Giải quyết tốt quan hệ đất đai, tạo điều kiện cho mỗi hộ có quy mô đất đai liền
vùng, liền khoảnh, để mở rộng sản xuất. Đồng thời cần có biện pháp tích cực để ngăn
chặn tình trạng mua bán, sang nhượng, đất đai trái phép trong nhân dân và trong các đơn
vị kinh tế, không để tình trạng nông dân, nhất là người dân tộc, trắng tay không có đất
sản xuất. Cần đẩy mạnh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (bao gồm đất ở
và đất nông nghiệp), giúp các hộ nông dân có thêm điều kiện để vay vốn ngân hàng hoặc
sử dụng như là tài sản trong quá trình sản xuất kinh doanh.
96 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3700 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phát triển kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Kiên Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bản vừa mới xuất hiện trên địa bàn nông thôn.
Cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp cần khảo sát, điều tra tình hình về vốn, lao
động, đất đai, tư liệu sản xuất, tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của xã viên ở các đơn vị kinh
tế hợp tác, để trên cơ sở đó đề ra phương hướng củng cố, phát triển kinh tế hợp tác trên
tất cả các lĩnh vực, trước hết là kinh tế hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp và nông dân.
Khuyến khích và tạo điều kiện giúp đỡ kinh tế cá thể, tiểu chủ nhằm giải quyết
khó khăn về vốn, khoa học công nghệ, thông tin thị trường, đất đai để nâng cao hiệu quả
đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh, tăng thêm sản phẩm cho xã hội, giải quyết việc
làm cho người lao động.
Khuyến khích thành phần tư bản tư nhân đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực nông
nghiệp, xóa bỏ định kiến đối với kinh tế tư nhân. Sự hồi sinh của kinh tế hộ và sự phát
triển kinh tế trang trại là kết quả việc vận dụng sáng tạo chính sách kinh tế nhiều thành
phần mà trực tiếp là kết quả của quá trình thực hiện chính sách đổi mới về phát triển kinh
tế nông nghiệp.
3.2.2. Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nông nghiệp, nông thôn
Cần có sự đầu tư trọng điểm và đồng bộ để khai thác có hiệu quả nguồn tài
nguyên của nông nghiệp, tập trung đầu tư cho kết cấu hạ tầng, thủy lợi, giao thông, điện...
và khoa học kỹ thuật.
- Trong đầu tư phát triển sản xuất cần tạo ra mô hình sản xuất và đầu tư theo mô
hình sản xuất và dự án sản xuất (kể cả đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách, tín dụng và
nguồn khác...). Khuyến khích và mở rộng các mô hình sản xuất cây, con, sản xuất công
nghiệp, dịch vụ phát triển nông nghiệp có hiệu quả.
- Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật theo thứ tự ưu tiên,
tập trung dồn sức cho những công trình, những khâu trung tâm then chốt, không dàn đều
manh mún hiệu quả thấp, đặc biệt ưu tiên cho đầu tư thủy lợi.
Động viên và huy động mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển, trước
hết huy động nguồn lực nông nghiệp có quy chế huy động vốn đóng góp của dân (kể cả
vốn góp bằng tiền và bằng sức lao động) cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở các xã, thị
trấn theo nguyên tắc công khai tự nguyện. Đối với đầu tư thủy lợi, nhà nước tập trung
đầu tư các công trình đầu mối như công trình ngăn mặn, công trình ngọt hóa, công trình
thoát lũ biển Tây... Dân đầu tư các công trình vừa và nhỏ, đặc biệt là công tác thủy lợi nội
đồng. Cần tranh thủ các nguồn vốn của trung ương đối với công trình này và các chương
trình khác cho nông nghiệp như chương trình 773, dự án 5 triệu ha rừng, các dự án đầu tư
cho vùng nông thôn, cần lồng ghép các chương trình mục tiêu trong các dự án cho hiệu
quả hợp lý.
- Đối với ngân sách tỉnh hàng năm cần tăng tỷ trọng đầu tư nông nghiệp. Đối với
nguồn tín dụng tỉnh cũng tập trung nhiều hơn cho nông nghiệp nông thôn, tổ chức cho
vay theo chương trình, dự án và các mô hình kinh tế, tăng cường vốn cho vay trung và
dài hạn trên các lĩnh vực như cải tạo vườn tạp, trồng mía, dứa... cho vay theo phương
thức trả chậm tăng cường kiểm soát sử dụng vốn sao cho vốn sử dụng đúng mục đích.
Xây dựng nâng cấp và hỗ trợ phát triển các cơ sở, các nông dân sản xuất, giống
thương phẩm (kể cả giống cây trồng, vật nuôi) cung cấp cho các hộ nông dân sản xuất,
khuyến khích giúp đỡ các thành phần tham gia sản xuất giống cây trồng vật nuôi thú y,
bảo vệ thực vật, hình thành các tổ đội làm dịch vụ bảo vệ thực vật, thú y với nhiều hình
thức dịch vụ khoán gọn, dịch vụ từng khâu... Tăng cường năng lực theo dõi, dự báo sâu
bệnh ở
địa phương.
- Cấp nước: Tổ chức đội dịch vụ thủy nông xã, ấp quản lý, khai thác các công
trình thủy lợi nhỏ và hướng dẫn bà con nông dân làm thủy lợi nội đồng, hỗ trợ các hộ, cơ
sở cho thuê tư liệu sản xuất, máy kéo, máy nông nghiệp, máy sấy, máy suốt lúa... Nâng
dần tỷ lệ cơ giới hóa nông nghiệp.
-Thông tin liên lạc: Thành lập các trung tâm thông tin khuyến nông, khuyến ngư,
tổ chức thông tin hướng dẫn kỹ thuật, các loại giống mới, nhu cầu thị trường... Tạo điều
kiện giúp các hộ các thành phần kinh tế chủ động bố trí kế hoạch sản xuất... Tiếp tục mở
rộng các dịch vụ bưu chính viễn thông, dự kiến doanh thu bưu chính viễn thông vùng sản
xuất nông nghiệp năm 2000 là 51,3 tỷ đồng và năm 2010 là 235 tỷ đồng.
- Vận tải: Phát triển đồng bộ giữa giao thông và vận tải. Hình thành các tổ đội
quản lý bảo dưỡng đường giao thông, hỗ trợ các hộ trong khu vực nông nghiệp mua sắm
các phương tiện vận tải.
- Tài chính tín dụng: Thu ngân sách nông nghiệp ngày một tăng, năm 1998 thu
ngân sách đạt 298,8 tỷ đồng chiếm 38% tổng thu ngân sách của tỉnh, dự kiến năm 2010
tổng thu ngân sách khoảng 1.900 tỷ đồng bằng 50% tổng thu ngân sách toàn tỉnh.
Đẩy mạnh hoạt động tín dụng, mở rộng cả về nguồn vốn, phạm vi và hình thức
hoạt động. Cho nông dân vay vốn với lãi suất ưu đãi, thủ tục đơn giản để phát triển kinh
tế hộ gia đình, phát triển chăn nuôi, trồng trọt, dịch vụ nông nghiệp. Cần linh hoạt về mức
vay, thủ tục vay, biện pháp thế chấp, tín chấp và phương thức cho vay.
3.2.3. Đẩy mạnh công nghiệp chế biến nông, thủy sản
- Phát triển công nghiệp chế biến nông, thủy sản cần chú ý mối quan hệ kinh tế
công nghiệp giữa các vùng nhất là các trung tâm công nghiệp ở các khu vực thành thị có
mối quan hệ mật thiết với công nghiệp như chế biến lương thực - thực phẩm và đông lạnh
thủy sản... chú trọng phát triển cơ sở công nghiệp nhỏ, kết hợp và phát huy các loại hình
công nghiệp, hình thành các tổ chức kinh tế hợp tác một cách thiết thực và hiệu quả. Gắn
mô hình công nghiệp với nông nghiệp, gắn sản xuất với vùng nguyên liệu.
- Dự kiến giá trị ngành công nghiệp thời kỳ 1999-2000 tăng bình quân 13,4%,
thời kỳ 2001-2005 tăng bình quân 16,12%, thời kỳ 2006-2010 tăng bình quân 17,75%.
Tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp trong giá trị sản xuất chung của khu vực sản xuất
nông nghiệp năm 1998 là 10,9%, năm 2000: 11,7%, năm 2005: 15,5% và năm 2010:
22%.
Phát triển các ngành công nghiệp chủ yếu:
Bảo quản và chế biến lương thực:
Sản lượng lương thực (thóc) sẽ đạt trên 2 triệu tấn vào năm 2000, trên 2,5 triệu
tấn vào năm 2005 và trên 3 triệu tấn vào năm 2010, trong đó vụ lúa Hè thu thường chiếm
trên 40% tổng sản lượng cả năm, cần chú trọng khâu phơi - sấy và bảo quản sau thu
hoạch. Đảm bảo trên 90% sản lượng lúa được chế biến, trong đó chế biến gạo xuất khẩu
350-400 ngàn tấn năm 2000 và 600-700 ngàn tấn 2010. Dự kiến phát triển như sau:
- Về bảo quản: Kết hợp nhiều hình thức làm khô lúa để sau khi thu hoạch đạt độ
ẩm cần thiết đảm bảo chất lượng, hạn chế tổn thất. Từng bước trang bị máy sấy với công
suất từ 0,52-2tấn/mẻ cho hộ nông nghiệp hoặc 3-5 tấn/mẻ cho các hộ làm dịch vụ.
- Về chế biến: năm 1998 toàn tỉnh có 508 cơ sở xay xát với công suất
810.000tấn/năm, dự kiến đến năm 2000: 1 triệu tấn/năm, năm 2005: 1,4 triệu tấn/năm và
2010: 2,0-2,5 triệu tấn/năm.
- Đối với vùng sản xuất nông nghiệp nên trang bị các máy xay xát gạo công suất
0,8-1 tấn/giờ hoặc dây chuyền đơn giản gồm xay xát, sàng phân loại công suất 1-2
tấn/giờ để xay xát tiêu dùng nội địa. Đổi mới các máy xay xát cũ, lạc hậu bằng các máy
chất lượng tốt hơn, nâng chất lượng và đưa tỷ lệ thu hồi gạo từ 64-65% lên 67-68%.
Để xay xát phục vụ xuất khẩu cần trang bị các dây chuyền xay xát, phân loại,
đánh bóng công suất 50 tấn/ngày, địa điểm nhà máy được bố trí các cụm: An Biên (Kinh
làng thứ 7), Giồng Riềng, Tân Hiệp, Hòn Đất. các cơ sở xay xát gạo để tiêu dùng nội địa
do các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đảm nhiệm.
Chế biến mía đường:
Dự kiến sản lượng mía đường năm 2000 sẽ đạt khoảng 648.000 tấn, 2005: 1 triệu
tấn và năm 2010: 1,4 triệu tấn. Hiện nay toàn tỉnh có một nhà máy đường công suất 1000
tấn mía/ngày, 87 lò đường thủ công với công suất mỗi lò khoảng 10 tấn mía/ngày. Tổng
năng lực chế biến khoảng 300 ngàn tấn mía cây, lượng mía dư thừa này hiện đang hút
sang những vùng lân cận như: Vị Thanh, Phụng Hiệp... để nâng tỷ lệ sản lượng mía được
chế biến đạt từ 70% trở lên từ năm 2010, thời kỳ 2006-2010 sẽ xây dựng nhà máy đường
công suất là 2000 tấn/ngày. Đối với các lò đường thủ công, trong từng thời kỳ cần đánh
giá lại và có hướng đầu tư giúp cho các chủ cơ sở đổi mới công nghệ và mở rộng sản
xuất, phát triển ổn định 90 cơ sở cho phù hợp với từng khu vực để đáp ứng nhu cầu sản
xuất của các vùng nguyên liệu, khắc phục tình trạng nguyên liệu chạy ra khỏi tỉnh.
Chế biến dứa và nước trái cây:
Kiên Giang hiện có sản lượng dứa lớn nhất ở đồng bằng sông Cửu Long, nhưng
hiện nay chủ yếu chỉ bán trôi nổi trên thị trường nội địa. Dự kiến sản lượng năm 2000: 126
ngàn tấn, năm 2005: 224 ngàn tấn, năm 2010: 320 ngàn tấn và sản lượng các loại trái cây
khác sẽ có khoảng trên 200 ngàn tấn. Dự kiến sẽ phát triển mạnh công nghiệp chế biến dứa
và trái cây.
Từ năm 1985 tỉnh Kiên Giang đã có nhà máy chế biến dứa đông lạnh, năm 1990
đã hợp tác với Thái Lan xây dựng Nhà máy nước dứa cô đặc công suất 1.950 tấn/năm,
năm 1993 bị phá sản do bị thiếu thị trường cộng với trang thiết bị lạc hậu. Đến nay thị
trường truyền thống (Liên Xô cũ) đã quan hệ trở lại và thị trường mới được mở rộng để
tiêu thụ sản phẩm. Năm 1998 Công ty Xuất nhập khẩu rau quả đã xây dựng nhà máy chế
biến nước trái cây công suất 1500 tấn/năm, năm 1999 đang xây dựng nhà máy nước dứa
và dứa hộp. Cơ sở này chế biến 70% thì mới chế biến được 40% sản lượng. Dự kiến từ
sau năm 2005 sẽ mở rộng công suất chế biến dứa và trái cây lên gấp đôi.
Chế biến hạt điều:
Thời kỳ 2005-2010 sẽ xây dựng nhà máy chế biến hạt điều (ở Phú Quốc hoặc ở
Hòn Đất) công suất 1500 tấn/năm. Sẽ phát triển theo hướng đa dạng hóa sản phẩm chế
biến từ cây điều: Chế biến kẹo từ nhân điều, nước giải khát từ quả điều...
Chế biến thức ăn chăn nuôi:
- Kiên Giang có đàn gia súc và gia cầm khá lớn, dự kiến tổng đàn đến năm 2010
khoảng 600 ngàn con heo và 6-7 triệu con gia cầm. Lượng thức ăn gia súc sẽ tiêu thụ vào
năm 2000 khoảng 180 ngàn tấn, năm 2005: 250 ngàn tấn, năm 2010: 363 ngàn tấn.
- Hiện nay tại tỉnh chưa có cơ sở chế biến thức ăn chăn nuôi, nên phải nhập từ
bên ngoài vào. Trong thời gian tới (từ 2005) sẽ xây dựng nhà máy chế biến thịt gia súc,
gia cầm, đối với mặt hàng trứng vịt muối xuất khẩu cũng sẽ được khôi phục. Về cơ sở
giết mổ gia súc cần phải quy hoạch sắp xếp lại kết hợp với giết mổ thủ công cơ giới hóa
đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm và môi trường.
3.2.4. Thực hiện những chính sách kinh tế lớn đối với nông nghiệp, nông
thôn
Chính sách về các thành phần kinh tế:
- Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định chính sách kinh tế nhiều thành phần tồn tại
lâu dài và được khuyến khích phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Khuyến khích phát triển kinh tế nông hộ: Khuyến khích kinh tế hộ đầu tư phát
triển để khai thác có hiệu quả tiềm năng đất đai, lao động, vốn, tay nghề, tạo ra nhiều sản
phẩm hàng hóa đa dạng, có chất lượng giá trị ngày càng cao, tăng thu nhập, cải thiện đời
sống, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp và xuất khẩu đồng thời thực hiện chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ngay từ kinh tế nông hộ xóa dần kinh tế thuần nông. Đẩy mạnh công
tác khuyến nông, khuyến ngư, khuyến khích hỗ trợ nông dân vươn lên trong sản xuất.
- Phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã: Khuyến khích các hộ nông dân phát
triển các loại hình kinh tế hợp tác, gắn kinh tế hợp tác với tổ nhân dân tự quản nhằm có
sự tương trợ giúp đỡ lẫn nhau. Phát triển các hình thức kinh tế hợp tác đa dạng của kinh
tế hộ làm nền cho sự phát triển hợp tác xã, khi các hộ nông dân có yêu cầu chuyển thành
hợp tác xã thì phải tuân thủ theo những điều kiện và quy định của pháp luật và điều lệ
hợp tác xã. Khuyến khích các hợp tác xã nông nghiệp chuyển dịch cơ cấu ngành nghề,
phát triển thành các hợp tác xã nông nghiệp sản xuất, kinh doanh dịch vụ tổng hợp.
Tăng cường vai trò của kinh tế nhà nước trong nông nghiệp: Khuyến khích các
doanh nghiệp Nhà nước thuộc các ngành nông nghiệp, công nghiệp, thương mại... ký hợp
đồng dài hạn với hộ nông dân, các hợp tác xã để cung ứng vật tư, nguyên liệu và tiêu thụ
sản phẩm, tạo mối liên kết ổn định chặt chẽ lâu dài giữa người nông dân, vùng nguyên
liệu với nhà máy chế biến, tập trung cây lúa, mía, khóm, cây ăn quả, gia súc, gia cầm và
cá.
Chính sách đất đai:
Đất đai là tư liệu sản xuất cơ bản, đặc biệt để sản xuất, kinh doanh trong nông
nghiệp. Chính sự biến đổi của quan hệ đất đai trong những năm đổi mới đã dẫn đến sự
hình thành và phát triển kinh tế nông nghiệp ở nước ta như hiện nay. Đến lượt nó, việc
hoàn thiện chính sách đất đai sẽ có tác dụng phát triển nông nghiệp có hiệu quả cao và
vẫn đúng định hướng như ta mong muốn.
Sự phát triển kinh tế nông nghiệp gắn liền với tập trung tích tụ đất đai, nhưng đất đai
là nguồn tài nguyên quý giá của đất nước, cần cho nhiều nhu cầu của xã hội và về cơ bản
không thể mở rộng. Do đó, việc xác định chính sách đất đai và việc quản lý đất đai đối với
nông nghiệp là hết sức hệ trọng.
Trước hết giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng
đất. Hiến pháp năm 1992 và Luật Đất đai năm 1993 xác định đất đai thuộc sở hữu toàn
dân do Nhà nước thống nhất quản lý theo quy định chung. Nhà nước quản lý đất đai theo
pháp luật và giao quyền sử dụng cho các chủ thể kinh tế sử dụng hợp lý, tiết kiệm và khai
thác có hiệu quả. Quyền sở hữu Nhà nước về đất đai là tuyệt đối, Nhà nước có quyền thu
hồi để phục vụ vào mục đích chung, có quyền thu hồi để điều chỉnh hợp lý một khi xét
thấy cần thiết.
Nhà nước thay mặt xã hội giao cho những chủ thể cụ thể có quyền sử dụng và có
cơ chế đảm bảo lợi ích hài hòa, gắn với lợi ích của các chủ thể với lợi ích của cộng đồng,
với địa phương sở tại và quốc gia. Vì vậy, chính sách đất đai với nông nghiệp phải phù
hợp với Luật Đất đai, khuyến khích được sự khai thác, sử dụng đất trống, đồi núi trọc, tạo
điều kiện tích tụ ruộng đất ở mức hợp lý, đồng thời bảo vệ được đất đai, môi trường sinh
thái và phải tính đến hậu quả của xã hội lâu dài, theo tinh thần đó cần thực hiện tốt một số
vấn đề sau:
- Tăng cường quản lý Nhà nước về đất đai theo luật để kiểm soát các biến động
về đất đai. Cần bảo vệ diện tích lúa màu mỡ và diện tích rừng phòng hộ xung yếu và đặc
dụng, khi sử dụng đất lúa để đào ao, lên liếp trồng cây lâu năm hoặc cho nước mặn vào
nuôi trồng thủy sản thì phải xin phép và thực hiện theo quy hoạch. Việc tích tụ và tập
trung ruộng đất phải được kiểm soát, quản lý chặt chẽ của Nhà nước, phù hợp với quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế không để quá trình này diễn ra tự phát dẫn đến một bộ
phận nông dân mất đất mà không tìm được việc làm trở thành
nghèo khó.
- Giao đất cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâu dài cho người dân sản
xuất, sớm hoàn thành việc giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để ổn định
lâu dài cho hộ nông nông dân, tạo điều kiện cho dân yên tâm đầu tư phát triển sản xuất.
Việc giao cấp đất để sản xuất cây hàng năm với mọi đối tượng không vượt quá mức hạn
điền 3 ha. Tập trung chỉ đạo việc giao cấp đất hoang ở vùng tứ giác Long Xuyên, bán đảo
Cà Mau cho những hộ không có đất tại chỗ và những hộ khác trong tỉnh đã sản xuất, ổn
định cuộc sống lâu dài, đến hết năm 2000 tỉnh không còn đất hoang.
- Các tổ chức, cá nhân không phải nông dân có quyền được thuê đất để tổ chức
sản xuất vùng lâm nghiệp. Thời hạn và diện tích được thuê đất tùy thuộc vào vị trí mục
đích và quy mô sử dụng đất.
Chính sách về thuế:
Đối với một số vùng sâu, vùng xa kinh tế phát triển còn hạn chế cần có chính
sách khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư mở rộng sản xuất, xem xét và giảm thuế
đúng luật cho các mặt hàng kinh doanh tại vùng sâu, vùng xa.
Khuyến khích chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển nông nghiệp toàn diện,
đối với việc phát triển một số mô hình như mô hình lúa - cá, rừng cá, mô hình chuyển đổi
vườn tạp sang trồng các loại cây, con nuôi có hiệu quả kinh tế cần có chính sách tín dụng
ưu đãi lãi suất thấp và có chính sách miễn giảm thuế đúng luật nhằm khuyến khích phát
triển sản xuất. Đối với các hộ sản xuất công nghiệp ở vùng nông thôn sâu, vùng xa cũng
cần có chính sách tín dụng và chính sách thuế ưu đãi.
Chính sách đầu tư:
Vấn đề đầu tư, Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã chỉ rõ:
"Điều chỉnh việc phân bổ vốn của Nhà nước, huy động theo nguồn vốn để tăng
đáng kể vốn đầu tư và tín dụng cho nông, lâm, ngư nghiệp và kinh tế nông thôn". Kinh tế
nông nghiệp, phần lớn được phát triển ở các vùng khó khăn, kết cấu hạ tầng kỹ thuật và
hạ tầng xã hội chưa có gì, muốn trụ được để ổn định sản xuất và đời sống nhất thiết phải
có sự đầu tư lớn mà nông dân (hộ kinh tế nông dân) không thể kham nổi. Đầu tư cho kinh
tế nông nghiệp không phải chỉ vì lợi ích của nông dân mà là lợi ích của địa phương, của
cả vùng và cả nền kinh tế quốc dân.
Mục đích của chính sách đầu tư cho kinh tế trang trại là thúc đẩy phát triển nền
nông nghiệp hàng hóa bao gồm tạo ra nguồn vật chất, tiền vốn, tổ chức hệ thống cung
ứng vật tư, phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển công nghiệp chế biến, bảo quản, mở rộng
thị trường tiêu thụ, đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu triển khai.
Vấn đề cấp thiết hiện nay đối với kinh tế nông nghiệp là xây dựng cơ sở hạ tầng
bao gồm: Thủy lợi, đường giao thông, đường điện, công nghiệp chế biến. Đường giao
thông yếu kém sẽ hạn chế phát triển kinh tế hàng hóa, đặc biệt sản phẩm của kinh tế trang
trại nếu vận chuyển, chế biến, tiêu thụ không kịp thời sẽ dẫn đến kém chất lượng, kém
phẩm chất, không sử dụng được gây lãng phí tài sản của nhân dân, của cải vật chất xã
hội. Một khi kinh tế nông nghiệp phát triển thì vấn đề bảo quản, chế biến là một trong
những yêu cầu cấp thiết và đây cũng chính là điều kiện để tạo việc làm, chủ động thời vụ
và nâng cao giá cả của nông sản hàng hóa, làm tốt các yêu cầu trên là hợp với xu hướng
phát triển công nghiệp hóa trong lĩnh vực nông nghiệp như kinh nghiệm của các nước có
nền nông nghiệp tiên tiến, đó là một khi đưa cơ giới vào nông nghiệp để giải phóng sức
lao động, chuyển người lao động sang phục vụ ở các lĩnh vực khác, nhất là chế biến trong
nông nghiệp; đây cũng chính là thực hiện theo phương châm "ly nông bất ly hương".
Ngoài ra cũng cần đầu tư cho hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, áp
dụng kỹ thuật mới.
Một yêu cầu rất lớn để phát triển nông nghiệp là đầu tư phát triển sản xuất bao
gồm: khai hoang, kiến thiết đồng ruộng, trồng cây, chăm sóc, xây dựng các cơ sở vật chất
kỹ thuật như hệ thống tưới tiêu, kho tàng, nhà xưởng, các công trình phúc lợi thuộc về hạ
tầng vừa phục vụ cho sản xuất vừa phục vụ cho khu vực dân cư trong cộng đồng; làm
đường giao thông, điện nước... Tất cả những chi phí cho đầu tư này là yêu cầu về vốn rất
lớn. Trong những năm qua ngoài vốn tự có, vốn huy động trong dân, vốn ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh cho vay, song chỉ đáp ứng một phần rất nhỏ so với
yêu cầu vốn của các hộ gia đình sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, cần tạo điều kiện thuận lợi
hơn nữa trong việc đầu tư vốn. Có thể xem xét, cho phép nông dân được vay vốn thông
qua việc lập các dự án khả thi được cấp thẩm quyền phê duyệt, mức vốn đầu tư phải đảm
bảo tiến độ thực hiện dự án, tạo môi trường pháp lý trong quá trình giao dịch dân sự
thông qua đăng ký kinh doanh.
Dự kiến tổng vốn cho đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp thời kỳ 2000
- 2010 là 3.487 tỷ đồng, trong đó vốn Trung ương đầu tư là 1.249,1 tỷ đồng, vốn ngân
sách địa phương là 1.393,5 tỷ đồng, vốn dân đầu tư là 519,3 tỷ đồng và vốn khác là 325,2
tỷ đồng.
Thủy lợi:
Nhiệm vụ chính của phát triển thủy lợi ở Kiên Giang là cung cấp đầy đủ nước
cho sản xuất và sinh hoạt, hạn chế tác hại lũ, tiêu ngập tháo chua, chống xâm nhập mặn,
với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, Trung ương đầu tư xây dựng các
công trình đầu nguồn, kênh cấp I, cống và đê biển... địa phương làm kênh cấp II và thủy
lợi nhỏ và nội đồng. Dự kiến đầu tư thủy lợi cho từng vùng như sau:
+ Vùng tứ giác Long Xuyên: Tiếp tục đầu tư các công trình thoát lũ, ngăn mặn,
trong đó tiếp tục đầu tư các kênh trục, các cống ngăn mặn và đê biển, xây dựng hệ thống
kênh cấp II, kênh nội đồng và cải tạo mặt bằng đồng ruộng. Đối với vùng này về mùa lũ
là chung sống với lũ nhưng cũng phải có các biện pháp để hạn chế một phần tác hại của lũ
sớm, kết hợp với biện pháp bố trí mùa vụ hợp lý để chống lũ đảm bảo sản xuất hai vụ ổn
định. Vốn đầu tư khoảng 380 tỷ đồng, trong đó thời kỳ 1999-2000 là 74 tỷ đồng.
+ Vùng bán đảo Cà Mau: Thực hiện chương trình ngọt hóa của Chính phủ, đầu tư
xây dựng một số công trình dẫn nước ngọt về vùng, xây dựng các công trình ngăn mặn
ven biển, ven sông Cái Lớn như đê biển và cống. Xây dựng kênh cấp II để thau chua, tiêu
úng, đẩy mạnh thủy lợi nội đồng, chủ động giữ nước ngọt từng khu vực để sản xuất, khai
hoang mở rộng một số diện tích đất nông nghiệp, từng bước phát triển tăng vụ, thâm canh
tăng năng suất. Vốn đầu tư thủy lợi tại vùng khoảng 460 tỷ đồng, trong đó thời kỳ 1999-
2000 là 160 tỷ đồng.
+ Vùng Tây sông Hậu: Hoàn chỉnh hệ thống kênh cấp II, chống mặn xâm nhập,
chống lũ cho vườn cây lâu năm, đảm bảo an toàn cho 3 vụ. tập trung xây dựng các bờ bao
chống lũ, thủy lợi nội đồng và mặt bằng đồng ruộng. Vốn đầu tư khoảng 350 tỷ đồng trong đó
thời kỳ 1999-2000 là 11 tỷ đồng.
Kết hợp giữa đầu tư xây dựng thủy lợi với triển khai thực hiện các dự án bố trí dân
cư, vốn đầu tư thực hiện các dự án bố trí dân cư là 51 tỷ đồng.
+ Vùng hải đảo: Riêng các huyện đảo mà chủ yếu là Phú Quốc sẽ được đầu tư
xây dựng các hồ chứa nước cung cấp cho phát triển nông nghiệp và đô thị kết hợp với cải
tạo môi trường, làm đẹp cảnh quan của huyện đảo vốn rất giàu tiềm năng về du lịch. Dự
kiến trong những năm trước mắt sẽ xây dựng hồ Dương Đông và Suối Lớn, về lâu dài sẽ
xây dựng các hồ: Cửa Cạn, Rạch Gốc, Cửa Lắp. Tổng vốn đầu tư xây dựng các công
trình thủy lợi ở Phú Quốc là: 233,64 tỷ đồng, trong đó: hồ Dương Đông 57,55 tỷ đồng, hồ
Suối Lớn 46,54 tỷ đồng, hồ Cửa Cạn 93,79 tỷ đồng, hồ Rạch Gốc: 17,3 tỷ đồng, hồ Cửa
Lắp 18,34 tỷ đồng.
- Như vậy, vốn đầu tư cho công trình thủy lợi và thực hiện dự án bố trí dân cư
thời kỳ 1999 - 2010 là 1.440 tỷ đồng, trong đó vốn đầu tư của Trung ương: 933 tỷ đồng,
vốn ngân sách địa phương 321 tỷ đồng, vốn dân 186 tỷ đồng. Riêng thời kỳ 1999-2000:
191 tỷ đồng, trong đó vốn đầu tư của Trung ương: 128 tỷ đồng, vốn ngân sách địa
phương 34 tỷ đồng, vốn dân: 23 tỷ đồng và vốn khác là 6 tỷ đồng.
Giao thông:
Để đạt được mục tiêu đến hết năm 2000 có 100% số xã có đường
ô tô đến được trung tâm xã, đến 2010 có mạng lưới giao thông xuống tới các ấp, cần phải
tập trung đầu tư nâng cấp các tuyến đường trục (tỉnh lộ), làm mới - cải tạo - nâng cấp
2.516 km đường và 1.209 cây cầu. Tổng vốn đầu tư là 686,4 tỷ đồng, trong đó trung
ương: 78,41 tỷ đồng (cho các tuyến tỉnh lộ và hỗ trợ các tuyến khác), vốn ngân sách tỉnh:
399,91 tỷ đồng, vốn dân đóng góp: 206,08 tỷ đồng và vốn khác là 2 tỷ đồng.
- Thời kỳ 1999-2000: đầu tư 481 km đường giao thông và 110 cây cầu với tổng
vốn đầu tư là 199,167 tỷ đồng, trong đó vốn Trung ương: 78,41 tỷ đồng, vốn ngân sách:
75,993 tỷ đồng, vốn dân đóng góp: 42,764 tỷ đồng và vốn khác 2 tỷ đồng.
- Thời kỳ 2001-2010: đầu tư cho 1023 km đường giao thông và 567 cây cầu với
tổng vốn đầu tư là: 253,933 tỷ đồng, trong đó vốn ngân sách: 165,653 tỷ đồng, vốn dân
đóng góp: 82,28 tỷ đồng.
- Thời kỳ 2005-2010: đầu tư cho 1.011 km đường giao thông và 532 cây cầu với
tổng vốn đầu tư là 233,303 tỷ đồng, trong đó vốn ngân sách: 158,266 tỷ đồng, vốn dân
đóng góp: 75.037 tỷ đồng.
Điện:
Tập trung đầu tư xây dựng điện khí hóa nông nghiệp, năm 2000 số hộ sử dụng
điện đạt 56%, năm 2005: 75%, năm 2010: 90% (toàn tỉnh là 95%). Dự kiến thời kỳ 1999-
2010 đầu tư xây dựng 1936 km đường dây trung thế, 3.260 km đường dây hạ thế và các
trạm biến áp với công suất 40.004 KVA. Tổng vốn đầu tư là 441,8 tỷ đồng, trong đó vốn
ngành điện: 143,3 tỷ đồng, vốn ngân sách tỉnh: 107 tỷ đồng, vốn dân 132,2 tỷ đồng và
vốn khác: 68,3 tỷ đồng.
- Thời kỳ 1999-2000: Đầu tư xây dựng 798 km đường dây trung thế, 1.567 km
đường dây hạ thế và 20354 KVA với tổng vốn đầu tư là 203,4 tỷ đồng, trong đó có 43,5
tỷ đồng vốn ngành điện, vốn ngân sách tỉnh: 46,8 tỷ đồng, vốn dân 44,7 tỷ đồng và vốn
khác 68,3 tỷ đồng.
- Thời kỳ 2001-2005: Thực hiện chương trình điện khí hóa với quy mô đầu tư
điện khí hóa toàn xã, xây dựng 693 km đường dây trung thế, 1009 km đường dây hạ thế và
10190 KVA với tổng vốn đầu tư 95,9 tỷ đồng.
Thời kỳ 2006-2010: đầu tư xây dựng 444 km đường dây trung thế, 604 km
đường dây hạ thế và 10190 KVA với tổng vốn đầu tư 95,9 tỷ đồng.
Để có đủ nguồn vốn cho việc xây dựng các công trình điện nói trên đòi hỏi tỉnh
phải có các giải pháp cụ thể về vốn, đặc biệt là trong 2 năm 1999 và 2000, có vậy mới có
thể nâng được số hộ nhân dân ở vùng sản xuất nông nghiệp được sử dụng điện nhiều hơn.
Hiệu quả:
Các chỉ tiêu về hiệu quả của phương hướng phát triển nông nghiệp và nông thôn
tỉnh Kiên Giang thời kỳ 1999-2010 được thể hiện cho thấy:
Đất nông nghiệp tăng từ 388.538 ha lên 438.339 ha, diện tích gieo trồng cây hàng
năm tăng từ 498.036 ha lên 734.693 ha, hệ số lần trồng tăng tương ứng từ 1,58 lần lên
2,02 lần.
Tổng giá trị sản phẩm ngành nông nghiệp tăng từ 6.917 tỷ đồng lên 13.158 tỷ
đồng. Bình quân giá trị sản phẩm trồng trọt trên 1 ha đất canh tác tăng tương ứng từ 10
triệu đồng lên 18,7 triệu đồng. Bình quân giá trị sản lượng nông nghiệp trên 1 lao động
nông nghiệp tăng từ 9,6 triệu đồng lên 15,6 triệu đồng.
Sản lượng lúa tăng từ 1,91 triệu tấn lên 3,2 triệu tấn, sản lượng thóc tăng bình
quân đầu người tăng từ 1.282 kg lên 1.763 kg.
Sản lượng thịt heo các loại tăng từ 19.000 tấn lên 56.000 tấn, các loại sản phẩm
khác như khóm, mía, điều, tiêu cũng được tăng nhanh.
Kết cấu hạ tầng nông nghiệp được phát triển một cách khá cơ bản, cơ cấu kinh tế
nông nghiệp chuyển đổi đúng theo định hướng, các nguồn tài nguyên lao động và đất đai
được sử dụng với hiệu quả cao và lâu bền, đáp ứng được yêu cầu đặt ra cho phát triển
nông nghiệp trên phạm vi toàn tỉnh, đóng góp vai trò quan trọng trong phát triển nông
nghiệp toàn đồng bằng sông Cửu Long.
Chính sách khuyến nông:
Để kinh tế nông nghiệp phát triển có hiệu quả, đặc biệt là để sản phẩm có thể tiêu
thụ được, cần được sự hỗ trợ của Nhà nước về nhiều mặt, trong đó vấn đề khoa học-công
nghệ là cần thiết và cấp bách, vì nếu chính sách khoa học-công nghệ đúng sẽ đóng góp
phần giúp kinh tế nông nghiệp tiến hành sản xuất hàng hóa, làm ra sản phẩm có năng suất
và chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu của thị trường. Nó góp phần quan trọng cho các
hộ nông dân chuyển dịch cơ cấu cây trồng, chuyển đổi nền nông nghiệp theo hướng
CNH-HĐH. Hơn lúc nào hết, trong giai đoạn này, đòi hỏi các nhà khoa học, các nhà kỹ
thuật nông học nghiên cứu, chọn lọc, lai tạo các giống cây, con có giá trị, thích nghi với
điều kiện sinh thái của từng vùng với quy trình canh tác, chăm sóc, thu hoạch, chế biến,
bảo quản, cung cấp và hướng dẫn cho các nông dân thực hiện thông qua các hợp đồng
giữa trí thức với nông dân, nhằm xây dựng một nền nông nghiệp hàng hóa hiện đại.
Phát triển các vùng chuyên canh tập trung lớn đặt ra rất nhiều vấn đề với khoa
học-kỹ thuật và công nghệ như phòng trừ sâu bệnh cho cây trồng, dịch bệnh cho vật nuôi,
vấn đề tưới tiêu, chăm sóc cây trồng. Phát triển kinh tế nông nghiệp cũng đặt ra yêu cầu
về công nghệ sau thu hoạch như bảo quản, sơ chế, vận chuyển, chế biến nông sản, là một
đòi hỏi lớn của các hộ nông dân nếu không làm tốt khâu này thì thu được từ hàng nông
sản sẽ không là bao so với giá trị thực tế và công sức bỏ ra của nông dân, của các chủ
trang trại.
Kinh tế nông nghiệp phát triển còn có tác dụng lớn đối với công tác bảo vệ môi
trường sinh thái, góp phần quan trọng vào việc phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, chống
xói mòn, giữ độ ẩm cho đất bảo vệ nguồn nước. Đây là một giải pháp quan trọng và hữu
hiệu để khôi phục vốn rừng bằng cây ăn quả, góp phần thực hiện thắng lợi dự án trồng 5
triệu ha rừng của Chính phủ đã đề ra.
Trong chính sách khoa học-công nghệ đối với nông nghiệp, trong đó rất coi trọng
công tác khuyến nông, khuyến lâm, bao gồm việc tuyên truyền, chủ trương, chính sách
phát triển nông nghiệp, truyền bá những tiến bộ kỹ thuật, phổ biến những kinh nghiệm
trong sản xuất, bồi dưỡng về kiến thức quản lý, tổ chức sản xuất cho nông dân, cần đẩy
mạnh công tác ứng dụng khoa học công nghệ về giống có năng suất chất lượng phù hợp
với điều kiện cụ thể của từng vùng, ứng dụng công nghệ tiên tiến trong khâu chế biến
nông hải sản, phơi sấy... Hoàn thiện mạng lưới khuyến nông đến từng xã, mạng lưới kỹ
thuật viên đến từng ấp, vì qua khảo sát thực tế, phần lớn các hộ nông dân ở tỉnh Kiên
Giang còn làm theo kinh nghiệm cổ truyền, kiến thức về kỹ thuật và quản lý còn ít, do
vậy không ít hộ nông dân phải trả giá đắt cho vấn đề này: trồng lúa thì năng suất kém
trồng ngô chỉ có cùi không có hạt, hoặc đầu tư nhiều nhưng hiệu quả thấp.
Công tác khuyến nông ở Kiên Giang được tập trung chỉ đạo triển khai từ năm
1993 gắn với việc giao đất, giao rừng và làm công tác quy hoạch bố trí cơ cấu cây trồng
đến chăm sóc, bảo vệ nên ít nhiều đã có kết quả bước đầu. Nhưng để đáp ứng yêu cầu
phát triển của kinh tế nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay, thì hình thức và nội dung của
công tác khuyến nông, phải đa dạng, phong phú, lại vừa ngắn gọn dễ hiểu, dễ làm, phù
hợp với trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật của đại bộ phận chủ hộ nông dân trên địa bàn
của tỉnh. Do vậy, nên chăng mở rộng các hình thức mô hình trình diễn, hội nghị đầu bờ...
thành lập các hội chuyên cây, chuyên con để các nông dân có điều kiện giúp nhau nâng
cao trình độ kỹ thuật và quản lý, giúp nhau mua sắm các loại thiết bị cần thiết phục vụ
cho sản xuất, tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm...
Chính sách đào tạo:
Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ các loại cho phát triển nông nghiệp. Tập
trung đào tạo cán bộ chuyên trách đại học ngành trồng trọt, chăn nuôi, quản lý kinh tế
nông nghiệp cho cán bộ ngành nông nghiệp và cán bộ lãnh đạo cơ sở. Đến năm 2010 cán
bộ lãnh đạo Đảng chính quyền cấp huyện có trình độ đại học, cấp xã có trình độ đại học
hoặc trung cấp kỹ thuật nông nghiệp trở lên, cần tăng cường đào tạo và bố trí cán bộ khoa
học kỹ thuật, quản lý nông nghiệp cho cấp huyện, cơ sở và tổ chức kinh tế. Đến năm
2005 cấp xã có đủ cán bộ trình độ đại học hoặc trung cấp kỹ thuật nông nghiệp bao gồm
khuyến nông bảo vệ thực vật, thú y... Có chính sách khuyến khích cán bộ khoa học kỹ
thuật về công tác ở huyện xã, các cơ sở kinh tế, đồng thời với kế hoạch bồi dưỡng. Sở
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ có kế hoạch luân chuyển cán bộ khoa học kỹ
thuật về cơ sở giúp cơ sở phát triển nông nghiệp.
- Tăng cường đào tạo dạy nghề và nâng cao kiến thức làm ăn cho nông dân, trước
mắt đẩy mạnh công tác khuyến nông, khuyến ngư, khuyến lâm, phổ cập kỹ thuật cho
nông dân. Từng bước mở các trung tâm dạy nghề ở tỉnh, huyện nhằm đáp ứng chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp. Chú trọng
đào tạo nghề cơ khí, công nghiệp chế biến, các nghề truyền thống, điện dân dụng...
3.2.5. Tăng cường năng lực quản lý nhà nước đối với kinh tế nông nghiệp
- Các cấp các ngành cần nhận thức rõ ý nghĩa chiến lược phát triển tăng cường
quản lý điều hành phát triển nông nghiệp theo quy hoạch, kế hoạch. Nâng cao vai trò
quản lý toàn diện về tài nguyên của nông nghiệp nhất là tài nguyên đất, nước, rừng...và
xây dựng nông thôn mới. Tăng cường chỉ đạo và theo dõi sâu sắc kịp thời các khó khăn
trong sản xuất nông nghiệp, thực hiện tốt quy chế dân chủ, không ngừng nâng cao chất
lượng hoạt động của tổ nhân dân tự quản.
- Các đoàn thể nhân dân cùng tăng cường phối hợp với chính quyền các cấp tham
gia, vận động hội viên, đoàn viên và nhân dân thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế
nông nghiệp nông thôn, tuyên truyền giáo dục cho nhân dân thay đổi tập quán sản xuất,
nêu cao ý thức tự lực vươn lên vượt qua đói nghèo vươn lên khá, nông nghiệp ngày càng
phát triển, nông thôn ngày càng đổi mới. Nhà nước tạo điều kiện và hỗ trợ cơ chế chính
sách để mọi người dân phát huy được nội lực của mình. Đồng thời ngoài những chính
sách đất đai, đầu tư, khuyến nông, đào tạo... đã nêu ở phần (3.2.4) ở trên sẽ thiếu sót
không nhỏ nếu bỏ qua một số chính sách để thúc đẩy phát triển kinh tế nông nghiệp ở
tầm vĩ mô như: cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm, xuất nhập khẩu, tỷ suất hối đoái, kế
hoạch hóa và hợp tác hóa... Những vấn đề vừa nêu, nếu không có chính sách rõ ràng sẽ là
trở ngại cho sự phát triển kinh tế nông nghiệp.
- Trong lĩnh vực cung ứng vật tư và tiêu thụ nông sản có ba mối quan hệ về giá
trị hàng hóa cần được xem xét khi xác định một mức giá phù hợp. Đó là mối quan hệ giá
đối với nông dân và giá đối với người tiêu dùng; giữa giá mua nông sản và giá vật tư
nông nghiệp, đặc biệt là phân bón; giữa giá trong nước và giá xuất khẩu để cạnh tranh về
chất lượng và chủng loại như giá gạo trong nước chịu sự chi phối trực tiếp giá gạo trên
thị trường quốc tế; hạn chế chủ yếu trong xuất khẩu gạo của ta hiện nay là công nghệ chế
biến từ lúa ra gạo đang sử dụng ở nước ta hiện nay chưa đáp ứng yêu cầu của thị trường
thế giới, nhất là về quy cách, màu sắc, độ bóng, chọn lựa hạt... do vậy nên giá xuất khẩu
gạo của ta thường thấp hơn giá cùng loại trên thị trường quốc tế.
- Việc mở cửa kinh tế ở nông thôn làm cho phân bón và các vật tư nông nghiệp
khác dồi dào hơn, nhất là những nơi thuận tiện cho việc giao thông và gần thành phố, đô
thị, và ngược lại, nông dân có nhiều cơ hội hơn để bán nông sản của họ. Do vậy, giá cả
hàng hóa nông sản của nông dân cũng biến động theo giá của thị trường thế giới (khi gạo
thế giới lên cao nhất thì giá gạo trong nước cũng tăng lên cao nhất và ngược lại).. Cao
trào xuất khẩu gạo vào những năm 1996 trở lại đây, một phần là do tích cực và khả năng
lưu thông trong khu vực tư nhân thông qua việc thu gom hàng từ trong nông dân bảo
quản vận chuyển và điều tiết giá cả thị trường của thành phần kinh tế Nhà nước, mà nhất
là thương nghiệp Nhà nước đối với các mặt hàng vật tư nông nghiệp, giá nông sản ở vào
các thời điểm cần thiết.
- Kinh nghiệm của nhiều nước châu á cho thấy không có nước nào có thể hiện
đại hóa nền nông nghiệp của mình trong khi độc quyền phân phối phân bón, hạt giống,
thuốc trừ sâu và nhiên liệu; đồng thời cũng không có nước nào chuyển toàn bộ nhiệm vụ
này cho khu vực kinh tế tư nhân. Cách tiếp cận tốt nhất có thể là khuyến khích cạnh tranh
giữa hai khu vực Nhà nước và tư nhân để phục vụ lợi ích của nông dân được tốt hơn.
- Đối với hàng nông sản xuất khẩu, chúng ta thường chấp nhận giá thấp hơn các
nước láng giềng cho những mặt hàng có chất lượng tương tự, là do có sự cạnh tranh ráo
riết giữa các đơn vị xuất khẩu và sự thiếu thông tin của họ về thị trường xuất khẩu. Như
vậy giải pháp có tính khả thi là gom các nông sản xuất khẩu vào một đầu mối để giảm bớt
sự cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường trong nước và trên thế giới.
- Hiện nay giữa lợi ích của nông dân và lợi ích của khách hàng có một khoảng
chênh lệch. Để thu hẹp khoảng chênh lệch này, bí quyết là giảm chi phí tiếp thị. Nếu
không nông dân phải bán sản phẩm với giá thấp, còn người tiêu dùng thì phải trả giá cao.
Điều bất hợp lý này có thể do: Chi phí cao trong quá trình vận chuyển từ nơi thu hoạch
đến nơi chế biến, cũng có thể một phần do lãi suất tín dụng cao, khấu hao thiết bị..., đó là
những khoản chi phí thật sự và hữu hình, để giảm bớt chi phí này có thể bằng cách đầu tư
vào cơ sở hạ tầng và cơ sở chế biến, thay thế những thiết bị lỗi thời bằng thiết bị hiện đại
để nâng sức cạnh tranh của sản phẩm. Nhưng chi phí tiếp thị cao một phần còn do tính vô
hình, để khắc phục phải tìm kiếm thông tin về các cơ hội buôn bán. Vấn đề này có vai trò
trọng yếu để nâng cao hiệu quả của việc định giá trong nền kinh tế thị trường. Điều đó
đòi hỏi phải có hệ thống thông tin liên lạc hiện đại để nắm bắt một cách kịp thời về diễn
biến thị trường.
- Một vấn đề quan trọng nữa đối với kinh tế nông nghiệp là vấn đề hợp tác và
hợp tác xã của các hộ nông dân.
- Các hộ nông dân sản xuất hàng hóa, vì vậy có nhu cầu hợp tác để giúp nhau
cạnh tranh thắng lợi trên thị trường và giải quyết các nhu cầu xã hội. Qua khảo sát một số
hộ nông dân ở Kiên Giang cho thấy các hộ có yêu cầu hợp tác với nhau trên nhiều mặt, từ
xây dựng kết cấu hạ tầng như mở đường từ nơi cư trú đến nơi tổ chức sản xuất; chế biến
nông, lâm sản như gạo, khóm, mía; tiêu thụ sản phẩm (nếu không hợp tác thì sẽ bị tư
thương ép giá); áp dụng kỹ thuật, phòng trừ sâu bệnh, vận chuyển hàng hóa và cả bảo vệ
tài sản và thành quả lao động... Với xu hướng này, trong tương lai sẽ hình thành các hợp
tác xã chuyên nghiệp nhằm đáp ứng các nhu cầu mà nếu không có bộ phận chuyên
nghiệp thì từng hộ nông dân không có khả năng đảm trách được như: dịch vụ cây trồng,
dịch vụ kỹ thuật bảo vệ cây trồng, thủy lợi, vận chuyển, chế biến, sửa chữa... Do vậy, có
thể kết luận rằng: Khi kinh tế nông nghiệp phát triển thì nhu cầu hợp tác, hợp tác xã là tất
yếu, vấn đề này phù hợp với quy luật phát triển của xã hội, một khi lực lượng sản xuất
được giải phóng, và phát triển đến một chừng mực nhất định, thì yêu cầu quan hệ sản
xuất cũng phải phát triển đến quy mô và trình độ thích hợp. Kinh nghiệm nhiều nước trên
thế giới cho thấy: Để tăng thêm sức mạnh và có khả năng đối phó lại sức ép kinh tế các
thành thị, các trang trại đã từng bước liên kết lại nhiều lĩnh vực như công nghiệp chế
biến, tín dụng, bảo hiểm... hình thành những tổ hợp nông-công nghiệp (Tây Âu giữa thế
kỷ XIX, Nhật Bản đầu thế kỷ XX còn các nước trong khu vực có chậm hơn) và quá trình
đó kéo dài từ 100-150 năm.
ở nước ta, những yếu tố vật chất của các tổ hợp nông-công nghiệp đã có sẵn,
nhưng ở trình độ thấp và rời rạc, còn mang tính tự phát. Nếu tìm được hình thức tổ chức
thích hợp, để kết hợp những yếu tố đó lại thì con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông thôn sẽ được rút ngắn.
Về quan hệ pháp lý - xã hội chính trị:
Từ cơ chế cũ chuyển sang cơ chế mới, nông thôn nước ta đang hoán đổi về hình
thức kinh tế, về cơ cấu thành phần, về phân tầng thu nhập... đó là kết quả tất yếu của sự
phát triển lực lượng sản xuất và tác động của cơ chế thị trường. Tất cả các yếu tố đó hợp
lại trong mối quan hệ tương tác sẽ làm biến đổi cơ cấu xã hội nông thôn. Do đó chính
sách xã hội nông thôn hình thành trong cơ chế cũ không còn phù hợp, không có cơ sở
kinh tế để thực hiện. Sự phân hóa giàu nghèo sẽ còn tồn tại trong một thời gian khá dài.
Để giải quyết chính sách xã hội phải quán triệt quan điểm dân giàu, nước mạnh đi đôi với
xóa đói giảm nghèo. Chính vì lẽ đó, phát triển kinh tế nông nghiệp với mức độ giàu có
của nó sẽ không mâu thuẫn với chính sách xã hội của Đảng ta, và bản thân nó sẽ là nhân
tố tích cực góp phần thực hiện tốt chương trình xóa đói giảm nghèo ở nông thôn. Tuy
nhiên, đất đai là tài sản quý hiếm của Quốc gia, nó không sinh sôi nảy nở thêm trong khi
dân số sống về lĩnh vực nông nghiệp vẫn còn chiếm tỷ trọng tương đối lớn (gần 80%) nên
cần có chính sách khống chế mức tích tụ ruộng đất sao cho hợp lý. Đây là vấn đề cần đặc
biệt quan tâm trong quá trình chỉ đạo điều hành.
Kết Luận
Kinh tế nông nghiệp ở nước ta nói chung, Kiên Giang nói riêng đã có từ lâu
nhưng chỉ mới phát triển mạnh gần đây. Có thể xem việc thực hiện Chỉ thị 100 của Ban
Bí Thư Trung ương Đảng (khóa IV), Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (khóa VI) về phát
huy vai trò tự chủ của kinh tế hộ nông dân là khởi đầu của việc đặt nền móng cho sự phát
triển mạnh mẽ kinh tế nông nghiệp. Với những thành tựu của việc thực hiện chính sách
đổi mới, trong đó sản xuất nông nghiệp có bước phát triển vượt bậc, nhiều hộ nông dân
bước đầu đã có tích lũy, tạo tiền đề phát triển kinh tế. Sau Nghị quyết Trung ương 5 khóa
VII (1993) và đặc biệt là sau khi Luật Đất đai ra đời quy định 5 quyền sử dụng đất, thì
kinh tế nông nghiệp thực sự có bước phát triển khá nhanh và đa dạng. Cùng với kinh tế
hộ nó góp phần chuyển nền kinh tế từ tự cung cấp sang nền kinh tế hàng hóa, tạo điều
kiện cho công nghiệp và dịch vụ phát triển; chuyển dịch cơ cấu ngành mà rõ nhất là cây,
con trong nông nghiệp và lãnh thổ hướng khai thác có hiệu quả tiềm năng và thế mạnh
của tỉnh. Phát triển kinh tế nông nghiệp còn tạo ra việc làm, có thêm điều kiện tích tụ
vốn, áp dụng tiến bộ kỹ thuật, góp phần bảo đảm an ninh quốc phòng; thực hiện có kết quả
kế hoạch định canh định cư, xóa đói giảm nghèo; nâng cao trình độ dân trí, trình độ tiếp cận
và vận dụng các tiến bộ về khoa học kỹ thuật vào cuộc sống và sản xuất, từ đó rút ngắn được
khoảng cách về thu nhập, về trình độ nhận thức mọi mặt giữa nông thôn và thành thị.
Kết quả việc phát triển kinh tế nông nghiệp trong những năm qua là bằng chứng
hùng hồn để khẳng định chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước là đúng đắn và đã
đi vào lòng dân, được nhân dân đón nhận một cách tự giác và vận dụng sáng tạo mang lại
lợi ích cho bản thân, gia đình và cho xã hội.
Kiên Giang là một tỉnh lớn có tài nguyên đa dạng và phong phú, có nhiều tiềm
năng về mở rộng diện tích tăng vụ, tăng năng suất và đa dạng hóa sản xuất, vì vậy đẩy
mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp không chỉ có vai trò quan trọng tạo nền tảng cho sự
phát triển nông thôn và nền kinh tế đa dạng của tỉnh mà còn có vai trò to lớn trong việc
thực hiện các chỉ tiêu phát triển nông nghiệp toàn đồng bằng sông Cửu Long. Nền kinh tế
nông nghiệp tỉnh Kiên Giang sẽ tiếp tục tăng trưởng nhanh, bền vững, cơ cấu kinh tế
nông nghiệp nông thôn sẽ có bước chuyển biến lớn; cùng với sự phát triển chung của cả
nước, sẽ có sức cạnh tranh mới trong quá trình hòa nhập vào nền kinh tế thị trường của
khu vực và thế giới.
Giải quyết tốt quan hệ đất đai, tạo điều kiện cho mỗi hộ có quy mô đất đai liền
vùng, liền khoảnh, để mở rộng sản xuất. Đồng thời cần có biện pháp tích cực để ngăn
chặn tình trạng mua bán, sang nhượng, đất đai trái phép trong nhân dân và trong các đơn
vị kinh tế, không để tình trạng nông dân, nhất là người dân tộc, trắng tay không có đất
sản xuất. Cần đẩy mạnh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (bao gồm đất ở
và đất nông nghiệp), giúp các hộ nông dân có thêm điều kiện để vay vốn ngân hàng hoặc
sử dụng như là tài sản trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Kinh tế Nhà nước phải vươn lên phát huy vai trò chủ đạo, thực sự là chất xúc tác
để định hướng các thành phần kinh tế khác phát triển theo những bước đi vững chắc. Ra sức
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nông nghiệp, nông thôn, đẩy mạnh công nghiệp chế
biến, mở rộng thị trường nông sản, thực hiện tốt những chính sách kinh tế lớn đối với
nông nghiệp, nông thôn. Tăng cường vai trò quản lý Nhà nước trên lĩnh vực kinh tế nông
nghiệp.
Công cuộc đổi mới của đất nước nói chung của Kiên Giang nói riêng, có tiến triển
hay không còn tùy thuộc vào quá trình tìm tòi sáng tạo ra các bước đi mới khoa học, phù hợp
quy luật phát triển chung của nhân loại với các hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả. Việc
chỉ đạo phát triển kinh tế nông nghiệp đúng hướng là một trong những nhân tố góp phần
thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhanh
chóng đưa nước ta tới dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh tiến bộ.
DANH Mục Tài Liệu THAM Khảo
[1]. Báo cáo quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội tỉnh Kiên Giang thời kỳ 1996 - 2010.
UBND tỉnh Kiên Giang, 1995.
[2]. Chương trình của an ninh lương thực tỉnh Kiên Giang đến năm 2010. Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Kiên Giang, 1999.
[3]. Dự thảo đề án công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn thời kỳ 1998
-2020. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 1998.
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến
năm 2000. Nxb Sự thật, Hà Nội 1991.
[5]. Đề án chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn tỉnh Kiên Giang đến năm
2010. UBND tỉnh Kiên Giang, 1999.
[6]. Nguyễn Điền. Công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn các nước châu á và Việt
Nam. Nxb Chính trị Quốc gia, 1990.
[7]. Định hướng phát triển nông nghiệp giai đoạn 1996-2000 và 2010 tỉnh Kiên
Giang. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Kiên Giang, 1995.
[8]. Đổi mới và phát triển nông nghiệp nông thôn. Nxb Nông nghiệp, 1996.
[9]. Đổi mới và hoàn thiện một số chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn. Nxb
Nông nghiệp, Hà Nội, 1996.
[10]. Đông á con đường dẫn đến phục hồi. Nxb Chính trị Quốc gia, 1999.
[11]. Hoàng Hải. Nông nghiệp Châu á, những kinh nghiệm phát triển. Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội 1996.
[12]. Chử Văn Lâm. Những vấn đề kinh tế cơ bản trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam. Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội 1991.
[13]. V.I. Lênin. Toàn tập. Vấn đề ruộng đất và những kẻ phê phán Mác, tập 5. Nxb
Tiến bộ Matxcơva, 1975.
[14]. Các- Mác. Tư Bản, quyển 3, tập 1. Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1993.
[15]. Các Mác. Tư Bản, quyển 1, tập 2. Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1993.
[16]. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 8. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 328.
[17]. Một số vấn đề then chốt, cấp bách thúc đẩy sản xuất nông nghiệp và nông thôn
của Ban Kinh tế Trung ương.
[18]. Nguyễn Thế Nhã. Những vấn đề lý luận cơ bản về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp nông thôn, Hà Nội, 1996.
[19]. Nguyễn Thế Nhã, Hoàng Văn Hoa. Vai trò Nhà nước trong phát triển nông nghiệp
Thái Lan, Nhà xuất bản nông nghiệp 1995.
[20]. Nghị quyết 06 / NQ-TW ngày 10/11/1998 của Bộ Chính trị về một số vấn đề phát
triển nông nghiệp và nông thôn.
[21]. Nguyễn Xuân Nguyên. Khuynh hướng phân hóa hộ nông dân trong phát triển sản
xuất hàng hóa. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995.
[22]. Niên giám thống kê tỉnh Kiên Giang năm 1996, 1997, 1998 của Cục Thống Kê
tỉnh Kiên Giang.
[23]. Nguyễn Huy Oánh. Kinh tế trang trại với vấn đề thực hiện CNTB Nhà nước trong
nông nghiệp. Tạp chí NCKT, số 5 năm 1998.
[24]. Vũ Văn Phúc. Một số vấn đề công nghiệp hóa hiện đại hóa nông thôn. Tạp chí
Nghiên cứu trao đổi số 7, tháng 4-1999.
[25]. Chu Hữu Quý. Phát triển toàn diện kinh tế nông thôn, nông nghiệp Việt Nam. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1996.
[26]. Tài liệu tập huấn phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, tập I, II. Nxb Chính trị Quốc gia 1998.
[27]. Hữu Thọ. Một số vấn đề quan trọng đối với nông nghiệp và nông thôn và nhiệm vụ
công tác tư tưởng. Tạp chí Công tác tư tưởng văn hóa.
[28]. Thúc đẩy phát triển nông thôn Việt Nam từ viễn cảnh tới hành động; Việt Nam
vượt lên thử thách. Báo cáo của Hội nghị tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam,
ngày 7-8 tháng 12-1998.
[29]. Nguyễn Văn Tiêm. Chính sách Nhà nước đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế trong nông nghiệp nông thôn ở nước ta. Hội thảo khoa học về chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông thôn Việt Nam, 1994.
[30]. Đào Thế Tuấn. Những lý thuyết về kinh tế nông thôn. Tạp chí thông tin lý luận,
tháng 11-1991.
[31]. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1986.
[32]. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991.
[33]. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1996.
[34]. Văn kiện Đại hội Đại biểu tỉnh Kiên Giang lần thứ VI.
mục lục
Trang
Mở đầu 1
Chương 1: vai trò của kinh tế nông nghiệp đối với phát triển
kinh tế-xã hội ở tỉnh kiên giang
5
1.1. Nhận thức lý luận thực tiễn về kinh tế nông nghiệp và vai trò
của kinh tế nông nghiệp
5
1.1.1. Vậy thế nào là nông nghiệp, kinh tế nông nghiệp 6
1.1.2. Vấn đề nông nghiệp trong một số lý thuyết kinh tế 7
1.1.3. Kinh nghiệm về phát triển kinh tế nông nghiệp ở một số nước 12
trên thế giới
1.2. Vai trò kinh tế nông nghiệp trong sự phát triển kinh tế nói
chung và ở tỉnh Kiên Giang
18
Chương 2: thực trạng kinh tế nông nghiệp ở kiên giang
những năm qua và một số vấn đề đặt ra cần
giải quyết
23
2.1. Đặc điểm tự nhiên - xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế
nông nghiệp ở tỉnh Kiên Giang
23
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên kinh tế - xã hội ở tỉnh Kiên Giang 23
2.1.2. Đặc điểm kinh tế nông nghiệp của tỉnh Kiên Giang 33
2.2. Thực trạng kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Kiên Giang 38
2.2.1. Thực trạng kinh tế nông nghiệp trước đổi mới 38
2.2.2. Thực trạng kinh tế nông nghiệp những năm gần đây 40
2.2.3. Một số yếu kém cần khắc phục 49
Chương 3: phương hướng, giải pháp cơ bản để phát triển
kinh tế nông nghiệp ở tỉnh kiên giang
53
3.1. Phương hướng phát triển kinh tế nông nghiệp trong những
năm tới
53
3.1.1. Phương hướng bố trí sản xuất và hướng phát triển của một số
cây, con chủ yếu
53
3.1.2. Phương hướng phát triển nông nghiệp hàng hóa theo cơ chế thị
trường
62
3.1.3. Phương hướng phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
66
3.1.4. Thực hiện hướng phát triển kinh tế nông nghiệp gắn với văn hóa
xã hội nông dân, nông thôn
67
3.1.5. Phát triển nền nông nghiệp vững bền sinh thái 69
3.2. Một số giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế nông nghiệp ở
tỉnh Kiên Giang
70
3.2.1. Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần để
phát triển kinh tế nông nghiệp
71
3.2.2. Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nông nghiệp, nông thôn 72
3.2.3. Đẩy mạnh công nghiệp chế biến nông, thủy sản 74
3.2.4. Thực hiện những chính sách kinh tế lớn đối với nông nghiệp,
nông thôn
77
3.2.5. Tăng cường năng lực quản lý nhà nước đối với kinh tế nông
nghiệp
88
Kết luận 93
Danh mục tài liệu tham khảo 95
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 96_9631.pdf