PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Trong những năm qua, nhờ công cuộc đổi mới kinh tế, thúc đẩy chuyển dịch kinh tế, thúc đẩy nhanh quá trình mở cửa, hội nhập với kinh tế thế giới và khu vực mà kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tốc độ tăng trưởng bình quân đạt trên 7,5% năm, bình quân lương thực đầu/người đạt 444 kg năm 2000, đời sống của nhân dân đã được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ người nghèo giảm một nửa so với những năm 90 còn 29% (2002).
Mặc dù đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo, nhưng tình hình nghèo đói ở Việt Nam vẫn còn tồn tại ở trên diện rộng, đặc biệt ở nông thôn, miền núi, vùng sâu vùng xa. Do vậy xóa đói giảm nghèo là một yêu cầu tất yếu trong quá trình phát triển. Và trong quá trình đó, tín dụng được coi là một công cụ chủ chốt phá vỡ vòng luẫn quẩn của sự nghèo đói và là một trong yếu tố quan trọng không thể thiếu trong chiến lược xóa đói giảm nghèo của quốc gia.
Hội nghị thượng đỉnh vi tín dụng toàn cầu họp vào tháng 4 năm 2005 tại Chile đã đưa ra hai mục tiêu tiếp theo là “ đảm bảo rằng tới cuối năm 2010, sẽ có 175 triệu gia đình nghèo trên thế giới, đặc biệt là phụ nữ của những gia đình đó nhận được khoản tín dụng để tự tạo việc làm, và các dịch vụ tài chính, kinh doanh khác” và “ đảm bảo rằng tới cuối năm 2015, sẽ có 100 triệu gia đình nghèo nhất trên thế giới sẽ chuyển từ mức thu nhập dưới 1 đôla một ngày hiện nay lên trên 1 đôla một ngày (đã điều chỉnh cho tỷ suất ngang giá về khả năng trao đổi)”
“Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo” đã đưa ra cải cách và đổi mới hệ thống tài chính tín dụng nông thôn, hình thành thị trường tín dụng bền vững, bảo đảm các hộ nghèo có điều kiện gửi vay được thuận lợi. Hoàn thiện quy trình cho vay với cơ chế một cửa giúp người nghèo vay vốn được dễ dàng. Thực hiện chính sách tín dụng phù hợp với các đối tượng chính sách, tạo điều kiện cho người nghèo có nhu cầu được vay vốn tín dụng với lãi suất hợp lý và đúng thời vụ. Trước mắt áp dụng chính sách lãi suất cho người nghèo và về lâu dài sẽ chuyển dần sang tăng khả năng tiếp cận của người nghèo với hệ thống tín dụng chính thức. Thực hiện trợ cấp trực tiếp cho các tổ chức ngân hàng tín dụng hoạt động ở các vùng khó khăn để bù đắp các chi phí phát sinh.
Theo số liệu thống kê trong năm 2005, có 3 tổ chức tài chính vi mô lớn hiện đang cung cấp dịch vụ khu vực nông thôn là NHNo với số khách hàng lên đến 4 triệu, NHCSXH cung cấp vốn bao cấp cho hơn 3 triệu hộ, quỹ tín dụng nhân dân gần 1 triệu hộ, và các tổ chức tài chính vi mô phục vụ trên 35 vạn hộ nghèo. Như vậy còn khoảng 4 triệu hộ, trong đó có các hộ nghèo ở vùng đặc biệt khó khăn vẫn chưa có cơ may được tiếp cận với dịch vụ tài chính.
Nhằm hỗ trợ người nghèo tiếp cận đến hệ thống tín dụng nông thôn, một số tổ chức phi chính phủ (NGO) đã hỗ trợ thành lập quỹ tín dụng tiết kiệm phụ nữ tại các vùng nông thôn miền núi. Hiện tại qũy tín dụng tiết kiệm phụ nữ (QTD) đã có một số kết quả đáng kể trong hỗ trợ vay vốn và sử dụng có hiệu quả, góp phần vào công cuộc xoá đói giảm nghèo tại Việt Nam.
Với mục tiêu quản lý hoạt động các tổ chức cung cấp tài chính vi mô tại Việt Nam, Chính phủ đã ban hành Nghị định 28/2005/NĐ-CP ngày 09 tháng 03 năm 2005 về tổ chức và hoạt động của tổ chức tài chính vi mô nhỏ tại Việt Nam, nghị định có ảnh hưởng nhất định đến hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô hiện nay. Theo điều khoản của nghị định thì những tổ chức cung cấp tài chính vi mô có nguồn vốn chủ sở hữu dưới 500 triệu sẽ không hoạt động, còn nếu có nguồn vốn chủ sở hữu dưới 5 tỷ sẽ không được thực hiện tiết kiệm tự nguyện. Như vậy những tổ chức tài chính vi mô đang hoạt động tại những vùng, địa bàn khó khăn, chưa thể đáp ứng được những yêu cầu của sự thay đổi trong cấu trúc quản lý và năng lực của tổ chức thì sẽ tồn tại như thế nào.
Tại xã Yến Mao và Phượng Mao, huyện Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ, Trung tâm Dịch vụ Phát triển Nông thôn (RDSC) đã hỗ trợ thành lập QTD từ năm 1996, đến nay sau hơn 10 năm hoạt động, QTD đã góp phần hỗ trợ người nghèo tiếp cận với nguồn vốn và đầu tư sản xuất có hiệu quả, nâng cao đời sống của gia đình. Tuy nhiên hiện tại nguồn vốn của các quỹ tín dụng này bao gồm cả nguồn vốn chủ sở hữu và tiết kiệm tự nguyện chỉ dưới 300 triệu, như vậy các Qũy tín dụng sẽ gặp nhiều khó khăn khi Nghị định 28 của Chính Phủ được thực thi.
Nhằm ghi nhận những đóng góp của Quỹ tín dụng phụ nữ trong sự phát triển của phụ nữ và giảm nghèo, và giúp các tổ chức đoàn thể, các tổ chức phát triển có những kinh nghiệm cần thiết trong xây dựng và hỗ trợ hoạt động quỹ tín dụng phụ nữ, đồng thời có những kiến nghị cần thiết đến Chính phủ trong hỗ trợ hoạt động của các QTD, tôi thực hiện cuộc nghiên cứu với đề tài “Phát triển Quỹ tín dụng tiết kiệm phụ nữ tại Việt Nam – Nghiên cứu trường hợp xã Yến Mao và Phượng Mao, huyện Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ”.
MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU1
Lý do chọn đề tài1
Mục tiêu nghiên cứu. 3
Phương pháp nghiên cứu. 4
CHƯƠNG 1: CÁC MÔ HÌNH TỔ CHỨC TÀI CHÍNH VI MÔ6
1.1 Khái niệm và quan điểm về hoạt động tài chính vi mô. 6
1.1.1 Khái niệm tài chính vi mô. 6
1.1.2 Quan điểm về hoạt động tài chính vi mô. 8
1.2 Các loại hình tổ chức tài chính vi mô. 11
1.2.1 Tổ chức tài chính vi mô chính thức. 11
1.2.2 Tổ chức tài chính bán chính thức. 12
1.2.3 Khu vực tài chính phi chính thức. 14
1.3 Phương pháp tiếp cận tài chính vi mô. 15
1.3.1 Cho vay cá thể. 15
1.3.2 Cho vay theo nhóm tương hỗ Grameen. 17
1.3.3 Cho vay theo nhóm tương hỗ Châu Mỹ La tinh. 20
1.3.4 Ngân hàng làng xã. 21
1.3.5 Ngân hàng làng xã tự quản. 23
1.4 Tác động của tài chính vi mô. 24
1.4.1 Phát triển kinh tế xã hội24
1.4.2 Thúc đẩy phát triển hoạt động tài chính. 26
1.5 Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tài chính vi mô. 27
1.5.1 Các yếu tố về môi trường, chính sách. 27
1.5.2 Các yếu tố về thể chế của tổ chức. 28
1.5.3 Các yếu tố năng lực tổ chức. 30
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA QUỸ TÍN DỤNG TIẾT KIỆM PHỤ NỮ TẠI VIỆT NAM-NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP XÃ YẾN MAO VÀ PHƯỢNG MAO, TỈNH PHÚ THỌ32
2.1 Tổng quan về các quỹ tín dụng tiết kiệm phụ nữ tại Việt Nam32
2.1.1 Các tổ chức hỗ trợ hoạt động QTD phụ nữ. 32
2.1.2 Cấu trúc tổ chức qũy tín dụng tiết kiệm phụ nữ. 36
2.1.3 Hoạt động huy động vốn. 38
2.1.4 Hoạt động cho vay vốn. 40
2.2 Hoạt động Quỹ tín dụng tiết kiệm phụ nữ tại xã Yến Mao và Phượng Mao42
2.2.1 Giới thiệu tổng quan về xã Yến Mao và Phượng Mao. 42
2.2.1.1 Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội42
2.2.1.2 Hoạt động tài chính vi mô tại Yến Mao và Phượng Mao. 44
2.2.2 Thực trạng hoạt động qũy tín dụng tiết kiệm phụ nữ. 54
2.2.2.1 Cấu trúc tổ chức quỹ tín dụng tiết kiệm phụ nữ. 56
2.2.2.2 Hoạt động huy động vốn. 59
2.2.2.3 Hoạt động cho vay vốn. 61
2.2.2.4 Tác động của Qũy tín dụng tiết kiệm phụ nữ. 64
2.3 Đánh giá hoạt động của qũy tín dụng tiết kiệm phụ nữ. 72
2.3.1 Điểm mạnh, điểm yếu của quỹ tín dụng tiết kiệm phụ nữ. 72
2.3.1.1 Điểm mạnh. 72
2.3.1.2 Điểm yếu. 73
2.3.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động Qũy tín dụng. 76
2.3.2.1 Năng lực của tổ chức. 76
2.3.2.2 Thể chế của tổ chức. 78
2.3.2.3 Môi trường hoạt động, chính sách của Chính Phủ. 79
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN QUỸ TÍN DỤNG TIẾT KIỆM PHỤ NỮ TẠI VIỆT NAM83
3.1 Định hướng phát triển quỹ tín dụng tiết kiệm phụ nữ. 83
3.2 Một số giải pháp phát triển quỹ tín dụng phụ nữ. 85
3.2.1 Phát triển tổ chức. 85
3.2.2 Phát triển thị trường dịch vụ. 88
3.2.3 Mở rộng các dịch vụ cung cấp. 91
3.2.4 Xây dựng hiệp hội hỗ trợ hoạt động tài chính vi mô. 93
3.3 Các kiến nghị93
3.3.1 Tạo môi trường thuận lợi93
3.3.2 Xây dựng chiến lược quốc gia về tài chính vi mô. 95
KẾT LUẬN97
TÀI LIỆU THAM KHẢO98
107 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2875 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phát triển Quỹ tín dụng tiết kiệm phụ nữ tại Việt Nam – Nghiên cứu trường hợp xã Yến Mao và Phượng Mao, huyện Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o thông thuận tiện nên học có thể sử dụng máy móc vào trong sản xuất nông nghiệp, có nguồn vốn đầu tư và các kiến thức khoa học kỹ thuật được học hỏi trong quá trình tham gia QTD đã góp phần tăng năng suất cây trồng. Họ trở thành người mang thu nhập chính trong gia đình, và từ đó tiếng nói của họ trong gia đình sẽ có trọng lượng hơn, và vai trò của họ trong gia đình ngày càng được nâng cao.
Mức độ chia sẻ công việc gia đình: Thay đổi vị thế của người phụ nữ không hẳn ở chỗ họ đã tham gia quyết định nhiều công việc quan trọng của gia đình hơn mà ở chỗ họ đã thực hiện vai trò của mình trong lao động sản xuất và thực sự họ đã “chia sẻ” rất nhiều đối với người chồng. Hay nói cách khác, thông qua lao động, và bằng lao động người phụ nữ đã khẳng định được khả năng của mình.
Thành công của QTD được ghi nhận ở chỗ đã tạo điều kiện cho người phụ nữ bộc lộ tiềm năng trong lao động sản xuất của mình, nâng cao hơn vị thế của họ trong gia đình và cộng đồng. Tuy nhiên cũng vì thế mà trách nhiệm của người phụ nữ đối với gia đình của họ lại nặng nề hơn trước. Đây là điều không ai mong muốn, nhưng trong bối cảnh của sự tự vượt lên nghèo khó của hộ gia đình thì quá trình này là một tất yếu khách quan.
Vị thế của người phụ nữ trong xã hội: Trong những năm gần đây, không những đời sống của người phụ nữ được nâng lên, mà vị thế của họ trong các hoạt động xã hội cũng đã thay đổi. Họ được tham gia nhiều hơn trong các tổ chức đoàn thể như Hội phụ nữ, Hội nông dân, gia đình mà nhất là người chồng đã tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động của phụ nữ.
Thúc đẩy phát triển hoạt động tài chính
Đáp ứng các nhu cầu về vay vốn của người nghèo: Khi người nghèo có nhu cầu vay vốn với nguồn vốn nhỏ thì các tổ chức tài chính chính thức không muốn cung cấp vì đối với các khoản vay vốn nhỏ thì lãi vay vốn sẽ không đủ bù đắp cho chi phí quản lý. Hơn nữa, với những thủ tục vay vốn của các tổ chức tài chính chính thức thì chi phí để được vay vốn sẽ cao hơn nhiều so với lãi suất phải trả đối với những khoản vay nhỏ. Tuy nhiên, các QTD do có quan hệ chặt chẽ với các tổ chức chính trị xã hội như Hội phụ nữ thường có cấu trúc tổ chức phân làm nhiều cấp và vướn tới tận thôn bản, cán bộ quản lý lại là người ở cộng đồng. Điều đó có nghĩa là khách hàng có thể tiếp cận các dịch vụ tài chính một cách dễ dàng, nhanh chóng và thuận tiện hơn; và cán bộ QTD có thể giám sát hiệu quả hơn và đáp ứng các nhu cầu của khách hàng một cách tốt hơn.
Theo kết quả của cuộc điều tra thì phần lớn các thành viên được tham vấn đều cho rằng QTD dễ tiếp cận hơn so với các tổ chức cung cấp tài chính nông thôn như NHNo và NHCSXH trên cùng địa bàn. Theo bảng dưới đây được hỏi với các thành viên được tham vấn thấy rằng tỷ lệ số người đánh giá mức độ thuận lợi khi tiếp cận với nguồn vốn QTD là 30%, còn đối với NHCSXH và NHNo là 15%. Về đánh giá mức độ cải thiện để người dân tiếp cận được nhiều hơn thì QTD vẫn được đánh giá là mức độ cải thiện mạnh nhất.
Bảng 2.10: Đánh giá mức độ thuận lợi khi tiếp cận với tổ chức cung cấp tín dụng
ĐVT: %
Tổ chức cung cấp tín dụng
Tần suất đánh giá mức độ thuận lợi khi tiếp cận
Rất thuận lợi
Bình thường
Khó khăn
Không ý kiến
NHNo
15
38
4
43
NHCS
15
30
0
55
QTD
30
22
2
46
Nguồn: Tổng hợp và phân tích số liệu điều tra
Thúc đẩy việc nâng cao chất lượng dịch vụ của các tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng: Với những loại hình dịch vụ do QTD cung cấp đáp ứng phần nào nhu cầu của người nghèo, từ đó đã có những ảnh hưởng nhất định đến các tổ chức tài chính chính thức. Với cách thức phục vụ, thủ tục hành chính đơn giản hóa đã góp phần làm thay đổi cách thức hoạt động của các tổ chức tài chính chính chính thức.
Ngoài ra, các dịch vụ phi tài chính chiếm một phần quan trọng trong các hoạt động của các tổ chức TCVM. Những dịch vụ này bao gồm đào tạo về kỹ năng kinh doanh cơ bản, thông tin về chăm sóc sức khỏe sinh sản, các kiến thức về khoa học kỹ thuật mới... Các khách hàng cho biết sự khác biệt chủ yếu giữa các tổ chức TCVM và NHNo là ở mức độ đào tạo tiếp tục và trợ giúp kỹ thuật do các tổ chức TCVM cung cấp sau khi giải ngân, một dịch vụ mà các khách hàng đánh giá cấo vì nó đã giúp họ sử dụng nguồn vốn vay một cách hiệu quả hơn.
2.3 Đánh giá hoạt động của qũy tín dụng tiết kiệm phụ nữ
2.3.1 Điểm mạnh, điểm yếu của quỹ tín dụng tiết kiệm phụ nữ
2.3.1.1 Điểm mạnh
Các QTD sau một thời gian hoạt động đã đạt được một số kết quả đáng kể trong việc cung cấp dịch vụ tín dụng cho người nghèo góp phần thay đổi đời sống của cộng đồng, quy mô thành viên và nguồn vốn có gia tăng, hoạt động đã có lãi. Một điểm mạnh của QTD đó là có khả năng cung cấp tín dụng cho cộng đồng vùng sâu vùng xa, nơi mà các tổ chức tài chính vi mô khó có thể tiếp cận được, và nếu có tiếp cận được thì chi phí quản lý sẽ rất cao.
Quy mô vốn vay, hình thức vay trả và lãi suất tín dụng phù hợp với các thành viên, đặc biệt là đối với các thành viên nghèo trong việc huy động nguồn tiết kiệm của họ. Với hình thức vay trả như trên tốc độ quay vòng vốn cao, hàng tháng đều có người vay và trả vốn.
Quản lý minh bạch và dân chủ. Các thông tin liên quan đến hoạt động của tổ chức như các dịch vụ cung cấp, tỷ lệ lãi suất, bình bầu thành viên vay vốn... đều được thảo luận và công bố công khai. Việc minh bạch về tài chính là một trong những điều kiện tiên quyết để phát triển bền vững QTD.
Thực hiện các dịch vụ hỗ trợ sau vay vốn đối với thành viên, đây là điểm mà QTD có thể cạnh tranh với các tổ chức cung cấp dịch vụ chính thức. Các dịch vụ được cung cấp gồm các kiến thức khoa học kỹ thuật về sản xuất nông nghiệp, các dịch vụ nông nghiệp với giá rẻ...
2.3.1.2 Điểm yếu
Các kỹ năng lãnh đạo của BQL vẫn là vấn đề cần được xem xét. Các cán bộ BQL chủ yếu chỉ đóng vai trò thực hiện các hoạt động thường xuyên của quỹ như bình xét vay vốn, tiếp nhận thành viên... Năng lực của BQL chủ yếu được xây dựng trong quá trình hoạt động của qũy thông qua các khóa đào tạo ngắn hạn, chủ yếu các khóa đào tạo này cung cấp các kiến thức về nghiệp vụ ghi chép sổ sách kế toán, các nguyên tắc kế toán và chuyên môn không hoặc ít được đề cập. Họ chưa có được những tầm nhìn xa để đưa tổ chức của mình đạt được mục đích tốt hơn, họ chưa thực hiện được vai trò tiếp cận đến các tổ chức và nhà tài trợ khác. Ví dụ đối với QTD xã Yến Mao và Phượng Mao chỉ tiếp cận với nhà tài trợ duy nhất là RDSC.
Hiện nay các QTD chưa có một chương trình chuẩn để đào tạo lại cán bộ mới. Hầu hết các chương trình đào tạo này chỉ tập trung vào hoạt động và quy trình, thủ tục nội bộ của tổ chức chứ không phải là các kiến thức, hoặc thông lệ của ngành tài chính. Vì vậy nhu cầu đào tạo cho các cán bộ quản lý hiện nay vẫn là vấn đề lớn.
BQL quỹ tín dụng hiện nay đều có phụ cấp, tuy hiện nay họ có thể chấp nhận với nguồn phụ cấn này nhưng về lâu dài sẽ không bền vững với các lý do: các hoạt động quản lý hiện nay của BQL quỹ là hoạt động phong trào, họ đã tham gia hội phụ nữ nên đã có phụ cấp; và khi nguồn vốn không tăng thì mức phụ cấp vẫn giữ nguyên sẽ không phù hợp với xu thế phát triển của kinh tế. Như vậy sẽ khó thu hút được nhân tài tham gia vào quản lý QTD.
Hệ thống thông tin quản lý của QTD hiện nay đang là một vấn đề lớn cần xem xét đến, phần lớn kế toán các QTD quản lý tài chính bằng sổ sách kế toán đơn giản, có một số tổ chức đã có áp dụng máy tính vào quản lý nhưng chỉ sử dụng Excel, còn áp dụng phần mềm kế toán thì rất hạn chế. Ví dụ thực tế là kế toán QTD tại hai xã nghiên cứu chỉ sử dụng sổ sách và máy tính bấm tay để quản lý nguồn vốn hơn 200 triệu đồng và hơn 200 thành viên. Họ chưa biết cách thức sử dụng máy tính, không biết sử dụng phần mềm Excel chứ không nói đến là các phần mềm kế toán phức tạp khác. Đối với một số QTD lớn khác, sau một thời gian dài hoạt động đến nay mới chuẩn bị cho việc áp dụng phần mềm kế toán vào quản lý, tuy nhiên hoạt động này mới mang tính chất thử nghiệm.
Một trong những điểm yếu của QTD đó là mục tiêu của QTD đáp ứng nhu cầu của người nghèo, vì vậy nguồn vốn vay không lớn. Và những đơn đề nghị với khoản tiền lớn sử dụng cho sản xuất kinh doanh thì QTD vẫn chưa đáp ứng được. Vì vậy QTD sẽ rất khó đứng vững hay mở rộng thị trường kinh doanh tín dụng của mình ra phạm vi ngoài các thành viên của hội phụ nữ, cũng như mở rộng ra địa bàn các vùng lân cận. Vấn đề đối với các QTD hiện nay là nguồn vốn hoạt động còn quá thấp. Xét ví dụ đến QTD xã Yến Mao và Phượng Mao thì nguồn vốn chỉ dưới 300 triệu đồng, như vậy theo Nghị định 28 của Chính phủ thì QTD phải giải thể do nguồn vốn thấp hơn 300 triệu. Đây là một khó khăn mà QTD chưa tìm được phương án khắc phục.
BQL một số QTD vẫn chưa xác định được tỷ lệ số thành viên được vay vốn là bao nhiêu cho phù hợp, và nêu đạt đến tỷ lệ trên thì cần phải có những giải pháp như thế nào để hạ thấp tỷ lệ đó. Ví dụ theo báo cáo của BQL QTD xã Yến Mao trong tổng số 391 thành viên thì có 291 người đang vay vốn, chiếm tỷ lệ 74%; đối với QTD xã Phượng Mao trong tổng số 314 thành viên thì có 243 thành viên đang vay vốn, chiếm tỷ lệ 77%. Như vậy nếu BQL không đưa ra được giải pháp để khắc phục tình trạng vay vốn như trên thì sẽ dẫn đến trường hợp tất cả các thành viên đều đang vay vốn, và như vậy theo quy chế sẽ không có người vay vốn tiếp theo và dẫn đến việc ứ đọng vốn. Điều này sẽ trái với quan điểm bền vững của tổ chức TCVM là thành viên phải thường xuyên chuyển dịch vai trò từ người gửi tiết kiệm thuần túy sang người vay vốn và ngược lại.
Hiện nay các QTD không được phép huy động vốn hay vay vốn kinh doanh từ các ngân hàng khác, nguồn vốn hoạt động chủ yếu dựa vào nguồn TKĐM và vốn tài trợ, nguồn vốn TKTN còn quá ít, vì vậy nguồn vốn hoạt động không tăng trưởng nhiều vì phụ thuộc vào số lượng và định mức TKĐM của các thành viên tham gia. Khả năng không bền vững về mặt tài chính thể hiện ở số tiền tồn quỹ trong các tháng, để đảm bảo kinh doanh có lãi, các QTD thường cho vay vốn hết, và vì thế khi một thành viên gửi TKTN muốn rút thì phải chờ tháng tiếp theo, và nếu nguồn vốn lớn có thể phải rút tiền chia thành nhiều đợt. Và điều này đã hạn chế khả năng huy động vốn từ các thành viên phục vụ cho hoạt động của tổ chức.
Các QTD xác định lãi suất dựa trên lãi suất của các tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng lớn như NHNo chứ không phải là dựa vào công thức cụ thể được chuẩn hóa tính toán đến chi phí tài chính, tỷ lệ lạm phát, chi phí hoạt động và nhu cầu tăng trưởng vốn trong tương lai. Tuy nhiên vấn đề là các tổ chức tài chính chính thức có được sự hỗ trợ từ Chính phủ, và vì vậy các QTD đều sẽ không trở thành các tổ chức tài chính bền vững nếu họ cho vay với lãi suất thấp hoặc khi nguồn vốn tài trợ bị thu hồi. Vì vậy các QTD cần phải chuyển hướng cạnh tranh, thay vì cạnh tranh về giá cần phải cạnh tranh thêm về các loại dịch vụ bổ sung.
Phần lớn các QTD chưa có một kế hoạch kinh doanh rõ ràng về hoạt động cũng như định hướng trong thời gian tiếp theo. Dịch vụ chủ yếu hiện tại của qũy là cung cấp dịch vụ vay vốn ngắn hạn và trung hạn, tuy nhiên dịch vụ trung hạn còn chưa được thực hiện rộng rãi. Chưa có thêm nhiều những dịch vụ hỗ trợ khác sau vay vốn ngoài việc tư vấn kỹ thuật. Về định hướng cũng như chiến lược hoạt động của qũy trong thời gian tiếp theo chưa được thảo luận và xây dựng.
2.3.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động Qũy tín dụng
2.3.2.1 Năng lực của tổ chức
Năng lực của tổ chức ảnh hưởng đến quá trình phát triển của tổ chức cung cấp TCVM, năng lực của tổ chức được thể hiện thông qua:
Vốn pháp định: Đối với các tổ chức cung cấp dịch vụ TCVM lớn thì điều kiện này chưa phải là vấn đề, tuy nhiên đối với những tổ chức nhỏ như QTD tại hai xã Yến Mao và Phượng Mao thì quy định về vốn pháp định sẽ là vấn đề lớn. Cả hai tổ chức này hiện nay đang huy động TKTN và TKĐM nhưng lại không đáp ứng được quy định về vốn tối thiểu là 500 triệu đồng, vì vậy họ sẽ không tiếp tục hoạt động hoặc phải chuyển đổi mục đích hoạt động trừ khi có quyết định hợp nhất hoặc sát nhập hoạt động với tổ chức khác trên cùng địa bàn hoặc các địa bàn lân cận. Những vấn đề đang được bàn cãi là: ai sẽ là chủ sở hữu các khoản vốn mà chương trình TCVM đã tích trữ; và khoản vốn này sẽ được tái đầu tư như thế nào khi các tổ chức TCVM không tồn tại.
Vốn tài trợ: vốn của nhà tài trợ sẽ đóng vai trò quan trọng đối với các tổ chức TCVM, đặc biệt là các tổ chức có quy mô nguồn vốn nhỏ như QTD xã Yến Mao và Phượng Mao. Bản chất của nguồn vốn tài trợ là cho vay không lãi suất, và vì thế phần nào đã bù đắp cho các chi phí so với huy động vốn từ TKĐM hay TKTN. Ngoài ra nguồn vốn của nhà tài trợ còn có tác dụng tăng vốn kinh doanh cho các tổ chức tín dụng, đáp ứng nhu cầu của thành viên, góp phần giảm sự nhàm chán của thành viên khi nhu cầu vay vốn của họ không được đáp ứng trong một thời gian dài.
Cơ cấu của tổ chức: Các chương trình TCVM như QTD hiện nay phần lớn thực hiện thông qua Hội phụ nữ, vì vậy vấn đề là tổ chức TCVM sẽ được đăng ký hoạt động ở cấp nào: cấp huyện, tỉnh hay cấp quốc gia khi thực hiện theo nghị định 28 của chính phủ.
Năng lực cán bộ quản lý: Đây là vấn đề khó khăn nhất của các tổ chức cung cấp dịch vụ TCVM như QTD hiện nay. Các QTD hiện tại tuyển dụng các thành viên BQL từ các thành viên của mình, như vậy sẽ cản trở tìm được những nhà quản lý có năng lực thực sự. Các QTD hiện nay đều có mức thù lao cho thành viên quản lý thấp, điều này sẽ không thu hút được những người bên ngoài có năng lực tham gia vào hoạt động của BQL.
Hệ thống thông tin quản lý: Khi QTD phát triển, một trong những giới hạn lớn nhất của nó thường là hệ thống quản lý thông tin. Hệ thống thông tin quản lý bao gồm quản lý về thành viên và quản lý về tài chính. Hệ thống thông tin quản lý không phù hợp sẽ gây khó khăn trong cung cấp thông tin cho người quản lý, và tốn thời gian không cần thiết.
2.3.2.2 Thể chế của tổ chức
Thị trường mục tiêu: Thị trường mục tiêu của các QTD hầu hết là người nghèo, người dân tộc sinh sống ở những vùng nghèo, vùng núi cao đi lại khó khăn, có nền kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển chậm. Vì vậy khả năng rủi ro đối với nguồn vốn kinh doanh là tương đối cao khi tổ chức không có cách thức quản lý chặt chẽ từ khi bắt đầu xây dựng tổ chức.
Các sản phẩm và dịch vụ cung cấp: Là tổ chức không chính thức, với nguồn vốn hoạt động thấp hơn nhiều so với các tổ chức TCVM chính thức như NHCSXH và NHNo nên sản phẩm của QTD cung cấp là tiết kiệm và cho vay. Vì không chính thức và hoạt động dựa trên nguyên tắc tín chấp nên khả năng huy động nguồn vốn tiết kiệm của QTD rất thấp. Các hình thức cho vay vốn chủ yếu là vay ngắn hạn và trung hạn với quy mô thấp, đặc biệt đối với các QTD có nguồn vốn thấp như QTD xã Yến Mao và Phượng Mao thì nguồn vốn cho vay trung hạn là hạn chế.
Dịch vụ của QTD là dịch vụ tín dụng và dịch vụ hỗ trợ sau vay vốn. Dịch vụ hỗ trợ sau vay vốn của QTD chủ yếu là hình thức tập huấn, tư vấn kỹ thuật nông nghiệp, và các hình thức tổ chức hội họp để duy trì các mối quan hệ xã hội tốt giữa các thành viên. Và dịch vụ hỗ trợ sau vay vốn của các QTD là một trong những lợi thế hơn so với các tổ chức TCVM chính thức hoạt động trên cùng địa bàn.
Mối liên kết giữa các tổ chức tài chính vi mô: Trong những năm trở lại đây, các nhà thực hành tài chính vi mô bắt đầu có sự quan tâm và nhìn nhận lại vai trò và hoạt động của mình. Các tổ chức cung cấp dịch vụ đã bắt đầu phổ biến các bài học kinh nghiệm của họ về thông tin và kết quả hoạt động, những thách thức cũng như các bài học kinh nghiệm về hoạt động TCVM ở Việt Nam. Hiện nay nhóm công tác TCVM đã được thành lập để chính thức hóa quá trình chia sẻ thông tin và vận động chính sách cho Nghị định về TCVM một cách thống nhất. Nhóm công tác TCVM đã tạo dựng có hiệu quả một tiếng nói chung cho ngành TCVM, nhóm công tác này có thể đóng vai trò tích cực hơn trong việc thúc đẩy những thành tựu của ngành TCVM và nêu bật những vấn đề mà ngành phải đối mặt cho các nhà lập chính sách, các nhà tài trợ và các bên có liên quan khác.
Để đảm bảo có sự tiếp cận thống nhất trong việc đối phó với những thách thức mà ngành TCVM cần phải đối mặt, cần xây dựng một chính sách hoặc chiến lược toàn diện cho sự phát triển của ngành TCVM, có sự đồng thuận của tất cả các bên có liên quan, đồng thời xác định nhiệm vụ cụ thể và các mốc quan trọng cần đạt được.
2.3.2.3 Môi trường hoạt động, chính sách của Chính Phủ
Một trong những nguyên tắc chính của TCVM là chính phủ nên đóng vai trò là người hỗ trợ hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho việc cung ứng dịch vụ tài chính chứ không nên là người hỗ trợ cung ứng trực tiếp cung ứng các dịch vụ tài chính. Thông qua việc tạo lập một môi trường chính sách mang tính hỗ trợ, chính phủ có thể góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng của hệ thống tài chính bền vững và lành mạnh cho người nghèo. Những thành tố quan trọng của một môi trường như vậy bao gồm môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, không hạn chế về trần lãi suất, bãi bỏ các chương trình cho vay bao cấp. Sự tham gia của chính phủ vào việc cấp vốn cho tổ chức TCVM khi không có vốn hoặc các tổ chức tại địa phương không thể dễ dàng tiếp cận đến nguồn vốn.
Nhận thức và sự hỗ trợ của chính phủ đối với tài chính vi mô
Chính phủ thường chuyển vốn thông qua các tổ chức tài chính thuộc sở hữu của nhà nước như NHNo và NHCSXH nhằm mục đích phân phối tín dụng bao cấp đến các vùng nông thôn và vùng miền núi trong khuôn khổ chiến lược tăng trưởng và giảm nghèo toàn diện. Tuy nhiên đến nay chỉ có NHNo chuyển sang hình thức kinh doanh thương mại từ năm 1995, còn NHCSXH vẫn còn là một công cụ cho vay chính sách của chính phủ.
Sự hiển diện của hai tổ chức cho vay này trên thị trường TCVM đã dẫn đến một thị trường phi cạnh tranh và một sân chơi không bình đẳng qua việc đẩy các tổ chức cho vay tài chính vi mô tư nhân mang định hướng thương mại ra ngoài lề. Ngoài ra hoạt động theo quan điểm là ngừoi nông dân nghèo không có khả năng tiết kiệm và không hưởng ứng những những khuyến khích hoặc cơ hội tiết kiệm là không đúng.
Việc tiếp tục cho vay ưu đãi đã làm tăng thêm tư tưởng dựa dẫm vào bao cấp cho người nghèo, nghĩa là người nghèo không phải và không thể trả theo mức lãi suất thông thường. Tỷ lệ lãi suất thấp của NHCSXH đã không tạo được mức lãi suất hấp dẫn cho người tiết kiệm. Tỷ lệ lãi suất thấp cũng kéo theo nhu cầu tín dụng vượt quá cung, kéo theo sự phân chia trong định mức tín dụng chính thức và không chính thức. Sự phân chia này có xu hướng khuyến khích hỗ trợ cho những người giàu hơn là những nông dân sản xuất nhỏ. Và người nhận được tài trợ là người sản xuất lớn còn người nông dân sản xuất nhỏ thì không nhận được tín dụng.
Như vậy sự tham gia sâu của chính phủ vào thị trường TCVM đã có những ảnh hưởng theo hướng không tích cực. Và điều này có thể giải thích theo các lý do: 1. Sự nhận thức của chính phủ về các thông lệ hay nguyên tắc của TCVM là chưa đầy đủ; 2. Chính phủ xem TCVM như là một công cụ xã hội để xóa đói giảm nghèo mà chưa xem đây là công cụ kinh tế để tăng cường khả năng tiếp cận của người nghèo đến các dịch vụ tài chính bền vững; 3. Thiếu các thông tin về các tổ chức TCVM hiện đang hoạt động.
Nghị định 28 của chính phủ về tài chính vi mô
Tháng 3 năm 2005, Chính phủ đã ban hành nghị định 28NĐ-CP về tổ chức tài chính vi mô tại nước ta. Lần đầu tiên, một khuôn khổ pháp lý cho hoạt động TCVM được đặt ra. Theo nghị định này, tất cả các tổ chức thực hành tài chính vi mô có 2 năm chuẩn bị để được cấp pháp theo yêu cầu của khuôn khổ pháp lý mới. Tác động cơ bản chung của nghị định cho ngành TCVM có thể khẳng định là rất tích cực. Khía cạnh quan trọng của TCVM trong việc cung cấp tín dụng nhỏ cho người nghèo nhằm góp phần giảm nghèo một cách trực tiếp và hiệu quả. Nghị định đã tạo một niềm tin vững chắc cho ngành TCVM trong quá trình hoạt động, và giúp các tổ chức này có khả năng tiếp cận với các nguồn tài trợ bên ngoài nhằm tăng vốn để tiếp tục tăng trưởng và mở rộng.
Làm thế nào để mỗi tổ chức đảm bảo sự chuyển đổi thích hợp với những quy định của nghị định. Đặc biệt là những tổ chức TCVM đang hoạt động tại những vùng, những địa bàn đặc biệt khó khăn chưa thể đáp ứng được những yêu cầu thay đổi trong cấu trúc quản lý và năng lực tổ chức thiết yếu nhất. Trong quy định rõ những tổ chức có nguồn vốn trên 500 triệu mới được phép hoạt động, trên 5 tỷ mới được phép nhận tiền gửi tiết kiệm. Như vậy đối với các tổ chức TCVM như QTD xã Yến Mao và Phượng Mao sẽ phải chuyển đổi hình thức hoạt động.
Nghị định cần có hướng dẫn khái niệm tiết kiệm và tiền gửi và nên có quy định khuyến khích tổ chức TCVM trong việc huy động tiền tiết kiệm trong thành viên nghèo vay vốn. Bởi lẽ, tiền tiết kiệm tự nguyện có thể xem là tiền gửi, nhưng tiền tiết kiệm định mức (TKĐM) lại mang tính chất hoàn toàn khác, có thể xem là nguồn vốn chủ sở hữu được hay không, và tổ chức TCVM cần được trao quyền chủ động trong việc quản lý nguồn vốn huy động này thông qua những chính sách nội bộ.
Tổ chức TCVM có quy mô hoạt động rất nhỏ và cung cấp dịch vụ tài chính đến một bộ phận người nghèo khó có khả năng tiếp cận với những dịch vụ tài chính chính thức. Tuy nhiên về tiềm lực của hệ thống tài chính nông thôn chính thức như NHNo và NHCSXH có ảnh hưởng lớn đối với thị trường tài chính vi mô và hiện có khuynh hướng là việc dạng thị trường này cũng như có tác động đến hành vi của khách hàng. Và theo quy định các tổ chức TCVM cần phải đóng thuế thu nhập, như vậy một tổ chức TCVM hoạt động chỉ đủ trang trải chi phí, lợi nhuận không đáng kể thì việc áp dụng nghị định sẽ là một vấn đề thực sự khó khăn. Vì vậy nghị định cần phải quy định rõ những ưu tiên đối với các tổ chức TCVM như QTD tiết kiệm phụ nữ tại hai xã nghiên cứu.
Vấn đề Nghị định chưa đề cập đến là vai trò của chính phủ trong lĩnh vực này. Việc xin giấy phép và mở chi nhánh mới phải được chấp nhận của UBND tỉnh, thành phố, có nghĩa là chính phủ sẽ tiếp tục nắm giữ vai trò ảnh hưởng đến quyết định xem tổ chức nào có thể cung cấp dịch vụ tài chính vi mô, và các tổ chức nào có thể hoạt động ở nơi nào. Và chính quyền cấp tỉnh cần phải có những hướng dẫn rõ ràng từ trung ương để có thể thực thi một cách có hiệu quả. Do vậy NHNN cần phải soạn thảo thông tư hướng dẫn thực hiện nghị định trên.
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN QUỸ TÍN DỤNG TIẾT KIỆM PHỤ NỮ TẠI VIỆT NAM
3.1 Định hướng phát triển quỹ tín dụng tiết kiệm phụ nữ
Phát triển thành tổ chức chính thức: Hiện nay, do các QTD là nằm trong hệ thống tổ chức không chính thức, và đã có một số ảnh hưởng nhất định đến quá trình tổ chức hoạt động. Vì vậy, các QTD khi đã có một năng lực nhất định cần chuyển đổi từ dạng bán chính thức sang hình thức được quản lý chính thức. Khi được chuyển sang chính thức, các QTD sẽ có cơ hội huy động nguồn vốn từ các tổ chức khác cũng như từ nhà tài trợ, có sự quan tâm hơn từ Chính Phủ đề từ đó có cơ hội được phát triển trong thị trường cạnh tranh lành mạnh.
Mặt khác, khi chuyển sang hình thức tổ chức quản lý chính thức, QTD sẽ có cơ hội được tiếp cận với các nhà sản xuất nông nghiệp nhằm cung cấp các dịch vụ hỗ trợ sau vay vốn, đây là loại hình dịch vụ tạo nên thế mạnh của các QTD trong việc tiếp cận với người nghèo. Ngoài ra, khi trở thành tổ chức chính thức sẽ có nhiều cơ hội tiếp cận với các tổ chức chính trị xã hội, các ngân hàng tín dụng lớn để phát triển thêm các loại hình dịch vụ khác như: dịch vụ cho vay ủy thác, dịch vụ hỗ trợ sau vay vốn, và các dịch vụ như thực hiện các dự án của Chính phủ hay các NGO trong nước và quốc tế.
Phát triển tổ chức bền vững: Một trong những vấn đề mà các QTD đang gặp phải và cần khắc phục đầu tiên là năng lực quản lý. Vì vậy trong thời gian tới các QTD cần phải chú trọng hơn nữa về phát triển tổ chức bền vững như phát triển nguồn nhân lực thông qua các chương trình đào tạo cán bộ về quản lý và lãnh đạo, các kiến thức về chuyên môn, nhất là các kiến thức về tài chính. Cần xây dựng một hệ thống thông tin quản lý để theo dõi và giám sát kết quả hoạt động tài chính của tổ chức, hệ thống theo dõi giám sát cần được sử dụng các trang thiết bị phù hợp với năng lực của cán bộ quản lý.
Ngoài ra, QTD cần xác định và phân bổ lãi suất dựa trên cơ sở mục tiêu và năng lực của tổ chức, và căn cứ trên kế hoạch phát triển của QTD. QTD cần chủ động tìm hiểu và tìm cách tiếp cận với các nguồn vốn từ các tổ chức khác, lập kế hoạch kinh doanh dựa trên cơ sở các nghiên cứu thị trường, các nghiên cứu khả thi và phân tích chi phí của tổ chức.
Như vậy, để trở thành các tổ chức tự chủ và tuân thủ theo khung pháp lý mới, các QTD cần có những thay đổi nhất định. Trước hết các QTD cần phải chỉnh sửa lại điều lệ về thiết lập cơ cấu mới cho công tác điều hành và quản trị. Trọng tâm vì người nghèo và mục tiêu phi lợi nhuận cần phải được khẳng định rõ trong điều lệ hoạt động của tổ chức để những giá trị đó sẽ không lu mờ theo thời gian. Đây là một bước hết sức quan trọng đối với phần lớn các tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng ở nước ta hiện nay.
Bền vững về tổ chức nếu có quy mô phù hợp, sản phẩm được định giá hợp lý, và hệ thống thông tin quản lý tín dụng ưu việt người nghèo là những khách hàng đáng tin cậy và hoàn toàn có thể hình thành quy mô khách hàng lớn cho những QTD bền vững về tài chính. Tuy nhiên trên thực tế không có nhiều những QTD đạt được khả năng tự chủ về tài chính. Vì vậy, trong gia đoạn chuẩn bị, các tổ chức cần phải tập trung nguồn lực vào việc củng cố năng lực tổ chức, huy động thêm nguồn vốn, và mở rộng thêm quy mô hoạt động để đạt bền vững về tài chính nhằm trở thành tổ chứuc hoạt động bền vững trong môi trường pháp lý mới.
Đảm bảo trọng tâm người nghèo: Các QTD để chuyển đổi cần xây dựng những tiêu chuẩn nằm ngoài nghị định như hệ thống tiếp cận người nghèo nhằm xác định khách hàng, triển khai các chính sách quy định tỷ trọng khách hàng nghèo trong tổng số khách hàng, và phân bổ cơ cấu dự nợ cho những sản phẩm tập trung vào người nghèo và người nghèo nhất.
3.2 Một số giải pháp phát triển quỹ tín dụng phụ nữ
3.2.1 Phát triển tổ chức
Nâng cao năng lực của quản lý QTD: Khi trở thành tổ chức chính thức, và các sản phẩm tiết kiệm được giới thiệu thì các QTD sẻ có cơ hội được trở thành một trung gian tài chính và tầm quan trọng của các nguồn nhân lực là vấn đề cần được xem xét hàng đầu. Và khi các QTD đủ điều kiện để huy động tiết kiệm sẽ là đề tài để xem xét và giám sát kỹ lưỡng hơn của các cơ quan của Chính phủ. Vì vậy, các QTD cần phải có quy mô và mức độ hiệu quả quản lý cao.
Việc nâng cao năng lực quản lý của QTD cần phải được xem xét ngay từ khi tuyển dụng cán bộ đầu vào. Cán bộ nên được tuyển chọn từ người địa phương, vì họ quen thuộc với phong tục, văn hóa và ngôn ngữ địa phương. Là người địa phương nên khả năng làm việc lâu dài cao, ngoài ra họ có những chiến lược quản lý tổ chức một cách phù hợp thực tế hơn. Một vấn đề khác hiện nay phần lớn các QTD còn gặp khó khăn trong việc tuyển dụng và duy trì cán bộ, hầu hết các cán bộ giỏi đều làm việc cho các tổ chức có vị thế hơn do ở đó có những ưu đãi và nhiều cơ hội phát triển hơn. Vì vậy các QTD cần phải chú ý hơn nữa vào lương bổng của các nhà quản lý để thu hút được những cán bộ có năng lực.
Năng lực quản lý là một trong những điều cần phải thực hiện trong những tổ chức cộng đồng được xây dựng, nhất là đối với một tổ chức hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ tại xã đặc biệt khó khăn như ở xã Yến Mao và Phượng Mao. Các cán bộ quản lý qũy và kế toán cần được đào tạo về các quy định và các thông lệ tài chính. Nâng cao năng lực quản lý không những thông qua các cuộc tập huấn ngắn hay dài hạn, mà cần tăng cường thực hiện các cuộc tham quan hay hội thảo trao đổi kinh nghiệm giữa các tổ chức với nhau. Từ đó học tập những kinh nghiệm về quản lý cũng như các hệ thống sổ sách kế toán một cách phù hợp. Để làm được điều này, trước hết cần xây dựng một bộ tài liệu tập huấn chuẩn với sự trợ giúp và hỗ trợ kỹ thuật của các cơ quan chuyên môn.
Các nhà quản lý cần phải học hỏi để làm thế nào xác định được tiềm năng của người gửi tiết kiệm, cần phải đưa ra được cơ cấu thích hợp giữa tiền gửi và tiền cho vay. Ngoài ra, họ cần phải có những kiến thức nhất định về phát triển xã hội, tránh những suy nghĩ kỳ thị với những người có thu nhập thấp, đặc biệt là người nghèo. Khi một QTD có một bộ máy tổ chức vững mạnh, cán bộ quản lý có năng lực sẻ đảm bảo cho tổ chức phát triển bền vững.
Xây dựng hệ thống thông tin quản lý tài chính: Hệ thống thông tin quản lý các QTD cần được xem xét trên 3 lĩnh vực chính: 1. Hệ thống kế toán; 2.Hệ thống giám sát tín dụng và tiết kiệm; 3.Hệ thống đánh giá tác động đối với khách hàng.
Hệ thống kế toán, hệ thống giám sát tín dụng và tiết kiệm: Phần lớn các QTD hiện nay quản lý tài chính theo hình thức thủ công, điều này sẽ không còn phù hợp trong thời đại thông tin hiện đại, và quy mô của tổ chức không ngừng tăng cao về số thành viên và nguồn vốn. Vì vậy cần từng bước hiện đại hóa hệ thống quản lý tài chính, bắt đầu bằng việc sử dụng các phần mềm cơ bản như excel, tiến tới sử dụng các phần mềm kế toán được thiết kế phù hợp với thực tế hoạt động vào quản lý tài chính của các QTD. Ngoài ra, cần phải có kế hoạch đào tạo kế toán quản lý QTD những chuẩn mực kế toán theo quy định.
Hệ thống đánh giá tác động đối với khách hàng: Hầu hết các QTD đều mong muốn theo dõi tác động của các nguồn vốn vay đối với khách hàng để từ đó có những quyết định quản lý phù hợp. Tuy nhiên hệ thống theo dõi giám sát tác động chưa được thiết lập một cách có hệ thống. Phần lớn các QTD hiện nay đều phải dựa vào các tổ chức tài trợ thực hiện các cuộc đánh giá này. Vì vậy, các QTD cần thiết lập hệ thống đánh giá tác động khách hàng, từ đó có thể đưa ra những dịch vụ hay sản phẩm phù hợp với khách hàng trong từng thời điểm khác nhau.
Xây dựng lãi suất cho vay dựa trên năng lực của tổ chức: Lãi suất trả cho các khoản tiền gửi dựa vào tiền gửi phổ biến tương tự như các sản phẩm ở các tổ chức khác hoạt động trong lĩnh vực này, ngoài ra cần phải dựa vào các chi phí quản lý và cung cấp dịch vụ, và các chiến lược của tổ chức. Hiện tại các QTD thường cho vay ở những vùng khó khăn, các món vay nhỏ, thu hồi nhiều lần, vì vậy chi phí cho quản lý cao. Ngoài ra, các sản phẩm tiết kiệm đều được trả lãi suất, vì thế để các QTD có chênh lêch giữa các sản phẩm cho vay và sản phẩm tiết kiệm để tạo ra lợi nhuận.
Tuy nhiên, phương pháp xác định lãi suất tiền vay và tiền gửi hiện nay của phần lớn các QTD là căn cứ theo lãi suất của NHNo mà không có căn cứ nào về tổ chức mình. Vì vậy cần phải xác định căn cứ lãi suất của NHNo chỉ là tham khảo, lãi suất tín dụng của các QTD cần được xác định dựa trên thực tế hoạt động của tổ chức như tình hình tài chính, mục tiêu tăng trưởng vốn trong tương lai, lợi nhuận mục tiêu của tổ chức...
Tăng cường tiếp cận thông tin: việc tiếp cận thông tin của QTD với bên ngoài còn khá mờ nhạt, các thông tin chủ yếu do nhà tài trợ cung cấp. Điều này đã dẫn đến một số hạn chế trong các hoạt động nâng cao năng lực, đổi mới các sản phẩm và dịch vụ cung cấp, từ đó khó có thể có những quyết định phù hợp với thị trường và nhu cầu của cộng đồng. Vì vậy, các QTD cần có những đầu tư trong cập nhật thông tin mới, như lắp internet hoặc tổ chức các cuộc hội thảo chuyên đề giữa các tổ chức. Các hình thức tổ chức này ban đầu cần có sự hỗ trợ về kỹ thuật và tài chính của các tổ chức tài trợ, sau đó sẽ từng bước chuyển giao cho các QTD đứng ra tự thực hiện khi đạt đến một năng lực nhất định.
Tăng cường truyền thông giữa các tổ chức hỗ trợ hình thành tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính vi mô. Hiện nay có nhiều NGO cùng thực hiện các hoạt động hỗ trợ hình thành các tổ chức cung dịch vụ tài chính như Oxfam Anh, ActonAid... Các tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng nhỏ được hình thành với sự hỗ trợ của các NGO hoạt động có hiệu quả. Tuy nhiên hiện tại chưa có sự trao đổi kinh nghiệm nhiều từ các tổ chức trên về kinh nghiệm tổ chức quản lý và hình thành tài liệu hướng dẫn thành lập và quản lý hoạt động QTD. Vì vậy trong thời gian tới cần có những hỗ trợ cần thiết từ Chính phủ và các NGO trong truyền thông và biên soạn bộ tài liệu hướng dẫn thành lập và quản lý hoạt động QTD.
Ngoài ra, các NGO cần phối hợp và tổ chức đánh giá lại các QTD do mình hỗ trợ thành lập, và xem xét lại mục tiêu của tổ chức, tránh trường hợp một số tổ chức thực hiện chương trình nhưng chỉ coi TCVM là một công cụ xã hội nhằm hỗ trợ cho một nhóm đối tượng đặc thù trong một thời gian nhất định. Theo kinh nghiệm của một số tổ chức cho thấy, nếu nhầm lẫn giữa mục đích kinh tế và mục đích xã hội thì các QTD sẽ sớm thất bại trong hoạt động của tổ chức.
3.2.2 Phát triển thị trường dịch vụ
Mở rộng nhóm đối tượng mục đích: Lựa chọn thị trường mục tiêu phụ thuộc vào mục tiêu của những người cung cấp các dịch vụ tài chính vi mô cũng như nhu cầu có thể đoán trước đối với các dịch vụ tài chính. Thị trường mục tiêu của một tổ chức được chia làm hai phần: thị trường mục tiêu trực tiếp và thị trường mục tiêu gián tiếp.
Mục tiêu trực tiếp đề cập tới sự phân bố một khoản tiền nhất định để cung cấp tín dụng cho một lĩnh vực kinh tế hay một nhóm dân cư nào đó. Mục tiêu trực tiếp của các QTD là đáp ứng nhu cầu về tín dụng vi mô cho các nhóm người bị thiệt thòi như người nghèo, người dân tộc. Các sản phẩm của QTD hướng vào người nghèo như phương pháp hoàn trả gốc và lãi nhiều lần, cho vay món nhỏ, lãi suất có thể cao hơn ở thị trường chính thức...Mục tiêu gián tiếp có nghĩa là các sản phẩm và dịch vụ sẽ được thiết kế và nhằm hướng vào những người còn nằm ngoài thị trường mục tiêu trực tiếp.
Mục tiêu trực tiếp của QTD thành lập nhằm cung cấp dịch vụ tín dụng cho người nghèo. Sau một thời gian hoạt động, hoạt động của QTD đã góp phần tác động đến đời sống của các thành viên tham gia, đặc biệt là người nghèo. Trong những năm trở lại đây, khi đời sống của thành viên ngày được nâng cao, nhu cầu vốn dành cho các hoạt động sản xuất kinh doanh lớn, vì vậy QTD không thể tiếp tục với những khoản vay nhỏ, mà cần mở rộng các hình thức vay khác với quy mô nguồn vốn lớn hơn. Việc tăng quy mô cho vay vốn đối với thành viên sẽ đúng trong trường hợp khi tỷ lệ số thành viên đang vay vốn cao, khả năng tồn quỹ lớn. Đồng thời mở rộng nhóm đối tượng mục tiêu gián tiếp của tổ chức với các hộ không nghèo, các cá thể kinh doanh và các thành viên không nhất thiết phải là phụ nữ. Tuy nhiên vẫn tuân thủ các nguyên tắc hoạt động của tổ chức TCVM.
Liên kết phát triển thị trường: phần lớn QTD hoạt động khá độc lập về tài chính và các hoạt động khác, những mối liên kết hiện tại chỉ là tham gia các hoạt động như hội thảo trao đổi kinh nghiệm về quản lý. Các mối liên kết về tài chính gần như chưa có. Vì vậy trong thời gian tiếp theo cần phải có mối liên hệ giữa các QTD với nhau trong lĩnh vực cung cấp tài chính cho các thành viên của tổ chức khác khi họ có nhu cầu. Muốn vậy cần hình thành một mạng lưới giữa các QTD với nhau, tạo thành một tổ chức lớn mạnh về quy mô tài chính và thành viên, để từ đó có thể liên kết với các tổ chức cùng cung cấp tín dụng khác.
Khi mối liên kết giữa các QTD với nhau, đặc biệt là đối với các tổ chức có quy mô nhỏ, sẽ có những điều tiết về nguồn vốn, từ đó tạo điều kiện để mở rộng đối tượng khách hàng, đáp ứng được các nhu cầu vay vốn khác nhau. Mặt khác khi tạo liên kết, sẽ tăng cường trao đổi kinh nghiệm về quản lý, chia sẻ những rủi ro trong quá trình hoạt động. Quá trình liên kết sẽ tạo sức mạnh mạng lưới, từ đó có những tác động trong việc vận động chính sách, tìm thêm các nguồn tài trợ bên ngoài, và tạo cơ hội để thực hiện hoạt động cho vay theo ủy thác.
Một vấn đề đặt ra cho các tổ chức nhỏ thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định 28 của Chính phủ do không đáp ứng được điều kiện về nguồn vốn và thành viên thì khi liên kết lại với nhau sẽ đáp ứng được các yêu cầu của Nghị định, để từ đó có những cơ hội tiếp cận với các tổ chức cùng cung cấp dịch vụ tài chính vi mô chính thức.
Liên kết cung cấp dịch vụ tín dụng theo ủy thác: Hiện tại NHNo và NHCSXH đã thực hiện công tác vay vốn qua các tổ chức đoàn thể như Hội phụ nữ, Hội nông dân hay Hội cựu chiến binh mà chưa trực tiếp thông qua QTD. Nếu xét một cách khách quan về năng lực quản lý tài chính cũng như thị trường cung cấp dịch vụ thì QTD sẽ hiệu quả hơn các tổ chức khác. Vì vậy trong thời gian tới, QTD cần xây dựng tổ chức vững mạnh và là đại lý cho các tổ chức cung cấp tín dụng lớn khác như NHNo hay NHCSXH. Điều này sẽ đáp ứng được quan điểm về hoạt động tài chính vi mô là nguồn vốn của nhà tài trợ nên chỉ là những hỗ trợ tạm thời trong thời gian đầu, nó nên được sử dụng để xây dựng năng lực cho các tổ chức. Điều quan trọng là nhà tài trợ nên hỗ trợ các QTD liên kết với các tổ chức tài chính chính thức, và khi đạt đến thời điểm tự đứng vững sẽ không cần đến sự hỗ trợ của các nhà tài trợ nữa.
Với Nghị định 28, các QTD sẽ có nhiều cơ hội để tiếp cận với nguồn vốn của các tổ chức cũng như cá nhân ở trong và ngoài nước, nhờ đó có thể huy động nhiều nguồn vốn phục vụ cho hoạt động của tổ chức mình. Tuy nhiên để làm được điều này, các QTD cần xây dựng tổ chức, đặc biệt là tình hình tài chính và chất lượng của các báo cáo của tổ chức đủ để đáp ứng các quy định và yêu cầu về tài chính.
Ngoài việc liên kết với các tổ chức cùng cung cấp dịch vụ tín dụng, QTD cần liên kết với các tổ chức phi chính phủ hay các chương trình dự án đang hoạt động tại địa phương để quản lý thực hiện các dự án nhỏ. QTD có thể coi như một tổ chức đấu thầu các hoạt động dự án nhỏ của các nhà tài trợ trong và ngoài nước. Đây thực sự là hoạt động cần thiết do: BQL và các thành viên QTD đã quen với các cách thức thực hiện dự án, họ có mối liên kết chặt chẽ để đảm bảo dự án được thực hiện thành công. Mặt khác, khi tổ chức thực hiện các dự án nhỏ, các thành viên sẽ có thêm các dịch vụ hỗ trợ nhằm sử dụng nguồn vốn được tốt hơn, đảm bảo QTD bền vững và thu hút thêm được nhiều thành viên tham gia.
3.2.3 Mở rộng các dịch vụ cung cấp
Liên kết với các nhà sản xuất dịch vụ nông nghiệp: Như đã nêu ra ở phần trên, việc cạnh tranh giữa các QTD với các tổ chức tài chính vi mô chính thức như NHNo, NHCSXH dựa trên lãi suất sẽ rất khó được thực hiện do các tổ chức này nhận được sự hỗ trợ và bao cấp của Chính phủ. Vì vậy, các QTD cần cạnh tranh theo hướng cung cấp các dịch vụ hỗ trợ sau vay vốn như tư vấn về khoa học kỹ thuật, cung cấp các sản phẩm nông nghiệp có chất lượng cao thông qua liên kết với các nhà sản xuất dịch vụ nông nghiệp phù hợp với địa phương.
Các QTD với số thành viên lớn tại các vùng nông thôn là một thị trường tiềm năng của các nhà cung cấp dịch vụ sản phẩm nông nghiệp. Tuy nhiên hiện nay việc phối hợp giữa các QTD với các nhà cung cấp dịch vụ nông nghiệp còn nhiền hạn chế do các cán bộ quản lý QTD chưa thực sự năng động trong khai thác thế mạnh này, ngoài ra có một lý do quan trọng là các QTD chưa có tư cách pháp nhân trong thực hiện các hợp đồng hay cam kết với các nhà cung cấp dịch vụ. Vì vậy, khi các QTD thỏa mãn các yêu cầu được quy định trong Nghị định 28, tổ chức sẽ có tư cách pháp nhân thì việc phối hợp với các nhà cung cấp dịch vụ nông nghiệp sẽ được thực hiện dễ dàng hơn.
Cung cấp dịch vụ trung và dài hạn: loại hình dịch vụ cho vay hiện tại và thông dụng nhất của các QTD chỉ mới là vay ngắn hạn trong một năm, hình thức vay trung hạn và dài hạn vẫn chưa được QTD phát triển và mở rộng đối tượng cung cấp dịch vụ với lý do về năng lực quản lý. Như vậy, nhu cầu vay vốn của các thành viên có quy mô lớn hơn sẽ không được đáp ứng, điều này sẽ không thực sự bền vững tại một số địa phương khi đời sống được nâng cao thì những phương thức trên cần phải được xem xét lại. Vì vậy trong thời gian tới, để đáp ứng nhu cầu vay vốn của thành viên cũng như đủ kinh nghiệm trong chiến lược liên kết với các tổ chức cung cấp tín dụng khác thì QTD cần phát triển đồng thời nguồn vốn vay trung hạn và dài hạn.
Các nguồn vốn vay trung và dài hạn cần được triển khai dựa vào năng lực của tổ chức bao gồm năng lực quản lý và nguồn vốn đáp ứng cho hình thức này. Ngoài ra, cần phải xem xét điều kiện ràng buộc cho các hình thức vay vốn này, cũng như xem xét kế hoạch sử dụng vốn vay của các thành viên vay vốn. Hay nói cách khác, cần phải đánh giá một cách toàn diện trước khi đưa ra một sản phẩm tín dụng mới, và cần triển khai thí điểm trước khi nhân rộng.
3.2.4 Xây dựng hiệp hội hỗ trợ hoạt động tài chính vi mô
Hiện tại đã có nhóm công tác tài chính vi mô, tuy nhiên các tác động của nhóm có giới hạn. Vì vậy việc thành lập một hiệp hội TCVM cung cấp các dịch vụ cho các tổ chức thành viên là một trong những vấn đề cấp thiết. Vai trò của hiệp hội là:
Hỗ trợ đào tạo về kỹ thuật cho các thành viên: có thể hiệp hội không trực tiếp tổ chức đào tạo, nhưng có thể hỗ trợ thiết lập một danh mục đào tạo và cơ sở dữ liệu về chuyên gia tư vấn. Các chuyên gia tư vấn liên kết và biên soạn một chương trình đào tạo bao gồm đánh giá nhu cầu đào tạo, và tiến hành đào tạo có giám sát chất lượng đào tạo một cách nghiêm túc. Các cơ sở đào tạo nên mang tính chất thương mại, và lý tưởng nhất là khu vực tư nhân. Để hỗ trợ hoạt động, trong thời gian đầu các tổ chức đào tạo có thể được tài trợ để xây dựng cơ sở hạ tầng cho đào tạo.
Giám sát hoạt động và đưa ra chuẩn mực so sánh: Hiệp hội khuyến khích các tổ chức áp dụng các cách thức quản lý chung bao gồm các chỉ số và phương pháp tính toán, báo cáo, và hệ thống sổ sách hay phần mềm kế toán.
Điều phối hoạt động tài trợ: Có thể nhận vốn từ các nhà tài trợ và chuyển vốn cho các tổ chức đủ năng lực quản lý. Hiệp hội có thể bảo lãnh cho các tổ chức vay vốn từ nhà tài trợ hoặc các tổ chức thương mại khác.
Vận động chính sách: Với tiếng nói của mình thông qua kết quả các cuộc nghiên cứu cụ thể hiệp hội vận động các nhà làm chính sách và các cơ quan có liên quan đưa ra một khuôn khổ pháp lý và chính sách thuận lợi cho hoạt động TCVM.
3.3 Các kiến nghị
3.3.1 Tạo môi trường thuận lợi
Hỗ trợ kỹ thuật cho NHNN và Bộ tài chính trong triển khai Nghị định 28 của chính phủ: Đào tạo các nguyên tắc và thông lệ tài chính vi mô tốt nhất cho các cán bộ NHNN và Bộ tài chính trực tiếp tham gia vào việc soạn thảo các thông tư và giám sát các tổ chức QTD được đăng ký. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các cán bộ chi nhánh NHNN cấp tỉnh vì họ không có nhiều điều kiện để tiếp xúc trực tiếp với hoạt động TCVM. Hỗ trợ này thường có rất ít thông tin và không tiếp xúc trực tiếp với hoạt động TCVM. Hỗ trợ kỹ thuật nên bao gồm cả đi thực hiện trong nước với mục đích là thu nhận thông tin và phản hồi, và đi tham quan các nước ngoài để học hỏi kinh nghiệm tổ chức quản lý tài chính của ngân hàng trung ương của các nước. Các chuyên gia về TCVM của các nước có ngành TCVM phát triển là nguồn tư vấn kỹ thuật cho NHNN và BTC.
Đối với các tổ chức TCVM như QTD không đáp ứng được những yêu cầu về tổ chức theo nghị định 28 của chính phủ thì cần có những định hướng về sở hữu cũng như về quản lý để các tổ chức có thể tiếp tục thực hiện các hoạt động cung cấp tín dụng vi mô của mình, các tổ chức này có thể sẽ không chịu sự điều tiết của quy chế phòng ngừa và giám sát mà chỉ nên áp dụng cơ chế tự quản và NHNN không cần cấp giấy phép cho hoạt động này.
Đánh giá lại chính sách bao cấp tín dụng cho người nghèo của Chính phủ: Nhiều nghiên cứu đã cho thấy rằng phương pháp tiếp cận tín dụng đối với người nghèo dựa trên nguyên tắc lãi suất ưu đãi đã không đến được với những người nghèo ở các vùng đặc biệt khó khăn. Và việc cho vay có bao cấp đã tạo ra những kỳ vọng sai lầm và làm tăng mức độ ỷ lại của người nghèo, khiến họ không có những nổ lực thoát nghèo. Hơn nữa, tín dụng bao cấp là tạo ra cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường tài chính khiến người nghèo khó tiếp cận với nguồn vốn vay. Với những vấn đề như trên liệu có nên tiếp tục vai trò của mình trong việc bán lẻ các khoản vay cho các hộ gia đình nghèo thông qua NHCSXH, hay chỉ nên là những người bán buôn với lãi suất thấp cho các tổ chức TCVM như QTD, những đơn vị có khả năng tiếp cận tốt hơn đối với nhóm mục tiêu, để các tổ chức này có thể mở rộng cung cấp tín dụng đến những người dễ bị tổn thương.
3.3.2 Xây dựng chiến lược quốc gia về tài chính vi mô
Thống kê và cung cấp thông tin về hoạt động tài chính vi mô: Cần phải tổ chức các cuộc khảo sát có tính cập nhật hơn đối với ba khu vực cung cấp TCVM là khu vực chính thức, bán chính thức và phi chính thức. Kết quả của cuộc khảo sát cần thu thập thông tin về khách hàng, tổng dư nợ cho vay, tổng số tiết kiệm được huy động, cũng như thông tin về sản phẩm cho vay và các điều khoản và điều kiện của các nhà cung cấp tín dụng. Thông tin thu thập được sẽ góp phần hỗ trợ NHNN và BTC trong việc soạn thảo các thông tư hướng dẫn, và xây dựng chiến lược quốc gia về ngành TCVM tại Việt Nam.
Xây dựng chiến lược quốc gia về tài chính vi mô: Hiện nay chưa có chính sách hay chiến lược nào đề ra tầm nhìn và định hướng chiến lược của ngành TCVM trong 10 năm tới. Vì vậy để ngành TCVM có thể phát triển một cách lành mạnh và bền vững, những người làm chính sách và các nhà thực hành TCVM cần cùng nhau xây dựng một chiến lược quốc gia về TCVM. Những vấn đề cần được đề cập đến trong chiến lược phát triển cần phải được kể đến:
Đưa khu vực tài chính vi mô hòa nhập vào hệ thống tài chính chung: Nghị định 28 sẽ định hình ngành TCVM chuyển từ hình thức bán chính thức sang hình thức chính thức. Như vậy, có thể xem TCVM là một tổ chức tài chính phi ngân hàng.
Khuyến khích một thị trường cạnh tranh và minh bạch về tài chính vi mô: Cần phải có những chiến lược giải quyết là xóa bỏ hoặc giảm bớt những yếu tố làm méo mó thì trường tài chính, như việc áp dụng lãi suất bao cấp của NHCSXH. Chiến lược cần phải nêu rõ những phương án để các tổ chức cung cấp tài chính vi mô hoạt động theo các mô hình và thông lệ quốc tế.
Tạo điều kiện đa dạng hóa các tổ chức tham gia thị trường: Chiến lược nên xem xét các phương án khuyến khích các tổ chức tài chính thương mại tham gia vào hoạt động TCVM, đặc biệt là thị trường thành thị. Và do ở Việt Nam hiện nay chủ yếu là tập trung vào đối tượng mục tiêu là người nghèo, vì vậy chiến lược cần phải đưa ra những biện pháp khuyến khích các định chế thương mại tham gia cho vay các hộ không nghèo, các doanh nghiệp vi mô.
KẾT LUẬN
Luận văn đã đánh giá hoạt động của các QTD hiện nay tại Việt Nam về mặt tổ chức, và cung cấp các sản phẩm, dịch vụ, cũng như những khó khăn trở ngại của các QTD trên con đường phát triển của mình. Các QTD đã có những đóng góp nhất định trong qúa trình phát triển kinh tế của các hộ gia đình ở vùng nông thôn, miền núi, đặc biệt là các hộ nghèo, các hộ người dân tộc.
Để các QTD phát huy được những tác dụng nêu trên, và phát triển bền vững trong thời gian tới thì cần phải có những thay đổi nhất định. Luận văn đã nêu ra những giải pháp về khía cạnh phát triển tổ chức cũng như những kiến nghị về mặt thể chế, môi trường và các chính sách của Chính phủ nhằm tạo điều kiện để các QTD phát huy hết những vai trò của mình trong thời gian tiếp theo.
Nghiên cứu này có tác dụng đối với các tổ chức phi chính phủ trong nước và quốc tế, hội đoàn thể có thêm những kinh nghiệm trong việc hỗ trợ thành lập và quản lý hoạt động các QTD.
Trong thời gian tới, nghiên cứu tiếp theo sẽ thực hiện nhằm mục đích xem xét mối liên hệ giữa các QTD với nhau, và giữa các QTD với các tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính vi mô chính thức khác như NHNo, NHCS để các QTD hoạt động đạt hiệu quả và hiệu suất cao.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
CACERP (2005), Tài chính vi mô: Chính sách và các vấn đề thực tiễn, một số bài học từ hoạt động cung cấp dịch vụ giảm nghèo ở khu vực Miền Trung.
CGAP, Xây dựng các hệ thống tài chính dành cho người nghèo.
Dự án giảm nghèo miền trung (2005), Tài liệu tập huấn tài chính vi mô, 1-24.
Định hướng phát triển các ngành huyện Thanh Thủy tỉnh Phú Thọ (2006)
Đào Văn Hùng (2005), Phát triển hoạt động tài chính vi mô ở Việt Nam, Nhà xuất bản Lao động-Xã hội, Hà Nội.
Lê Thị Lân (2005), Hoạt động tài chính vi mô ở Việt Nam-Làm gì để phát triển, 8/2005, Hà Nội.
Lê Thị Lân và Trần Như An, Hướng tới một ngành tài chính vi mô tự vững ở Việt Nam: các vấn đề đặt ra và những thách thức, 2005, Hà Nội, Việt Nam.
Nguyễn Thị Lân (2003), Tài chính vi mô ở Việt Nam – Cơ hội và thách thức, 5/2003, Thành phố Hồ Chí Minh
Muhammad Yunus, Mở rộng tín dụng vi mô để đạt được mục tiêu phát triển thiên niên kỷ.
Nhóm công tác Tài chính vi mô, Bản tin tài chính vi mô, số 6, tháng 3, năm 2005.
Nghị định số 28/2005/NĐ-CP ngày 9 tháng 3 năm 2005 về tổ chức và hoạt động của tổ chức tài chính quy mô nhỏ tại Việt Nam.
Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo (2002), NXB Bản đồ, Hà Nội.
Giới thiệu chung về huyện Thanh Thủy tỉnh Phú Thọ (2006),
Giới thiệu chung về huyện Thanh Thủy tỉnh Phú Thọ (2006),
Trung tâm Dịch vụ Phát triển Nông thôn (2002), Bộ số liệu đánh giá cuối kỳ dự án “Nâng cao năng lực giảm nghèo cho các cộng đồng lựa chọn tại Phú Thọ, Quảng Bình và Kon Tum”, Hà Nội.
Trung tâm Dịch vụ Phát triển Nông thôn (2003), Báo cáo đánh giá cuối kỳ dự án “Nâng cao năng lực giảm nghèo cho các cộng đồng lựa chọn tại Phú Thọ, Quảng Bình và Kon Tum”, Hà Nội.
Trung tâm Dịch vụ Phát triển Nông thôn (2005), Bảng thu thập thống kê xã Yến Mao, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ, Hà Nội.
Trung tâm Dịch vụ Phát triển Nông thôn (2005), Số liệu đầu kỳ dự án Phú Thọ, Hà Nội.
Phòng thống kê huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ (2006), Niên giám thống kê năm 2005 huyện Thanh Thủy, Phú Thọ.
Ủy ban nhân dân xã Phượng Mao (2005), Báo cáo tình hình thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội năm 2006. Phương hướng nhiệm vụ mục tiêu kinh tế xã hội năm 2006, Phú Thọ.
Ủy ban nhân dân xã Phượng Mao (2006), Báo cáo tình hình thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội năm 2007. Phương hướng nhiệm vụ mục tiêu kinh tế xã hội năm 2006, Phú Thọ.
Ủy ban nhân dân xã Yến Mao (2005), Báo cáo tình hình thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội năm 2006. Phương hướng nhiệm vụ mục tiêu kinh tế xã hội năm 2006, Phú Thọ.
Ủy ban nhân dân xã Yến Mao (2006), Báo cáo tình hình thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội năm 2007. Phương hướng nhiệm vụ mục tiêu kinh tế xã hội năm 2006, Phú Thọ.
Nguyễn Thị Hoàng Vân (2005), “Tài chính vi mô trong mối tương quan với Nghị Định 28/2005/NĐ-CP: Vấn đề quan tâm và một số kiến nghị”, Hội thảo tài chính vi mô – Ngân hàng Nhà nước, 3-5/08/2005, Hà Nội.
Joanna Ledgerwood, Cẩm nang hoạt động tài chính vi mô: nhìn nhận từ giác độ tài chính và thể chế, 3/2001, Nhà xuất bản thống kê Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phát triển Quỹ tín dụng tiết kiệm phụ nữ tại Việt Nam – Nghiên cứu trường hợp xã Yến Mao và Phượng Mao, huyện Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ.docx