A.TỔNG QUAN VỀ NGÀNH NGÂN HÀNG
I. Đặc điểm và các dịch vụ cơ bản của ngân hàng.
1. Đặc điểm của ngành ngân hàng việt nam.
2. Các dịch vụ cơ bản:
II. Thuận lợi và thách thức trong hoạt động ngân hàng.
1.Thuận lợi.
2.Khó khăn.
III. Tình hình chung của hệ thống ngân hàng Việt Nam năm 2008:
1. Thanh khoản của hệ thống ngân hàng giảm sút mạnh đầu năm 2008 và sau đó cải thiện ở những tháng cuối năm:
2. Chất lượng tín dụng suy giảm do những ảnh hưởng của nền kinh tế toàn cầu nói chung và kinh tế trong nước nói riêng
3. Kết quả kinh doanh cuối 2008 cho thấy đa số ngân hàng không thực hiện được mục tiêu lợi nhuận:
4. Quá trình tăng vốn của nhiều ngân hàng trong năm 2008 tương đối đạt kế hoạch đề ra:
5. Việc cấp phép thành lập các ngân hàng con 100% vốn nước ngoài và một số ngân hàng TMCP mới trong nước đã gia tăng cạnh tranh ngành
B. PHÂN TÍCH NGÀNH NGÂN HÀNG
I. Tổng quan về các ngân hàng niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam:
1. Ngân hàng thương mại cổ phần á châu (ACB):
2. Ngân Hàng thương mại cổ phần Sài Gòn thương tín (STB):
3. Ngân hàng thương mại cổ phần Sài gòn – Hà nội (SHB):
4. Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu việt nam (EIB):
5. Ngân Hàng Thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam(VCB):
6. Ngân hàng thương mại cổ phần công thương việt nam (CTG):
II. Lựa chọn ngân hàng:
C. QUAN ĐIỂM ĐẨU TƯ CUỐI NĂM 2009:
TÓM TẮT QUAN ĐIỂM ĐẦU TƯ
MỘT SỐ KHÓ KHĂN TRƯỚC MẮT CỦA NGÀNH NGÂN HÀNG
MỘT SỐ YẾU TỐ TÍCH CỰC
A.TỔNG QUAN VỀ NGÀNH NGÂN HÀNG
I. Đặc điểm và các dịch vụ cơ bản của ngân hàng.
1. Đặc điểm của ngành ngân hàng việt nam.
- Quốc hội là cơ quan giám sát việc thực hiện các chính sách tiền tệ. Trong khi đó, NHNN hoạt động như cơ quan chính phủ trực tiếp ban hành và thực hiện các chính sách tiền tệ này. NHNN cũng thực hiện cho vay đối với các NHTM, đại diện sở hữu nhà nước trong các ngân hàng thương mại quốc doanh (NHTMQD).
- Ngân hàng thương mại (NHTM) là định chế tài chính hoạt động trung gian giữa khách hàng gửi tiền và khách hàng mượn tiền.
- Tài sản của ngân hàng (Bank’s assets): thu nhập của NHTM được tạo ra từ nhiều nguồn khác nhau. Các nguồn này, hay còn gọi là “tài sản có sinh lãi” (earning assets), bao gồm các khoản tín dụng (tín dụng thương mại, tiêu dùng, nhà đất) và chứng khoán.
- Nợ của ngân hàng (Bank’s liability): các khoản nợ chủ yếu của ngân hàng bao gồm tiền gửi của khách hàng, các khoản nợ và vốn cổ đông.
- Hiện tại, chỉ có khoảng hơn 7% dân số việt nam tham gia vào dịch vụ tiền gửi, mở tài khoản ở ngân hàng. Ngành ngân hàng vẫn đang trong giai đoạn sơ khai, tiềm năng phát triển còn rất lớn.
- Hiện Việt Nam có hơn 100 tổ chức tín dụng, trong đó phần lớn là các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) vừa và nhỏ. Nhiều ngân hàng có vốn dưới 1,000 tỷ VNĐ.
- Mức độ tập trung của thị trường cao, một số ngân hàng lớn, chủ yếu là các NHTMQD, chiếm phần lớn thị phần. Tuy nhiên, doanh thu của các ngân hàng vẫn chủ yếu từ hoạt động tín dụng, vốn đòi hỏi cao về quản trị rủi ro. Trong khi đó, doanh thu từ các dịch vụ ngân hàng khác vẫn còn hạn chế.
- Mặc dù đã được cải thiện, nợ xấu vẫn là một vấn đề phổ biến trong các ngân hàng Việt Nam, đặc biệt là NHTMQD.
17 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5856 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích ngành Ngân hàng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A.TỔNG QUAN VỀ NGÀNH NGÂN HÀNG
I. Đặc điểm và các dịch vụ cơ bản của ngân hàng.
1. Đặc điểm của ngành ngân hàng việt nam.
- Quốc hội là cơ quan giám sát việc thực hiện các chính sách tiền tệ. Trong khi đó, NHNN hoạt động như cơ quan chính phủ trực tiếp ban hành và thực hiện các chính sách tiền tệ này. NHNN cũng thực hiện cho vay đối với các NHTM, đại diện sở hữu nhà nước trong các ngân hàng thương mại quốc doanh (NHTMQD).
- Ngân hàng thương mại (NHTM) là định chế tài chính hoạt động trung gian giữa khách hàng gửi tiền và khách hàng mượn tiền.
- Tài sản của ngân hàng (Bank’s assets): thu nhập của NHTM được tạo ra từ nhiều nguồn khác nhau. Các nguồn này, hay còn gọi là “tài sản có sinh lãi” (earning assets), bao gồm các khoản tín dụng (tín dụng thương mại, tiêu dùng, nhà đất) và chứng khoán.
- Nợ của ngân hàng (Bank’s liability): các khoản nợ chủ yếu của ngân hàng bao gồm tiền gửi của khách hàng, các khoản nợ và vốn cổ đông.
- Hiện tại, chỉ có khoảng hơn 7% dân số việt nam tham gia vào dịch vụ tiền gửi, mở tài khoản ở ngân hàng. Ngành ngân hàng vẫn đang trong giai đoạn sơ khai, tiềm năng phát triển còn rất lớn.
- Hiện Việt Nam có hơn 100 tổ chức tín dụng, trong đó phần lớn là các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) vừa và nhỏ. Nhiều ngân hàng có vốn dưới 1,000 tỷ VNĐ.
- Mức độ tập trung của thị trường cao, một số ngân hàng lớn, chủ yếu là các NHTMQD, chiếm phần lớn thị phần. Tuy nhiên, doanh thu của các ngân hàng vẫn chủ yếu từ hoạt động tín dụng, vốn đòi hỏi cao về quản trị rủi ro. Trong khi đó, doanh thu từ các dịch vụ ngân hàng khác vẫn còn hạn chế.
- Mặc dù đã được cải thiện, nợ xấu vẫn là một vấn đề phổ biến trong các ngân hàng Việt Nam, đặc biệt là NHTMQD.
2. Các dịch vụ cơ bản:
* Các dịch vụ ngân hàng truyền thống:
- Trao đổi tiền tệ:
- Chiết khấu thương phiếu:
- Cho vay thương mại:
- Nhận tiền gởi tiết kiệm:
- Bảo quản vật có giá:
- Tài trợ các hoạt động của chính phủ:
- Cung cấp các tài khoản giao dịch:
- Cung cấp dịch vụ uỷ thác:
* Các dịch vụ Ngân hàng hiện đại:
- Tư vấn tài chính:
- Quản lý Ngân quỹ:
- Cho vay tiêu dùng:
- Cho thuê tài chính:
- Cho vay tài trợ dự án:
- Cung cấp dịch vụ bảo hiểm:
- Môi giơi chứng khoán:
- Ngoài ra là các dịch vụ thẻ tín dụng hoặc các dịch vụ Ngân hàng quốc tế được Ngân hàng cung cấp cho khách hàng của mình.
II. Thuận lợi và thách thức trong hoạt động ngân hàng.
1.Thuận lợi.
Nền kinh tế càng phát triển, chu chuyển thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng tăng vai trò của NHTM trong thanh toán ngày càng mạnh hơn.
NHTM VN từng bước mở rộng nghiệp vụ ngân hàng hiện đại phục vụ nhu cầu cầu của nền kinh tế, đời sống.
NHTM VN đã thiết lập được đội ngũ chi nhánh đông đảo trong tất cả các tỉnh thành trong cả nước. Đây là điều kiện thuận lợi giúp các ngân hàng tăng cường khả năng huy động vốn và tín dụng đến những vùng tiềm năng.
Khung pháp lý đang được hình thành đồng bộ nhằm đảm bảo an toàn hệ thống, tạo điều kiện cạnh tranh lành mạnh và minh bạch, giúp nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập tốt với quốc tế.
Việt nam đang trong quá trình hội nhập, đó là điều kiện thuận lợi để ngành ngân hàng phát triển từ quy mô vốn đến công nghệ, nghiệp vụ quản lý rủi ro…
2.Khó khăn.
Tăng trưởng tín dụng nóng: mức độ tăng trưởng tín dụng 3 quý đầu năm 2009 là 33.29% cao hơn năm 2008 (21-22%) và mức kiểm soát tăng trưởn tín dụng cả năm 2009(30%) .. Việc tăng trưởng tín dụng ồ ạt đã nâng nợ xấu tại một số ngân hàng lên một cách rõ rệt, đặc biệt là ở lĩnh vực cho vay đầu tư với thị trường bất động sản.
Được bảo hộ: Hiện nay ngành ngân hàng đang được bảo hộ khá nhiều. Tuy nhiên, cần phải nhìn nhận một thực tế là, cùng với việc Việt Nam gia nhập WTO, sức ép cạnh tranh đến từ các ngân hàng nước ngoài đang ngày càng gia tăng. Do vậy, phải chuẩn bị đối mặt với sự cạnh tranh khi bị giảm bảo hộ là việc cần thiết đối với các ngân hàng trong nước hiện nay.
Chất lượng dịch vụ của ngân hàng trong nước còn yếu kém: Hiện tượng nhân viên làm việc đủng đỉnh trong khi khách hàng đang chờ đợi là hiện tượng còn khá phổ biến tại một số ngân hàng trong nước
Công nghệ lỗi thời: Mặc dù gần đây các ngân hàng trong nước đã đẩy mạnh việc hiện đại hóa hệ thống công nghệ thông tin ngân hàng, tuy nhiên hiệu quả của những đầu tư không đồng đều.
Khả năng quản lý rủi ro còn yếu kém: Có thể nói, cho đến thời điểm này, đây là một đặc điểm nổi bật của nhiều ngân hàng Việt.
Hệ thống pháp luật về phòng ngừa rủi ro và nghiệp vụ quản trị rủi ro trong ngành tài chính vẫn còn lỏng lẻo và yếu. Nhiều ngân hàng vẫn chưa chú trọng đầy đủ đến vấn đề quản lý rủi ro tác nghiệp và rủi ro thị trường.
III. Tình hình chung của hệ thống ngân hàng Việt Nam năm 2008:
Năm tài chính 2008 là một năm thế giới trải qua nhiều biến động mạnh mẽ chưa từng có trong nhiều thập niên qua. Khởi nguồn là khủng hoảng tài chính bùng nổ tại Mỹ cuối năm
2007 và lan rộng khắp toàn cầu kéo theo sự sụp đổ của hàng loạt định chế tài chính khổng lồ và sự suy giảm kinh tế trên khắp các quốc gia trên thế giới.
Cùng với ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới, Việt Nam cũng bước vào năm 2008 với nhiều hậu quả nặng nề mà những nguyên nhân chính được dự báo trước đã bộc lộ rõ ràng hơn bao giờ hết đó là chất lượng tăng trưởng thấp, hiệu quả đầu tư kém, tăng trưởng tín dụng cao, nhập siêu quá mức an toàn, bong bóng thị trường bất động sản bị vỡ, lạm phát tăng cao.
Với tình hình đó, Chính phủ và NHNN Việt Nam đã thực hiện nhiều biện pháp và chính sách tiền tệ, tín dụng để kiểm soát và hỗ trợ nền kinh tế nhưng đồng thời cũng gây ra những cú sốc nặng nề đến hệ thống tài chính ngân hàng Việt Nam.
1. Thanh khoản của hệ thống ngân hàng giảm sút mạnh đầu năm 2008 và sau đó cải thiện ở những tháng cuối năm:
Bắt nguồn từ việc tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ từ cuối năm 2007 với mức tăng trưởng trung bình lên đến 54% đã dẫn đến CPI tăng 22.47% và giá hàng hóa đầu vào tăng cao, lạm phát trở thành mối lo ngại chung của nền kinh tế. Ngân hàng Nhà nước phải tăng lãi suất cơ bản từ 8.25% đầu năm 2008 lên 14% vào giữa năm 2008 qua 4 lần điều chỉnh lãi suất cơ bản để kìm hãm tăng trưởng dư nợ và lạm phát.
Các ngân hàng tăng trưởng tín dụng quá nóng trong năm 2007 đến đầu năm 2008 đều thiếu hụt nguồn vốn dẫn đến phải huy động với lãi suất cao trên thị trường liên ngân hàng (bình quân trên 20%/năm, cá biệt có một số thời điểm lên tới 30% thậm chí hơn
40%/năm) và huy động khách hàng với lãi suất 18-20% để duy trì thanh khoản. Lãi suất huy động tiền gửi một số ngân hàng (Kiên Long, Đại Dương, Đông Nam Á, Nam Việt, Gia Định) có lúc tăng lên trên 19%. Lãi suất cho vay cũng theo đó tăng cao nhưng lại bị khống chế bởi trần lãi suất dẫn đến chênh lệch lãi giảm, thu nhập từ lãi của các ngân hàng cuối quý 2/2008 đã giảm mạnh mẽ so với 2007.
Cùng với các biện pháp thắt chặt tiền tệ khác của Chính phủ như tăng dự trữ bắt buộc, yêu cầu các NH mua tín phiếu bắt buộc, đến tháng 10/2008, tốc độ tăng trưởng tín dụng đã được điều chỉnh giảm dần, tăng trưởng lạm phát được kiểm soát cùng với hệ quả tất yếu là kinh tế suy giảm, khả năng sinh lời các tổ chức tín dụng giảm sút thì NHNN bắt đầu giảm lãi suất cơ bản xuống còn 13% và đến cuối 2008 giảm còn 7.95%. Đồng thời, NHNN cũng tăng lãi suất dự trữ bắt buộc lên 5% (21/10/08), tăng lãi suất tín phiếu phát hành 2008 lên
13% (1/7/08) và cho phép NH cầm cố, chiết khấu hoặc thanh toán trước hạn các tín phiếu này, do đó, áp lực thanh khoản của các NH đã được giảm nhẹ.
2. Chất lượng tín dụng suy giảm do những ảnh hưởng của nền kinh tế toàn cầu nói chung và kinh tế trong nước nói riêng
Đầu năm 2008, áp lực từ sự suy giảm nền kinh tế toàn cầu đã dẫn đến hoạt động xuất nhập khẩu giảm sút mạnh mẽ cùng lúc đó lãi suất tăng cao đã khiến cho 70% doanh nghiệp Việt Nam rơi vào tình trạng thiếu vốn, kinh doanh thua lỗ, không có khả năng chi trả lãi, đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến chất lượng nợ xấu trong hệ thống tăng cao.
Tăng trưởng tín dụng chỉ tăng mạnh ở quý 1/2008 trung bình khoảng 18% và chỉ tăng nhẹ ở cuối năm với mức tăng trung bình 21% thấp hơn nhiều so với tăng trưởng năm 2007 (54%) do các ngân hàng e ngại về tình hình kinh doanh yếu kém của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, việc 70% dư nợ cho vay được thế chấp bằng bất động sản (khoảng 500,000 tỷ đồng năm 2008) và 9.15% tổng dư nợ cho vay có liên quan bất động sản của hệ thống ngân hàng lại tiếp tục dẫn đến rủi ro khó thu hồi nợ của ngân hàng do thị trường bất động sản Việt Nam năm 2008 xuống dốc nghiêm trọng sau ảnh hưởng của những bong bóng thị trường năm 2007. (Nguồn: Vneconomy, ngày 06/10/08)
3. Kết quả kinh doanh cuối 2008 cho thấy đa số ngân hàng không thực hiện được mục tiêu lợi nhuận:
Ngân hàng ROE (%)
Lợi nhuận kế hoạch năm 2008
Lợi nhuận trước thuế thực tế
% thực hiện
(Đvt: tỷ đồng)
(Đvt: tỷ đồng)
Đông Á
14.31
800
690
86.25
Eximbank
5.41
1,300
988
76.00
Sacombank
12.31
1,500
1,100
73.33
VPbank
5.95
550
199
36.13
HDB
3.61
280
80
28.57
ABbank
1.21
500
70
14.00
Việt Á
2.19
290
22
7.72
Hai ngân hàng lớn trong khối TMCP là Sacombank và Eximbank phải điều chỉnh mục tiêu lợi nhuận. Sau kết quả kinh doanh quý 2/08, Sacombank đã điều chỉnh mục tiêu lợi nhuận từ 2,000 tỷ xuống còn 1,500 tỷ nhưng kết quả cuối năm chỉ đạt được 1,110 tỷ lợi nhuận trước thuế.
Với Eximbank, mặc dù nhiều lần khẳng định sẽ duy trì mức lợi nhuận đặt ra cả năm 2008 là 1.500 tỷ đồng (năm 2007 đạt 700 tỷ đồng), nhưng sau 2 tháng với nhiều biến động trên thị trường tiền tệ, trong ĐHCĐ ngày 21/3, Eximbank đã phải điều chỉnh xuống còn 1.300 tỷ đồng, nhưng kết quả cuối cùng chỉ đạt 988 tỷ đồng.
Tỷ suất sinh lời trên VCSH trung bình ngành năm 2008 giảm mạnh còn 9.5% so với 14.56% năm 2007 cho thấy xu hướng sụt giảm lợi nhuận toàn ngành.
Tỷ trọng thu nhập ngoài lãi trong tổng thu nhập của các NH năm 2009 khoảng 33% tăng so với 25% năm 2008 do sự biến động mạnh của thị trường ngoại hối với tỷ giá USD so với VND tăng vọt lên 9%, giá vàng tăng kỷ lục cũng như biến động liên tục về lãi suất trên thị trường tiền tệ đã làm thu nhập ngoài lãi các ngân hàng nhỏ thua lỗ nhưng cũng lại góp phần lớn vào kết quả kinh doanh ngoài lãi của các ngân hàng có kinh nghiệm về kinh doanh tiền tệ và ngoại hối như ACB, Eximbank và một số ngân hàng lớn khác.
4. Quá trình tăng vốn của nhiều ngân hàng trong năm 2008 tương đối đạt kế hoạch đề ra:
Xét chi tiết kế hoạch tăng vốn điều lệ của một số ngân hàng thương mại, có thể nhận thấy rằng các ngân hàng đều tăng vốn có lộ trình nhất định và sử dụng cả hai phương thức tăng vốn là phát hành thêm cổ phiếu kết hợp với việc sử dụng nguồn thặng dư phát hành cổ phần của năm trước, giảm khối lượng cung hàng ra thị trường trong thời điểm này. Tuy nhiên không phải ngân hàng nào cũng thực hiện được mục tiêu tăng vốn.
Về mặt thành công trong việc tăng vốn lớn nhất phải kể đến Eximbank, với kế hoạch tăng vốn rất lớn: từ 2,800 tỷ lên 7,400 tỷ đồng, nhưng lộ trình được chia thành 2 giai đoạn: giai đoạn đầu tăng lên 4,425 tỷ đồng trong đó 386.7 tỷ đồng chia cổ tức bằng cổ phiếu, 1,106 tỷ đồng nhận vốn góp từ Tập đoàn Sumitomo và các quỹ đầu tư nước ngoài khác; giai đoạn sau dự tính là tháng 11/2008 sẽ tăng thêm 2,975 tỷ đồng lấy từ nguồn vốn thặng dư. Đến
31/12/08, Eximbank đã khá thành công với VCSH đạt 12,844 tỷ.
Ngoài ra, IPO Vietinbank sau nhiều lần trì hoãn cũng đã thực hiện khá thành công cuối năm 2008.
Trong tình hình khó khăn hiện nay, việc đa số các NH có thể hoàn thành mục tiêu tăng vốn đã góp phần nâng cao tính an toàn cho hoạt động chung của hệ thống.
5. Việc cấp phép thành lập các ngân hàng con 100% vốn nước ngoài và một số ngân hàng TMCP mới trong nước đã gia tăng cạnh tranh ngành:
Thị trường đón nhận 2 thành viên mới chính thức đi vào hoạt động là Ngân hàng Liên Việt và Ngân hàng Tiên Phong. Tháng 12/08, Ngân hàng Nhà nước cấp thêm giấy phép mới cho ngân hàng Bảo Việt sẽ bắt đầu hoạt động vào đầu năm 2009.
Đi cùng với những giấy phép trên, quyết định tạm ngừng cấp phép để sửa đổi quy chế thành lập và hoạt động của ngân hàng mới cũng là một sự kiện nổi bật trong năm 2008; phía sau đó là dư âm của cuộc đua thành lập ngân hàng trong năm 2007 với sự đổ vỡ của một số đề án và những câu chuyện mua bán quyền mua cổ phiếu ngân hàng chưa thành lập.
Cũng trong năm 2008, Ngân hàng Nhà nước chính thức cấp giấy phép lập ngân hàng con 100% vốn ngoại đầu tiên cho HSBC, ANZ và Standard Chartered và sau đó là Shinhan Bank và Hongleong Bank, mở đầu một thời kỳ mới cho hoạt động của các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam: được đối xử bình đẳng hơn và cạnh tranh hơn.
B. PHÂN TÍCH NGÀNH NGÂN HÀNG
Để có thể đầu tư hiệu quả vào ngành ngân hàng, ta cần phải nắm bắt kĩ tình hình của các ngân hàng. Không chỉ ở những khía cạnh chung, ta phải đi đào sâu phân tích để có thể đưa ra những quyết định đúng đắn.
Tổng quan về các ngân hàng niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam:
Hiện nay, trên sàn HOSE có 4 đại diện ngành ngân hàng là STB, VCB, CTG và EIB, còn trên sàn HNX có 2 đại diện là ACB và SHB.
Ngân hàng thương mại cổ phần á châu (ACB):
Sàn giao dịch HNX.
Ngày giao dịch đầu tiên: 21/11/2006
Tổng tài sản: 169,512,664,000 nghìn đồng và vốn điều lệ: 7,814,394,76,0000 đồng
Chủ tịch hội đồng quản trị: Ông Trần Xuân Giá
Là ngân hàng thương mại cổ phần có quy mô lớn nhất về tổng tài sản.
Tổng huy động vốn của ACB chiếm thị phần 4.39% trên tổng huy động vốn của cả hệ thống ngân hàng, trên 57% thị phần chủ thẻ tín dụng quốc tế. Mạng lưới giao dịch phủ khắp các địa bàn trọng điểm phát triển kinh tế - xã hội trên cả nước với gần 200 đơn vị. tỉ lệ lãi biên (NIM) là 3.07 % . Hệ số beta là 1.06
Ngân Hàng thương mại cổ phần Sài Gòn thương tín (STB):
Sàn giao dịch HoSE
Ngày giao dịch đầu tiên: 12/07/2007
Tổng tài sản 98,242,559,000 nghìn đồng và vốn điều lệ: 6,650,580,090,000 đồng.
Chủ tịch hội đồng quản trị: Ông Đặng Văn Thành.
Thị phần huy động vốn của ngân hàng khoảng 3% trên tổng huy động vốn của cả ngân hàng. Có hơn 274 chi nhánh và phòng giao dịch. Tỉ lệ lãi biên là 2.06%. Chỉ số beta 1.07
Ngân hàng thương mại cổ phần Sài gòn – Hà nội (SHB):
Sàn giao dịch HNX
Ngày giao dịch đầu tiên: 20/04/2009
Tổng tài sản 21,050 tỉ đồng và vốn điều lệ là 2,000,000,000,000 đồng
Chủ tịch hội đồng quản trị: Ông Đỗ Quang Hiển.
SHB hiện có trên 90 chi nhánh và phòng giao dịch trên cả nước. Chỉ số beta là 1.17
Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu việt nam (EIB):
Sàn giao dịch HoSE
Ngày giao dịch đầu tiên: 27/10/2009
Vốn điều lệ:8,800,080,000,000 đồng và tổng tài sản là 54,826,508 triệu đồng.
Chủ tịch hội đồng quản trị: Ông Nguyễn Thành Long.
EIB là ngân hàng có vốn chủ sở hữu đứng thứ 1 trong khối Ngân hàng TMCP Việt Nam. Thị phần huy động vốn của ngân hàng là 2.34 % tổn huy động vốn của cả ngân hàng.
Ngân Hàng Thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam(VCB):
Sàn giao dịch HoSE
Ngày giao dịch đầu tiên: 30/06/2009
Vốn điều lệ 12,100 tỉ đồng. Tổng tài sản:225,092,616,000 nghìn đồng.
Chủ tịch hội đồng quản trị: Ông Nguyễn Hòa Bình.
Ngân hàng ngoại thương là ngân hàng quốc doanh đầu tiên cổ phần hóa và niêm yết trên thị trường chứng khoán. Ngân hàng có 146 chi nhánh, 2 chi nhánh nước ngoài.VCB là ngân hàng đứng đầu về thanh toán quốc tế và kinh doanh tiền tệ với hơn 30 % thị phần.
Ngân hàng thương mại cổ phần công thương việt nam (CTG):
Sàn giao dịch HoSE
Ngày giao dịch đầu tiên:16/07/2009
Vốn Điều lệ 11,252,972,800,000 đồng. Tổn tài sản là 218,561,995,00 nghìn đồng.
Chủ tịch hội đồng quản trị: Ông Phạm Huy Hùng.
Đây là ngân hàng quốc doanh thứ 2 tiến hành cổ phần hóa và niêm yết trên thị trường chứng khoán.Thị phần của ngân hàng sụt giảm h chỉ còn lại khoảng 8%. Ngân hàng có 150 sở giao dịch 800 chi nhánh và phòng giao dịch. Tốc độ tăng trưởng hằng năm khoảng 20%. Chỉ só beta là 0.47
***Sau đây là bảng các chỉ số của các ngân hàng tính đến ngày 20/11 (Theo VNDirect, Bloomberg)
Mã CK
EPS
P/E
P/B
ROA
(%)
ROE
(%)
KLgdTB 10 phiên
SLCPđang LH
Hệ số thanh khoản
ACB
3.33
11.97
4.14
1.85
38.18
1,317,710
767,158,477
0.1717%
VCB
2.728
17.67
4.79
1.52
27.12
734,268
1,210,086,026
0.0606%
CTG
2.203
13.84
4.23
1.19
26.04
207,991
1,125,297,280
0.0185%
EIB
1.618
15.44
--
3.23
9.33
2,214,989
721,999,934
0.3068%
SHB
1.745
15.75
2.71
2.04
17.07
1,282,970
200,000,000
0.6414%
STB
2.172
12.52
2.33
1.78
22.93
2,834,922
665,058,009
0.4262%
Ngoài ra, trong tình hình hiện nay, có rất nhiều ngân hàng đang rục rịch chuẩn bị nhắm lên sàn, tăng phần sôi động cho thị trường chứng khoán Việt Nam
Lựa chọn ngân hàng:
Qua sự nghiên cứu, tôi thấy ngân hàng TMCP Thương Tín là 1 ngân hàng nhiều tiềm năng để phân tích và đầu tư
STB- Ngân hàng TMCP Thương Tín:
Một số bảng dữ liệu:
Cân đối kế toán (tr. VND) 2007 2008 2009F
8.458.614
3.224.539
7.047.583
9.346.607
35.008.871 (251.752)
1.254.261
1.696.288
2.653.558
68.438.569
52.161
4.488.354
46,128,820
7,659,063
1.014.462
1.337.085
5.115.831
796,706
984,340
7.758.624
68.438.569
3.335.063
3.878.785
4.656.456
13.320.781
35.378.147 (177.573)
1.495.608
1.019.813
1.665.795
64.572.875
750.177
4.508.977
44,231,944
5,197,380
1.003.293
1.531.445
4.448.814
452,645
1,234,529
7.349.659
64.572.875
Tiền mặt
Tiền gửi tại NHNN
Tiền gửi và cho vay TCTD khác
Đầu tư vào giấy tờ có giá Cho vay khách hàng DPRR tín dụng
Góp vốn đầu tư dài hạn
TSCĐ
TS có khác
Tổng tài sản
Nợ CP và NHNN
Tiền gửi và vay TCTD khác
Tiền gửi khách hàng Phát hành giấy tờ có giá Vốn tài trợ, ủy thác đầu tư Tài sản nợ khác
VĐL
Quỹ dự trữ
Lợi nhuận chưa phân phối
VCSH
Tổng nguồn vốn
6.046.134
3.224.539
9.582.772
18.342.489
44.461.266 (358.409)
1.718.528
2.714.288
3.351.596
89.083.203
45.666
1.449.435
57,066,644
17,862,778
1.014.886
1.290.112
6.700.580
795,111
1,364,265
10.353.682
89.083.203
Thu nhập lãi thuần
Lãi thuần từ hoạt động dịch vụ Lãi thuần từ KD ngoại hối &vàng Lãi thuần từ KD chứng khoán Thu nhập từ góp vốn, mua CP Lãi thuần từ hoạt động khác
Thu nhập ngoài lãi
Tổng thu nhập từ HĐKD
Chi phí hoạt động
Thu nhập trước DPRR
Chi dự phòng rủi ro
Lợi nhuận trước thuế
Lợi nhuận sau thuế
Kết quả kinh doanh (tr.VND) 2007 2008 2009F
1.901.751
571,593
533,586
54,665
164,540 (17,960)
1.306.424
3.208.175
(1.413.895)
1.794.280
(130.642)
1.663.638
1.281.682
1.146.668
562,349
510,041 (1,397)
120,089
116,209
1.307.291
2.453.959
(1.269.935)
1.184.024
(74.097)
1.109.927
954.753
1.151.872
193,398
100,815
599,873
392,089
3,536
1.289.711
2.441.583
(741.225)
1.700.358
(118.387)
1.581.971
1.397.897
Các chỉ tiêu tài chính cơ bản (%) 2007 2008 2009F
30,17
33,45
26,89
39,31
10 - 12
< 2,5
58,86
73,81*
1,63
14,15
2,26
44,07
5,99
5,56
-1,26
8,82
12,16
0,60
64,62
74,57
1,44
12,64
2,14
51,75
160,62
156,05
145,94
146,64
11,07
0,24
71,21
133,14
3,13
27,36
2,86
30,36
Tăng trưởng Tổng tài sản Tỷ lệ tăng trưởng VCSH Tăng trưởng dư nợ ròng Tăng trưởng vốn HĐ dân cư CAR
Tỷ lệ nợ xấu
Dư nợ ròng/HĐ dân cư
DPRRTD/nợ xấu
ROAA ROAE
Chênh lệch lãi suất
Chi phí hoạt động/Tổng thu nhập
S
Kết quả kinh doanh 6 tháng đầu năm
Khả năng sinh lời
Cơ cấu thu nhập thay đổi đáng kể với thu nhập từ lãi chiếm tỷ trọng lớn nhất
Sự tăng trưởng mạnh của dư nợ tín dụng và đầu tư vào giấy tờ có giá là 2 hoạt động chính khiến tỷ trọng thu từ lãi của Sacombank tăng mạnh lên 60,5% trong tổng thu nhập. Còn lại là thu nhâp từ phí, kinh doanh ngoại tệ & vàng, kinh doanh chứng khoán v.v. Khoản hoàn nhập dự phòng đầu tư chứng khoán hơn 208 tỷ VND trong 2Q09 đã giúp cho Sacombank bù lỗ từ hoạt động mua – bán chứng khoán trong 1Q09. Lũy kế 2 quý đầu năm, ngân hàng có lãi từ đầu tư chứng khoán là hơn 54,7 tỷ VND
Khả năng sinh lời được cải thiện nhưng chưa đạt bằng mức trung bình các năm trước
Tới 30/06, lợi nhuận sau thuế của ngân hàng đạt hơn 779 tỷ VND, tương đương 81,6% LNST 2008. ROA & ROAE của 4 quý gần nhất đạt 1,61% & 15,52% - cải thiện rõ rệt so với mức
1,44% và 12,64% tương ứng của năm 2008. Tuy nhiên, các chỉ số sinh lời này vẫn chưa phục hồi được mức trung bình của giai đoạn 2004-2007, là 2,29% và 20,65%. Sự cải thiện về khả năng sinh lời chủ yếu do mức chênh lệch lãi suất đầu vào – đầu ra đạt cao nhất từ Q1’08 tới nay khi chí phí vốn giảm do giảm tỷ trọng nguồn vốn liên ngân hàng cũng như lãi suất liên ngân hàng, đồng thời cũng phản ánh mặt bằng chung về lãi suất của 2009 thấp hơn 2008.
Tỷ lệ chi phí/ thu nhập giảm mạnh xuống 37,61% trong nửa đầu năm 2009, thấp hơn hẳn so với mức 51,75% của năm 2008 và 40,49% từ 2004 – 2007, thể hiện hiệu quả hoạt động của ngân hàng đang được cải thiện.
Tăng trưởng tài sản
Tốc độ tăng trưởng nhanh trong đó tín dụng là nguồn tài sản lớn nhất
Cấu trúc tài sản có sự điều chỉnh khi Sacombank trở lại tập trung cho hoạt động tín dụng. Tại
30/6/09, dư nợ cho vay ròng chiếm 58,4% tổng tài sản so với mức 50% của đầu 2009. So với đầu 2009, dư nợ ròng đã tăng tới 41,4% trong khi tổng tài sản tăng 22,2%. So với hạn mức tăng trưởng tín dụng do NHNN đề ra cho 2009 là từ 25%-27% thì nhiều khả năng là từ nay tới cuối năm Sacombank phải lo đi thu hồi nợ hơn là phát triển tín dụng. Tuy nhiên, với 62,64% dư nợ có kỳ hạn ngắn thì việc giảm dư nợ sẽ không quá khó khăn.
Với định hướng trở thành ngân hàng bán lẻ, cuối 2008 khoảng 47% dư nợ của Sacombank là cho khách hàng cá nhân. 6 tháng đầu năm, tốc độ tăng cho vay cá nhân của ngành ngân hàng ước đạt 21% và nhiều ý kiến cho rằng, NHNN sẽ thắt chặt hơn tín dụng cá nhân. Nếu vậy thì đây sẽ là một khó khăn sẽ ảnh hưởng tới khả năng sinh lời của Sacombank khi lãi suất cho vay doanh nghịêp vẫn bị khống chế bởi lãi suất cơ bản.
Mặc dù nợ xấu không được cải thiện nhưng vẫn ở mức thấp hơn bình quân của hệ thống và ngân hàng đã trích lập dự phòng tương đối đầy đủ
Chất lượng tài sản không được cải thiện khi tỷ lệ nợ xấu tới 30/06/2009 là 0,7% - tăng so với mức 0,65% của Q1’09 và 0,6% của Q4’08. Tỷ lệ nợ quá hạn giảm từ 1,15% trong Q1’09 xuống 0,99% vào 31/06 chủ yếu do tăng trưởng tín dụng quá nhanh. Tuy nhiên so với mức nợ xấu trung bình ngành 2,52% NHNN mới công bố gần đây (năm 2008 là 2,17%) thì tỷ lệ này của Sacombank là chấp nhận được.
Tại 30/06, Sacombank đã trích lập hơn 358 tỷ VND dự phòng, tương đương với tỷ lệ 74% nợ quá hạn, thấp hơn so với mức bình quân 82% của các năm 2005 – 2008. Do khả năng phải giảm dư nợ nên có thể Sacombank sẽ không phải trích lập thêm dự phòng rủi ro tín dụng trong nửa cuối 2009.
Tăng cường đầu tư vào chứng khoán nợ
Đầu tư Chứng khoán chiếm 12% tổng tài sản, giảm đáng kể so với tỷ lệ cao nhất 20,63% vào đầu 2008. Số dư đầu tư chứng khoán tăng 7,39% so với cuối 2008, trong đó, chứng khoán nợ chiếm 91,54%, tăng 6,26% (tương đương 544 tỷ VND). Cuối Q2’09, Sacombank đã giảm số dư chứng khoán vốn từ hơn 821 tỷ VND đầu 2009 xuống còn 692 tỷ VND.
Tiếp tục mở rộng mạng lưới và công ty con
Tài sản cố định tăng 462 tỷ VND (+27,2%) so với cuối năm 2008 và tương đương 45% kế
hoạch đầu tư mới (mở rộng mạng lưới, bổ sung thiết bị cho hoạt động thẻ và công nghệ thông tin) cho cả năm là 1.018 tỷ VND. Trong kỳ, Sacombank đã nâng tổng số điểm giao dịch của mình lên 265 điểm, tăng thêm 18 điểm so với năm 2008. Sở hữu mạng lưới chi nhánh rộng là một lợi thế để Sacombank phát triển theo định hướng bán lẻ.
Sacombank cũng có dự định thành lập Công ty tài chính và Công ty thẻ trực thuộc trong năm 2009. Điều này sẽ giúp chuyên môn hóa hoạt động kinh doanh thẻ và phát triển thêm các sản phẩm dịch vụ tài chính cá nhân.
Tăng trưởng nguồn vốn
Tăng cường huy động vốn qua phát hành giấy tờ có giá bằng VND
Nguồn tiền gửi dân cư và phát hành giấy tờ có giá chiếm gần 97% tổng huy động của Sacombank, tăng đáng kể so với các quý trước. Tương ứng với sự gia tăng của nguồn tiền này là sự sụt giảm của nguồn vốn liên ngân hàng, với tỷ trọng 1,97% tổng nguồn vốn huy động khi khả năng thanh khoản của ngân hàng được cải thiện hơn và không còn phải phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn liên ngân hàng nữa. Hết Q2’09, nguồn vốn huy động từ dân cư tăng 23,71% so với cuối năm 2008, gấp 1,5 lần mức tăng 16,02% của ngành. Hiện nay lãi suất huy động của STB thấp hơn so với các NHTM cỡ trung bình nhưng cao hơn của ACB và VCB.
Sacombank đã xin phép NHNN được phát hành tối đa 10.000 tỷ VND giấy tờ có giá trong 2009. Với sự chững lại từ huy động tiết kiệm trong thời gian gần đây, chúng tôi cho rằng đóng góp vào tăng trưởng nguồn vốn huy động của Sacombank sẽ phụ thuộc nhiều vào sự thành công của các đợt phát hành giấy tờ có giá.
Vốn chủ sở hữu dự kiến tăng mạnh vào cuối 2009
Năm 2009, Sacombank đã được Đại hội đồng cổ đông thông qua kế hoạch phát hành tăng vốn điều lệ thêm 31%, tức là đạt 6.701 tỷ VND bao gồm phát hành cổ phiếu thưởng (15%), phát hành cho cổ đông hiện hữu (15%) và phát hành cho cán bộ công nhân viên (1%) với giá bán bằng mệnh giá. Từ 2/07 – 07/07, Sacombank đã bán toàn bộ hơn 18,26 triệu cổ phiếu quỹ. Chúng tôi ước tính với giá bình quân 34.600 VND/cp, việc bán cổ phiếu quỹ này đã đóng góp thêm 280 tỷ VND vào nguồn vốn của ngân hàng. Cùng với lợi nhuận tạo ra trong năm, việc phát hành thêm cổ phiếu và bán cổ phiếu quỹ sẽ làm tăng tỷ lệ an toàn vốn cho Sacombank.
Triển vọng cuối năm 2009
Môi trường kinh doanh còn nhiều khó khăn
Về trung và dài hạn, các biện pháp hỗ trợ lãi suất sẽ phát huy tác dụng, thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, việc hỗ trợ lãi suất dẫn tới mối lo ngại về việc doanh nghiệp đảo nợ để hưởng lãi suất thấp hơn, trong khi hiệu quả đầu tư không được cải thiện thì tỷ lệ nợ xấu có thể tăng trong tương lai. Việc tỷ lệ nợ xấu của ngành tăng từ 2,17% cuối năm 2008 lên 2,52% cuối Q209 (tăng 16%, gần bằng tốc độ tăng của dư nợ) càng thể hiện mối quan ngại về chất lượng hoạt động cho vay. Mặc dù chất lượng nợ của Sacombank hiện đang ở mức tương đối tốt so với ngành, tuy nhiên, trong môi trường hoạt động chung, không phải không có lý do khi ngân hàng chủ động đề ra mục tiêu tỷ lệ nợ xấu dưới 2,5% cho năm 2009.
Giữ nguyên lãi suất cơ bản sẽ làm giảm lợi nhuận biên của ngân hàng khi giá vốn đang có xu hướng tăng
Từ đầu 2009 tới nay lãi suất cơ bản vẫn được giữ ổn định ở mức 7% và khó có khả năng tăng đột biến do thanh khoản trên thị trường vẫn đang ổn định và chủ yếu do các doanh nghiệp vẫn cần được tiếp tục hỗ trợ để duy trì và phát triển sản xuất.
Tuy nhiên, khi dư nợ tín dụng tăng mạnh từ tháng 4 và gói kích cầu hỗ trợ lãi vay với nhu cầu vốn trung và dài hạn đã làm các ngân hàng bước vào “cuộc đua” lãi suất huy động, đặc biệt là với các kỳ hạn dài. Do lãi suất huy động của các ngân hàng đang tăng dần, đặc biệt từ cuối tháng 5 vì vậy lợi nhuận biên sẽ giảm. Cuối tháng 7/09, lãi suất huy động của khối NHTMCP trung bình là 8,6%/năm so với mức 7,95% cuối tháng 4 trong khi mặt bằng chung lãi suất cho vay vẫn là 10 – 10,5%/năm.
Biến động tỷ giá VND/USD cũng gây khó khăn cho hoạt động của ngân hàng
Bên cạnh đó việc tỷ giá VND/USD liên tục gia tăng so với đồng VND cũng đang tạo ra nhiều khó khăn cho hoạt động của ngân hàng. Trong 6 tháng đầu năm 2009, tỷ giá USD đã tăng
5,3% so với tháng 12/2008. Thực tế các ngân hàng luôn trong tình trạng thừa ngoại tệ cho vay
nhưng thiếu ngoại tệ để bán khiến cho tỷ giá mua – bán yết gần như luôn bằng nhau, điều này sẽ làm tác động không nhỏ tới nguồn thu nhập của ngân hàng, đặc biệt là những ngân hàng
thực hiện nhiều dịch vụ thanh toán xuất nhập khẩu như Sacombank. Tiền gửi ngoại tệ luôn
chiếm 15% nguồn huy động dân cư và phát hành giấy tờ có giá của Sacombank trong khi tỷ lệ
cho vay ngoại tệ đang giảm dần từ 23% cuối 2007 xuống 12% hiện nay.
Nhưng STB vẫn có khả năng hoàn thành kế hoạch lợi nhuận
Sacombank đã có một nửa năm 2009 phát triển khá nhanh, và đúng định hướng ngân hàng
đề ra từ đầu năm tuy nhiên việc NHNN giảm tỷ lệ tăng trưởng tín dụng xuống 25 – 27% sẽ
khiến Sacombank buộc phải thu hẹp cho vay, do đó làm ảnh hưởng tới quy mô và cấu trúc tài
sản của ngân hàng, tỷ trọng dư nợ trên tổng tài sản giảm xuống thay vào đó là sự gia tăng của các khoản đầu tư. Ngoài ra giá vốn đang có xu hướng tăng trong khi lãi suất đầu ra khó mà cải thiện được sẽ làm cho kết quả kinh doanh của 6 tháng cuối năm sẽ kém xa so với đầu năm. Tuy nhiên chúng tôi cho rằng STB vẫn có khả năng đạt được kế hoạch về lợi nhuận năm 2009 do nửa đầu năm đã đạt được 63% kế hoạch.
ĐỊNH GIÁ
Chúng tôi sử dụng các phương pháp so sánh để định giá cổ phiếu Sacombank.
VND/cp VCB CTG ACB Techcombank Eximbank MB BQ
30.500
3.184
9,58
27.500
1.786
15,40
38.500
6.534
5,89
45.200
4.167
10,85
39.500
3.320
11,90
57.000
5.131
11,11
P (06/08/2009)
EBTPS P/E
10,79
Theo P/EBPT
VND/cp VCB CTG ACB Techcombank Eximbank MB BQ
2.069
14,74
985
27,92
3.248
11,85
3.478
13,00
2.339
16,89
2.083
27,37
EPS
P/E
Theo P/E
Các ngân hàng có mức trích dự phòng rất khác nhau và điều này ảnh hưởng rất lớn đến Lợi nhuận sau thuế, đặc biệt là năm đặc biệt như 2008. Do vậy, để đảm bảo việc so sánh được đầy đủ hơn, chúng tôi so sánh giá của các ngân hàng trên Lợi nhuận trước dự phòng rủi ro
VND/cp VCB CTG ACB Techcombank Eximbank MB BQ
3,09
13.755
2,22
17.790
1,55
15.446
2,49
12.219
3,70
10.963
3,60
11.481
4,96
BVPS
P/B
Theo P/B
18,63
Tổng hợp các phương pháp
Sacombank có thương hiệu tốt, quy mô lớn, mạng lưới chi nhánh rộng, chiến lược hoạt động rõ ràng và thích ứng nhanh với những biến động của thị trường. Tuy nhiên những biến động kinh tế vĩ mô năm 2008 đã có ảnh hưởng lớn tới ngân hàng, thể hiện qua khả năng sinh lời sụt giảm mạnh. Đầu năm 2009 hoạt động của ngân hàng đã được cải thiện hơn, nhưng khả năng sinh lời vẫn chưa bắt kịp tốc độ tăng của tài sản cũng như nguồn vốn và ngân hàng cũng chưa khai thác được hết lợi thế để phát triển các dịch vụ bán lẻ.
Do vậy, chúng tôi cho rằng Ngân hàng xứng đáng được giao dịch với mức PE, PB cao hơn 5% so với trung bình của thị trường.
Giá cổ phiếu Tỷ trọng Giá trị
42.300
Giá cổ phiếu (VND/cp)
5%
Premium
5.779
10.691
23.873
40.343
20%
30%
50%
28.893
35.635
47.746
P/EBT
P/E P/B
C. QUAN ĐIỂM ĐẨU TƯ CUỐI NĂM 2009:
TÓM TẮT QUAN ĐIỂM ĐẦU TƯ
KQKD không có đột biến so với kỳ vọng cộng với rủi ro từ việc giảm bớt nới lỏng chính sách tiền tệ sẽ làm cho ngành ngân hàng không hấp dẫn bằng các ngành khác có tăng trưởng và KQKD ấn tượng vào cuối năm.
Khi những rủi ro “lơ lửng” hiện tại của ngành ngân hàng đã được làm rõ thì đó sẽ là thời điểm nên quan tâm trở lại vào cổ phiếu ngân hàng. Ở thời điểm hiện tại, nhà đầu tư quan tâm đến cổ phiếu ngân hàng nên có quan điểm đầu tư dài hạn, nhà đầu tư ngắn hạn lướt sóng sẽ khó tìm được cơ hội ở cổ phiếu ngân hàng và rất có thể sẽ gặp rủi ro T+4.
MỘT SỐ KHÓ KHĂN TRƯỚC MẮT CỦA NGÀNH NGÂN HÀNG
Trong bối cảnh kinh tế vĩ mô vẫn còn nhiều khó khăn, mặc dù các biện pháp kích thích kinh tế đang được thực hiện đã mang lại những kết quả ban đầu nhưng rủi ro về vĩ mô cũng như rủi ro từ chính sách tiền tệ là những trở ngại lớn cho đà tăng trưởng của ngành ngân hàng trong thời gian cuối năm. Chúng tôi nhận thấy một số nguồn thu chính của ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng, cụ thể:
v Về nguồn thu từ lãi, nguồn thu chủ đạo, chiếm khoảng 60% thu nhập của ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng do tăng trưởng tín dụng chậm lại và lợi nhuận lãi biên bị co hẹp.
Tăng trưởng tín dụng trong 9 tháng đầu năm đã đạt 28%, rất gần với mục tiêu 30% mà NHNN đã đặt ra để kiểm soát lạm phát vì vậy tăng trưởng tín dụng trong quý 4 sẽ ở mức thấp, chỉ ở khoảng 2%-4%.
Tăng trưởng huy động và M2 của 9 tháng đầu năm là 22,4% và 21,7% thấp hơn hẳn so với tăng trưởng tín dụng và vì vậy áp lực lên lãi suất huy động sẽ vẫn cao. Trong thời gian qua lãi suất các kỳ hạn ngắn từ 1 đến 6 tháng đã tăng rất nhiều lần, lãi suất kỳ hạn 1 tháng hiện tại là là 8,69%/năm, 3 tháng là 9%/năm, 6 tháng là 9,3%/năm và 12 tháng 9,5-9,7%/năm. Riêng với các kỳ hạn 2-3 năm là trên 10%/năm.
Lãi suất huy động đã tăng liên tục kể từ cuối tháng 5. Đến đầu tháng 9, mặc dù Hiệp hội ngân hàng đã đạt được sự đồng thuận để dừng cuộc đua huy động lãi suất nhưng sau đó các NHTM vẫn phải tăng lãi suất để chuẩn bị nguồn vốn cho nhu cầu tín dụng cuối năm cũng như tạo sức hút tiền gửi trong bối cảnh TTCK và BĐS đang sôi động.
Trong 9 tháng đầu năm 2009 lãi suất cho vay bị khống chế ở mức 10,5% (150% của lãi suất cơ bản) và khả năng tăng lãi suất trong năm 2009 là rất nhỏ. Hoạt động cho vay tiêu dùng, vốn được áp dụng lãi suất thỏa thuận (vượt 10,5%) lại đang bị NHNN kiểm soát chặt do có dấu hiệu nhiều khoản cho vay tiêu dùng thời gian đầu năm đã sử dụng sai mục đích để đầu từ vào các lĩnh vực nhiều rủi ro như chứng khoán và bất động sản. Mặc dù các NHTM bằng nhiều cách vẫn có thể thu thêm các khoản phí để tận thu nhưng các khoản phí này không thể cao do quyết định cấm các khoản phí liên quan đến cho vay của NHNN vẫn còn hiệu lực.
Lãi suất cho vay bị khống chế trong khi lãi suất huy động tăng cao là nguyên nhân làm cho lợi nhuận lãi biên của ngân hàng giảm sút. Cộng hưởng với đà tăng trưởng tín dụng chậm lại trong quý 4, nguồn thu từ lãi của các ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng.
v Nguồn thu từ hoàn nhập dự phòng và kinh doanh vàng sẽ không còn cao như hồi đầu năm do đà tăng của
TTCK đã chậm lại và giá vàng không còn biến động mạnh như trước:
TTCK trong quý 3 đã tăng 35%, thấp hơn quý 2 (48%), chưa kể mức tăng từ đáy lên đỉnh của quý 2 là 117% trong khi quý 3 này chỉ là 41%, nên các khoản hoàn nhập dự phòng trong quý 3 sẽ giảm đáng kể và sẽ còn thấp hơn trong quý 4.
Nguồn thu từ vàng dự báo sẽ giảm trong quý 3 do thị trường vàng trầm lắng trong hầu hết quý 3. Giá vàng chỉ có một đợt tăng trong đầu tháng 9 rồi sau đó giữ ổn định cho đến cuối tháng. Những ngày đầu tháng 10, giá vàng mới tăng mạnh lên hơn 1.050 USD/ounce. Với diễn biến giá vàng như vậy thì nguồn thu từ kinh doanh vàng trong quý 3 có thể sẽ không cao hơn quý 2.
v Chi phí vào cuối năm sẽ tăng cao do vào cuối năm các NH sẽ phải trích lập dự phòng rủi ro tín dụng đầy đủ hơn thời gian đầu năm. Trong bối cảnh kinh tế vẫn còn khó khăn, tỷ lệ nợ xấu chắc chắn sẽ tăng và làm tăng chi phí dự phòng rủi ro tín dụng của các ngân hàng. Ngoài ra chi phí tiền lương, khoản chi phí hoạt động lớn nhất của các ngân hàng cũng sẽ tăng mạnh trong quý cuối năm.
MỘT SỐ YẾU TỐ TÍCH CỰC
Tuy nhiên, nếu nhìn vào một số yếu tố tích cực thì có thể thấy các ngân hàng vẫn có những nguồn thu ổn đỉnh, chưa kể vẫn có khả năng có nguồn thu đột biến trong thời gian cuối năm.
v Lợi nhuận từ tự doanh chứng khoán của các ngân hàng trong quý 3 và quý 4 có thể được duy trì do xu hướng thị trường rõ ràng hơn trong nửa cuối quý 2 đã thúc đẩy việc giải ngân vào đầu tư cổ phiếu. Nguồn thu phí từ dịch vụ thanh toán, phí liên quan đến xuất nhập khẩu sẽ cải thiện trong thời gian cuối năm do các hoạt động kinh tế và xuất nhập khẩu sôi động hơn nhờ đà hồi phục kinh tế trong nước và thế giới. Ngoài ra phí môi giới chứng khoán và giao dịch vàng cũng sẽ được duy trì ở mức tốt.
v Những khoản đầu tư góp vốn hay bán dự án/tài sản cố định có thể đem lại lợi nhuận đột biến cho ngân hàng.
Hiện tại các ngân hàng đều đang sở hữu một lượng lớn đầu tư tài chính vào cổ phiếu và bất động sản. Vietcombank và ACB đang nắm cổ phần của nhiều ngân hàng và công ty cổ phần ở mức giá thấp. Vietinbank đang nắm giữ nhiều bất động sản có giá trị thực cao hơn nhiều so với giá trị sổ sách. Nếu như các ngân hàng này bán ra các tài sản trên hoặc định giá lại để góp vốn thì lợi nhuận thu được là không nhỏ. Tuy nhiên nếu điều này xảy ra chỉ là một hành động đơn lẻ và sẽ không nhằm mục đích là tạo lợi nhuận đột biến. Nguyên nhân chính là các ngân hàng hiện tại đang phải cạnh tranh rất quyết liệt để giữ thị phần nên năng lực cạnh tranh và thị phần mới là trọng tâm phát triển của ngân hàng chứ không phải những khoản lợi nhuận nhất thời. Các khoản đầu tư tài chính và bất động sản của các ngân hàng ngoài giá trị tài chính còn có giá trị trong việc duy trì mạng lưới đối tác và chi nhánh, một yếu tố quan trọng để duy trì năng lực cạnh tranh. Trong thời gian qua, chúng tôi chỉ ghi nhận một vài trường hợp đơn lẻ về việc bán các khoản đầu tư này và hầu hết đều không nhằm tạo ra lợi nhuận đột biến.
KẾT LUẬN:
Những khó khăn từ chính sách tiền tệ làm cho KQKD của các ngân hàng trong thời gian cuối năm đứng ở mức trung bình, khả năng có nguồn thu đặc biệt tạo đột biến là nhỏ. Xét riêng về yếu tố tăng trưởng và hoàn thành kế hoạch thì chắc chắn rằng các ngân hàng đều có thể hoàn thành kế hoạch và có tăng trưởng so với năm 2008. Nhưng KQKD không có đột biến so với kỳ vọng cộng với rủi ro từ việc giảm bớt nới lỏng chính sách tiền tệ sẽ làm cho ngành ngân hàng không hấp dẫn bằng các ngành khác có tăng trưởng và KQKD ấn tượng vào cuối năm.
Giá cổ phiếu của ngân hàng đã không tăng trong một thời gian khá dài, 4/5 cổ phiếu ngân hàng có mặt bằng giá tháng 9 thấp hơn so với tháng 8 trong khi VNIndex đã tăng hơn 20%. Có thể thấy những rủi ro vĩ mô đã phần nào đó đã được phản ánh vào giá.
Cuối 2009 đầu 2010 dự báo chính sách tiền tệ sẽ theo hướng giảm bớt nới lỏng, gói kích thích kinh tế và hỗ trợ lãi suất (nếu có) sẽ giảm bớt về quy mô. Lãi suất cơ bản sẽ được cân nhắc tăng và chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng 2010 sẽ giữ ở khoảng 30% để kiểm soát lạm phát. Khi đó những rủi ro về chính sách vĩ mô đối với ngành ngân hàng sẽ trở nên rõ ràng hơn.
Trong khi đó lợi nhuận của các ngân hàng có khả năng được cải thiện nếu lãi suất cơ bản tăng tạo điều kiện cho ngân hàng nâng lãi suất cho vay. Khi những rủi ro “lơ lửng” hiện tại đã được làm rõ thì đó sẽ là thời điểm nên quan tâm trở lại vào cổ phiếu ngân hàng. Ở thời điểm hiện tại, nhà đầu tư quan tâm đến cổ phiếu ngân hàng nên có quan điểm đầu tư dài hạn, nhà đầu tư ngắn hạn lướt sóng sẽ khó tìm được cơ hội ở cổ phiếu ngân hàng và rất có thể sẽ gặp rủi ro T+4
ccc
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân tích ngành Ngân hàng.doc