Riêng đối với EU còn nghiên cứu không những để đưa ra giải pháp cho
nền kinh tế của mình mà còn phải đưa ra các giải pháp để nuôi sống dự án
đồng tiền chung, ước muốn đã được thai nền từ nhiều thập kỷ qua.
Đối với Việt Nam có nhiều quan hệ với EU, cần phải nghiên cứu và
chuẩn bị trước cho vấn đề đồng EU. Sự ra đời đồng EURO là một cơ hội
cho Việt Nam tăng cường, mở rộng hoạt động kinh tế quốc tế, phát triển
nền kinh tế mở theo hướng đa dạng hoá đa phương hoá các quan hệ kinh
tế, bước kịp vào thời đại khu vực hoá toàn cầu hoá, tham gia hoạt động
kinh tế quốc tế hiệu quả hơn.
53 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3637 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phân tích sự hình thành và phát triển của đồng tiền chung Châu Âu Euro và những tác động tới Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đổi một cách độc đoán tỷ giá của đồng USD bởi lẽ giờ
đây, Euro đã trở thành địch thủ đối trọng của đồng USD trong thị trường vốn quốc
tế.
- Đồng Euro ngày càng đóng vai trò quan trọng trong trao đổi quốc tế và trong
dự trữ ngoại hối. Sự phát triển lớn mạnh của đồng Euro chắc chắn sẽ làm suy yếu
Tài chính quóc t ế TS. Mai Thu Hiền
30
vị trí độc tôn của đồng USD. Nếu xu hướng này tiếp tục tiếp diễn, đồng Euro
mạnh lên ngang hàng với đồng USD thì thế giới sẽ quy sang cất trữ đồng Euro,
bán tháo đồng USD và gây ra những tổn thất to lớn cho kinh tế Mĩ.
- Đồng Euro ra đời cũng giúp EU tăng cường sức cạnh tranh quốc tế và chia sẻ
quyền lực thống trị thế giới của nền kinh tế Mĩ. Hàng năm, Mĩ vẫn thu lợi từ số
lượng đồng USD lưu hành bên ngoài nước M ĩ. Do vậy, khi đồng Euro ra đời, tổng
giá trị sản xuất trong nước M ĩ có thể bị tổn thất một phần.
- Đồng Euro cũng sẽ làm ảnh hưởng đến buôn bán của Mĩ. Việc san phẳng mặt
bằng luân chuyển các yếu tố sản xuất nhờ nền kinh tế vận hành dưới một đồng tiền
chung duy nhất đã giúp hàng hóa khu vực EU có sức cạnh tranh mạnh mẽ trên thị
trường quốc tế nhờ hạ thấp giá cả và nâng cao chất lượng. Điều này tất yếu sẽ ảnh
hưởng đến xuất khẩu của M ĩ đối với EU, thậm chí với cả những nước khác, làm
cho thâm hụt của Mĩ với EU và các nước khác có chiều hướng tăng lên.
- Mĩ cũng sẽ qua rồi cái thời mặc nhiên can thiệp vào tỉ giá hối đoái. Nếu tỷ
giá quá cao với đồng USD sẽ ảnh hưởng đến xuất khẩu của Mĩ còn nếu quá thấp
sẽ xảy ra hiện tượng bán tháo đồng USD để quay sang dự trữ và buôn bán bằng
đồng Euro. Với ảnh hưởng ngày càng lớn của đồng Euro, Mĩ sẽ phải trở lại đàm
phán với Châu Âu trên lĩnh vực kinh tế và tiền tệ bị gián đoạn từ năm 1971.
- Khi đồng Euro ra đời, vấn đề quyền đại diện của khu vực đồng Euro tại các
tổ chức tài chính quốc tế như IMF, WB, WTO… ngày càng được củng cố. Tổng
số vốn đóng góp của các nước khu vực đồng Euro tại các tổ chức tài chính này
cũng xấp xỉ Mĩ và có thể vượt cả Mĩ, do vậy, EU có thể hạn chế sự áp đảo của M ĩ
trong việc bỏ phiếu quyết định các vấn đề tài chính tại các tổ chức này.
2. Tác động của đồng Euro đối với kinh tế nền Nhật Bản:
2.1 Tác động đối với đồng Yên
- Trước khi đồng Euro xuất hiện, Nhật Bản không đặt nặng vị trí của đồng Yên
trên thị trường tiền tệ thế giới vì sợ gây khó khăn cho xuất khẩu. Trong tình thế
đó, đồng Yên chịu sự khống chế khá mạnh của đồng USD.
- Sau khi đồng Euro ra đời năm 1999, sức ép từ đồng tiền mới tạo ra khiến Nhật
phải thực hiện nhiều chính sách nhằm gây dựng sức mạnh cho đồng Yên, bắt đầu
từ việc Thủ Tướng Nhật Obuchi đi Châu Âu và đưa ra đề nghị chia sẻ quyền lực
trong một hệ thống tiền tệ thế giới mới ba cực gồm đồng USD, Euro và Yên.
Tài chính quóc t ế TS. Mai Thu Hiền
31
- Đồng Euro xuất hiện khiến cho môi trường quốc tế khó khăn hơn rất nhiều cho
Nhật Bản, tuy vậy nó cũng khiến cho danh tiếng của đồng Yên được khẳng định
trên thị trường tiền tệ thế giới.
- Trong tình hình đó, các nhà kinh tế Nhật Bản cho rằng vai trò cực thứ 3 trong hệ
thống tiền tệ của đồng Yên hoàn toàn thực hiện được nhờ sức mạnh kinh tế khổng
lồ của Nhật Bản và bản thân đồng Yên chiếm 12-15% trong thanh toán quốc tế.
=> Hiện nay, đồng Yên Nhật đóng vai trò đồng tiền quan trọng thứ 2 sau USD ở
khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
2.2 Tác động đến dự trữ ngoại hối của Nhật Bản
Đồng Euro xuất hiện dẫn đến nhiều thay đổi trong cơ cấu các hệ thống thanh toán
quốc tế vốn chủ yếu bằng đồng USD: nhiều dịch vụ ngoại hối, hợp đồng, thoả
thuận liên quan tới sự dụng Euro và Yên làm phương tiện thanh toán
Là nước dự trữ ngoại hối lớn nhất thế giới, sau khi đồng Euro xuất hiện, cơ cấu dự
trữ ngoại hối của Nhật phải thay đổi. Nhật Bản buộc phải dành 1 phần dự trữ USD
cho đồng Euro, dự tính khoảng 1/3.
2.3 Tác động đến thị trường đầu tư Nhật Bản
Đồng Euro giành được tín nhiệm từ các nhà đầu tư dẫn tới đầu tư bằng USD từ
Nhật chuyển dần sang Euro khiến cho Mỹ phải lo ngại.
Nhật hiện đang nắm giữ 264,5 tỷ USD trái phiếu kho bạc của M ỹ, trái phiếu bán
ồ ạt gây giảm giá và tăng lãi suất ở M ỹ. Ngoài ra, 2000 tỷ USD ở Nhật Bản cũng
có thể chuyển được sang đồng Euro.
3. Tác động của đồng Euro đối với các nền kinh tế châu Á
3.1 Tích cực
- Xuất khẩu châu Á sang châu Âu dễ dàng hơn do chỉ còn một đồng tiền chung
thống nhất, cơ hội xuất khẩu cũng ổn định hơn vì châu Âu muốn duy trì tỉ lệ lạm
phát thấp. Các nước Châu Á giảm được các chi phí thương mại với khu vực EU,
từ đó thúc đẩy tăng trưởng sang khu vực châu Á.
- Đồng Euro sử dụng nhiều có thể làm cho đồng USD yếu đi, tạo điều kiện cho các
đồng tiền Châu Á gia tăng giá trị, tránh được sự lệ thuộc vào đồng USD sau khủng
Tài chính quóc t ế TS. Mai Thu Hiền
32
hoảng. Tuy vậy nhiều nước lại có xu hướng giữ nguyên giá trị đồng tiền nhằm
tăng cạnh tranh trong xuất khẩu.
- Sử dụng đồng Euro giúp nhiều nước châu Á cần bằng được nguồn dự trữ ngoại
tệ thay thế cho đồng USD, phá bỏ thói quen lệ thuộc vào việc sử dụng đồng USD
trong dân chúng châu Á.
3.2 Tiêu cực
- Đồng Euro ra đời có nghĩa là làm tăng khả năng bảo hộ hàng hoá của khu vực
EU thông qua các điều kiện tiêu chuẩn đối với hàng nhập khẩu. Đây là một thách
thức lớn đối với các nước Đ ông Nam Á, nơi có trình độ kỹ thuật thấp.Ngoài ta giá
cả thấp trong EU cũng khiến hàng Châu Á khó cạnh tranh với hàng hoá cùng
chủng loại.
- Viện trợ ra nước ngoài của EU ngày càng giảm sau khi xuất hiện đồng Euro do
phải thực hiện nhiều chính sách để đảm bảo yêu cầu lạm phát thấp và nợ nhà nước
thấp như trong hiệp ước Maasstricht. Trong khi đó EU thường giúp các nước
nghèo phát triển về mặt kỹ thuật, buộc các nước này phải cẩn thận trong chuẩn bị
hạ tầng kỹ thuật.
- Nợ của các nước châu Á gặp khó khăn hơn do phải thương lượng lãi suất hợp lý
đối với nhiều nước khi trả các khoản nợ,do lãi suất giữa các nước chắc chắn có sự
khác nhau. Việc kiểm soát số nợ phải thật cẩn thận, nếu không dễ dấn tới không có
khả năng thanh toán và khủng hoảng kinh tế như ở Thái Lan và một số nước
ASEAN.
Tài chính quóc t ế TS. Mai Thu Hiền
33
CHƯƠNG III: TÁC ĐỘN G CỦA ĐỒNG EURO ĐẾN NỀN KINH TẾ VIỆT
NAM VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT
I. Tác động của đồng Euro đến nền kinh tế Việt Nam
Quan hệ ngoại giao Việt Nam – EU chính thức được thiết lập từ năm 1990, và
cũng kể từ đó, mối quan hệ này dần được phát triển trên cơ sở hợp tác toàn diện.
Do vậy sự ra đời của đồng Euro đã có những tác động theo từng mức độ khác
nhau trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - thương mại, tài chính… của Việt Nam.
1. Tác động đến quan hệ thương mại Việt Nam – EU:
Trong những năm qua, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU ngày càng được
mở rộng. Quan hệ thương mại Việt Nam - EU phát triển rất khả quan, trong 10
năm từ 1990-1999 với quy mô tăng hơn 12 lần và tốc độ tăng bình quân mỗi năm
là 32%. Năm 1999, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều đạt gần 4.500 triệu
USD, trong đó Việt Nam xuất khẩu hơn 3.300 triệu USD, nhập khẩu 1.120 triệu
USD. Những mặt hàng chủ yếu Việt Nam xuất khẩu sang EU bao gồm hàng dệt
may, giày dép, thủy sản, cà-phê, thủ công mỹ nghệ... Việt Nam nhập khẩu từ EU
chủ yếu là máy móc, thiết bị công nghiệp, hóa chất, tân dược, thực phẩm chế
biến... Việt Nam và EU đã dành cho nhau chế độ đãi ngộ tối huệ quốc (MFN) và
EC cam kết dành cho hàng hóa xuất xứ từ Việt Nam chế độ ưu đãi phổ cập (GSP),
gia hạn và tăng hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam.
Hợp tác thương mại giữa EU và Việt Nam có nhiều bước phát triển nhảy vọt cả
về chất và lượng. Nếu như khi hai bên thiết lập quan hệ ngoại giao - năm 1990 -
kim ngạch thương mại đạt khoảng vài triệu USD, thì đến năm 2007 đạt hơn 9 tỷ
USD, đưa EU trở thành đối tác thương mại lớn của Việt Nam với việc tiếp nhận h
ơn 18.7% tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam. Năm 2008 thương mại hai chiều
Việt Nam – châu Âu đạt hơn 21,08 tỷ USD, trong đó xuất khẩu đạt hơn 12,4 tỷ
USD, chiếm 19,78% kim ngạch xuất khẩu của cả nước; nhập khẩu gần 8,68 tỷ
USD, chiếm 10,75% kim ngạch nhập khẩu của cả nước. So với năm 2007, xuất
khẩu tăng 78,81% trong khi nhập khẩu tăng 97,49%.
Đồng Euro ra đời đã đem lại nhiều thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu của
Việt Nam. Đó là:
Thứ nhất, việc hình thành một thị trường thống nhất về giá cả và đồng tiền thanh
toán sẽ thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang
EU, bởi vì các doanh nghiệp này sẽ không phải tập trung quá mức vào các đồng
Tài chính quóc t ế TS. Mai Thu Hiền
34
tiền khác nhau của các quốc gia khác nhau trong khối EU. Việc ký kết các hợp
đồng dễ dàng hơn, giảm được rủi ro về tỷ giá. Toàn bộ ngoại tệ thu về từ xuất
khẩu sang EU được hoạch toán và theo giõi trong một tài khoản duy nhất, từ đó
giảm được chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu. Các doanh
nghiệp cũng có thể so sánh mức giá chênh lệch của cùng một mặt hàng ở thị
trường các quốc gia thành viên để lựa chọn thị trường xuất khẩu thích hợp nhất,
mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
Bên cạnh đó, đồng Euro cũng mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam kinh
doanh trong một môi trường minh bạch,rõ ràng vì các doanh nghiệp Việt Nam có
thể xem xét, so sánh tình hình tài chính, kinh doanh của các đối tác ở các quốc gia
trong khu vực đồng Euro. Mặt khác việc sử dụng một đồng tiền chung trong khu
vực EU cũng làm giảm chi phí giao dịch trong nội bộ khối này, làm cho hàng nhập
khẩu từ EU trở nên rẻ hơn. Thêm vào đó, doanh nghiệp nhập khẩu Việt Nam có
thể so sánh các mức giá hàng nhập khẩu để lựa chọn đối tác cung cấp hàng nhập
khẩu, đăc biệt khi mặt hàng mà Việt nam nhập khẩu từ EU chủ yếu lại là thiết bị
máy móc phụ vụ đầu vào cho tiến trình công nghiệp hoá đất nước.
Thứ hai, đồng Euro ra đời đã tạo điều kiện cho Việt Nam mở rộng quan hệ thương
mại với những nước khác trong khối EU hiện đang có ít quan hệ thương mại như
Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Lucxambua... Khi cả châu Âu chỉ sử dụng một đồng
tiền chung, thì hàng hoá Việt Nam một khi đã xâm nhập được vào một nước bạn
hàng quen thuộc nào đó (như Pháp, Anh, Hà Lan…) chắc chắn sẽ được các nước
khác biết đến mà không phải tốn chi phí tiếp thị, quảng cáo. Hơn nữa, các nước
này có trình độ phát triển thấp hơn, khách hàng ít khó tính hơn, do vậy hàng hoá
Việt nam dễ dàng thâm nhập hơn. Điều này là một thuận lợi lớn để Việt Nam mở
rộng kim ngạch xuất khẩu sang EU.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, đồng Euro ra đời cũng đặt ra những khó
khăn, thách thức trong quan hệ thương mại Việt Nam – EU. Đó là:
Thứ nhất, giá bán hàng hoá của Việt Nam sang EU sẽ phải tuân thủ quy luật giảm
dần do giá cả của hàng hoá của EU có xu hướng giảm khi đồng tiền chung ra đời.
Sự giảm giá này là tất yếu và dễ so sánh giữa các thành viên với nhau, do vậy, nếu
giá cả hàng hoá Việt Nam nhập sang EU cao, điều này sẽ rất dễ nhận ra và có thể
làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường EU.
Tài chính quóc t ế TS. Mai Thu Hiền
35
Thứ hai, đồng Euro ra đời đã tạo điều kiện cho sự liên kết chặt chẽ hơn, mở rộng
các quan hệ nội bộ khối hơn, đặc biệt là bảo hộ khu vực có chiều hướng gia tăng
bằng các hàng rào phi thuế quan như các tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh an toàn thực
phẩm, nhãn mác sản phẩm… Điều này đòi hỏi hàng xuất khẩu của Việt nam sang
EU phải có sưk cải tiến công nghệ và chất lượng bảo quản hơn để có thể đáp ứng
các nhu cầu đó.
Thứ ba, đồng Euro ra đời không chỉ mở ra triển vọng thương mại Việt Nam – EU
mà còn mở ra cơ hội phát triển mối quan hệ thương mại giữa EU với các khu vực
và quốc gia khác như Đông Âu, Trung Đông, Địa Trung Hải, châu Phi, Đông Á…
Do vậy, hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ phải cạnh tranh gay gắt hơn với hàng hoá
của các nước và các khu vực khác. Trong tình trạng hàng xuất khẩu của Việt Nam
vẫn còn chủ yếu tập trung ở kỹ thuật trung bình, hàng hoá gia công lắp ráp chiếm
tỷ trọng lớn, mẫu mã chưa phong phú, chất lượng chế biến chưa đạt tiêu chuẩn vệ
sinh an toàn thực phẩm mà EU đặt ra… thì đây là khó khăn lớn đòi hỏi các doanh
nghiệp chế biến và xuất khẩu sản phẩm của Việt Nam sang EU phải tiếp tục nâng
cấp công nghệ và trình độ quản lý, tạo ra sức cạnh tranh mới cho hàng hoá xuất
khẩu sang EU.
Trong khoảng thời gian hình thành, đồng Euro đã tạo được khá nhiều những thiện
cảm của các nhà đầu tư trong khu vực và nước ngoài cũng như được chờ đón đến
tay người tiêu dùng vào 01/01/2002. Có thể nói, ngay từ lúc bắt đầu lưu hành trên
thị trường ngày 01/01/1999, đồng Euro chưa thực sự mang lại một dấu ấn về một
đồng tiền mạnh. Tuy nhiên, sau nhiều biến động kinh tế ở Mỹ những năm vừa qua
(chiến tranh, lập quân sự ở Afghanistan, Irag…) và mới đây nhất là cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu đã đưa nền kinh tế Mỹ xuống dốc nghiêm trọng. Vì lẽ đó
đồng USD của M ỹ cũng có sự biến động về tỷ giá gây ảnh hưởng đến nền kinh tế
thế giới. Trong khi đó, đồng Euro vẫn không bị chao đảo, mặc dù cuộc khủng
hoảng tài chính hầu như đã nhấn chìm toàn bộ thị trường châu Âu. Các chuyên gia
kinh tế đã nhận định đồng Euro như “nơi trú ẩn an toàn” cho nguồn vốn của giới
đầu tư vì nó đã tạo ra sức hấp dẫn các nhà đầu tư ở chỗ tạo được một cảm giác tin
tưởng gần như tuyệt đối. Rõ ràng, đây là bước ngoặt mới cho đồng Euro trên con
đường khẳng định vị thế thống lĩnh thị trường tiền tệ thế giới mà đồng USD của
Mỹ đang nắm giữ.
2. Tác động của đồng Euro đến quan hệ đầu tư Việt Nam – EU:
Tài chính quóc t ế TS. Mai Thu Hiền
36
Trong xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa nhanh chóng như hiện nay, Việt
Nam không ngừng đổi mới và phát triển các chính sách kinh tế, cơ sở hạ tầng…
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc phát triển đất nước
không phải chuyện một sớm một chiều mà cần phải có thời gian để đưa ra được
các chính sách kịp thời và hợp lý. Bên cạnh đó, nhu cầu về vốn là rất lớn, đặc biệt
là đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. EU không chỉ là bạn hàng,
là đối tác trong môi trường thương mại, xuất nhập khẩu của Việt Nam mà còn là
nơi cung cấp nguồn vốn đầu tư không nhỏ vào Việt Nam.
Năm 1998, EU đã có 197 dự án đầu tư tại Việt Nam với tổng số vốn đăng
ký lên tới 4,5 tỷ USD và tăng lên rất nhanh trong những năm tiếp theo. Trong giai
đoạn 1990-2001, EU đã có 313 dự án được cấp phép với tổng số vốn đăng ký là
4.183,15 triệu USD, chiếm 10% tổng FDI vào Việt Nam. Trong đó, Pháp có 168
dự án được cấp phép với tổng số vốn 2.583,7 triệu USD; Hà Lan có 46 dự án, tổng
số vốn 1.159,95 triệu USD; Đức có 45 dự án với tổng vốn 233 triệu USD; Italia có
17 dự án và tổng vốn 74,1 triệu USD… Những nước này có tổng số vốn đầu tư
vào Việt Nam lớn nhất trong số 8 nước EU có vốn đầu tư vào Việt Nam.
Chỉ riêng năm 2001, Việt Nam đã thu hút được 32 dựa án đầu tư từ EU với
số vốn đăng ký là 1001 triệu USD.
EU tập trung đầu tư vào Việt Nam ở các lĩnh vực như công nghiệp xây
dựng, dịch vụ, nông lâm ngư nghiệp. Hầu hết các dự án đầu tư vào Việt Nam có
hiệu quả, tạo doanh thu lớn và thu hút 23.000 lao động của Việt Nam.
Euro ra đời đã đem lại rất nhiều thuận lợi đối với các nhà đầu tư EU khi
chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài và tác động tích cực đến nền kinh tế Việt Nam
như trong các khía cạnh sau:
Thứ nhất, đồng Euro giúp cho việc tính toán, thẩm định các dự án cụ
thể được tiến hành nhanh hơn, dễ dàng hơn vì các dự án của các nước EU dều
dùng chung một đơn vị tiền tệ khá ổn định, hấp dẫn các nhà đầu tư châu Âu như
Euro.
Thứ hai, Ngân Hàng Trung Ương Châu Âu duy trì mức lãi suất thấp
đã tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi cho việc luân chuyển vốn sang các nước
đang phát triển, nơi có lãi suất cao hơn, chi phí lao động thấp hơn, nguồn nguyên
liệu sẵn có hơn, nhất là khi đồng Euro đã đi vào hoạt động ổn định và tạo ra sức
mạnh tương xứng với đồng USD.
Tài chính quóc t ế TS. Mai Thu Hiền
37
Thứ ba, nếu như trước đây các nhà đầu tư nắm trong tay 12 đồng
tiền quốc gia khác nhau để kinh doanh chênh ệch tỷ giá và phân tán rủi ro thì bây
giờ chỉ còn lại duy nhất đồng Euro nên cơ hội thu lợi nhuận khi đầu tư vào chứng
khoán EU bị thu hẹp. Vì thế, các nhà đầu tư sẽ chuyển hướng sang thị trường
chứng khoán Châu Á (trong đó có Việt Nam), tuy có nhiều rủi ro hơn nhưng hứa
hẹn khả năng sinh lợi lớn hơn vì các quốc gia này có tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao hơn các nước phát triển. Tuy nhiên hầu hết các dự án đầu tư của EU vào Việt
Nam đều được tính toán dựa vào đồng USD, chỉ có một số nước như Anh, Pháp,
Đức dùng tiền nội tệ của mình để thanh toán nên khi đồng Euro biến động sẽ có
ảnh hưởng nhất định đến tất cả các dự án đang thực hiện và các dự án mới.
Thứ tư, đối với những dự án đang thực hiện, đồng Euro giảm giá làm
các nhà đầu tư dao động, gây ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án đầu tư. Lúc
này vốn ứ đọng, các hoạt động liên quan như nhân lực, môi trường… sẽ gây ảnh
hưởng đến sự phát triển kinh tế. Vì đồng USD được dùng để tính toán hầu hết các
dự án đầu tư của EU vào Việt Nam và đang gây bất lợi cho quan hệ đầu tư Việt
Nam – EU. Khi đồng USD lên giá so với đồng Euro thì các nhà đầu tư EU phải
chịu chi phí đầu vào cao hơn so với các nhà đầu tư nước ngoài khác tại Việt Nam.
Điều này dẫn đến nguy cơ lớn các nhà đầu tư rút vốn khỏi thị trường đầu tư tại
Việt Nam và cũng là một trong những nhân tố khiến dòng FDI vào Việt Nam
trong vài năm qua suy giảm đáng kể.
Thứ năm, đối với các dự án mới, kể cả các dự án sắp bắt đầu và các
dự án thực hiện sau năm 2003 khi triển khai đều được tính bằng đồng Euro, hệ
thống ngân hàng – tài chính Việt Nam cần có sự cải tổ nhất định về phương thức
quản lý , về dự báo tiền tệ và phải tính toán được những rủi ro do đồng Euro mang
lại để các dự án có thể thực hiện đúng tiến độ như dự kiến và tránh được những
ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế.
Nói tóm lại, chí khi nào đồng Euro hực sự mạnh trên thị trường tiền tệ thế
giới, những tác động tích cực đến mơi trường đầu tư của Việt Nam mới rõ ràng và
hiệu quả. Hiện nay, sự biến động thất thường của đồng Euro đang đem lại rủi ro
cho các nhà đầu tư EU cũng như gây ảnh hưởng nhất định đến khả năng thu hút
đầu tư từ EU vào Việt Nam. Để chờ đón một đồng Euro đủ mạnh trong tương lai
gần, Việt Nam cần phải có những cải cách thích hợp về môi trường đầu tư, hệ
thống tài chính – ngân hàng, phát triển nguồn nhân lực để tạo ra môi trường đầu tư
thông thoáng, hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư đến từ khu vực Châu Âu.
Tài chính quóc t ế TS. Mai Thu Hiền
38
3. Tác động đến hệ thống tài chính – tiền tệ của Việt Nam
3.1 Tác động đến quan hệ vay nợ Việt Nam – EU:
Vừa là đối tác thương mại, vừa là nơi cung cấp vốn đầu tư cho Việt Nam,
EU còn là nhà tài trợ lớn thứ hai của Việt Nam. EU cam kết viện trợ 2,4 tỷ USD
cho Việt Na, chiếm 20% tổng vốn ODA từ các nhà tài trợ dành cho Việt Nam.
Vốn vay ODA của EU tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực phúc lợi xã hội: xóa đói
giảm nghèo, giáo dục, y tế…để giúp Việt Nam hội nhập từng bước vào nền kinh tế
thế giới.
Tuy nhiên, việc các thành viên EU phải tuân thủ 5 tiêu chuẩn gia nhập khối
đồng tiền chung nhằm đảm bảo cho đồng Euro là đồng tiền mạnh và ổn định đã
buộc các quốc gia EU phải thực hiện chính sách tiết kiệm ngân sách ngặt nghèo,
xúc tiến mạnh mẽ phát triển kinh tế trong nước. Nhưng theo ông Christoph
Wiesner, Phó Đại Sứ - Đại Biện lâm thời phái đoàn EU tại Việt Nam cho rằng “bất
cứ lần mở rộng mới nào của EU cũng đều có lời đồn đại EU tập trung “vực dậy”
các thành viên mới trong nội khối mà ít quan tam đến việc hướng ra nước ngoài.
Nhưng điều ngược lại xảy ra mà Việt Nam là ví dụ điển hình. Khi EU mở rộng,
đầu tư vào Việt Nam tăng nhanh, hàng hóa của Việt Nam khi xuất khẩu vào 1
nước EU thì có thể xuất khẩu sang các thành viên còn lại. Người Việt Nam đang ở
các nước thành viên mới có thể tự do đi lại đến các thành viên cũ để tạo nên cầu
nối thương mại, đầu tư quan trọng giữa Việt Nam và EU”.
Đối với các khoản vay nợ của Việt Nam đối với EU được ký kết trước ngày
1/9/1999, nếu được tính bằng đồng Ecu thì đến thời điểm ngày 1/9/1999 sẽ được
tự động chuyển sang đồng Euro theo tỷ lệ 1 Ecu = 1 Euro với mức lãi suất và
phương thức trả nợ giữ nguyên như hiệp định đã ký kết. Đối với các đồng tiền
mạnh của EU – 12 như Francs Pháp, DM Đức…, Việt Nam chuyển thẳng sang
tính bằng đồng Euro theo tỷ giá cố định giữa đồng tiền quốc gia đó với đồng Euro
mà Ngân Hàng Trung Ương Châu Âu đã công bố ngày 31/12/1998. các khoản nợ
tính bằng các đồng tiền khác như Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào N ha… thì Việt
Nam chuyển dần sang đồng Euro năm 1999. Các khoản vay nợ từ các nước chưa
tham gia Euro như Anh, Đan M ạch, Thụy Điển thì Việt Nam không phải tính lại.
Khi đồng Euro ra đời, các quốc gia đều phải quyết định về vấn đề nợ nước
ngoài công cộng, đa dạng hóa thành phần và cơ cấu nợ ngoại tệ. thành phần nợ
Tài chính quóc t ế TS. Mai Thu Hiền
39
ngoại tệ có liên quan đến vấn đề thu nhập ngoại tệ từ hoạt động ngoại thương. Nợ
bằng đồng Euro của Việt Nam sẽ có chiều hướng gia tăng, chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng nợ nước ngoài vì quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU đang trên
đà phát triển.
Việt Nam phải chuyển đổi nợ sang đồng Euro vì dự trữ ngoại tệ chủ yếu
của Việt Nam là đồng USD nên nếu USD tăng giá so với Euro thì Việt Nam phải
tốn nhiều chi phí khi trả nợ cho EU.
Phần lớn các quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam với bên ngoài đều
tính bằng USD (chiếm 80% tổng phương tiện thanh toán đối ngoại). nếu đồng
Euro mạnh so với đồng USD thì sẽ là tăng chi phí dự trữ và sử dụng đồng USD
khi phải thanh toán với khu vực EM U bằng Euro.
Về viện trợ, EU dùng đồng Euro để viện trợ cho Việt Nam. Tuy nhiên, viện
trợ này có nguy cơ giảm sút do ECB đảm bảo tính ổn định của Euro trong giai
đoạn đầu chính thức lưu thông, các nước thành viên EM U phải duy trì những điều
kiện gia nhập liên minh này do Hiệp ước Maastricht đã đặt ra.
Sự ra đời của Euro đang làm thay đổi tỷ trọng dự trữ ngoại tệ thế giới. các
ngân hàng trung ương trên thế giới đang tìm cách đa dạng hóa danh mục vồn đầu
tư và đồng Euro là phương án thay thế bên cạnh đồng USD và Yên Nhật.
Thành phần dự trữ quốc tế chủ yếu dựa vào các hoạt động kinh tế của một
quốc gia như định tỷ giá, thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế và cơ cấu nợ. Nếu
các hoạt động kinh tế phụ thuộc một đồng tiền nhất định, đồng tiền đó sẽ chiếm
phần đa số trong dự trữ chính thức của Ngân Hàng Trung Ương quốc gia.
Về dự trữ ngoại tệ, theo dự kiến của Ủy ban Châu Âu, đồng Euro sẽ trở
thành một đồng tiền dự trữ chính cạnh tranh với USD. Trong ngắn hạn, điều này
rất khó thực hiện vì tốc độ tăng trưởng kinh tế của EU chậm chạp và cơ cấu lao
động còn kém linh hoạt. Euro ra đời là thay đổi đáng kể trong cơ cấu dự trữ ngoại
tệ của các nước đang phát triển, thay vì dự trữ các đồng tiền của các quốc gia
thành viên EM U thì bây giờ Ngân Hàng Trung Ương Việt Nam chỉ cần dự trữ
đồng Euro để phục vụ các hoạt động kinh tế đối ngoại với các nước EMU.
Đồng Euro ra đời và có tính ổn định cao đang dần phá thế độc tôn của đồng
USD từ đó giúp các nước đang phát triển có thể phân tán rủi ro hối đoái mà đồng
USD gây ra cũng như tránh được sự phụ thuộc quá mức vào nền kinh tế Mỹ ở các
Tài chính quóc t ế TS. Mai Thu Hiền
40
nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Như vậy các nước đang phát triển nói
chung cũng như Việt Nam nói riêng sẽ không phải lệ thuộc vào M ỹ khi có các
biến động kinh tế và sẽ không phải thực hiện những chính sách không có lợi cho
người dân do Mỹ áp đặt.
Như vậy, đồng Euro ra đời với tính bền vững và ổn định đã phần nào làm
giảm thiểu những rủi ro, những ảnh hưởng tiêu cực mà đồng USD mang lại. Nó
góp phần tạo sự ổn định cho hệ thống tiền tệ thế giới nhằm tạo điều kiện cho các
nước đang phát triển duy trì và đẩy mạnh sự tăng trưởng kinh tế của mình.
3.2 Tác động đến tỷ giá hối đoái
Từ trước đến nay, tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam đã lệ thuộc một cách
chặt chẽ và tất yếu vào đồng USD với tuyệt đại đa số dự trữ của Việt Nam đều
tính bằng USD (khoảng 80%). Trong khi đó Việt Nam lại có quan hệ với nhiều
nước Châu Âu kể cả Đông và Tây Âu nên sự gắn chặt giá VND vào USD đã tăng
thêm áp lực lên việc xác định giá trị đồng tiền Việt Nam.
Euro ra đời sẽ cạnh tranh quyết liệt với đồng USD trong lưu thông tiền tệ
thế giới. Do đó, một đồng tiền yếu như VND sẽ khai thác được những lợi thế này
để xây dựng chế độ tỷ giá thích hợp.
Sự hợp tác ngày càng chặt chẽ về thương mại và dầu tư giữa Việt Nam và
EU càng thúc đẩy phương án sử dụng đồng Euro bên cạnh USD và Yên Nhật
trong rổ tiền tệ thay vì tỷ giá đồng Việt Nam luôn gắn với một đồng tiền duy nhất
là đồng USD.
4. Việt Nam và tín hiệu vui đối với quan hệ đầu tư và viện trợ của Việt Nam - EU
Đầu tư trực tiếp (FDI):
Hiện tại EU đang ở vị trí thứ hai sau Nhật về vốn FDI giải ngân. Theo ước
tính của Cục Đầu tư nước ngoài thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư, xét về tổng vốn
FDI giải ngân, Liên minh châu Âu (EU) hiện là nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài
lớn thứ hai ở Việt Nam với 7 tỉ đô la M ỹ, chỉ sau Nhật Bản.
EU có tỉ lệ cao nhất xét trên nền tảng cộng dồn mức đầu tư được giải ngân
trên tổng mức đầu tư cam kết. Cụ thể, EU cam kết đầu tư 11,8 tỉ đô la và đã giải
ngân 7 tỉ đô la (chiếm 60%). Tỉ lệ này cao gấp bốn lần mức trung bình (xét theo
vốn giải ngân so với vốn cam kết) của cả nước trong năm 2008, trong khi các nhà
đầu tư nước ngoài cam kết 64 tỉ đô la và giải ngân 11,5 tỉ đô la.
Tài chính quóc t ế TS. Mai Thu Hiền
41
Báo cáo của EU về tình hình kinh tế Việt Nam 2009 cho biết EU đã trở
thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, tiêu thụ khoảng 8,3 tỉ euro giá
trị hàng xuất khẩu của Việt Nam (khoảng 12,2 tỉ đô la Mỹ), vượt qua thị trường
Mỹ (11,86 tỉ đô la).
Việt Nam đặt ra mục tiêu tăng gấp đôi nguồn vốn FDI vào năm 2010.
Trong đó, Việt Nam sẽ xúc tiến đàm phán để ký kết các hiệp định bảo hộ đầu tư
với các nước thành viên EU với mục tiêu đưa vốn đầu tư FDI từ EU năm 2010
bằng 1,5 - 2 lần năm 2004.
Tính đến tháng 12/2004, các nước EU đã đầu tư vào Việt Nam với 473 dự án có
tổng số vốn là 6,9 tỷ USD, dẫn đầu danh sách các nước và vũng lãnh thổ đầu tư
vào Việt Nam.
EU đã được mở rộng lên 25 thành viên với hầu hết các quốc gia châu Âu đã củng
cố và nâng cao vị thế của EU và EU đang đặt mục tiêu bao quát toàn châu Âu
trong tương lai. Điều này mang lại nhiều thuận lợi cho Việt Nam khi có nhiều
nước thành viên EU có thiện cảm và quan hệ hữu nghị với Việt Nam. Đặc biệt, EU
luôn quan tâm và đáng giá cao sự năng động của thị trường Việt Nam và ASEAN
nói chung.
Năm 2008, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam (FDI) tiếp tục tăng
cao. Vốn FDI đăng ký trong năm 2008 (tính đến ngày 20/12/2008) đạt trên 64 tỷ
USD, mức tăng kỷ lục kể từ khi có Luật Đầu tư nước ngoài 1987 đến nay, tăng
hơn 3 lần năm 2007.
Viện trợ ODA:
Theo bản báo cáo, tổng giải ngân của các dự án và chương trình của EU tại
Việt Nam trong năm 2002 lên tới 311 triệu EUR, tăng 4% so với năm 2001 và
chiếm tới 20% tổng giải ngân ODA cho Việt Nam. Trong đó, viện trợ không hoàn
lại chiếm khoảng 78%, còn lại 22% là các khoản vay và tín dụng.
"Điều đó thể hiện rõ vai trò then chốt của EU trong hỗ trợ phát triển tại Việt
Nam và cũng chứng tỏ tính hiệu quả của việc thực hiện nguồn vốn ODA đã được
nâng cao rõ rệt".
ODA của EU chiếm 11,5% tổng vốn ODA cam kết và 9% tổng vốn giải ngân cho
Việt Nam. Trong đó, EU là nhà viện trợ không hoàn lại lớn nhất cho Việt Nam và
tốc độ giải ngân ODA ngày càng tăng.
Tài chính quóc t ế TS. Mai Thu Hiền
42
Tại Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ diễn ra hôm nay, Liên minh châu Âu
(EU) tuyên bố khoản viện trợ phát triển chính thức (ODA) dành cho Việt Nam
năm 2007 dự kiến là 720 triệu euro, tương đương 956,8 triệu USD. EU là đối tác
đầu tiên công bố cam kết ODA dành cho Việt Nam năm tới.
Cam kết về ODA của EU cho VN năm tới giảm nhẹ so với mức 799 triệu euro cho
năm 2006. Trong đó, nguồn vốn vay cam kết giảm từ mức 426 triệu euro xuống
còn 345 triệu euro cho năm 2007. Tuy nhiên, phần viện trợ lại tăng từ mức 373
triệu euro lên 375 triệu euro.
Trong số các nước EU, Pháp cam kết ODA lớn nhất với 281,10 triệu euro, trong
đó vốn vay đạt 246,50 triệu euro và viện trợ đạt 34,60 triệu euro. Kế đó là Anh với
74,85 triệu euro (toàn bộ là phần viện trợ); Đan M ạch, với 64,9 triệu euro, trong
đó viện trợ 51,5 triệu euro...
EU cam kết tiếp tục hỗ trợ ODA cho Việt Nam, đồng thời hỗ trợ về mặt kỹ thuật
nhằm thực hiện tốt việc sử dụng nguồn vốn này vì quan điểm của EU sẽ là tiếp tục
ủng hộ mạnh mẽ Việt Nam trong công cuộc xoá đói giảm nghèo, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế và đạt được chỉ tiêu quốc gia có thu nhập trung bình vào năm 2010.
5. Những hạn chế trong đầu tư và viện trợ của EU vào Việt Nam
Đầu tư trực tiếp (FDI):
Sự tăng trưởng mạnh mẽ, mang tính đột biến của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài, đặc biệt là từ EU vào Việt Nam trong năm vừa qua đã làm cho những mặt
hạn chế vốn có nhưng chưa, hoặc chậm được khắc phục của môi trường đầu tư
nước ta ngày càng bộc lộ rõ nét và trở nên gay gắt hơn.
Thứ nhất, hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư, kinh doanh vẫn còn một số
điểm thiếu đồng bộ và nhất quán giữa các luật chung và luật chuyên ngành. Vì vậy
trên thực tế vẫn tạo ra các cách hiểu khác nhau gây rất nhiều khó khăn cho việc
xem xét cấp giấy chứng nhận đầu tư cũng như hướng dẫn các doanh nghiệp xử lý
các vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai dự án (hầu hết các địa phương đều
phản ánh vấn đề này).
Thứ hai, công tác quy hoạch lãnh thổ, ngành nghề, lĩnh vực, sản phẩm còn yếu và
thiếu, đặc biệt trong bối cảnh phân cấp triệt để việc cấp phép và quản lý đầu tư về
các địa phương, dẫn đến tình trạng mất cân đối chung. Một số địa phương cấp quá
Tài chính quóc t ế TS. Mai Thu Hiền
43
nhiều giấy phép cho các dự án có cùng một loại sản phẩm mà không tính đến khả
năng thị trường, gây dư thừa, lãnh phí, hiệu quả đầu tư thấp.
Thứ ba, sự yếu kém của hệ thống cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào là nhân tố quan
trọng gây tâm lý lo ngại của các nhà đầu tư, đặc biệt là hệ thống cấp điện, nước,
đường giao thông, cảng biển phục vụ nhu cầu sản xuất và xuất nhập khẩu hàng
hóa để tránh tình trạng công trình dự án xây dựng xong không đưa vào vận hành
được do hệ thống cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào không đáp ứng yêu cầu.
Tình trạng thiếu điện dẫn tới cắt điện luân phiên, cắt điện không theo lịch
khiến cho các doanh nghiệp gặp khó khăn không nhỏ trong việc điều hành và hoàn
thành kế hoạch sản xuất.
Thứ tư, tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực đã qua đào tạo, đặc biệt là công nhân
kỹ thuật và kỹ sư ngày càng rõ rệt. Mặt hạn chế này đã tồn tại từ các giai đoạn
trước nhưng trong 3 năm trở lại đây càng trở nên bức xúc hơn trong điều kiện
nhiều dự án đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các dự án lớn đi vào triển khai thực
hiện.
Trong khi đó, chương trình đào tạo của các cơ sở giáo dục đào tạo trong nước quá
lạc hậu không đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp.
Tình trạng đình công đang diễn ra và trở thành áp lực đáng kể với các
doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động.
Thứ năm, công tác giải phóng mặt bằng là mặt hạn chế chậm được khắc phục của
môi trường đầu tư của ta. Trên thực tế, công tác quy hoạch sử dụng đất đã được
các địa phương quan tâm nhưng vẫn còn thiếu và chưa đồng bộ với quy hoạch
ngành, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương nói
chung và thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI nói riêng. Nhiều địa
phương đang lâm vào trình trạng khó khăn trong việc bố trí đủ đất cho các dự án
quy mô lớn như đã cam kết trước khi cấp Giấy chứng nhận đầu tư.
Việc đền bù thu hồi đất, tái định cư, giải phóng mặt bằng và xây dựng các công
trình hạ tầng ngoài hàng rào kết nối vào khu vực dự án đầu tư đang là khó khăn
lớn nhất đối với triển khai một số dự án FDI quy mô lớn hiện nay, đặc biệt đối với
dự án 100% vốn nước ngoài.
Theo quy định của Luật Xây dựng, chính quyền địa phương chịu trách nhiệm toàn
bộ khâu giải phóng mặt bằng và bàn giao đất sạch cho nhà đầu tư. Tuy nhiên do
Tài chính quóc t ế TS. Mai Thu Hiền
44
phải sử dụng ngân sách địa phương để đền bù thu hồi đất và thủ tục giải ngân đối
với nguồn vốn ngân sách quá phức tạp và mức đền bù theo quy định chung của
Nhà nước không đáp ứng yêu cầu của người được đền bù nên tiến độ giải phóng
mặt bằng rất chậm.
Tâm lý e ngại nhà đầu tư không triển khai dự án đúng tiến độ sẽ làm ảnh hưởng tới
hiệu quả sử dụng vốn ngân sách. Như vậy trên thực tế ngân sách nhà nước phải chi
một khoản rất lớn ngay từ lúc giải phóng mặt bằng, trong khi đó nếu thực sự dự án
có hiệu quả thì cũng phải nhiều năm sau mới có thu ngân sách. Điển hình là một
số dự án đầu tư quy mô lớn, sử dụng nhiều diện tích đất mới được cấp giấy chứng
nhận đầu tư tại một số địa phương.
Việc sử dụng đất nông nghiệp để đầu tư các khu công nghiệp, khu đô thị, sân golf
đang được dư luận gần đây quan tâm. Do các địa phương chưa có quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất nên có tình trạng cấp phép nhiều dự án sử dụng diện tích lớn
đất nông nghiệp để đầu tư khu công nghiệp, khu đô thị, sân Golf.
Thứ sáu, chủ trương phân cấp trong quản lý nhà nước đối với lĩnh vực đầu tư
nước ngoài là đúng đắn, tuy nhiên trong điều kiện hệ thống quy hoạch chưa đồng
bộ, kịp thời, năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ nhà nước trong lĩnh vực đầu tư
nước ngoài tại một số địa phương còn yếu, thiếu và chưa đồng bộ nên đã nảy sinh
vấn đề cạnh tranh thiếu lành mạnh trong việc thu hút đầu tư nước ngoài, thiếu sự
liên kết vùng, khu vực, ảnh hưởng đến cơ cấu ngành, lĩnh vực đầu tư.
Một số địa phương không thẩm tra kỹ về năng lực của các nhà đầu tư trong các dự
án có quy mô lớn, chạy đua với nhau trong việc cấp phép các dự án lớn có quy mô
hàng tỷ USD. Do vậy, khả năng triển khai các dự án này sẽ rất khó khả thi theo
đúng cam kết của nhà đầu tư.
Với chủ trương phân cấp như hiện nay, việc cung cấp thông tin đầu tư nước
ngoài kịp thời của các địa phương lên trung ương, để phục vụ công tác quản lý,
điều hành, phân tích và dự báo các biến động, các xu thế đầu tư vào Việt Nam của
Chính phủ chưa được quy định rõ ràng.
Việc thu thập thông tin về tình hình hoạt động của các doanh nghiệp FDI
hiện đang là khó khăn lớn nhất đối với các cơ quan quản lý đầu tư các cấp, kế cả
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong khi cơ sở vật chất và nhân lực phục vụ công tác
thông tin kinh tế còn thiếu và yếu so với nhu cầu.
Tài chính quóc t ế TS. Mai Thu Hiền
45
Thứ bảy, việc xử lý chất thải của các dự án đầu tư nước ngoài tập trung tại các
khu công nghiệp tập trung thuộc vùng kinh tế trọng điểm đã và đang ảnh hưởng
nhất định đến môi trường tự nhiên cũng như xã hội, trong đó đặc biệt là đối với
các dự án sản xuất quy mô lớn.
Thực tế thời gian gần đây các cơ quan chức năng đã phát hiện một số vi phạm
pháp luật bảo vệ môi trường với các hành vi cố ý rất tinh vi của một số doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đây là vấn đề cần được các cấp, các ngành đặc
biệt quan tâm ở tất cả các khâu từ thẩm tra cấp giấy chứng nhận đầu tư, đến triển
khai thực hiện dự án cũng như quá trình hoạt động của dự án đầu tư.
Cuối cùng, công tác xúc tiến đầu tư trong thời gian qua còn nhiều bất cập, thiếu
tính chuyên nghiệp, chưa thực sự hiệu quả, nội dung và hình thức chưa phong phú,
còn chồng chéo, mâu thuẫn gây lãng phí nguồn lực.
Nguyên nhân là do ta chưa có một chiến lược tổng thể về xúc tiến đầu tư, làm cho
công tác xúc tiến đầu tư thiếu một tầm nhìn dài hạn, có tính hệ thống; Trình độ cán
bộ làm công tác xúc tiến đầu tư còn hạn chế, thiếu cơ sở vật chất và điều kiện hoạt
động; Công tác quản lý nhà nước và cơ chế phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa
phương trong công tác xúc tiến đầu tư chưa thực sự hiệu quả, nhiều nội dung chưa
được xác định rõ ràng do còn thiếu một văn bản pháp luật quy định cụ thể về vấn
đề này.
Viện trợ ODA:
Hiện tại EU đang gặp một số vấn đề đáng quan ngại trong việc tăng cường tính
hiệu quả của đồng vốn ODA. Trong đó, khối EU đề cập đến khả năng xây dựng
năng lực, hệ thống quản lý của Việt Nam; việc đơn giản hoá các thủ tục, quyết
định hành chính, tăng cường năng lực cán bộ; tính minh bạch rõ ràng hơn trong
chính sách của Việt Nam, hiện tượng phân biệt đối xử giữa các công ty lớn và nhỏ
trong việc thực hiện các dự án đầu tư ở Việt Nam.
6. Đề xuất hướng giải quyết:
Hạn chế quan liêu – vấn đề tạo ra khoảng cách giữa FDI giải ngân và cam
kết tới 81%, tiếp tục quá trình tự do hóa thương mại gồm các cuộc đàm phán về
FTA với các đối tác thương mại lớn như là EU
Tài chính quóc t ế TS. Mai Thu Hiền
46
Việc tiếp tục tăng cường hệ thống bảo vệ sở hữu trí tuệ, hạ tầng cơ sở,
nguồn nhân lực cũng như cơ chế phá sản nhằm thu hút hơn nữa nguồn đầu tư có
chất lượng cao đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ.
Việc triển khai đúng thời hạn các cam kết WTO cần được lưu tâm đặc biệt,
và cụ thể là hệ thống thuế suất đối với đồ uống có cồn nên được điều chỉnh để xóa
tan nguy cơ có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào.
Theo ông Christoph Wiesner, Phó Đại sứ, Đại biện lâm thời Phái đoàn EU
tại Việt Nam cho rằng:
+ Việt Nam cần đẩy mạnh cải thiện vai trò nhà nước pháp quyền trong lĩnh vực
kinh tế, tạo khung pháp lý với môi trường đầu tư hấp dẫn và hoan nghênh Việt
Nam đang soạn thảo để có thể đưa vào áp dụng Luật Đầu tư chung và Luật Doanh
nghiệp thống nhất.
+ Việt Nam cần phải đẩy mạnh hoạt động của hệ thống tòa án thương mại,
đầu tư; tăng cường cơ chế cho sự hành nghề của các luật sư để đối phó với các vụ
án kinh tế.
+ Nhiệm vụ quan trọng trước mắt khác của Việt Nam là phải đẩy mạnh cải
cách doanh nghiệp nhà nước; đồng thời, đẩy mạnh cải cách hệ thống ngân hàng,
thị trường chứng khoán để các doanh nghiệp nước ngoài dễ dàng tiếp cận với
nguồn vốn.
Làm tốt công tác này, chắc chắn sẽ tạo luồng sinh khí mới trong việc thu
hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và tạo sân chơi bình đẳng giữa các doanh
nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước, giữa doanh nghiệp nước ngoài với
doanh nghiệp trong nước.
II. Một số đề xuất chính sách chủ yếu:
1. Đa dạng hoá nợ:
Trong thời gian qua, các biện pháp xử lý nợ của Việt Nam đối với các nước EU là
như sau:
Nhóm các khoản nợ tính bằng đồng ECU: kể từ ngày 1/1/1999, số nợ của
Việt Nam tính bằng đồng ECU sẽ tự động chuyển sang đồng Euro với tỷ lệ 1:1,
Tài chính quóc t ế TS. Mai Thu Hiền
47
việc chuyển đổi này không ảnh hưởng gì trong quản lý nợ của Việt Nam, ngoài
việc đưa vào đơn vị tiền tệ mới là đồng Euro.
Nhóm các khoản nợ tính bằng đồng tiền của các nước trong khối Euro: các
khoản nợ này được chia làm 2 nhóm. Một là, nhóm các đồng tiền mạnh như M ác
Đức, Fránc Pháp, Việt Nam đã chuyển toàn bộ số dư nợ tính bằng hai đồng tiền
này sang đồng Euro ngay từ 1999. Hai là, nhóm các đồng tiền tính bằng đồng tiền
yếu hơn như đồng Lia Italia, Peseta Bồ Đào Nha…, thì số nợ này được chuyển dần
sang đồng Euro trong năm 1999 và năm 2000.
Trong xu hướng tỷ giá biến động thất thường. Vấn đề vay nợ và trả nợ giữa Việt
Nam và các nước nói chung, đặc biệt là giữa Việt Nam và EU nói riêng, cần phải
có sự nghiên cứu và quan tâm đúng mức sao cho phù hợp với kế hoạch chuyển đổi
của từng nước. Đồng thời, cần cơ cấu lại nợ đa dạng hoá b ằng c ách vay nhi ều lo
ại ngo ại t ệ kh ác nhau nh ằm tr ánh s ự phụ thuộc vào một đồng ngoại tệ mạnh,
nhằm hạn chế những rủi ro về tỷ giá đối với nền kinh tế.
2. Đa dạng hoá dự trữ quốc gia:
Dự trữ ngoại t ệ là công cụ đắc lực cho phép Ngân hàng Nhà Nước điều tiết thị
trường ngoại hối nhằm tránh những dao động đột ngột của tỷ giá nhưng không cản
trở đến xu hướng phát triển chung của thị trường. Trong xu hướng đồng USD có
nhiều biến động tỷ giá trên thị trường thì việc đa dạng hoá quỹ dự trữ ngoại tệ sẽ
cho phép việc tránh được việc giá trị của quỹ bị giảm khi có sự thay đổi tỷ giá giữa
các đồng tiền mạnh. Vì vậy các biện pháp cần thiết phải tiến hành là:
Ngân hàng Nhà Nước phải xem xét lại cơ cấu dự trữ ngoại hối hiện tại, để
có những điều chỉnh tương ứng với mục tiêu đa dạng hoá dự trữ ngoại tệ.
Nên chuyển một phần số dự trữ hiện có sang đồng Euro và các đồng ngoại
tệ mạnh khác để giảm dần sự phụ thuộc vào đồng USD.
3. Chính sách hạn chế tình trạng đôla hoá:
Theo Quỹ tiền tệ quốc tế: Đôla hoá nền kinh tế là tình trạng phổ biến của các nước
đang phát triển và đang trong quá trình chuyển đổi, khi mà tình trạng buôn lậu
chưa kiểm soát được thường xuyên thâm hụt cán cân vãng lai, sức mua đối ngoại
cuả đồng nội tệ còn hạn chế và chưa ổn định, hệ thống ngân hàng chưa phát triển,
nghiệp vụ thanh toán qua ngân hàng còn nhiều tồn tại, nền kinh tế còn ở trình độ
thấp, người dân có thói quen nắm giữ USD và vàng, khả năng chuyển đổi của
đồng nội tệ chưa có, các quy định pháp luật chưa được thực hiện nghiêm chỉnh…
Tài chính quóc t ế TS. Mai Thu Hiền
48
Việt Nam cũng không nằm ngoài tình trạng đôla hoá như trên. Vấn đề là phải tạm
thời chấp nhận, khai thác mắt tích cực của nó, hạn chế tác động bất lợi, thu hút
nguồn kiều hối và thu hút vốn đầu tư nước ngoài đưa về nước; thu hút nguồn
ngoại tệ trong xã hội vào hệ thống ngân hàng, tạm thời chấp nhận tình trạng đôla
hoá tài sản có trong ngân hàng, hơn là đôla hoá trong xã hội. Các giải pháp dự kiến
trong thời gian tới cần thực hiện như sau:
Kiểm soát chặt chẽ tình trạng buôn lậu, thu hẹp phạm vi và đối tượng bán
hàng và dịch vụ ở trong nước được phép thu bằng ngoại tệ, mà chỉ thu bằng nội tệ.
Nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, cũng
như linh hoạt hơn khi Bộ Tài chính mở rộng việc bán ngoại tệ cho các ngân hàng
thương mại đáp ứng nhu cầu chiến lược của nền kinh tế.
NHNN tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, giảm sự can thiệp sâu vào
hoạt động ngoại hối của các ngân hàng thương mại; rà soát các văn bản pháp quy
về quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá, bãi bỏ những quy định không phù hợp
hay chồng chéo.
4. Cải tổ hệ thống ngân hàng
Trước sự ra đời của đồng Euro, hệ thống ngân hàng Việt Nam cần phải có sự
chuẩn bị và cải tổ để có thể thích ứng nhanh với những diễn biến của đồng tiền
Euro trên thị trường thế giới. Cụ thể là:
Một là, cũng như ngân hàng trung ương của các nước châu Á khác, ngân hàng
Việt Nam cần chuẩn bị sẵn sàng trước tác động của đồng Euro đối với dự trữ
ngoại tệ, tỷ giá hối đoái và chính sách lãi suất trong điều hành chính sách tiền tệ
quốc gia. Xu thế giảm lãi suất chung trên toàn thế giới, đặc biệt là Mỹ và EU đã
tạo thuận lợi cho các nước châu Á ổn định tỷ giá, hạ lãi suất, làm yên lòng các nhà
đầu tư. Vì vậy, khi nền kinh tế Việt Nam đã có sự cải thiện đáng kể trong một vài
năm gần đây, ngân hàng nhà nước nên điều chỉnh hạ bớt trần lãi suất cho vay
VND để tăng khả năng cạnh tranh và tạo đà tăng trưởng mới cho nền kinh tế.
Hai là, các NHTM nên xem xét tập trung các tài khoản bằng các loại ngoại tệ của
thành viên EM U để đổi sang đồng Euro và quyết định mởi tài khoản bằng đồng
Euro tại một số ngân hàng lựa chọn.
Ba là, ngân hàng thương mại Việt Nam cũng cần bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ
cho nhân viên về đồng Euro bằng cách tổ chức các hội thảo hay nhờ hướng dẫn
nghiệp vụ của các chuyên gia từ châu Âu.
Tài chính quóc t ế TS. Mai Thu Hiền
49
5. Tăng cường sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu:
Cho đến nay thị trường EU vẫn là thị trường trọng điểm trong quan hệ thương mại
của Việt Nam và có xu hướng sẽ được mở rộng trong những năm tới nhằm đẩy
nhanh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam phục vụ cho sự phát triển kinh tế. Vì vậy,
cần phải có những biện pháp tích cực, hơn nữa dể tăng khả năng cạnh tranh của
hàng hoá Việt Nam trên thị trường EU sau khi đồng Euro đã đủ sức mạnh của nó
trên thị trường thế giới. Cụ thể là:
Thứ nhất, Chính phủ nên tăng cường đàm phán cấp nhà nước với các nước EU để
ký kết các hợp đồng về việc cho vay vốn hỗ trợ doanh nghiệp tham gia xuất khẩu
trên thị trường EU.
Thứ hai, Nhà nước cần hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu, đặc biệt là các
doanh nghiệp tham gia xuất khẩu vào EU. Chẳng hạn như tổ chức các cuộc hội
thảo mang tính quốc gia để giúp cho doanh nghiệp quen dần với hệ thống tiền tệ
mới, giúp các doanh nghiệp có được những thông tin về thị trường tiền tệ châu Âu,
vấn đề chuyển đổi đồng Euro như thế nào, tỷ giá so với các đồng tiền khác được
công bố ra sao.
Thứ ba, để cho các doanh nghiệp có thể tham gia các hoạt động đầu tư, thương
mại với các quốc gia EU, Nhà nước cần giúp các doanh nghiệp có sự tiếp xúc với
đồng Euro, hướng các doanh nghiệp mở các tài khoản bằng đồng Euro để kịp thời
thanh toán khi dao dịch thương mại diễn ra.
Thứ tư, khi đồng Euro ra đời, cũng có nghĩa là Việt Nam cần đổi mới công nghệ
chế biến hàng xuất khẩu hơn nữa để nâng cao chất lượng sản phẩm, cải thiện mẫu
mã, giá cả, từ đó tăng sức cạnh tranh của sản phẩm khi sản xuất sang thị trường
EU.
Thứ năm, nên mở rộng thị phần trên các thị trường quen thuộc, khai thác thêm các
thị trường mới trong khu vực sử dụng đồng EU.
6. Cải thiện môi trường đầu tư:
Nguồn vốn đầu tư là cực kỳ quan trọng cho việc phát triển kinh tế, trong thời kỳ
đất nước ta còn đang trong tình trạng đang phát triển. Do vậy, chính phủ cần tăng
cường các biện pháp cải thiện môi trường đầu tư nhằm kịp thời xử lý các khó khăn
vướng mắc trong hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để
Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn các nhà đầu tư trên thế giới. Cụ thể là:
Tài chính quóc t ế TS. Mai Thu Hiền
50
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài theo hướng
tạo sự hấp dẫn, thông thoáng, rõ ràng và ổn định.
Thứ hai, xây dựng hệ thống cơ chế chính sách cụ thể để cải thiện môi trường kinh
doanh mang tính cạnh tranh cao so với các nước trong khu vực, nhất là đối với các
lĩnh vực địa bàn và các dự án ưu tiên khuyến khích đầu tư.
Thứ ba, để đa dạng hoá các hình thức đầu tư nước ngoài, chính phủ nên chỉ đạo
việc thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ tư, đơn giản hoá thủ tục hành chính ở mọi khâu, mọi cấp, công khai các quy
trìnhvà thời hạn trách nhiệm xử lý các thủ tục nhằm tiết kiệm thời gian, chi phí
kinh doanh và tạo niềm tin cho các nhà đầu tư.
Thứ năm, nâng cao năng lực quản lý và sự phối hợp của các cơ quan nhà nước đối
với đầu tư nước ngoài, mở rộng thẩm quyền và trách nhiệm của các địa phương
nhằm giải quyết kịp thời các vướng mắc hỗ trọ tốt nhất cho các nhà đầu tư.
Thứ sáu, đầu tư cải thiện điều kiện hạ tầng cơ sở như cung cấp điện nước, thông
tin cũng như nâng cao chất lượng dịch vụ để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động
kinh doanh.
Tài chính quóc t ế TS. Mai Thu Hiền
51
KẾT LUẬN
Đồng EURO đánh giá một bước phát triển mới của liên minh Châu Âu và
hoạt động liên kết kinh tế quốc tế nói chung. Có thể nói đây là chương
trình thử nghiệm của việc lưu hành đồng tiền chung trong khối, vấn đề
đặt ra và hướng tới cho các khu vực kinh tế.
Sau hơn 2 năm ra đời, đồng EURO liên tục giảm giá, tình hình sử dụng
không mấy khả quan. Diễn biến đó đã ảnh hưởng nhỏ đến các hoạt động
kinh tế trong và ngoài EU.
Sự mất giá của đồng EU do nhiều nguyên nhân, song điều quan trọng là
các nguyên nhân này không thuộc cấu trúc của dự án đồng tiền chung hay
nói cách khác dự án đồng tiền chung Châu Âu là thiết thực và khả thi.
Những khó khăn đồng EURO gặp phải chỉ là nhất thời do yếu tố khách
quan. Vì vây, thực trạng diễn biến đó không ảnh hưởng hay nói lên điều
gì về tương lai của nó. Mà tương lai của đồng tiền chung Châu Âu được
khẳng định bởi chính nội lực của EU và quyết tâm của các nước thành
viên.
Tương lai của EU đầy lạc quan sẽ là nhân tố tích cực của EU trở thành
một sức mạnh mới, sức mạnh tổng hợp từ sự thống nhất tiền tệ tạo điều
kiện cho Châu Âu phát triển hợp tác và cạnh tranh hiệu quả hơn vơí các
nền kinh tế quốc gia đặc biệt là các ku vực kinh tế. Bên cạnh đó sự ra đời
của đồng EURO cũng đã tạo ra những thác thức cho EU và các nước bên
ngoài trong đó có Việt Nam.
Vì vậy cần phải có sự quan tâm nghiên cứu của các nước trong và ngoài
EU kể cả Việt Nam để thấy được triển vọng chung của đồng EURO và xu
hướng tác động của nó đến nền kinh tế trong và ngoài EU. Tuỳ thuộc vào
quan hệ với các nước EU mà xu hướng tác động có sự khác nhau. Từ đó
có cách tiếp cận khác nhau và đưa ra các giải pháp phù hợp nhất để tận
dụng tốt nhất các cơ hội và hạn chế tối thiểu của nó tới nền kinh tế nước
mình.
Tài chính quóc t ế TS. Mai Thu Hiền
52
Riêng đối với EU còn nghiên cứu không những để đưa ra giải pháp cho
nền kinh tế của mình mà còn phải đưa ra các giải pháp để nuôi sống dự án
đồng tiền chung, ước muốn đã được thai nền từ nhiều thập kỷ qua.
Đối với Việt Nam có nhiều quan hệ với EU, cần phải nghiên cứu và
chuẩn bị trước cho vấn đề đồng EU. Sự ra đời đồng EURO là một cơ hội
cho Việt Nam tăng cường, mở rộng hoạt động kinh tế quốc tế, phát triển
nền kinh tế mở theo hướng đa dạng hoá đa phương hoá các quan hệ kinh
tế, bước kịp vào thời đại khu vực hoá toàn cầu hoá, tham gia hoạt động
kinh tế quốc tế hiệu quả hơn.
Tài chính quóc t ế TS. Mai Thu Hiền
53
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Mai Thu Hiền (2013), ĐH Ngoại Thương, Bài giảng môn Tài chính quốc
tế.
2. GS.TS Nguyễn Văn Tiến (2008), Giáo trình Tài chính quốc tế, NXB Thống
kê.
3. Congress research service (2012). “The Future of the Eurozone and U.S.
Interests”. January, 2012.
4. ECB (2011). “The international role of the euro”. July, 2011.
5. IM F (2012). Statistics Department COFER Database, updated 30 March
2012.
6. IM F (2012). World Economic Outlook. April 17, 2012.
7. ên_minh_châu_Âu
8.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhom_10_tcqt_9156.pdf