Phân tích thực trạng và giải pháp phát triển ngành thép

Danh mục bảng biểu Trang Hình 1: Công suất sản xuất thép dài và thép dẹt 4 Hình 2: Thị Phần tiêu thụ của các nhà cung cấp 4 Hình 3: Cơ cấu sản xuất và tiêu thụ thép của các thành viên trong Hiệp hội thép giai đoạn 2004 – 2007 13 Bảng 1: Các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu trong giai đoạn từ 2001 đến 2020 14 Bảng 2: Dự báo nhu cầu thép của Việt Nam đến năm 2025 14 Bảng 3: Mục tiêu sản lượng của ngành thép giai đoạn 20010 – 2025 14 Bảng 4: So sánh cạnh tranh các hệ thống phân phối thép 16 Bảng 5: Mục tiêu và biện pháp xây dựng năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp thép 25 Danh mục tài liệu tham khảo 1. http://www.tienphong.vn/ Bài viết: “Vỡ” quy hoạch ngành thép. 2. http://tinkinhte.com/ Bài viết: Cần cơ cấu lại ngành thép. 3. http://tailieu.vn/ Bài viết: Ngành thép Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. 4. http://ncseif.gov.vn/ Bài viết: Về giải pháp phát triển công nghiệp thép Việt Nam trước sức ép hội nhập kinh tế quốc tế. 5. http://ngoaithuong.vn/ Bài viết: Định hướng phát triển ngành thép đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2025. 6. http://meslab.Org.vn/ Bài viết: Quy hoạch phát triển ngành thép Việt Nam giai đoạn 2007-2015. 7. Chính sách công nghiệp và thương mại của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập – Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản - Đại học kinh tế quốc dân. NXB Thanh Hoá. Giải nghĩa các từ viết tắt: 1. CNH-HĐH: công nghiệp hoá - hiện đại hoá. 2. XHCN: xã hội chủ nghĩa. 3. VNS: công ty cổ phần chứng khoán VNS – VietNam Solution. 4. Các nước SEV: Hội đồng tương trợ kinh tế thế giới. 5. NEU-JICA: Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản - Đại học kinh tế quốc dân. 6. VSC: VietNam Steel Corporation - Tổng công ty thép Việt Nam. 7. Các nước SNG: Cộng đồng các quốc gia độc lập. 8. E.U: Eropean Union – Liên minh châu Âu. 9. TNHH: trách nhiệm hữu hạn. 10. WTO: World Trade Oganization - Hội chợ thương mại quốc tế.

doc30 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 6625 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phân tích thực trạng và giải pháp phát triển ngành thép, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xuất thép trong cả nước. Đây là thời kỳ phát triển sôi động, nhiều dự án đầu tư chiều sâu và liên doanh với nước ngoài được thực hiện. Các ngành và các thành phần kinh tế khác đua nhau làm thép mini. Sản lượng thép cán năm 1995 đã tăng gấp 4 lần so với năm 1990, đạt 450.000 T/n và bằng mức Liên Xô cung cấp cho ta hàng năm trước 1990. Tháng 4/1995, Tổng công ty thép Việt Nam theo mô hình Tổng công ty 91 được thành lập trên cơ sở hợp nhất Tổng công ty thép Việt Nam thuộc Bộ Công nghiệp và Tổng công ty kim khí thuộc Bộ thương mại. Thời kỳ 1996-2003 ngành thép vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng khá cao, tiếp tục được đầu tư mới và đầu tư chiều sâu, đã xây dựng và đưa vào hoạt động nhiều dự án liên doanh. Sản lượng thép cả nước trong năm 2002 đã đạt 2,38 triệu tấn. Đây là thời kỳ có tốc độ tăng sản lượng mạnh nhất. Giai đoạn 2003-2005, nhiều doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài được thành lập, ngành thép Việt Nam thực sự phát triển mạnh mẽ với tổng công suất lên tới trên 6 triệu T/n. 2. Cơ cấu ngành. Theo sản phẩm: Về cơ bản, sản phẩm thép gồm 2 loại là thép dài và thép dẹt. Hiện nay Việt Nam đang mất cân đối trong sản xuất 2 loại thép trên. Thép dài là các loại thép dùng trong ngành xây dựng như thép thanh, thép cuộn. Hầu hết các nhà máy cán thép ở Việt Nam chỉ sản xuất các loại thép dài, các sản phẩm thông thường như thép thanh tròn trơn, thép vằn D10-D41 ,thép cuộn f6-f10 và một số loại thép hình cỡ vừa và nhỏ phục vụ cho xây dựng và gia công. Các loại thép dài cỡ lớn (lớn hơn D41) phục vụ cho xây dựng các công trình lớn hiện vẫn chưa tự sản xuất được mà phải nhập khẩu từ nước ngoài. Công suất cán thép dài của Việt Nam hiện nay lên trên 6 triệu tấn, nghĩa là gần gấp đôi nhu cầu. Thép dẹt sử dụng trong công nghiệp như đóng tàu, sản xuất ô tô, sản xuất các loại máy móc thiết bị. Từ năm 2006 trở về trước nước ta không có doanh nghiệp nào sản xuất thép dẹt. Năm 2007 có 4 doanh nghiệp sản xuất thép tấm đi vào hoạt động là Nhà máy thép tấm Phú Mỹ (thép cán nguội) có công suất 0,25 triệu tấn, công ty Sunsco (thép cán nguội) với công suất 0,2 triệu tấn, công ty Tôn Hoa Sen công suất 0,18 triệu tấn và thép tấm cán nóng Cửu Long – Vinashin với công suất 0,5 triệu tấn (tuy nhiên theo thông tin từ phía công ty thì do mới đi vào hoạt động và chưa có nhiều nguồn tiêu thụ nên hiện nay hoạt động sản xuất của công ty chưa liên tục). Như vậy công suất cán thép tấm của cả nước đến nay mới là 1,1 triệu tấn. Trong khi đó nhu cầu hiện nay khoảng 4-5 triệu tấn, nếu hoạt động hết công suất thì nước ta vẫn phải nhập khẩu khoảng 80% thép dẹt. Ngành thép Việt Nam hiện nay mới chỉ tập trung sản xuất các sản phẩm thép dài do đầu tư vào sản phẩm này cần ít vốn, thời gian xây dựng nhà máy ngắn, hiệu quả tương đối cao. Đối với sản phẩm thép dẹt, để đảm bảo hiệu quả thì yêu cầu công suất nhà máy phải lớn, cần vốn đầu tư lớn, nhưng thời gian thu hồi vốn lâu, các doanh nghiệp trong nước không đủ vốn đầu tư nên đến nay chưa phát triển. Tuy nhiên hiện có nhiều tập đoàn lớn đang đầu tư vào xây dựng các nhà máy thép quy mô lớn hoặc khu liên hiệp và tập trung nhiều vào sản phẩm thép dẹt, nên trong tương lai cơ cấu sản xuất thép dài và thép dẹt tại Việt Nam sẽ không mất cân đối như hiện nay. Hình 1: Công suất sản xuất thép dài và thép dẹt (đơn vị: tấn/năm) (Nguồn: Hiệp hội thép, Vinanet.com.vn, vnexpress.net, HBBS tổng hợp) Theo tiêu thụ: Tại các nước công nghiệp phát triển cơ cấu tiêu thụ là khoảng 55% là thép dẹt và 45% là thép dài. Tuy nhiên ở Việt Nam do nhu cầu xây dựng cơ bản lớn nên tỷ lệ trên là khoảng 50% thép dẹt và 50% thép dài. Theo chiến lược quy hoạch ngành thép 2007- 2015 có định hướng tới 2025 thì năm 2025 cơ cấu tiêu thụ thép dài và thép dẹt của Việt Nam sẽ tương tự như các nước phát triển hiện nay. Theo nhà cung cấp: Thị trường chia làm 3 nhóm nhà cung cấp sản phẩm thép trên thị trường bao gồm: Các thành viên của Tổng công ty thép (VNS); các doanh nghiệp liên doanh với VNS3; và các doanh nghiệp ngoài VNS. Trong đó các doanh bên ngoài VNS có thị phần lớn nhất. Có nhiều doanh nghiệp ngoài VNS hoạt động rất tốt như Pomina, Hoà Phát, Việt Ý và Việt Úc. Theo số liệu tổng hợp tiêu thụ thép 8 tháng đầu năm, 4 doanh nghiệp này chiếm tới 33% thị phần tiêu thụ thép xây dựng cả nước, gần bằng thị phần của các thành viên trong tổng công ty thép (33,9%). Hình 2: Thị Phần tiêu thụ của các nhà cung cấp (Nguồn: Bản tin ngành thép tháng 8/2009) 3. Tình hình sản xuất của ngành thép. Ngành thép được đầu tư xây dựng cơ sở đầu tiên từ năm 1959. Nhưng do nhiều khó khăn nên gần đây mới được quan tâm đầu tư. Thời kỳ trước do cơ chế bao cấp và được sự giúp đỡ của Liên Xô và các nước XHCN, thép chỉ được sản xuất cầm chừng còn lại được nhập khẩu với giá ưu đãi. Trong một thời gian dài hầu như không được đầu tư nâng cấp và đầu tư mới nên trình độ hết sức lạc hậu. Từ khi Liên Xô và các nước SEV4 tan rã khó khăn diễn ra trong cả nước trong đó có ngành thép. Phải đến những năm 90 sau khi có chủ trương đổi mới kinh tế đất nước ngành thép mới được quan tâm. Năm 1995, Tổng công ty thép được thành lập, mặc dù đã cố gắng đầu tư nhiều hạng mục công trình mới, nâng cấp nhiều thiết bị cũ song cho đến nay các nhà máy vẫn còn trong tình trạng lạc hậu nhỏ bé phân tán, mới được coi là đang trong giai đoạn đầu phát triển (trong khi các nước trong khu vực đã phát triển nước ta khoảng 10 năm nhưng có công suất lớn, và cơ cấu sản phẩm đầy đủ). 3.1 Trình độ công nghệ máy móc thiết bị. Nhìn chung công nghệ sản xuất toàn ngành thép vẫn dưới mức trung bình của các nước trên thế giới. Nếu phân loại theo trình độ thiết bị và công nghệ thì những năng lực sản xuất thép chủ yếu của Việt Nam có thể được phân thành 4 nhóm như sau: (1) Nhóm tương đối hiện đại với dây chuyền cán liên tục ở Vinakyoei, VPS và một số dây chuyền cán thép khác được xây dựng sau năm 2000. (2) Nhóm trung bình gồm các dây chuyền cán bán liên tục ở Vinausteel, Natsteelvina, Tây Đô, Nhà Bè, Biên Hoà, Thủ Đức (SSC), Gia Sàng, Lưu Xá (TISCO), Vinatafong, Nam Đô, Công ty cổ phần thép Hải Phòng. (3) Nhóm lạc hậu gồm các dây chuyền cán thủ công mini ở Nhà máy thép Nhà Bè, Thủ Đức, Tân Thuận, Đà Nẵng, thép Miền Trung. (4) Nhóm rất lạc hậu gồm các dây chuyền cán mini có công suất nhỏ (nhỏ hơn 20 ngàn tấn/năm) ở các hộ gia đình và làng nghề. Kết quả điều tra của NEU-JICA5 cho thấy công nghệ lạc hậu chiếm đến 75% số trang thiết bị của ngành công nghiệp thép Việt Nam, tập trung ở các nhà máy đã tồn tại lâu năm cả ở miền Bắc và miền Nam. Theo đánh giá của một chuyên gia thuộc VSC6 thì công nghệ lạc hậu chiếm khoảng 63% năng lực sản xuất thép ở Việt Nam. Công nghệ tiên tiến chỉ chiếm khoảng 15% năng lực sản xuất, công nghệ trung bình chiếm khoảng 10% năng lực sản xuất. Về nguồn gốc công nghệ, có hơn 33% các cơ sở sản xuất sử dụng công nghệ từ Trung Quốc và 20% có nguồn gốc từ Nga và các nước SNG6 có mức độ lạc hậu khoảng 3 đến 4 thế hệ. Các công nghệ này chủ yếu được phân bố ở miền Bắc. Công nghệ và thiết bị của các nước thuộc E.U7 được đưa vào các cơ sở sản xuất ở miền Nam trước năm 1975 cũng rất lạc hậu. Một số công nghệ và thiết bị tiên tiến và trung bình được đưa vào thông qua con đường liên doanh chủ yếu chỉ tập trung ở khâu hạ nguồn của ngành thép. Trong khi đó bức tranh ngành công nghiệp thép thế giới cho thấy công nghệ sản xuất thép là yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh của ngành thép. Lấy ví dụ trường hợp Nhật Bản là quốc gia tương đối khan hiếm tài nguyên nhưng lại có ngành thép phát triển với sức cạnh tranh cao. Ở công đoạn luyện thép, các cơ sở sản xuất thép ở Việt Nam có thời gian nấu cao gấp 3,6 lần; tiêu hao thép phế gấp 1,13 lần; tiêu hao điện cao gấp hơn 2,5 lần; tiêu hao dầu gấp 2,6 lần; tiêu hao điện cực gấp 4 lần so mức phổ biến trên thế giới. Công đoạn cán thép tuy hiện đại hơn so với công đoạn luyện thép nhưng nhìn chung công nghệ cán thép ở Việt Nam cũng khá lạc hậu, các nhà máy cán thép nội địa có tốc độ cán chỉ bằng 12,73% tốc độ cán phổ biến trên thế giới, nhưng mức tiêu hao dầu FO, tiêu hao điện và tiêu hao phôi đều cao hơn so với mức trung bình của thế giới. Năng suất lao động thấp một mặt phản ánh công nghệ lac hậu mặt khác thể hiện trình độ lao động của ngành thép còn hạn chế, đặc biệt là đội ngũ lao động có khả năng làm chủ công nghệ. Xét về mức độ lành nghề, lực lượng thợ lành nghề ở Việt Nam không lớn, hơn nữa thợ lành nghề khó có thể thực sự lành nghề với những công nghệ lạc hậu. Rất ít người trong số họ có điều kiện tiếp cận được với những công nghệ sản xuất thép tiên tiến. Theo đánh giá của các nhà quản lý ở các công ty thép thì nhân lực là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh. Yêu cầu của ngành thép hiện nay không chỉ đòi hỏi có kinh nghiệm mà còn phải có kiến thức. Xét về mặt kiến thức chuyên môn của lực lượng lao động trong ngành thép còn khá thấp. Đây là một trong những cản trở không nhỏ đối với quá trình đổi mới công nghệ và nâng cao khả năng cạnh tranh. Tỷ trọng cán bộ chuyên môn có trình độ cao còn khá khiêm tốn, ít có được những sáng kiến mang tính chất nhảy vọt mà chủ yếu mang tính chất tác nghiệp. Lực lượng nghiên cứu trong lĩnh vực thép còn mỏng. Qua cuộc tiếp xúc của một số cán bộ quản lý ngành thép cho thấy tư tưởng sản xuất nhỏ vẫn phổ biến trong cách thức quản lý và tổ chức hoạt động kinh doanh ở một số công ty. Các phương pháp quản lý chưa khuyến khích được sự nhiệt tình và sáng tạo của nhân viên vào hoạt động chung của công ty, đặc biệt là ở một số công ty nhà nước. Do tình trạng công nghệ và thiết bị lạc hậu, năng suất lao động thấp nên ngành công nghiệp thép Việt Nam hiện nay chỉ sản xuất được các loại thép cacbon thông thường. Một số thép loại thép đặc biệt cũng đã được sản xuất nhưng chưa thể đánh giá đạt tiêu chuẩn chất lượng. Thép sản xuất trong nước hiện nay chủ yếu cung ứng cho nhu cầu sử dụng thép trong ngành xây dựng. Bên cạnh đó, công nghệ lạc hậu còn dẫn đến chi phí vật chất để cán một tấn thép (không kể phôi thép) ở các công ty Việt Nam cao hơn mức trung bình thế giới từ 4 đến 12 USD. Do trình độ công nghệ không cao nên chưa sản xuất được các sản phẩm có chất lượng cao như thép dẹt và thép chất lượng cao. Ở nước ta hiện nay hầu hết các nhà máy sản xuất thép chỉ thực hiên công đoạn cuối cùng là cán thép. Chỉ có một số ít các doanh nghiệp có lợi thế về địa lý như Thái Nguyên mới tự khai thác quặng và sản xuất thép theo công nghệ lò cao. Một số doanh nghiệp thành lập các năm gần đây như Hoà Phát, Pomina, Việt Ý… Nhập khẩu thép phế và sử dụng lò điện hồ quang để sản xuất phôi và thép. Còn lại hầu hết các các doanh nghiệp thép hiện nay chỉ đơn thuần là mua phôi về cán ra thép nên giá trị gia tăng không cao. Chất lưọng thép xây dựng của Việt Nam tương tự như các nước trong khu vực, nhưng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành không cao. Trong khi Trung Quốc đã cấm các nhà máy có lò cao dưới 1000 m3 thì lò cao nhất ở Việt Nam mới chỉ 500 m3 như thép Thái Nguyên. Mặc dù vậy, ở Việt Nam do trình độ kỹ thuật và nguồn vốn còn hạn chế nên các lò có công suất nhỏ so với thế giới vẫn được sử dụng và các doanh nghiệp trong nước hiện nay đang ưa chuộng loại nhà máy có công suất nhỏ này. Tính toán đơn giản, công suất 6 triệu tấn với 60 nhà máy sản xuất thép, công suất trung bình của Việt Nam chỉ là 0,1 triệu tấn/nhà máy. So với Trung Quốc có 264 nhà máy sản xuất thép, tổng công suất đạt 419 triệu tấn, như vậy bình quân một nhà máy có công suất 1,58 triệu tấn thì có thể thấy các nhà máy thép của nước ta có quy mô quá nhỏ. Quy mô nhà máy nhỏ sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc giảm giá thành nhờ quy mô. 3.2 Quy mô sản xuất. Trước năm 1990, Nhà nước độc quyền sản xuất và buôn bán thép, trong bối cảnh đó ngành thép phát triển rất chậm. Sau 1990, với chính sách đổi mới ở Việt Nam, ngành thép đã có nhiều điều kiện thuận lợi hơn để phát triển. Đặc biệt từ sau năm 1995, ngành thép với nòng cốt là Tổng công ty thép Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ cả về quy mô, thành phần và chất lượng. Nhiều cơ sở sản xuất thép đã được cải tạo lại hoặc xây dựng mới dưới hình thức sở hữu khác nhau. Cả nước có hơn 280 công ty, nhà máy, các cơ sở sản xuất thủ công tham gia sản xuất thép (chủ yếu là cán thép). Tổng công suất thiết kế của tất cả các cơ sở này ước tính khoảng 4000 ngàn tấn thép cán/năm. Như vậy bình quân công suất thiết kế của một cơ sở sản xuất thép chỉ khoảng 15 ngàn tấn/năm. Nếu tính riêng cho 43 cơ sở lớn nhất hiện nay với tổng công suất 3666 ngàn tấn/năm thì bình quân công suất của một cơ sở sản xuất là 85 ngàn tấn/năm. Hầu hết các cơ sở sản xuất thuộc VSC đều được phat triển dựa trên cơ sở sản xuất đã có từ trước phân bổ từ Bắc đến Nam mà không dựa trên quy hoạch tổng thể theo yêu cầu của công nghệ sản xuất thép. Hệ thống sản xuất của VSC bao gồm những năng lực sản xuất cụ thể như sau: - 3 lò cao nhỏ 100 m3/lò (đã thanh lý 1 lò, phá dỡ 1 lò để cải tạo, đang vận hành 1 lò). - 12 lò điện hồ quang AC cỡ nhỏ từ 1,5 tấn/mẻ đến 30 tấn/mẻ, do Việt Nam tự chế tạo và nhập khẩu từ Trung Quốc. - 4 máy đúc liên tục phôi vuông, tổng cộng 10 dòng đúc, công suất 330.000 tấn/năm. - 5 máy cán bán liên tục sản xuất thép tròn và hình nhỏ, thiết bị của Đài Loan, Trung Quốc, Ấn Độ, Italia, tổng công suất khoảng 260.000 tấn/năm; ngoài ra còn 5 máy cán mini tự trang bị, tổng công suất khoảng 250.000 tấn/năm. VSC hiện nay đang có 5 liên doanh cán thép xây dựng, trong đó có 2 máy cán liên tục và 3 máy cán bán liên tục. Tổng công suất cán thép của 5 liên doanh là 901.000 tấn/năm. Phần lớn các liên doanh cán thép được xây dựng ở các khu vực giao thông thuận lợi cho việc nhập khẩu nguyên liệu hoặc gần nguồn khí đốt và thị trường tiêu thụ. Tuy nhiên nếu xét về lâu dài, khi có các nguyên liệu trong nước được khai thác thì những nhà máy này sẽ gặp những bất lợi nhất định về địa điểm. Hầu hết các cơ sở cán thép trong hệ thống các công ty TNHH9, công ty cổ phần và công ty 100% vốn nước ngoài được đầu tư xây dựng sau năm 2000. Hiện tại hệ thống này có 7 cơ sở sản xuất cán thép, tổng công suất ước khoảng 1680 ngàn tấn/năm. Trừ nhà máy cán thép Sông Đà có công suất 250.000 tấn/năm, các cơ sở sản xuất thép còn lại của hệ thống các cơ sở sản xuất thép quốc doanh khác và quốc phòng đều có quy mô nhỏ. Công suất của các cơ sở sản xuất trong hệ thống này biến động trong khoảng từ 10 ngàn đến 30 ngàn tấn/năm. Tổng công suất của hệ thống này ước tính khoảng 350 ngàn tấn thép cán/năm, song sản lượng sản xuất không ổn định, phụ thuộc vào sự biến động của thị trường. Có khoảng 250 cơ sở sản xuất nhỏ tư nhân đang sử dụng các lò luyện thép và cán thép rất nhỏ, kiểu mini, thủ công, có công suất bình quân trên dưới 1 ngàn tấn/năm/1 cơ sở. Các cơ sở này nằm rải rác ở nhiều tỉnh và thành phố từ Bắc đến Nam. Tổng năng lực sản xuất của khu vực này ước tính khoảng 250 đến 300 ngàn tấn/năm. Những số liệu được trình bày ở trên cho thấy, sản xuất phân tán, thiếu quy hoạch với quy mô nhỏ là đặc điểm đáng chú ý của ngành sản xuất thép ở Việt Nam. Nhiều chuyên gia về thép trong nước và quốc tế cho rằng, những đặc điểm này đã ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả sản xuất thép ở Việt Nam trong thời gian qua. 3.3 Phân bố và tổ chức sản xuất. Sản xuất bởi 3 khối doanh nghiệp: Các doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc VSC, các liên doanh với nước ngoài của VSC hoặc doanh nghiệp thành viên, các doanh nghiệp trong nước không nằm trong VSC. Sự phát triển của ngành đang bị coi là ngược quy luật, công nghiệp cán có trước công nghiệp luyện.Các doanh nghiệp chủ yếu mới chỉ sản xuất thép xây dựng, năng lực sản xuất phôi còn yếu, bỏ trống một khoảng lớn các sản phẩm “đặc chủng” khác. Do mất cân đối trong cơ cấu, nên ngành thép gặp nhiều khó khăn trong điều tiết thị trường. Việc phân bố và tổ chức sản xuất ở trong tình trạng manh mún, rời rạc. Hầu hết các cơ sở sản xuất đều dựa trên cơ sở vốn có từ trước mà không được nghiên cứu quy hoạch tổng thể theo yêu cầu của công nghệ ngành thép đó là các khâu phải được nối kết liên tục và thuận lợi về giao thông vận tải. Các cơ sở sản xuất của Tổng công ty thép Việt Nam trải dài từ Bắc vào Nam trên cơ sở của các cơ sở cũ. Các nhà máy cán thép liên doanh thì được phân bổ hợp lý trên cơ sở nguồn nguyên liệu và yếu tố đầu vào cho khâu cán và tiêu thụ thành phẩm. Chẳng hạn ba liên doanh cán thép lớn nhất của Việt Nam đều đặt địa điểm sản xuất tại Bà Rịa – Vũng Tàu và Hải Phòng đều gần nguồn nguyên liệu nhập khẩu và gần nguồn khí đốt nhưng nếu xét về lâu dài khi có nguồn nguyên liệu trong nước thì địa điểm này bộc lộ hạn chế. Đối với khu vực công nghiệp thép địa phương và ngoài quốc doanh thì phân bổ hết sức tuỳ tiện. Việc phân bổ hết sức tuỳ tiện các cơ sở sản xuất ngành thép đã vi phạm nguyên tắc kỹ thuật tổng thể của sản xuất thép. Để nâng cao hiệu quả của ngành sản xuất thép, các cơ sở sản xuất thuộc các khâu khác nhau cần bố trí trên cùng một địa điểm, các khâu sản xuất phải kế tục liên tiếp để tạo ra sản phẩm cuối cùng. Sẽ là không hiệu quả và thiếu tính cạnh tranh nếu sản xuất thép tấm ở các cơ sở phía Bắc, làm nguội cà cứng lại, vận chuyển hàng nghìn km tới các cơ sở cán nóng ở phía Nam. Sau cuộc rà soát quy hoạch ngành thép, mới đây Bộ Công Thương đã xác định 32 dự án nằm ngoài quy hoạch và kiến nghị Chính phủ tạm dừng cấp giấy phép. Như vậy, từ năm 2007 đến nay, số lượng dự án ngoài danh mục quy hoạch lớn hơn cả số lượng dự án trong quy hoạch. Từ năm 2005 trở lại đây, giá thép trong nước và quốc tế ngày càng tăng làm cho các dự án sản xuất thép thỏi trở nên hấp dẫn hơn, nên các doanh nghiệp bắt đầu đầu tư rất nhiều, kể cả trong nước và nước ngoài… Đó là những lý do khiến chiến lược quy hoạch ngành thép bị vỡ. 3.4 Đầu tư sản xuất phôi và cán thép. Cơ cấu sản xuất mất cân đối giữa các công đoạn thượng nguồn và hạ nguồn. Quá trình sản xuất thép trải qua sáu công đoạn cơ bản từ thượng nguồn đến hạ nguồn là: thiêu kết, luyện cốc, luyện gang, luyện thép và cán thép. Nếu xét cơ cấu năng lực sản xuất thép thep các công đoạn này thì hoạt động sản xuất thép ở Việt Nam có thiên hướng tập trung nhiều hơn cho các công đoạn hạ nguồn. Năng lực cán thép đạt mức khoảng 4000 ngàn tấn/năm. Năng lực luyện thép chỉ khoảng 600 tấn phôi/năm. Phôi thép được sản xuất chủ yếu bằng nguồn sắt thép phế liệu nhập khẩu và phế liệu thu mua trong nước. Trong đó thép phế liệu thu mua trong nước chiếm tỷ trọng khoảng một nửa khối lượng sắt thép phế liệu được sử dụng. Một phần nhỏ phôi được sản xuất từ công đoạn luyện gang ở nhà máy gang thép Thái Nguyên. Tổng năng lực luyện gang và thiêu kết ở Việt Nam hiện nay chỉ đạt ở mức khoảng 40 ngàn tấn/năm, một con số rất nhỏ so với nhu cầu gang cần thiết để luyện thép. Do năng lực sản xuất mất cân đối giữa các công đoạn sản xuất, nên khả năng đáp ứng nhu cầu đầu vào của các công đoạn thượng nguồn và công đoạn hạ nguồn trực tiếp là rất thấp. Công đoạn luyện thép chỉ đáp ứng được khoảng 25% nhu cầu phôi vuông cỡ nhỏ cho công đoạn cán thép. Trong khi đó, nhu cầu phôi thép của các cơ sở cán thép ở tất cả các khu vực đều tăng trong những năm gần đây đã dẫn đến sự mất cân đối nghiêm trọng giữa các công đoạn của qua trình sản xuất thép. Nguyên nhân chủ yếu của sự mất cân đối này là (1) Đầu tư vào khâu sản xuất phôi đòi hỏi vốn lớn (2) Thời gian đi vào sản xuất và thu hồi vốn chậm (3) Giá trị gia tăng và lợi nhuận của khâu sản xuất phôi thấp nên cácdoanh nghiệp sản xuất trong nước không đủ khả năng đầu tư còn các doanh nghiệp nước ngoài không muốn đầu tư. Hơn nữa sản xuất phôi thép không được nhà nước bảo hộ mạnh mẽ như cán thép vì vậy không hấp dẫn các nhà đầu tư, kể cả đầu tư trong nước. Mặt khác, đầu tư vào khâu cán thép không cần vốn lớn nên không chỉ các doanh nghiệp quốc doanh mà cả công ty tư nhân đều có thể đầu tư. Ở Việt Nam phần lớn sử dụng thép phế để sản xuất phôi và hoàn toàn là phôi vuông để làm thép xây dựng. Phôi vuông sản xuất trong nước chỉ đáp ứng được khoảng 50% nhu cầu cán thép, 50% còn lại là từ nguồn nhập khẩu. Mặc dù tự sản xuất khoảng 20% thép dẹt, nhưng chưa có doanh nghiệp nào ở Việt Nam sản xuất được phôi dẹt mà phải nhập khẩu từ bên ngoài. Nguồn nhập khẩu thép phôi thép các loại và thép phế của Việt Nam hiện giờ là từ Trung Quốc (là chủ yếu) và một số nước khác trên thế giới như Mỹ, Nhật, Nga… Như vậy có thể thấy ngành thép Việt Nam chịu ảnh hưởng rất nhiều từ biến động về phôi và thép trên thế giới. Giá thép trong nước có xu hướng biến động cùng chiều với giá phôi trên thế giới. Phôi thép là bộ phận chủ yếu trên thị trường nguyên liệu thépViệt Nam, các sản phẩm của các công đoạn trước như gang và quặng thiêu kết chiếm tỷ trọng không đáng kể do ngành sản xuất thép Việt Nam chủ yếu tập trung ở công đoạn cán thép. Trong khi đó do nhu cầu sử dụng thép ở Việt Nam trong những năm qua chỉ ở mức độ thấp, nên khối lượng thép phế thải có thể thu mua trong nước cũng tương đối khan hiếm. Giá thành phôi thép sản xuất trong nước cao và ưu thế vượt trội về mặt tỷ trọng của nguồn phôi nhập khẩu trong việc đáp ứng nhu cầu sản xuất thép đã làm cho giá phôi thép ở thị trường trong nước phụ thuộc rất lớn vào sự biến động giá phôi thép trên thị trường thế giới. Tốc độ điều chỉnh giá phôi thép trên thị trường nội địa thường chậm hơn so với những biến động của giá phôi trên thị trường thế giới và khác nhau trong hai trường hợp. Tốc độ điều chỉnh giá phôi thép ở thị trường trong nước là khá nhanh khi giá phôi trên thị trường thế giới có xu hướng tăng, nhưng tốc độ điều chỉnh giá phôi trên thị trường nội địa lại diễn ra khá chậm khi giá phôi thép trên thị trường thế giới có xu hướng giảm do thời gian đặt hàng thường kéo dài nhiều tháng. Kết quả là khi giá phôi thép trên thị trường thế giới trải qua những thời kỳ đột biến thì chi phí sản xuất thép ở Việt Nam cao hơn nhiều so với giá thép nhập khẩu. Đây là điểm bất lợi lớn của hoạt động cán thép Việt Nam do sự phụ thuộc vào nguồn phôi thép nhập khẩu. 4.Cơ cấu cung cầu. Cung cầu về thép dài tương đối cân bằng nhưng lại mất cân bằng trầm trọng ở thép dẹt. Trước 2006 nước ta phải nhập khẩu 100% thép dẹt, từ năm 2006 một số nhà sản xuất thép tấm đi vào hoạt động phần nào đáp ứng được nhu cầu thép dẹt trong nước. Tuy nhiên với tổng công suất khoảng 1,1 triệu tấn/năm như hiện nay, khả năng đáp ứng tối đa mới chỉ được 20% nhu cầu, 80% còn lại là nhập khẩu. Tình trạng nhập khẩu còn tiếp diễn từ nay đến năm 2012 – 2013, khi một số dự án liên doanh với nước ngoài đi vào hoạt động, tăng công suất cho sản phẩm thép dẹt lên mới đáp ứng được nhu cầu trong nước. Công suất 6 triệu tấn/năm nên nguồn cung thép dài trên thị trường đáp ứng tương đối tốt nhu cầu tiêu dùng thực tế, các năm gần đây lượng thép dài nhập khẩu từ nước ngoài không nhiều, chủ yếu là các loại thép xây dựng cỡ lớn mà Việt Nam hiện chưa sản xuất được. Hình 3: Cơ cấu sản xuất và tiêu thụ thép của các thành viên trong Hiệp hội thép giai đoạn 2004 – 2007 (Đơn vị:nghìn tấn) (Nguồn: Hiệp hội thép) Mục tiêu phát triển tổng thể của ngành thép Việt Nam là đáp ứng tối đa nhu cầu về các sản phẩm thép của nền kinh tế, tăng cường xuất khẩu. Bảng 1: Các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu trong giai đoạn từ 2001 đến 2020 Thời kỳ Tăng trưỏng GDP (%) Tăng trưởng công nghiệp (%) Tăng trưởng SX thép (%) Tăng trưởng tiêu thụ thép(%) Tiêu thụ thép đầu người (kg/người) 2001-2005 7,5 14,08 14 10 - 11 78 2006-2010 7,5 10,38 10 10,6 123 2011-2015 7 8 - 9 9 – 9,5 9 – 9,5 170 2016-2020 6,5 7 - 8 8,5 - 9 8 – 8,9 240 Bảng 2: Dự báo nhu cầu thép của Việt Nam đến năm 2025 Đơn vị: nghìn tấn Năm Tổng nhu cầu thép (1.000 tấn) Thép dài Thép dẹt Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%) 2005 6.480 3.564 55 2.916 45 2010 10.000 5.000 50 5.000 50 2015 15.000 6.250 45 8.750 55 2020 20.000 8.000 40 12.000 60 Bảng 3: Mục tiêu sản lượng của ngành thép giai đoạn 20010 – 2025 Đơn vị: nghìn tấn 2010 2015 2020 2025 Gang 1.500 – 1.900 5.000 – 5.800 8.000 – 9.000 10.000 – 12.000 Thép thô 3.500 – 4.500 6.000 – 8.000 9.000 – 11.000 12.000 – 15.000 Thép cán (Thép dẹt) 6.300 – 6.500 1.800 – 2.000 11.000 – 12.000 6.500 – 7.000 15.000 – 18.000 8.000 – 10.000 19.000 – 22.000 11.000 – 13.000 Xuất khẩu 500 - 700 700 - 800 900 – 1.000 1.200 – 1.500 5. Lưu thông phân phối thép. Thành phần tư nhân trong hoạt động phân phối thép có ưu thế vượt trội. Sản phẩm thép trên thị trường Việt Nam được phân phối thông qua 3 hệ thống phân phối chủ yếu, gồm: (1) Hệ thống phân phối thép được nhập khẩu và phân phối bởi các công ty thương mại nước ngoài có trụ sở tại Việt Nam. Hệ thống này chủ yếu thực hiện chức năng nhập khẩu và bán sản phẩm thép cho các khách hàng cuối cùng thông qua các công ty bán buôn của Việt Nam, hoặc có thể bán hàng trực tiếp cho các khách hàng cuối có khối lượng mua lớn. (2) Hệ thống phân phối được thực hiện bởi các công ty thương mại thuộc VSC. Hệ thống này chủ yếu thực hiên chức năng phân phối các sản phẩm thép nhập khẩu để bán lại cho các nhà phân phối tư nhân hoặc nhập khẩu phôi thép để bán cho các nhà sản xuất thép hoặc thực hiện việc bán lẻ các sản phẩm đến những khách hàng cuối cùng thông qua các cửa hàng bán lẻ trực thuộc. (3) Hệ thống phân phối thép tư nhân và các doanh nghiệp khác không trực thuộc Tổng công ty thép Việt Nam. Hệ thống này hoạt động với tư cách là những trung gian giữa các nhà sản xuất trong nước hoặc các nhà cung cấp nước ngoài và các nhà bán lẻ hoặc khách hàng cuối cùng trên thị trường. Các hệ thống này có ưu nhược điểm khác nhau xuất phát từ thực lực và những điều kiện gắn liền với hoạt động kinh doanh của họ. Bảng 4: So sánh cạnh tranh các hệ thống phân phối thép Hệ thống phân phối Ưu điểm Nhược điểm Tư nhân Động lực làm việc tốt Năng suất lao động cao Tần suất quay vòng nhanh Quản lý nợ hiệu quả Dịch vụ khách hàng tốt Khống chế toàn bộ hoạt động bán lẻ Chi phí vốn cao Mặt bằng kho bãi hạn chế Khả năng huy động vốn hạn chế VSC Hệ thống phân phối rộng Quy mô lớn Khả năng tài chính mạnh Nhân viên thiếu động lực làm việc Năng suất lao động thấp Tốc độ quay vòng vốn chậm Quản lý nợ thiếu hiệu quả Công ty nước ngoài Chủ động về nguồn hàng Chính sách phân phối không linh hoạt Trên thị trường Việt Nam có khoảng 20 nhà phân phối tư nhân lớn hoạt động với tư cách là phân phối cấp 1 cho các nhà sản xuất. Quy mô vốn của các công ty này thường giao động từ 10 đến 15 tỷ đồng. Các công ty này kinh doanh thép từ 2 nguồn, nguồn nội địa và nguồn nhập khẩu. Sản phẩm nhập khẩu chủ yếu là các loại thép mà trong nước chưa sản xuất được như thép lá, thép tấm. Nguồn nhập khẩu chủ yếu từ Nga, Hàn Quốc… Khi thị trường nội địa có nhu cầu, họ tiến hành uỷ thác cho các công ty khác nhập khẩu sản phẩm thép từ các nhà cung cấp nước ngoài mà họ lựa chọn rồi phân phối lại trên thị trường nội địa. Theo đánh giá của những người quản lý của một số nhà phân phối tư nhân thì hiệu quả kinh doanh của hệ thống phân phối tư nhân nói chung là cao hơn các doanh nghiệp nhà nước. Lý do cơ bản là hoạt động kinh doanh của các công ty tư nhân gắn chặt với lợi ích của người quản lý hơn so với trường hợp doanh nghiệp nhà nước, nhân việc làm việc ở các công ty tư nhân thường tích cực hơn nhân viên làm việc trong công ty nhà nước, các quyết định kinh doanh ở các công ty tư nhân cũng được đưa ra và triển khai nhanh hơn. Những ưu thế này giúp các công ty tư nhân nâng cao được chất lượng dịch vụ, thu hút được nhiều khách hàng và hiệu quả kinh doanh cao hơn. Chủ các doanh nghiệp phân phối tư nhân còn cho rằng, các doanh nghiệp tư nhân đang là những người kiểm soát thị trường, khả năng kiểm soát thị trường thép của họ xuất phát từ việc họ đã thiết lập được một hệ thống bán lẻ rộng khắp và họ có thể kiểm soát được hệ thống này với mức độ rủi ro khá thấp. Tỷ trọng vốn bị ứ đọng trong khâu lưu thông lớn, ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình tài chính và kết quả kinh doanh. Các nhà sản xuất đầu tư vốn khá lớn vào khâu lưu thông hàng hoá dẫn đến tình trạng khó khăn tài chính và ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả kinh doanh. Quy mô của các nhà sản xuất là khá lớn so với các nhà phân phối. Doanh số bình quân của các nhà sản xuất là 893 tỷ đông/năm. Mức vốn bình quân của các nhà sản xuất là 360 tỷ đồng. Số lượng vốn các nhà sản xuất đầu tư vào khâu lưu thông là khá lớn so với mức vốn tự có, mà bộ phận đáng kể nhất là các khoản phải thu của khách hàng. Số bình quân các khoản phải thu từ khách hàng của các nhà sản xuất là 411 tỷ đồng, doanh nghiệp có số dư các khoản phải thu cao nhất lên tới 1200 tỷ đồng. Bình quân tỷ lệ các khoản phải thu so với vốn lên tới 37%, mức cao nhất là 82% và mức thấp nhất là 9%. Mức tồn kho thực tế của nhà sản xuất cũng khá lớn, phản ánh hoạt động bán hàng của các nhà phân phối chưa được tổ chức hiệu quả. Tỷ lệ lãi gộp bình quân dừng ở mức 2,25%. Chính sách phân phối còn bất cập, quan hệ giữa sản xuất và phân phối chưa vững chắc. Phần lớn các nhà sản xuất đều thực hiện chính sách bao phủ thị trường trong phạm vi cả nước. Chính vì vậy, mặc dù tại khu vực miền Bắc mức cung về cán thép khá lớn, nhu cầu thép cán nhỏ hơn so với khu vực miền Nam, nhưng các nhà sản xuất thép cán miền Nam vẫn cung ứng sản phẩm ra khu vực phía Bắc. Rõ ràng, một chính sách bao phủ thị trường như vậy là không hợp lý khi sản phẩm của các nhà máy thép ở Việt Nam tương đối đồng nhất, chi phí vận chuyển thép là khá cao so với giá trị của nó. Vì vậy, chính sách này đã làm cho tổng giá thành thép bị nâng lên, lợi nhuận của các nhà sản xuất bị thấp đi và các nhà sản xuất nội địa sẽ đánh mất lợi thế gần thị trường của mình so với đối thủ nước ngoài. Tất cả các nhà sản xuất đều thực hiện chính sách phân phối mạnh hoặc chọn lọc. Hơn một nửa các nhà sản xuất sử dụng chính sách phân phối mạnh. Việc các nhà sản xuất không lựa chọn chính sách phân phối độc quyền là do áp lực của các nhà phân phối. Theo các nhà phân phối thì việc lựa chọn kinh doanh một nhãn hiệu là không hiệu quả, do (1) chưa có một thương hiệu thép nào thực sự có chỗ đứng trên thị trường, hơn nữa (2) giá cả của các nhà sản xuất thường không đồng đều và có nhiều biến động, nếu kinh doanh nhiều loại sản phẩm thép thì có nhiều cơ hội bán sản phẩm hơn. Với chính sách phân phối này, các nhà sản xuất khó có thể tạo ra được sự ổn định về mặt thị trường. Quan hệ giữa các nhà sản xuất và các nhà phân phối còn thiếu sự bền vững. Điều này thể hiện rất rõ ràng ở chỗ các nhà phân phối bán thép của rất nhiều công ty khác nhau, họ bán sản phẩm của nhà sản xuất nào tuỳ thuộc vào nhu cầu của khách hàng, nhưng việc khách hàng lựa chọn loại sản phẩm nào lại tuỳ thuộc vào giá cả. Vì vậy, quan hệ giữa các nhà sản xuất và các nhà phân phối bán buôn phụ thuộc vào sự biến động của giá cả. Các nhà sản xuất chưa thực sự hiểu các nhà phân phối cần gì ở họ, và ngược lại các nhà phân phối cũng chưa tạo ra được các kênh phân phối hàng hoá ổn định cho các nhà sản xuất. Quan hệ giữa các nhà sản xuất và các nhà phân phối chủ yếu tồn tại dưới hình thức phân phối chon lọc. Quan hệ giữa họ ít có sự hợp tác chặt chẽ và bền vững mà chủ yếu dựa trên các điều khoản mua bán thông thường, như quy định khối lượng bán, kiểm soát tiến độ thanh toán, phân tích số liệu, bảo lãnh thanh toán, phân vùng thị trường, kiểm soát nguồn cung cấp, định giá đầu vào. 6. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thép Việt Nam. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thép Việt Nam rất yếu.Khoáng sản cho phát triển ngành thép nước ta có trữ lượng thấp so với một số nước ASEAN. Lao động của ngành thép đông về lượng và kém về chất. Đội ngũ chuyên gia lành nghề và công nhân có tay nghề cao ít. Đây là tình trạng chung của lao động Việt Nam. Lợi thế về giá lao động rẻ chỉ là lợi thế về chi phí sản xuất. Điều này chỉ có được đối với các sản phẩm có hàm lượng lao động và nguyên liệu cao. Các ngành khoa học kỹ thuật và yêu cầu công nghệ tiên tiến thì không cần lợi thế này. Điều kiện sản xuất vốn có về công nghệ của các nước ASEAN cao hơn Việt Nam, do đó khả năng cạnh tranh sẽ vượt Việt Nam. Hơn nữa các nước ASEAN và các nước Nam Á khac chiến lược hướng về xuất khẩu sớm hơn Việt Nam và họ đã đạt tới một cơ cấu xuất khẩu hợp lý theo hướng xuất tinh, xuất hàng chế biến sâu. Việt Nam xuất khẩu chủ yếu dưới dạng thô từ tài nguyên đến nông sản. Các ngành sử dụng sản phẩm của ngành thép của các nước ASEAN như Thái Lan, Singapo, Indonesia, Philipin… đã phát triển ở trình độ cao, có sản phẩm xuất khẩu vào nhiều nước phát triển. Ở Việt Nam các ngành cơ khí chế tạo cho ngành thép phát triển rất chậm và yếu kém. Những ngành cơ khí phát triển như công nghiệp ô tô, xe máy, cơ khí chính xác, đóng tàu… chủ yếu là liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài, thực chất là của nước ngoài. Sẽ còn rất lâu Việt Nam mới được chuyển giao công nghệ hoàn chỉnh của các ngành cơ khí mạnh từ phía nước ngoài. Do đó khả năng thị trường nội địa cho công nghiệp thep (với các sản phẩm thép chất lượng cao và đặc biệt) là khó khăn cho ngành thép. Nguy cơ rõ ràng là ngành thép Việt Nam có thể mất thị trường ngay ở đất nước mình. Về chi phí sản xuất và giá thành thép Việt Nam đều cao hơn các nước khác. Chi phí sản xuất cao làm giảm vị thế ngành thép ngay ở thị trường nội địa. Ngoài ra, phôi thép là nguyên liệu chính và chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành có giá cả không cao hơn giá nhập khẩu của một số doanh nghiệp sản xuất thép ở các nước trong khu vực nên giá thành cao chỉ là do hệ số tiêu hao nguyên liệu của các nhà máy sản xuất Việt Nam cao và năng suất cán thép quá thấp so với trình độ của các nhà máy sản xuất trong khu vực. 7. Vấn đề đặt ra đối với ngành thép trong quá trình hội nhập Thiếu chiến lược phát triển: Trong nhiều thập niên qua, ngành thép Việt Nam thiếu hẳn một chiến lược phát triển dài hạn, chỉ chú trọng thép xây dựng với mức sản xuất dư thừa mà giá thành vẫn cao. Như vậy, có độ chênh giữa công suất và nhu cầu tiêu thụ. Sức ép cạnh tranh: Sản phẩm luyện cán thép của Việt Nam là sản phẩm thép xây dựng cacbon thông thường, là sản phẩm phổ thông, không có những yêu cầu kỹ thuật đặc biệt. Vì vậy khi tham gia cạnh tranh với sản phẩm nhập khẩu từ nước ngoài, không thể dùng rào cản kỹ thuật để bảo hộ sản phẩm trong nước. Thời gian gần đây, ngành thép Việt Nam mới phát triển mạnh do công ty nhà nước và công ty tư nhân cùng tham gia đầu tư vào ngành này. Đến nay, là thời điểm các công ty phải trả nợ các khoản vay ngân hàng để đầu tư. Trong cơ cấu giá thành sản phẩm một tấn thép có 20 – 25 USD là tiền khấu hao để trả nợ. Đây là điểm bất lợi cho các công ty thép khi phải cạnh tranh với các nước đã sản xuất thép nhiều năm. Với nhuững thách thức nêu trên, muốn tồn tại và phát triển trong bước đường hội nhập với các nước trong khu vực và thế giới, chắc chắn ngành thép Việt Nam phải nỗ lực vượt bậc trong sản xuất kinh doanh, đồng thời phải có định hướng phát triển chính xác và sự chỉ đạo chặt chẽ của các cơ quan quản lý nhà nước. Khó khăn trên bước đường hội nhập: Theo cam kết tại Hiệp định hàng hoá ASEAN – Trung Quốc, mặt hàng thép tấm nhập khẩu vào Việt Nam sẽ được miễn thuế; còn đối với mặt hàng thép xây dựng, Việt Nam được chấp nhận lộ trình cắt giảm thuế từ từ, hiện nay áp dụng thuế suất nhập khẩu 30% và giảm dần đến năm 2015 mới xuống mức 0%. Nhưng hiện nay, giá thép xây dựng Việt Nam vẫn cao hơn thép nhập khẩu từ Trung Quốc. Đây chính là một khó khăn lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam. Khi đầu tư, các doanh nghiệp tin tưởng sẽ được bảo hộ bằng hàng rào thuế quan nhập khẩu ít nhất 7 – 10%. Khi Việt Nam gia nhập WTO10 chỉ những doanh nghiệp thép hiện đại và quy mô sản xuất đủ lớn, có sức cạnh tranh về giá thành mới có thể tồn tại. Những doanh nghiệp nhỏ công suất dưới 10 ngàn tấn ở nhiều địa phương sẽ có nguy cơ bị loại khỏi “sân chơi” chung. Ngoài vấn đề công nghệ lạc hậu, quy mô sản xuất nhỏ, hệ thống quản lý kiểu kế hoạch hoá tập trung, một trong những yếu kém lớn của ngành thép Việt Nam là chỉ tự túc được 30% phôi thép nguyên liệu cho các nhà máy luyện cán thép, phần còn lại lệ thuộc vào nguồn nhập khẩu nên không chủ động được giá cả. II- Giải pháp phát triển ngành thép Việt Nam Quan điểm và mục tiêu phát triển. Quan điểm phát triển: Phát triển ngành thép Việt Nam phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội và ngành công nghiệp của cả nước, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội các địa phương và lộ trình hội nhập của Việt Nam. Xây dựng và phát triển ngành thép Việt Nam thành một ngành công nghiệp quan trọng, bảo đảm phát triển ổn định và bền vững, giảm thiểu sự mất cân đối giữa sản xuất gang, phôi thép với sản xuất thép thành phẩm, giữa sản xuất thép dài với sản xuất thép dẹt. Xây dựng ngành thép Việt Nam với công nghệ tiên tiến hợp lý, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả nguồn tài nguyên của đất nước, bảo đảm hài hoà với bảo vệ môi trường sinh thái tại các địa bàn phát triển ngành thép. Coi trọng và khuyến khích các thành phần kinh tế, các ngành kinh tế trong nước liên kết, hợp tác với nước ngoài đầu tư xây dựng một số tổ hợp mỏ - luyện kim, nhà máy thép liên hợp và nhà máy cán sản phẩm thép dẹt quy mô lớn. Mục tiêu phát triển: Mục tiêu phát triển tổng thể của ngành thép Việt Nam là đáp ứng tối đa nhu cầu về các sản phẩm thép của nền kinh tế, tăng cường xuất khẩu, cụ thể như sau: Sản xuất gang: Đáp ứng đủ gang đúc cho nhu cầu sản xuất cơ khí phục vụ trong nước và xuất khẩu, phấn đấu cung cấp phần lớn nguyên liệu cho các cơ sở sản xuất phôi thép trong nước. Năm 2010 đạt 1,5 – 1,9 triệu tấn gang; năm 2015 đạt 5,0 – 5,8 triệu tấn gang; năm 2020 đạt 8 – 9 triệu tấn gang và sản xuất hoàn nguyên; năm 2025 đạt 10 – 12 triệu tấn gang và sản phẩm hoàn nguyên. Sản xuất phôi thép (thép thô): Năm 2010 đạt 3,5 – 4,5 triệu tấn, năm 2015 đạt 6 – 8 triệu tấn, năm 2020 đạt 9 – 11 triệu tấn và năm 2025 đạt 12 – 15 triệu tấn phôi thép. Sản xuất thép thành phẩm: Năm 2010 đạt 6,3 – 6,5 triệu tấn (1,8 – 2,0 triệu tấn sản phẩm dẹt), năm 2015 đạt 11 – 12 triệu tấn (6,5 – 7,0 triệu tấn sản phẩm dẹt), năm 2020 đạt 15 – 18 triệu tấn (8 – 10 triệu tấn sản phẩm dẹt) và năm 2025 đạt khoảng 19 – 22 triệu tấn thành phẩm (11 – 13 triệu tấn sản phẩm dẹt và 0,2 triệu tấn thép đặc biệt. Xuất khẩu gang thép các loại: Năm 2010 xuất khẩu đạt 0,5 – 0,7 triệu tấn, năm 2015 xuất khẩu đạt 0,7 – 0,8 triệu tấn, năm 2020 xuất khẩu đạt 0,9 – 1,0 triệu tấn, năm 2025 xuất khẩu khoảng 1,2 – 1,5 triệu tấn. Mục tiêu xuất khẩu trên có thể được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình cụ thể, nhằm đảm bảo bình ổn thị trường trong nước. 2. Các giải pháp phát triển ngành thép. Các giải pháp vĩ mô. Nhà nước phải có quy hoach dài hạn việc khai thác sử dụng các nguồn tài nguyên được huy động cho sản xuất thép như: quặng sắt, than, điện, dầu khí… Quy định những điều kiện tối thiểu mà những doanh nghiệp kinh doanh sắt, thép phải đảm bảo như: quy mô công nghệ, vốn, nguồn nhân lực, môi trường… Thực hiện thẩm định bảo đảm các dự án thép đạt được công nghệ tiên tiến, kiên quyết loại bỏ những công nghệ lạc hậu và dự án có quy mô nhỏ. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích sản xuất thép đối với các nhà đầu tư, nhất là sản xuất phôi thép từ quặng, vì nó tác động sâu rộng vào nền kinh tế, thúc đẩy mạnh các ngành kinh tế phát triển. Việc khai thác và sử dụng quặng mặc dù đã có kế hoạch, song cũng cần có chính sách cụ thể nhằm tăng hiệu quả sử dụng, hạn chế xuất khẩu tràn lan như hiện nay và đảm bảo nguồn tài nguyên lâu dài cho ngành thép. Ngoài ra, cần có những quy định cụ thể, chi tiết đối với việc nhập khẩu sắt thép phế liệu, vừa đảm bảo an toàn đối với môi trường vừa tạo thuận lợi cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Cụ thể hoá các chính sách và phương án phát triển công nghiệp thép thành các dự án cụ thể. Các nhà đầu tư trong và ngoài nước có thể gặp khá nhiều khó khăn khi tìm kiếm cơ hội đầu tư hoặc lập phương án khả thi cho các dự án phát triển ngành công nghiệp thép. Vì vậy, cùng với các kế hoạch phát triển tổng thể ngành thép, chính phủ nên cung cấp những thông tin cần thiết cho các nhà đầu tư tiềm năng để họ thuận lơi hơn trong việc xây dựng các phương án khả thi. Chính phủ có thể xây dựng sẵn những nghiên cứu khả thi để các nhà đầu tư tham khảo. Bằng cách nay chính phủ có thể giúp nhà đầu tư tiết kiệm được chi phí tìm kiếm cơ hội đầu tư và làm cho các dự án đầu tư có thể trở nên hấp dẫn hơn đối với nhà đầu tư. Làm tốt công việc này có thể làm cho ngành công nghiệp thép Việt Nam thu hút được nhiều hơn vốn đầu tư tư nhân và các nhà đầu tư nước ngoài. Hỗ trợ phát triển 10 doanh nghiệp phân phối tư nhân trọng điểm. Nhà nước khó có thể sử dụng ngân sách để rót vốn vào hệ thống phân phối tư nhân, tuy nhiên vẫn có những cách thức nhất định để bảo lãnh cho các khoản tín dụng nhằm giúp các doanh nghiệp phân phối trọng điểm mở rộng vốn kinh doanh theo nguyên tắc cạnh tranh. Chính phủ nên có kế hoạch phát triển 10 doanh nghiệp phân phối tư nhân và nhà nước sẽ hỗ trợ 10 doanh nghiệp này trong việc phát triển năng lực cạnh tranh. Tăng cường hỗ trợ các doanh nghiệp thông qua các chương trình nghiên cứu sản phẩm và công nghệ, phát triển có trọng điểm các cơ sở hạ tầng. Những kỹ thuật và công nghệ sản xuất thép, đặc biệt là các công nghệ sử dụng trong khâu thiêu kết, luyên gang hiện đang sử dụng không phù hợp với những nguồn nguyên liệu mà Việt Nam có thế mạnh. Vì vậy, các dự án thuộc công đoạn thượng nguồn đã không hấp dẫn được các nhà đầu tư. Trong những năm tới, chính phủ cần có những chương trình hay dự án nghiên cứu sáng tạo hoặc cải tiến các công nghệ hiện có trên thế giới để có được những công nghệ phù hợp với nguồn quặng đang sẵn có ở Việt Nam. Kinh phí thực hiện các dự án này do chính phủ tài trợ. Một đặc điểm khác khiến nhà đầu tư không tích cực đầu tư phát triển các công đoạn thượng nguồn là cơ sở hạ tầng, đặc biệt là giao thông vận tải ở các mỏ sắt của Việt Nam không được thuận lợi. Nếu các nhà đầu tư sử dụng vốn của mình để đầu tư thì dự án sẽ rất tốn kém, vì vậy nhà nước cần có những công trình trọng điểm phát triển cơ sở hạ tầng ở những khu vực có tiềm năng vầ tài nguyên để hấp dẫn các nhà đầu tư. 2.2 Các giải pháp vi mô. Phát triển năng lực sản xuất phù hợp tốc độ tăng trưởng nhu cầu, đảm bảo năng lực sản xuất trong nước có thể đáp ứng được khoảng từ 70% đến 90% nhu cầu thị trường nội địa, đồng thời chú trọng điều chỉnh cơ cấu sản xuất thép theo hướng ưu tiên phát triển sản xuất những sản phẩm trong nước chưa sản xuất được khi thị trường trong nước đã đủ lớn để ủng hộ những năng lực sản xuất có tính kinh tế. Nếu nhiệm vụ này được thực hiện tốt sẽ tránh được sự lặp lại của hiện tượng dư thừa công suất và hệ số đáp ứng nhu cầu nội địa thấp của sản xuất trong nước, đồng thời đảm bảo được độ an toàn cho các dự án đầu tư và giảm bớt sự phụ thuộc vào nguồn cung cấp thép bên ngoài. Nâng cao dần khả năng tự chủ về nguyên liệu một cách hợp lý nhằm giảm bớt sự tác động tiêu cực của những biến động về giá, nguồn cung cấp và chất lượng sản phẩm từ thị trường thế giới. Thực hiện thành công nhiệm vụ này sẽ đem lại đồng thời ba kết quả lớn (1) đảm bảm được tính tự chủ của ngành công nghiệp thép, (2) khai thác được những tiềm năng sản xuất thép trong nước và (3) tiết kiệm được nguồn ngoại tệ nhập khẩu nguyên liệu sản xuất thép. Tuy nhiên quá trình thực hiện không quá vội vàng. Chủ động huy động các nguồn tài nguyên, chủ động sản xuất bán thành phẩm (gang, thép phôi) và thành phẩm (thép tấm, thép tròn, thép ống, thép công cụ hình các loại) mà trọng tâm là sản phẩm thép thô tiêu chuẩn. Chú trọng thị trường trong nước, đồng thời mở rộng ra thị trường ngoài nước. Thực hiện đa dạng hoá chủng loại, quy cách, phẩm chất, đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường. Cần nâng cao chất lượng thép xây dựng, sản xuất thép tấm các loại, thép tròn, thép ống, thép định hình khác phục vụ cơ khí chế tạo. Phải đón bắt cơ hội thi trường sắp tới để định hướng chiến lược phát triển ngành, không chờ đủ mọi điều kiện mà phải chủ động cạnh tranh ngay trên thị trường trong nước, không để bất đắc dĩ nhường thị trường cho đối thủ cạnh tranh. Khắc phục tình trạng sản xuất phân tán quy mô nhỏ và hiệu quả thấp. Đảm bảo các dự án đầu tư mới được hình thành trên cơ sở một kế hoạch tổng thể và hướng đến việc hình thành một khu liên hợp gang, trong đó các nhà máy thép thuộc các dự án mới được đầu tư sẽ trở thành bộ phận của khu liên hợp gang thép trong tương lai. Phải đầu tư quy mô lớn với công nghệ hiện đại nhằm sản xuất ra thép chất lượng tốt với giá cả cạnh tranh. Các công ty luyện kim Việt Nam cần có sự liên kết, hợp nhất để khắc phục tình trạng nhỏ lẻ, phân tán và để có đủ sức đầu tư cho các công nghệ hiện đại với quy mô kinh tế cạnh tranh với luyện kim nước ngoài. Phải bứt phá về quy mô và sản xuất lô loạt mới nhằm giành được lợi thế cạnh tranh về giá. Hình thành những tập đoàn thép mạnh sẵn sàng chờ đón những cơ hội và thách thức mới. Bảng 5: Mục tiêu và biện pháp xây dựng năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp thép Năng lực và tài nguyên Mục tiêu Biện pháp Marketing * Nhận biết và thích nghi/đáp ứng nhanh chóng với những nhu cầu mới. * Xây dựng hình ảnh của các doanh nghiệp thép Việt Nam trên thị trường Việt Nam. * Xây dựng hình ảnh về sự khác biệt trong phương thức phục vụ của các doanh nghiệp thép Việt Nam so với các công ty nước ngoài. * Tạo ra sự hợp tác chặt chẽ giữa các công ty thép nội địa, đặc biệt là các công ty trực thuộc VSC trong tổ chức kinh doanh. * Thiết lập hệ thống thông tin điện tử giữa các công ty thép với các nhà phân phối và các khách hàng chủ yếu, sau đó mở rộng sang hệ thống bán lẻ. * Truyền thông những điểm khác biệt cơ bản, những ưu điểm của việc sử dụng các sản phẩm thép của các công ty nội địa. Kỹ thuật * Sản xuất các sản phẩm thép cơ bản với chất lượng cao nhằm đáp ứng tốt nhu cầu cao về chất lượng của thị trường. * Thiết lập các hệ thống sản xuất linh hoạt. * Phối hợp hoạt động nghiên cứu và phát triển của các công ty. * Củng cố hệ thống thông tin nhằm khuyến khích việc đóng góp các sáng kiến từ người lao động. Sáng tạo Hướng tới phát triển các công nghệ phù hợp với điều kiện tài nguyên và môi trường Việt Nam. * Tạo cơ hội cho người lao động tiếp cận và tham gia các công nghệ và dây chuyền sản xuất hiện đại. * Bồi dưỡng và đào tạo tài năng. * Có chính sách đãi ngộ và môi trường làm việc hợp lý nhằm khuyến khích người lao động sáng tạo. Hình ảnh sản phẩm thép Việt Nam Tạo dựng lòng tin và sự hỗ trợ của khách hàng. * Nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng. * Đầu tư phát triển sản xuất phôi thép chất lượng cao. * Củng cố mạng lưới phân phối sản phẩm. Kết luận Ngành thép Việt Nam có quá trình hình thành và phát triển lâu dài và phát triển nhanh chóng trong những năm gần đây. Ngành thép đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và có tác động nhiều mặt tới các ngành kinh tế xã hội khác. Việc sản lượng thép tăng nhanh chóng trong những năm gần đây một mặt đã đóng góp tích cực cho nền kinh tế nhưng mặt khác đang gây ra những hậu quả là sự mất cân đối trong phát triển, gây tác động xấu tới toàn ngành trong tương lai. Từ những phân tích về thực trạng của ngành thép Việt Nam có thể thấy bức tranh ngành thép Việt Nam còn nhiều mảng tối. Quy mô, năng lực sản xuất nhỏ bé, cơ cấu sản phẩm mất cân đối nghiêm trọng, sản xuất chủ yếu thép dài dùng cho xây dựng, trình độ công nghệ và máy móc thiết bị lac hậu, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cao, phân bố và tổ chức sản xuất bất hợp lý, chỉ phát triển sản xuất thép mà không chú trọng sản xuất phôi khiến cho ngành thép phụ thuộc quá nhiều vào sự biến động của thị trường thế giới. Trong tương lai, nếu không chú trọng phát triển hạ nguồn thì sức cạnh tranh sẽ không ổn định và sẽ rất dễ mất thị phần ngay cả trên sân nhà. Sức cạnh tranh của ngành thép nói chung là yếu, chỉ trừ sản phẩm thép xây dựng tại một số nhà máy mới đầu tư. Chính sách thuế và bảo hộ còn chưa hợp lý, nhiều doanh nghiệp đang sống nhờ chính sách bảo hộ do đó cần phải được điều chỉnh cho phù hợp với lộ trình gia nhập các tổ chức khu vực và quốc tế. Chính sách đầu tư còn nhiều bất cập chưa tính đến sự phát triển tổng thể, còn hiện tượng đầu tư tràn lan không theo quy hoạch. Mặc dù Nhà nước đã phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển ngành thép đến năm 2015 và có đề cập đến 2025 nhưng việc thực hiện lại có nhiều lệch lạc. Điều này có lỗi ở các cơ quan chủ quan và các doanh nghiệp vì lợi ích trước mắt mà bỏ qua lợi ích lâu dài. Phải có chính sách hợp lý từ Trung Ương, địa phương và các doanh nghiệp giúp ngành thép Việt Nam có thể đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và quốc phòng an ninh cũng như cạnh tranh có hiệu quả trong một quá trình hội nhập kinh tế thế giới. Mục lục Trang Danh mục bảng biểu Trang Hình 1: Công suất sản xuất thép dài và thép dẹt 4 Hình 2: Thị Phần tiêu thụ của các nhà cung cấp 4 Hình 3: Cơ cấu sản xuất và tiêu thụ thép của các thành viên trong Hiệp hội thép giai đoạn 2004 – 2007 13 Bảng 1: Các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu trong giai đoạn từ 2001 đến 2020 14 Bảng 2: Dự báo nhu cầu thép của Việt Nam đến năm 2025 14 Bảng 3: Mục tiêu sản lượng của ngành thép giai đoạn 20010 – 2025 14 Bảng 4: So sánh cạnh tranh các hệ thống phân phối thép 16 Bảng 5: Mục tiêu và biện pháp xây dựng năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp thép 25 Danh mục tài liệu tham khảo Bài viết: “Vỡ” quy hoạch ngành thép. Bài viết: Cần cơ cấu lại ngành thép. Bài viết: Ngành thép Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Bài viết: Về giải pháp phát triển công nghiệp thép Việt Nam trước sức ép hội nhập kinh tế quốc tế. Bài viết: Định hướng phát triển ngành thép đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2025. Bài viết: Quy hoạch phát triển ngành thép Việt Nam giai đoạn 2007-2015. Chính sách công nghiệp và thương mại của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập – Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản - Đại học kinh tế quốc dân. NXB Thanh Hoá. Giải nghĩa các từ viết tắt: CNH-HĐH: công nghiệp hoá - hiện đại hoá. XHCN: xã hội chủ nghĩa. VNS: công ty cổ phần chứng khoán VNS – VietNam Solution. Các nước SEV: Hội đồng tương trợ kinh tế thế giới. NEU-JICA: Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản - Đại học kinh tế quốc dân. VSC: VietNam Steel Corporation - Tổng công ty thép Việt Nam. Các nước SNG: Cộng đồng các quốc gia độc lập. E.U: Eropean Union – Liên minh châu Âu. TNHH: trách nhiệm hữu hạn. 10. WTO: World Trade Oganization - Hội chợ thương mại quốc tế.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhân tích thực trạng và giải pháp phát triển ngành thép.DOC