mô hình nuôi cá lóc trong mùng lưới [trực tuyến] . Trang web tỉnh An Giang. Đọc từ: đọc ngày 30.09.2004).
Phạm Văn Khánh và Lý Thị Thanh Loan. 2004. Kỹ thuật nuôi một số loài cá kinh tế nước ngọt và phòng trị bệnh cá. Nhà xuất bản nông nghiệp Thành Phố Hồ Chí Minh.
Phạm Văn Khánh. 2000. Kỹ thuật nuôi cá nước ngọt. Nhà xuất bản Nông
Nghiệp.
Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương. 1993. Định loại cá nước ngọt vùng
Đồng Bằng Sông Cửu Long. Khoa Thủy sản Trường Đại học Cần Thơ.
Trung Liêm. 27.05.2005. Kỳ vọng của người dân vùng lũ. Trang web tỉnh An
Giang. Đọc từ: (đọc ngày
24.09.2004).
Hứa Thị Phượng Liên. 2004. Giáo trình thủy sản đại cương. Giáo trình: Khoa
Nông Nghiệp và Tài Nguyên Thiên Nhiên, trường Đại học An Giang
Ngô Trọng Lư. 2003. Kỹ thuật nuôi lươn, ếch, baba, cá lóc. Nhà xuất bản Nông
Nghiệp.
Dương Nhựt Long. 04.07.2004. Nuôi thuỷ sản trước và trong mùa lũ. Tạp chí khoa học và công nghệ thủy sản (trực tuyến]. Đọc từ
domanthap/truocvatronglu.htm(đọc ngày 04/07/2004).
Dương Tấn Lộc. 2001. Kỹ thuật nuôi thuỷ đặc sản nước ngọt. Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh.
Ngô Trọng Lư và Thái Bá Hồ. 2003. Kỹ thuật nuôi thuỷ đặc sản nước ngọt. Nhà xuất bản Nông nghiệp Hà Nội.
Cao Quốc Nam, Trương Ngọc Thuý, Tô Phước Thủ, Phan Thanh Hải, Trịnh
Phát, Dương Ngọc Thành. 2005. Mô hình nuôi cá lóc trong vèo trong mùa lũ
tại An Giang năm 2004. Một số kết quả khảo sát về kỹ thuật và hiệu quả kinh tế mô hình canh tác có hiệu quả trong mùa lũ 2004 tại tỉnh An Giang.
Sở Khoa Học và Công Nghệ tỉnh An Giang - Viện Nghiên Cứu Phát Triển
Đồng Bằng Sông Cửu Long. Trang 21-29.
(Nguyễn Văn Phương. 18.09.2003. An Giang thực hiện 3 nhóm mô hình sản xuất hiệu quả trong mùa nước nổi [trực tuyến]. Báo nông thôn ngày nay. Đọc từ: 149-
03.asp. (đọc ngày 20/09/2004).
Phòng Xây dựng và Phát triển Nông thôn huyện Châu Phú, tỉnh An Giang,
2003a. Báo cáo tình hình tổ chức triển khai thực hiện đề án 31 mùa nước nổi năm 2003.
Phòng Xây dựng và Phát triển Nông thôn huyện Phú Tân, tỉnh An Giang. 2004.
Báo cáo kết quả thực hiện Đề án 31 năm 2003 - Kế hoạch thực hiện đề án 31
năm 2004.
Phòng Xây dựng và Phát triển Nông thôn huyện Phú Tân, tỉnh An Giang, 2003b.
Báo cáo kết quả thực hiện Đề án 31 năm 2003 - Kế hoạch về phát triển 2004
– Lĩnh vực nông nghiệp
Nguyễn Văn Triều, Lê Sơn Trang, Dương Nhựt Long. 1999. Kỹ thuật sinh sản
cá lóc đen. Tuyển tập công trình nghiên cứu khoa học - Bộ giáo dục và đào tạo trường ĐHCT, 1999.
Xã Tân Trung huyện Phú Tân, tỉnh An Giang. 2004. Báo cáo tổng kết tình hình sản xuất nông nghiệp.
PHỤ CHƯƠNG
Phụ chương 1: Phiếu phỏng vấn nông hộ thực hiện mô hình nuôi cá lóc trong vèo trong mùa lũ năm 2004.
Mã số phiếu:.........
Người phỏng vấn:…………………………....Ngày:……………………
1-Thông tin tổng quát:
Họ tên nông dân:………………………Tên thường gọi:………………… Địa chỉ:ấp……………xã………………huyện…………………………… Tên sông gần nhà nhất:…………Tên rạch gần nhà nhất:………………
Kinh nghiệm sản xuất: Nuôi cá trong vèo.......…năm
Nhà loại : Bằng tre lá ; Bằng gạch,ngói
Bằng gỗ,ngói ; Loại khác………
2-Thành viên trong gia đình năm 2004
Quan hệ với chủ hộ
Tuổi
Giới tính
Văn hoá
Nghề nghiệp
N.Nghiệp
Thời
gian
(%)
Khác
Thời
gian
(%)
Chủ hộ
Vợ/chồng
3. Nuôi cá lóc.
3.1. Diện tích ao nuôi/kích thước vèo.
Số ao
Hình thức sở
hữu (*)
Diện tích ao
(m2)
Số vèo
trong ao
Kích cỡ vèo
(dài x rộng x sâu)
(*): 1= của nhà; 2= thuê(cố đất); 3= mượn; 4 =
3.2 Phương pháp nuôi
3.2.1. Thời vụ nuôi cá lóc
Tháng
(dl)
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
3.2.2.Vụ cá lóc trong mùa lũ
Hoạt động
Cách thực hiện
Thời gian
Chuẩn bị ao
Chuẩn bị vèo
Cấp nước
Đặt vèo
Thả cá giống
Cho cá ăn
Nguồn thức ăn (*)
Phạm vi xã
Phạm vi huyện
Phạm vi tỉnh
Phạm vi quốc gia
Quản lý chất lượng nước
Quan sát sức khoẻ cá
Quản lý dịch bệnh
Sang thưa
Thu hoạch
Vận chuyển
Bán
Hoạt động khác
(*)phạm vi giữa các xã, huyện, ...
3.3 Nguồn cá giống.
Tên loài
Số lượng giống
Giá
Thành tiền
Giống nhà (con
và %)
Giống mua (con và
%), ở đâu
3.4 Thức ăn
Thời kỳ nuôi
Loại thức ăn
Số lượng (kg)
Giá
Thành tiền
T. ăn nhà
(%)
T. ăn mua
(%)
3.4 Chi phí đầu tư
Loại
Số lượng
Giá
Thành tiền
Chi phí cố định
Đào ao
Sên vét ao
Vèo
Cọc,trụ
Dây
Lồng, sô, thao,dợt...
Máy xay thức ăn
Máy bơm nước
Hệ thống ống dẫn nước
Sàng ăn
Thùng chứa thức ăn
Mục khác
Chi phí vận hành
Cá giống
Vôi
Thuốc, hoá chất
Vitamin, Premix
Thức ăn
Xăng dầu,điện
Công lao động nhà
Công lao động thuê
Khác
4. Tỉ lệ sống, năng suất
Cá thả
Thu hoạch cá
Tỷ lệ sống
(%)
Năng suất
(kg/m2/vụ)
Số lượng
(con)
Kích cỡ
(g/con)
Sốlượng
(con)
Kích cỡ
(g/con)
5. Sinh khối lúc thu hoạch và thu nhập:
Loại cá
Sinh khối lúc thu hoạch (kg)
Giá bán
Thành tiền
Loại
người mua (*)
Lý do bán cho
những ngưòi này(**)
Ăn trong
gia đình/cho
Bán
Ghi chú:
(*) Người mua: PA:tư nhân/thương lái; Go:công ty nhà nước; Lo:thị trường địa phương; Loại khác
(**) Lý do bán cho những người này: 1-đến đầu tiên; 2-hợp đồng dài hạn; 3-mua
giá cao;4-cho ứng tiền trước; 5-cung cấp và hướng dẫn kỹ thuật; 6-mua vật tư từ họ; 7-lý do khác
6.Những trở ngại trong sản xuất
6.1 Sản xuất có những trở ngại gì? Hướng giải quyết?
Nguồn nước ……………………………………………………………. Biện pháp phòng và trị bệnh…………………………………………
Nguồn cá giống……………………………………………………. Nguồn lao động ……………………………………………………. Nguồn thức ăn ………………………………………………………. Thị trường ……………………………………………………………
Vấn đề khác………………………………………………………… ……
……………………………………………………………
6.2 Kỹ thuật
Kiến thức……………………………………………………….
Kỹ thuật nuôi ………………………………………………….
Hệ thống/cách thức khuyến ngư .......................................................
Vấn đề khác ..………………………………………………………………
………...……………………………………………………………………
.
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………..
6.3 Tín dụng
Nguồn vốn
Số tiền
Lãi suất
Thời gian
trả nợ
Mục đích làm gì
Vốn nhà
Vay ngân hàng
Vay bên ngoài
Mượn
Hùng vốn
Nợ
Điều kiện cho vay
Khác
6.4. Đánh giá đời sống kinh tế sau khi áp dụng nuôi cá lóc trong vèo
Tốt hơn Không thay đổi Giảm xuống
Nguyên nhân: ...............................................................................
……………………………………………………………………
…………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………..
Tên
cây trồng, vật nuôi
Diện tích trồng, số lượng nuôi
Số lượng (kg)
Số lượng
bán (kg)
Giá bán
(đồng/kg)
Chi phí đầu tư (đồng)
Tổng thu
(đồng
Cây
trồng, Hoa màu
Gia súc gia cầm
loại khác
7. Thu nhập từ các loại cây trồng, vật nuôi và thu nhập khác trong năm
2004
8.Thu nhập khác trong nông hộ
Hoạt
động
loại
công việc
Số
người tham gia
Số
ngày
Thu
nhập/ngày
Tổng
thu(đ)
Tổng
Chi (đ)
Lý do làm
việc này
Làm
thuê
NN
Thu
nhập phi NN
Buôn
bán
9. Nguồn thông tin cho hoạt động nuôi cá lóc
Nguồn
Các thông tin
Ai thu nhận
các thông tin
(*)
Số lần
(**)
Từ những nông dân khác
Bà con thân nhân
TV
Radio
Báo/tạp chí
Tổ chức chính phủ/kỹ thuật
viên
Dịch vụ buôn bán vật tư nông
nghiệp
Các người nghiên cứu, thí
nghiệm và điều tra
Hợp tác xã
Lãnh đạo địa phương
Các nguồn khác (liệt kê)
* : R=Chủ hộ S=Vợ (Chồng) O=Người khác (liệt kê)
** : O=Thường xuyên S=Vài lần N=Chưa bao giờ
10. Yếu tố quyết định thành công của mô hình.
Yếu tố
Xếp
hạng
Lý do
Vấn đề đã được
giải quyết
Vấn đề tồn tại
và đề xuất
Nguồn vốn
Nguồn giống
Nguồn nước/đất
đai/thủy lợi
Lũ/thời gian
lũ/mức ngập lũ
Thức ăn
Kỹ thuật
Thị trường đầu ra
Loại cây trồng vật
nuôi khác
Mối quan hệ với
hàng xóm
Chính sách địa
phương
Khác
Nhận xét của người phỏng vấn: :……………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
………………………………………
Phụ chương 2: Sổ theo dõi
Ngày, tháng
Loại
thức ăn
Mua ở đâu
Số lượng
Thành tiền
Môi trường nước/bệnh cá
Khác
Hiện tượng
xấu
Cách xử lý
Chưa biết cách
xử lý
Phụ chương 3: Cách tính toán
Chi phí đầu tư, thu nhập và lợi nhuận
n m
· TC = å å
PiXi
j i
n
· GR = å
j
QjPj
· NR = GR – TC
Trong đó:
TC = Tổng chi phí GR = Tổng thu nhập NR = Lợi nhuận
Pi = Giá của biến thứ i
Xi = Lượng của biến thứ i trong hệ thống
Pj = Giá sản phẩm trong hệ thống j
Qj = Lượng sản phẩm trong hệ thống j
· Tỷ lệ sống (%) = (Nt x 100)/Nο
· Tốc độ tăng trưởng (g/ngày) = (Wt-W○)/t
· Năng suất (kg/m³) = (Wt-W○)/1000/m³
· Sinh khối lúc thu hoạch (kg/m³) = Wt/1000/m³
Trong đó:
Nt: Số lượng cá lúc thu hoạch (con) Nο: Số lượng cá lúc thả (con)
Wt: Trọng lượng cá lúc thu hoạch (g) W○: Trọng lượng cá lúc thả (g)
t: Thời gian nuôi cá (ngày)
Phụ chương 4: Cách tính khấu hao cho từng vụ của các chi phí cố định
- Đào ao (2,5%)
- Sên vét ao (50%)
- Vèo cá (25%)
- Dợt, dây, sàng thức ăn (25%)
- Máy xay thức ăn (10%)
- Hệ thống ống dẫn nước (10%)
- Máy bơm nước (5%)
- Thùng chứa thức ăn (25%).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luanvannuoi-CA-Nuoc-Ngot.doc
- Luanvannuoi-CA-Nuoc-Ngot.pdf