Cải thiện về công tác hải quan: Nếu chúng ta khuyến khích các doanh
nghiệp sản xuất thật nhiều hàng xuất khẩu bằng cách tạo ra thật nhiều ưu đãi,
nhưng lại không làm tốt công tác hải quan, để hàng mắc lại ở các cửa khẩu thì
khác nào cố đổ gạo ra khỏi bao nhưng lại thắt chặt miệng bao.
55 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2864 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phương hướng và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu chè của Việt Nam trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n vị trong nước ,và vai trò của Tổng công ty chè Việt Nam là rất to
lớn như: Tổng công ty đã tạo được mối liên kết chặt chẽ với các đơn vị thành
viên, mở rộng ra cả các vùng chè dân. Tuy có số lượng đơn vị khá lớn, ở nhiều
vùng khác nhau, nhưng Tổng công ty đã thống nhất được sự quản lý từ trên
xuống dưới thể hiện ở chỗ: các thành viên tuân thủ nghiêm ngặt kế hoạch và
nhiệm vụ được giao; khi có khó khăn về nguồn hàng Tổng công ty vẫn có thể
đảm bảo được hàng xuất khẩu bằng cách yêu cầu các đơn vị dừng việc bán hàng
ra ngoài để tập trung toàn bộ lượng hàng giao cho Tổng công ty. Ở đây không
xảy ra tình trạng "Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược" như vẫn thường thấy ở một
số Tổng công ty Việt Nam hiện nay. Sở dĩ tạo ra được mối liên hệ này là nhờ
Tổng công ty đã gắn được lợi ích của mình với lợi ích của các thành viên. Và
thực tế đã chứng minh không có mối quan hệ kinh tế nào bền chặt bằng mối
quan hệ kinh tế hai bên cùng có lợi.Do làm tốt công tác này mà tránh được tình
trang tranh mua tranh bán ở nhiều nơi, làm thiệt hại cho các cônt ty và bà con
trồng chè, xuất khẩu chè đã làm cho mức sống ở các vung trồng chè được cải
thiện đáng kể, môi trường cũng phần nào được cải thiện vì hiện nay diện tích
trồng chè của chúng ta đã tăng lên gấp nhiều lần làm đã phủ xanh đất trống đòi
núi trọc, khi xuất khẩu chè thì hiện nay chúng ta đã xâm nhập được vào các
ĐỀ ÁN
28
thỉtường mới đầy tiềm năng như :irap, Nhật Bản, Mỹ… không còn phụ thuộc
vào thị trường Liên Bang Nga và các nước Đông Âu như trước kia, và hiện na
chúng ta có rất nhiều mối quan hệ với các nước bạn hàng. Điều nay làm cho các
doanh nghiệp của nước ta học hỏi được rất nhiều điều và nắm bắt được những
thông tin quan trọng, làm cho các doanh nghiệp chủ động trước những sự biến
động của thị trường, chúng ta đã tạo ra nhiều giống tốt để ohục vụ cho qua trình
xuất khẩu trình độ quản lý cũng được cải thiện, trình độ thâm canh cây chè cung
được từng bước nâng cao
2. Những hạn chế còn tồn tại
- Trong sản xuất nguyên liệu: Năng suất bình quân thấp do tổ chức sản
xuất sai lầm trong nhiều năm.
Một thời gian dài trước đây, chè được phát triển tràn lan theo kiểu rải
mành mành, tập trung vào quảng canh.
Bộ giống chè nghèo, không có giống tốt, giống đặc sản.
Việc quản lý chăm sóc kém, mất khoảng nhiều do đầu tư không đủ, quy
trình kỹ thuật chưa được thực hiện nghiêm túc, không thâm canh ngay từ đầu.
Cộng với việc khai thác quá mạnh làm cây chè chóng cạn kiệt, rút ngắn chu kỳ
kinh doanh, sớm phải thanh lý.
Dùng nhiều phân vô cơ làm đất bị nghèo dinh dưỡng, độ pH tăng cao.
Vườn chè thiếu hay không có cây bóng mát do nhận thức sai lầm rằng đây
là nơi trú ngụ của sâu bệnh nên đã cho chặt. Thiếu cây bóng mát làm cho đất bị
xói mòn, mực nước ngầm xuống thấp, chè bị héo vào những tháng nóng.
Vườn chè không được quan tâm đồng đều. Thậm chí ngay trong một xí
nghiệp, có vườn chè tốt có vườn lại rất xấu. Có vườn được đầu tư đúng mức,
canh tác đúng quy trình có thể đạt năng suất 15 - 20 tấn/ha. Có vườn bị buông
lỏng, khoán trắng chỉ khai thác, không đầu tư làm năng suất chỉ còn 1,6 tấn/ha.
Đặc biệt, nhiều vườn chè dân xung quanh cơ sở chế biến chưa được quan tâm
một cách đầy đủ, có trợ giá nhưng nông dân vẫn không đủ vốn đầu tư.
Chè trồng trên dốc nhiều, lại không có hệ thống tưới nước đầy đủ.
ĐỀ ÁN
29
- Chất lượng sản phẩm kém. Nhiều đánh giá cho rằng chất lượng của ta
chỉ đạt mức trung bình so với thế giới. Chất lượng thấp làm giảm năng lực cạnh
tranh, kéo giá chè XK xuống thấp hơn hẳn giá chè thế giới. Trong các yếu tố ảnh
hưởng xấu tới chất lượng, nổi lên những yếu tố sau:
+ Công nghệ: Chỉ một số ít nhà máy mới xây dựng bằng thiết bị công
nghệ của Ấn Độ là tương đối hoàn chỉnh. Còn phần lớn là các nhà máy công
nghệ Liên Xô (cũ) đến nay đã xuống cấp hay nâng cấp chắp vá bằng các phụ
tùng trong nước nên không đảm bảo tính đồng bộ của dây chuyền sản xuất
chèđen theo tiêu chuẩn. Một số đơn vị đã đầu tư bổ sung thêm máy héo, máy vò,
máy sấy để nâng công suất nhà máy nhưng khâu bảo quản chè búp tươi, phòng
lên men, phòng sàng chưa được nâng cấp tương xứng nên công suất các công
đoạn mất cân đối, chè bị ùn tắc cục bộ dẫn đến chè bị ôi ngay trước khi đưa vào
máy héo hoặc chua thiu trong quá trình lên men. Sự không đồng bộ của dây
chuyền dễ dẫn đến cắt xén quy trình từng công đoạn trong quá trình sản xuất và
chất lượng sản phẩm cũng giảm theo.
+ Con người: Cùng với sự yếu kém về công nghệ, thiếu cán bộ kỹ thuật và
công nhân lành nghề cũng như nguyên nhân làm chất lượng chè thấp. Đội ngũ
cán bộ kỹ thuật có trình độ đại học và trên đại học ngày càng thưa thớt, nhiều
đơn vị chè lớn không có kỹ sư chế biến, thậm chí thiếu cả cán bộ chế biến có
trình độ trung cấp. Công nhân lành nghề được đào tạo những năm 60 - 70 nay
dần đã về hưu, thay thế là thế hệ công nhân trẻ thiếu kinh nghiệm và tay nghề
thấp. Do thiếu cán bộ có trình độ đại học nên việc bồi dưỡng và nâng cao tay
nghề cho công nhân cũng hạn chế.
+ Quản lý: Vẫn còn nhiều đơn vị vì lợi ích cục bộ, chỉ chạy theo số lượng
cốt hoàn thành kế hoạch mà không có trách nhiệm với người tiêu dùng, không
quan tâm duy trì và cải tiên, làm cho chất lượng sa sút ảnh hưởng tới chất lượng
chung của Tổng công ty. Đây là hậu quả của cơ chế cũ. Ngành chè ra đời và phát
triển trong thời kỳ hệ thống XHCN còn vững mạnh. Ta đã nhận được thiết bị chế
biến qua con đường viện trợ không hoàn lại hay trên cơ sở hợp tác ưu đãi. Phần
ĐỀ ÁN
30
lớn chè được xuất dưới dạng bán thành phẩm. Sản phẩm sản xuất ra dù có chất
lượng hay không đều có thị trường tiêu thụ ổn định. Sản xuất đến đâu bán hết
đến đó do được bao cấp cả đầu ra. Chính cơ chế này đã gây ra sự trì trệ và thói
quen coi thường chất lượng ở một số cán bộ. Điều này đã thực sự làm cho tiêu
thụ chè nói riêng và hàng hoá Việt Nam nói chung bị "sốc" khi khối XHCN sụp
đổ, thị trường cũ đột ngột co hẹp, buộc phải vươn ra các thị trường mới mà chất
lượng mới chính là yếu tố cạnh tranh để sống còn.
- Tuy Tổng công ty đã mở ra nhiều thị trường mới nhưng chưa có bạn
hàng thực sự lâu dài, thậm chí còn bị mất thị trường chè vàng ở Hồng Kông.
Nguyê nhân là do:
Sản phẩm còn đơn điệu về chủng loại, mẫu mã, bao bì, ta chủ yếu xuất
chè có kích thước và kiểu dáng tự nhiên. Trong khi người tiêu dùng đặc biệt
người tiêu dùng ở các nước tư bản lại ưa thích sản phẩm tiện dụng và cho phép
tiết kiệm thời gian.
Chưa hình thành hệ thống phân phối trực tiếp ở nước ngoài. Ngay cả ở các
thị trường truyền thống, các thị trường lớn như Nga, I rắc... cũng vẫn phải bán
qua các nhà nhập khẩu của họ. XK phải qua nhiều khâu trung gian vòng vèo (do
cơ chế trả nợ).
Với vai trò nhỏ bé trên thị trường thế giới và tình hình chất lượng như
hiện nay, chúng ta chưa có khả năng áp dụng nhiều chính sách giá như giá tấn
công, giá hớt váng, chiến tranh giá cả... XK vẫn kiểu cầm chừng, gặp khách
thoả thuận được giá bán, nên yêu cầu chủ yếu với giá xuất khẩu là đủ bù đắp chi
phí và có lãi chứ chưa sử dụng được giá như một công cụ cạnh tranh.
Chi phí dành cho các hoạt động xúc tiến, yểm trợ còn thấp. Các hình thức
quảng cáo còn nghèo nàn - đây là nhược điểm chung của các doanh nghiệp Việt
Nam. Công tác tiếp thị yếu, chưa có một đội ngũ tiếp thị chuyên môn.
Vẫn theo quan điểm marketing truyền thống, coi trọng khâu tiêu thụ. Đã
có các dây chuyền công nghệ như vậy, đã sản xuất ra các sản phẩm như vậy, vấn
ĐỀ ÁN
31
đề phải quan tâm là tìm đầu ra. Chính vì vậy chưa thực sự có được vị trí trên thị
trường thế giới.
- Tất cả những hạn chế trên còn có chung một nguyên nhân là tổ chức
quản lý của ngành chè chưa được hợp lý. Các đơn vị sản xuất chè còn manh
mún, phân tán , còn phân biệt năng nề giữa trung ương và địa phương. Cơ cấu
chưa ổn định, Tổng công ty mới được thành lập trong thời gian ngắn nhưng đang
có sự xáo trộn do việc chuyển đổi một số đơn vị từ Trung ương sang địa phương.
Nhìn chung, các nhà sản xuất và kinh doanh chè trong cả nước chưa tập trung về
một mối để tạo nên sức mạnh tổng hợp, để cạnh tranh được trên thị trường quốc
tế.
3. Các nguyên nhân khách quan.
* Khó khăn cho sản xuất chè: Những người trồng chè ngoài thuế sử dụng
đất nông nghiệp còn phải nộp phí quản lý, khấu hao vườn chè, bảo hiểm, xã
hội..., có thể lên tới 33% tổng sản lượng khoán, mức đóng góp này là quá nặng
nề. Trong khi đó, điều kiện canh tác chè lại khó khăn hơn nhiều so với các loại
cây trồng khác. Hơn nữa, chè chủ yếu được trông và chế biến ở vùng trung du và
miền núi, nên hạ tầng cơ sở vùng chè còn rất thiếu và yếu. Các doanh nghiệp sản
xuất chè phải gánh chịu nhiều chi phí mang tính chất công ích xã hội cho cả
vùng như: đường sá, cầu cống, nhà trẻ, bệnh viện... làm giá thành sản xuất bị đẩy
lên rất cao. Điều này gây không ít khó khăn cho việc sản xuất kinh doanh chè.
Bên cạnh đó, chưa có chính sách đầu tư, tín dụng thoả đáng, đầu tư cho chè chỉ
chiếm 1,26% trong tổng đầu tư của Nhà nước cho 3 cây trồng là chè, cao su và
cà phê.
* Khó khăn cho xuất khẩu chè:
- Cũng như với xuất khẩu nói chung, hiện nay tuy đã có những dịch vụ hỗ
trợ XK song các dịch vụ này chưa thực sự phát huy tác dụng.
Dịch vụ thông tin về thị trường, giá cả, đối thủ cạnh tranh... của các cơ
quan Nhà nước thuộc các Bộ, ngành TW, các đại diện thương mại của ta ở nước
ngoài hay của phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam không đáng kể. Chủ
ĐỀ ÁN
32
yếu là phải tự tìm kiếm qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua sách báo
về những chuyến đi thực tế.
Mặc dù, năm 1995, cả nước có tới 15 đơn vị tổ chức hội chợ triển lãm, 55
đơn vị quảng cáo trong nước và 15 văn phòng đại diện nước ngoài, cùng với 20
thương vụ Việt Nam ở nước ngoài và các vụ hợp tác quốc tế, trung tâm thông tin
của các Bộ... cung cấp các dịch vụ này. Nhưng doanh nghiệp phần lớn vẫn phải
dùng "tờ rơi" hay "truyền miệng" nhờ các cán bộ tranh thủ những chuyến công
tác nước ngoài để giới thiệu về sản phẩm. Các hình thức panô, áp phích, quảng
cáo trên phương tiện thông tin đại chúng ít được sử dụng.
Dịch vụ giám định vẫn chưa đủ uy tín để khách hàng nước ngoài công
nhận giấy chứng nhận chất lượng của ta do trang thiết bị còn thủ công, trình độ
nhân viên giám thị còn thấp.
Cả nước có 50 công ty luật trong nước và nước ngoài, 200 trung tâm tư
vấn, 42 chi nhánh nước ngoài thực hiện các dịch vụ pháp luật như cung cấp
thông tin về thuế, hướng dẫn thủ tục lập hợp đồng, giải quyết tranh chấp... Tuy
phát triển về số lượng, nhưng chất lượng còn hạn chế do thiếu kinh nghiệm và
do các doanh nghiệp của ta chưa có thói quen sử dụng loại dịch vụ này.
- Việc nhà nước mở rộng quyền kinh doanh đối ngoại cho các chủ thể
kinh tế là một biểu hiện của tự do hoá thương mại với mục đích tạo ra sự cạnh
tranh để cùng phát triển. Trước đây chỉ những chủ thể nào có số vốn đăng ký
trên 200 nghìn USD mới được cấp giấy phép kinh doanh XNK, nhưng sau
QĐ55/TTg (3/98), tất cả các doanh nghiệp được tham gia trực tiếp vào hoạt
động XK mà không cần bất kỳ điều kiện gì ngoài việc tự đăng ký mã số của
mình tại hải quan. QĐ này đã làm số đối thủ cạnh tranh tăng lên đáng kể, làmc
ho hoạt động XK sôi nổi hơn nhưng cũng khó quản lý hơn. Nhiều doanh nghiệp
không đủ khả năng vẫn đua nhau XK, tranh mua tranh bán dẫn đến việc XK với
giá thấp hoặc xuất cả hàng chất lượng kém làm ảnh hưởng tới uy tín của Việt
nam trên thị trường thế giới. Thực tế như vậy cộng với sự thiếu vắng các biện
ĐỀ ÁN
33
pháp xúc tiến thương mại hiệu quả là nguyên nhân làm cho năng lực cạnh tranh
của ta kém, giá hàng XK của ta thấp, thị trường không ổn định.
- Còn nhiều tồn tại trong công tác hải quan. Các thủ tục hải quan tuy đã
được đơn giản đi nhưng người XK vẫn gặp nhiều phiền phức bởi thái độ quan
liêu của các nhân viên hải quan. Các nhân viên hải quan thường thiếu tinh thần
hợp tác, không hướng dẫn đầy đủ việc lập và xuất trình chứng từ hải quan rồi
viện cớ chứng từ chưa đầy đủ, chưa hợp lệ để không thông qua. Các nhà xuất
khẩu đã kêu rất nhiều về vấn đề này nhưng vẫn chưa thấy có biến chuyển.
Chương 3: phương hướng và biện pháp thúc đẩy xuất
khẩu chè của việt nam trong thời gian tới
I.MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG HƯỚNG CỦA NGÀNH CHÈ VIỆT NAM
TRONG THỜI GIAN TỚI
ĐỀ ÁN
34
1.mục tiêu của ngành chè
Trong những năm qua xuất khẩu chè có sự tăng trưởng đáng kể. Năm
1997 đạt 31.500 tấn và hai năm tiếp theo khối lượng xuất khẩu tiếp tục tăng,
năm 1998 đạt 33.500 tấn, năm 1999 đạt 37.000 tấn. Tuy nhiên so với tiền năng
thì chin ta chưa khai thác hết những lợi thế vốn có, nhất là về đất đai và lao
động. Để cây chè thực sự giữ vị trí quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân, đem
lại hiệu quả đáng kể cho đất nước trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21 này. Thủ
Tướng Chính Phủ đã ra quyết định43/QĐ-TTG, theo đó mục tiêu phát triển của
ngành chè đến năm 2010 lad đưa tổng diện tích chè cả nước lên 104 ha ngàn
ha,trong đó trồng mới 30 ngàn ha, sản lượng147 ngàn tấnm, khối lượng xuất
khẩu 110 ngàn tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt 200 triệu USD
Phát triển chè ở nơi có điều kiện, ưu tiên phát triển ở các tỉnh miền núi
phía Bắc, từ năm 2000 - 2005, xây dựng thêm 3 vườn chè chuyên canh tập trung
với năng suất và chất lượng cao tại Mộc Châu (Sơn La), Phong Thổ (Lai Châu),
Than Uyên (Lào Cai).
Nâng cao đời sống, giải quyết việc làm cho khoảng 1 triệu lao động.
Biểu 4: Các chỉ tiêu phát triển chè cả nước.
199
9
200
0
200
5
201
0
Diện tích chè cả nước
(ha)
77.1
42
81.6
92
104.
000
104.
000
ĐỀ ÁN
35
Diện tích chè kinh
doanh (ha)
70.1
92
70.1
92
92.5
00
104.
000
Diện tích chè trồng
mới( ha)
4.35
0
4.55
0
2.80
0
-
NS bình quân (tấn
tươi/ha)
3,82 4,23 6,1 7,5
Sản lượng búp tươi
(tấn)
268.
200
297.
600
490.
000
665.
000
Sản lượng chè khô
(tấn)
59.6
00
66.0
00
108.
000
147.
000
Sản lượng XK (tấn) 37.0
00
42.0
00
78.0
00
110.
000
Kim ngạch XK (triệu
USD)
50 60 120 200
Nguồn: Kế hoạch sản xuất chè 1999 - 2000 và định hướng phát triển chè
đến 2005 - 2010 (Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn).
2. Những phương hướng cụ thể:
* Về sản xuất nông nghiệp:
Quy hoạch vùng nguyên liệu, tập trung phát triển chè tại 8 tỉnh phía Bắc:
Sơn La, Lai Châu, Hà Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Lài Cai, Thái Nguyên,
Phú Thọ, Lâm Đồng. Viện nghiên cứu chè hỗ trợ các đơn vị nhân giống và đưa
nhanh các giống có năng suất cao, chất lượng tốt vào các vườn chè để cải tiến
chất lượng chè xuất khẩu. tăng tỷ lệ giống mới có chất lượng cao trong cơ cấu
nguyên liệu. Cải tạo đất bằng cách bón phân hữu cơ tổng hợp phù hợp với loại
đất. Đưa công cụ vào canh tác nông nghiệp tại các đơn vị của Tổng công ty rồi
phổ biến rông ra. Trong 2 năm 1999 - 2000 đầu tư 34,41 tỷ đồng tưới cho các
vườn chè tập trung có điều kiện về nguồn nước ở 9 tỉnh.
* Về sản xuất công nghiệp:
ĐỀ ÁN
36
Đầu tư cải tạo nâng cấp 30% số cơ sở chế biến công nghiệp trong năm
2003 - 2004. Xây dựng thêm 180 nhà máy chế biến công suất 12 tấn/ngày. Đầu
tư xây dựng nhà máy cơ khí chè công suất 350 - 500 tấn/năm để chế tạo phụ
tùng và thiết bị lẻ phục vụ cho sửa chữa, nâng cấp các nhà máy cũ.
Biểu 5: Nhu cầu vốn đầu tư
1999
- 2000
2001 -
2005
2006
- 2010
Tổn
g vốn
Tổng vốn từng
đoạn
792,
202
3640,3
20
970,
800
5.40
3,322
Đầu tư cho công
nghiệp
555,
987
1508,4
10
43,1
50
2.20
7,547
Đầu tư cho nông
nghiệp
236,
215
2131,9
10
927,
650
3295
,775
Nguồn: Kế hoach XK chè 1999 - 2000 và định hướng phát triển chè đến
2005 - 2010 (Bộ NN & PTNT).
*. Về xuất khẩu:
Tiếp tục giữ vững thị trường XK hiện có mở ra các thị trường mới bằng
việc sản xuất tiêu thụ sản phẩm có chất lượng cao, giá cả hợp lý. Đa dạng hoá
sản phẩm tổng hợp có chè và khai thác triệt để các sản phẩm từ đất chè.
*. Về con người:
Nhu cầu đến năm 2010 là 1000 kỹ sư nông nghiệp và 9000 kỹ sư chế biến.
Vì vậy phải đào tạo bổ sung 360 người, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý cho 216
người, tập huấn khuyến nông cho 200.000 người.
II.NHỮNG BIỆN PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU CHÈ
CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN SẮP TỚI
1.Quy hoạch lại vùng chè, mở rộng thị trường tiêu thụ
*Trước hết phải quy hoạch những vùng nguyên liệu chính và ổn định theo
hướng tập trung chuyên canh thâm canh. Căn cứ vào đặc điểm địa hình có thể
Đơn vị: Tỷ đồng
ĐỀ ÁN
37
chia làm 3 loại chè: vùng có độ cao dưới 100m so với mặt nước biển gồm một số
huyện thuộc Hà Giang Tuyên Quang,Lào Cai, Yên Bái, Hoà Bình Bắc Thái, Phú
Thọ, Vĩnh Phúc, Thanh Hoá, Nghệ An và Hà Tĩnh,khả năng mở rộng diện tích
từ 14-15 ngàn ha; vùng có độ cao từ 100 – 1000m gồm Mộc Châu và Cao
Nguyên Lâm Đồng, khả năng mở rộng diện tích từ 8-10 ngàn ha; vùng có độ cao
trên 1ngàn mét gồm một số huyện thuộc Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Lai Châu,
có khả năng mở rộng diện tích từ 6 – 8 ngàn ha. Để thực hiện, trước mặt là nhăm
ftạo ra những vùng chè cao sản, đặc sản, ổn định về sản lượng và chất lượng
ngay trên những vườn chè tập trung hiện có. Cần thúc đẩy hơn nữa viẹc gắn lợi
ích của kinh doanh chè với lợi ích của người trồng chè. Cụ thể là cải thiện điều
kiện làm việc nâng cao dời sống vật chất cho họ , phải có giá thu mua nguyên
liệu với mức hợp lý đảm bảo cho người trồng chè có lãi yên tâm gắn bó và đầu
tư cho cây chè. Trong những năm qua việc này được thực hiện từng bước tại các
daonh nghiệp ngành chè, mức thu nhập bình quân ngày một tăng và hiện nay
toàn ngành tiếp tục phấn đấu nâng lên 500 ngàn dồng/tháng.Đây có thể coi là
việc doanh nghiệp thực hiện vai trò “Nhà nước nhỏ “ điều chỉnh thị trường, phân
phối lại thu nhập, từ đó làm động lực của quá trình quy hoạch xây dựng các
vung nguyên liệu. Đây xẽ là những vùng sản xuất chè nguyên liệu ổn định nhất
và là nguồn cung cấp sản phẩn thường xuyên cho nội tiêu và xuất khẩu. Việc
quy hoạch lại vùng nguyên liệu tạo ra sự ổn định sản xuất sẽ có vai trò định
hướng và đòn bẩy nhằn thực hiện mục tiêu phát triển sản xuất tăng sản lượng.
*Tăng cường công tác thị trường
Thị trường cho sản phẩn chè bao gồm thị trường trong nước và thị trường
thế giới. Đối với thị trường nội tiêu, nhu cầu ngày càng ra tăng, đòi hỏi chất
lượng chè ngày càng cao hơn và đa dạng về chủng loại, nhất là chè đặc sản như
chè Shan tuyết, chè “hữu cơ “ chè hương và đặc biệt là chè đen cao cấpt úi lọt.
Tuy nhiện, nhu cầu về các loại chè xanh truyền thống có tiếng lâu đời trong dân
gian vẫn rất lớn. Muốn chiếm được thị trường trong nước , ngành chè cần thay
đổi trong nhìn nhận thị trường trong nước, trong sản xuất đẻ chế tạo ra được
ĐỀ ÁN
38
những sản phẩn đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng. Đối với những loại chè
đặc sản trồng ở vung cao , vùng xa, đi đối với chế biến cần phải hình thành tổ
chức để cung cấp cho các thị trường lớn ở vùng đồng bằng.Đối với thị trường
xuất khẩu chè Việt Nam đã có mặt trên thị trường thế giới nhiều thập kỷ và đứng
hàng thứ 6 về khối lương xuất khẩu. Trong hơn 30 nước nhập khẩu chè của ta đã
có những thị trường trở thành bạn hàng quen thuộc, có những thị trường mới.
Do vậy củng cố và tìm kiến thị trường xuất khẩu chè là một trong những nhiệm
vụ hàng đầu của chiến lược phát triển ngành chè. Với thị trường quen thuộc như
Liên Bang Nga, các nước thuộc khối SNG và các nước Đông Âu cần phải tăng
thị phần nhập khẩu của họ đối với sản phẩn chè của Việt Nam và khâu cải tiến
về bao bì nhãn mác, đặc biệt chất lượng chè phải được chú trọng. Thị trường
Trung Cận Đông tuy mới mở những cũng đã nhập nhiều chè cảu Việt Nam cần
đẩy mạnh hơn nữa khâu tiếp thị, qảng cáo , giới thiệu sản phẩn. Thị trường Châu
Á như Pa-ki-xtan, Nhật Bản, Đoài Loan… đòi hỏi chất lượng sản phẩn cao cần
nâng cao chất lượng chè cũng như cải tiến bao bì nhãn mác. Ngoài ra các thị
trường khác như Tây Âu, Bắc Mỹ cũng đã sử dung sản phẩn chè của Việt Nam,
cho nên để tằn cường tiếp thị dưới nhiều hình thức khác nhau để mở rộng thị
trường này là rất quan trọng. Đi đôi với việc mở rộng thị trường là việc đa dạng
hoá sản phẩn , làm ra nhiều loại chè thích hợp với thị hiếu đa dạng của các nước
khác nhau, đồng thời áp dụng sáng tạo các hình thức bán hàng linh hoạt như
buôn bán đối lưu, ký hợp đồng đại lý kinh tiêu , đại lý ký gửi bán….
2. Nâng cao chất lượng và hại giá thành của chè
Đây là vấn đề quyết định cho việc mở rộng thị trường chè . Tuy nhiên
điều đó phụ thuộc nhiều vào công tác đầu tư, mà việc đó bắt đầu từ khâu giống,
gieo trồng chăn sóc chế biến ra thành phẩn. Bên cạnh việc đưa các giống mới có
năng suất cao chất lượng tốt vào sản xuất ( đó là giống Ph1, 1A. 777, BT95,
OL93, KX94,DLP1- 2.BT11- 14…) cần phải nhập một số giống từ Trung Quốc,
Nhật Bản, Đoài Loan… Đồng thời bảo đảm đúng quy trình canh tác từ việc xây
dung các đối nương, chăm sóc, diệt trừ sâu bệnh, đến kỹ thuật hái chè… Nhanh
ĐỀ ÁN
39
chóng đầu tư các thiết bị mới vào chế biến để tạo ra sản phẩn chè có chất lượng
tốt , giá trị cao , tạo được uy tín với khách hàng và đủ sức cạnh tranh trên thị
trường thế giới.
-Qua trình chăn sóc thâm canh cây chè: Thực hiện sử dụng phân khoảng
tương đối, nhiều yếu tố bằng các dạng phân đa yếu tố ( hỗn hợp, phức hợp ) trên
nền phân hữu cơ đầy đủ vừa đảm bảo năng suất, chất lượng cao, an toàn thực
phẩn và hiệu quả cao trên cơ sở hiệu suất sử dụng phân bón cao.
+Hạn chế tối đa việc sử dụng thuốc trừ sâu, hoá học trên cây chè , đẩy
mạnh việc quản lý dịch hại tổng hợp ( IPM ), áp dung các chế phẩn thảo mộc.
Tuyệt đối không được sử dụng các loại thuốc cấm, thuốc có tồn dư lâu ngày,
tuân thủ thật tốt thời gian cách ly cần thiết khi tu hái chè.Thuốc trừ sâu sẽ do xí
nghiệp cung cấp, dân thực hiện phun khi có sâu.
+Xây dung bổ xung và hoàn thiện các công trình phụ trợ trên đồi chè, đảm
bảo các điều kiện sinh thái như bể nước, cây che bóng và tưới tiêu nước trên đồi
chè. Riêng thuỷ lợi trên đồi chè rất cần co sự hỗ trợ đầu tư của nhà nước về các
công trình đầu mối và tuyến trục đến đầu mối nương đồi, giúp giảm chi phí trực
tiếp trong giá thành sản phẩn chè.
-Thu hái và bảo quản:Trước đây khi cần nhân nguyên liệu không có tình
trạng ngyên liệu trong cấp no lại có tỷ lệ phần trong cấp kia, chẳng hạn trong B
có A có C hay trong B có C,D. Chính hàng loạt doanh nghiệp “Phi quy trình kỹ
thuật” tranh chấp thu mua nguyên liệu đã làm việc phát sinh dần việc hái lẫn loại
, mua giá vựơt cấp, tác động sấu trở lại sản phẩn , thậm trí nhiều vùng dân cư
thu hái không cần phẩm chất, chỉ cần thảo thuận theo lô nguyên liệu. Rất cần
thiết áp dụng trở lại việc thu hái đúng cấp, đúng trật, đúng số lá chừa, sửa bằng
mặt tán để vừa tăng năng suất đồi chè 10 – 15,5 vừa có chất lượng nguyên liệu
đúng, đây cũng là cơ sở tiền đề cho chế biến công nghiệp không lẫn loại, tiết
kiệm, hiệu quả.
Đê thực hiện được mục tiêu trên, đầu tư phát triển các vùng chè và đổi
mới thiết bị công nghệ các cơ sở chế biến thì nhu cầu về vốn đầu tư cho sản xuất
ĐỀ ÁN
40
nông nghiệp trồng mới , chăn sóc chè (1999- 2000) là 2.107 tỷ đồng; Nhu cầu
vốn đầu tư cho công nghiệp gồm thiết bị, nhà xưởng .. là 2.628 tỷ đồng. Đây là
số vốn lớn nhất cần tạo ra từ các chính sách thu hút vốn đầu tư trong nước và
ngoài nước, trong đó việc huy động vốn trong nước là quan trọng như vốn của
dân , vốn từ các chương trình 327, 773…Mặt khác cần có sự hỗ trợ của nhà
nước về chế độ chính sách cụ thể như: Về vay vốn trồng mới chè, đề nghị nhà
nước cho người làm chè được vay vốn đầu tư trồng mới trong 15 năm, trong đó
7 năm đầu là ân hạn, trả vốn và lãi từ năm thứ 8 lãi suất 0.5%/tháng; về vốn vay
xây dựng và cải tạo nhà máy chế biến chè ; Nhà nước cho phép các daonh
nghiệp chè được vay vốn trong 10 năm , trong đó 3 năm đầu ân hạn, trả vốn và
lãi từ năm thứ 4 trở đi, lãi suất 0.81%/tháng; Về sử dung đất: Nhà nước miễn
thuế 5 năm cho các diện tích chè phục hồi và trồng mới trên đất dốc. Thuế với
sản phẩn mới đề nghị nhà nước miễn thuế 5 năm, cho chế biến các sản phẩn
mới. Về hạ tầng cơ sở: đề nghị nhà nước đầu tư cho hệ thống tưới tiêu , điện,
đường giao thông và các cơ sở phục vụ công cộng như: nhà trẻ, trường học, bệnh
viện… Cần sớm cho ngành chè được thành lập quỹ bình ổn giá tính trong giá
thành sản phẩn sản xuất chè xuất khẩu để bảo trợ cho người làm chè khi gặp rủi
ro. Yếu tố con người cũng rát quan trọng trong sự nghiệp phát triển của ngành
chè nên cần có sự đào taọ chính quy cơ bản đáp ứng được những đòi hỏi của nền
kinh tế thị trường. Về tổ chức bộ máy xuất khẩu chè: Các doanh nghiệp nhà
nước, doanh nghiệp tư nhân tham gia hiệp hội chè Việt Nam để có sự thống nhất
về thị trường và giá cả xuất khẩu, tránh tình trạng tranh mua tranh bán. Tổng
công ty chè Việt Nam phối hiệp cùng với các cơ quan chuyên môn quản lý chặt
chẽ chất lượng chè nhằm ngăn chặm kịp thời những hiện tượng sản phẩn xuất
khẩu không đạt chất lượng làm giảm uy tín của chè Việt Nam trên thị trường chè
thế giới đang cạnh tranh rất khắc nhiệt hiện nay. Cổ phần hoá các doanh chè
cũng là một trong những biện pháp nâng cao mức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Để thực hiện cổ phần hoá trước tiên cần ứng dung các hình thức quá độ như:
khoán hộ, khoán vườn chè, đấu thầu, bán vườn chè. Khi người lao động đã có
ĐỀ ÁN
41
thu nhập và có cơ sở tăng vốn để đóng góp cổ phần sẽ thực hiện cổ phần hoá.
Riêng các cơ sở chế biến chè có thể áp dụng các hình thức khoán sản lượng, chất
lượng và đấu thầu thiết bị, hoá giá tài sản, tạo điều kiện cho người lao động đóng
góp cỏ phần bằng những hình thức khuyến khích như cho vay dài hạn được nhà
nước bảo hộ, áp dụng tỷ lệ lãi suất thấp, mua cổ phiếu… và các hình thức tín
dụng nhân dân khác. Bên cạnh đó cần nâng cao hơn nữa vai trò của hiệp hội chè
Việt Nam làm chỗ dựa cho các hội viên. Cần tổ chức cho các hệ thống thu thập
thông tin về thị trường chè, tăng cường tiếp tiệp, quảng cáo để mở rộng thị
trường chè xuất khẩu . Đây sẽ là cơ sở để tạo dựng sự tăng trưởng cao cho ngành
chè trong tương lai..
* về nguồn hàng:
Nguồn hàng để ohục vụ cho quá trình xuất khẩu thường được Tổng công
ty chè Việt Nam đảm nhiện .Với đặc thù của một DNNN lớn, lại hoạt động trong
một ngành được Nhà nước giao nhiệm vụ góp phần phát triển kinh tế miền núi,
vùng sâu, vùng xa, việc quản trị nguồn hàng của Tổng công ty không chỉ nhằm
đảm bảo đủ nguồn hàng XK mà còn phải phát triển được vùng nguyên liệu, phát
triển được sản xuất ở các đơn vị thành viên. Quan hệ giữa Tổng công ty với các
nhà cung cấp trong ngành trong thời gian tới vẫn là quan hệ hợp tác, hỗ trợ, nên
tổ chức quản lý nguồn hàng theo hướng sau:
- Liên kết giữa các khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh trên cơ sở hai
bên cùng có lợi.
Tổng công ty đã có những thành công đáng kể trong việc tạo ra các mối
liên kết này trong phạm vi quản lý của mình, nên tiếp tục duy trì và củng cố.
Gắn hơn nữa lợi ích người sản xuất nông nghiệp với lợi ích của sản xuất công
nghiệp và XK. KNXK tăng phải kéo théo năng lực sản suất ở các đơn vị sản xuất
tăng và đời sống người trồng chè được cải thiện.
Bên cạnh đó, từng bước thống nhất lợi ích giữa các đơn vị thuộc Tổng
công ty và các đơn vị khác trong cùng một địa bàn (ở vùng chè lớn hay trên toàn
ĐỀ ÁN
42
tỉnh) nhằm loại bỏ yếu tố cạnh tranh không lành mạnh, gây phương hại tới lợi
ích chung.
Gắn sản xuất với thị trường, phổ biến khoa học kỹ thuật để dần dần công
nghiệp hóa - hiện đại hoá nông nghiệp. Tạo nên sự phối hợp thống nhất từ khâu
sản xuất nông nghiệp tới tận khâu lưu thông để làm sản phẩm luôn đáp ứng được
thị hiếu người tiêu dùng.
- Về quan hệ giữa các đơn vị với nguồn nhiên liệu.
Ông Tổng giám đốc Tổng công ty chè đã ví các doanh nghiệp chè như
những "Nhà nước nhỏ" thực hiện chức năng điều tiết thị trường , phân phối lại
thu nhập, tạo động lực cho quá trình xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung”.
Hiện nay khi đồi chè đã được giao khoán cho người lao động, họ có quyền thế
chấp, chuyển nhượng, thừa kế. Do đó, sản xuất nguyên liệu phân tán hơn, doanh
nghiệp không còn dễ dàng can thiệp vào việc và chăm sóc chè bằng các chỉ thị,
mệnh lệnh như trước đây nữa. Đễ thực hiện được vai trò "Nhà nước nhỏ", công
cụ của các doanh nghiệp bây giờ là một chính sách giá mua nguyên liệu ổn định
và có tính cạnh tranh, cùng với những định hướng sản xuất, những hỗ trợ về mặt
vốn kỹ thuật... sao cho người trồng chè có thể thu được lợi nhuận lớn nhất từ tài
sản được giao.
Tiếp tục với hình thức khoán vườn, đấu thầu, bán đồi chè ... làm cơ sở để
tiến hành cổ phần hoá rông rãi hơn khi người lao động có đủ thu nhập và có khả
năng tăng vốn để góp cổ phần. Với các cơ sở chế biến công nghiệp, có thể áp
dụng hình thức khoán sản lượng, khoán chất lượng, đấu thầu thiết bị, hoá giá tài
sản, tạo điều kiện cho công nhân mua cổ phiếu băng các hình thức ưu đãi như:
cho trả chậm, lãi suất thấp...
Giải quyết triệt để tình trạng buông lỏng, khoán trắng. Ngoài việc cung
cấp giống, phân bón... còn phải kiểm tra, đôn đốc để người lao động thực hiện
đúng quy trình canh tác. Phát hiện và xử lý kịp thời các sai phạm, kể cả dùng các
biện pháp mạnh như thu lại đất chè.
ĐỀ ÁN
43
Khuyến khích phát triển các mô hình trang trại và tiểu trang trại. Có thể
tham khảo một số công thức đã có kết quả như (5+10+4) (với trang trại) và
(2+3+5) (với tiểu trang trại). Nghĩa là: chè cà phê, các cây công nghiệp khác
chiếm 2 - 5 ha, rừng khoanh nuôi chiếm 3 - 10 ha, nuôi 4 loại gia súc (trâu, bò,
lợn dê, hươu,...). Xoá bỏ thế độc canh, thực hiện đa dạng cây, con, hoa màu để
phân tán rủi ro.
*Chương trình cải tạo đất, giữ ẩn cho vườn chè:
Làm cho đất mầu mỡ trở lại: bằng cách bón phân sinh hoá tổng hợp, phân
vi sinh, ép xanh , tủ cỏ, trồng cây phân xanh, cây bóng mát để tạo mùn và giữ ẩn
cho vườn chè, hạn chế bón phân vô cơ đơn lẻ. Chỉ đạo các đơn vị htực hiện khửa
chua cho đất, làm rãnh thoát nước cho vườn chè, hía chè tươi theo thước, năm
2002 đưa 15% diện tích chè được hái và đốn bằng máy.
Thực hiện tưới cho cây chè bằng biện pháp hợp lý, phù hợp với từng điều
kiện như: tạo hợp thuỷ, đắp hồ ngăn nước, đào giếng, khoan giếng, làm hồ trên
đồi…., sử dụng hiều hình thức tưới phun khác nhau: tưới bằng nước tự nhiện,
phân bón hoà nước vào gốc chè …Thực hiện khửa chua cho đất bằng cách bón
vôi. Năm 2002 cả nước có 8 công ty thực hiện tưới cho 35% diện tích chè, các
công ty khác đảm bảo 20-25% diện tích chè được tưới.
Từ năm 2001 tổ chức sản xuất 30.000 tấn phân hữu cơ vi sinh tổng hợp
dặc chủng cho chè đã được kiểm nghiệm trong thời gian qua để bón phân trên
toàn bộ diện tích chè của cả nước. Trình độ cho phép thành lập công ty chuyên
sản xuất và cung ứng phân bón loại này. phối hợp với hiệp hội chè Việt Nam và
các tỉnh làm chè lớn để khảo soát nguồn phân chất nhằm xây dựng ở mỗi tỉnh có
một nhà máy sản xuất phân hữu cơ vi sinh tổng hợp, trong đó Tổng công ty chè
Việt Nam sẽ sử dụng nguồn tài chính tập trung cho công tác này để đến 2005 trở
đi các vườn chè tập trung sẽ chỉ sử dụng loại phân bón nay.
3.Bổ sung và hoàn thiện cơ chế, chính sách phù hợp với người trồng
chè
ĐỀ ÁN
44
*Nguồn nguyên liệu chè của nước ta hầu hết tập trung ở các nông trường
và hộ gia đình. Và muốn có nguyên liệu tốt và kịp thời giam để chế biến chè thì
chúng ta phải có chính sách để giúp đỡ các hộ gia đình trồng chè về vốn ,kỹ
thuật chồng cgè và thu hái chè:
Trước hết phải nói đến nguồn vốn cho các hộ gia đình.Vì chung ta đã biết
cây chè thường ở vùng núi và trung du , bà cong nông dân ở đây thường không
có vốn để đầu tư vào để mua giống mới và các phương tiện phục vụ cho cây chè
vì vậy chung ta có thể cấp vốn cho họ hay là mua cây giống mới cho họ và có
thể cấp phân bón cho vừa đảm bảo chất lượng chè và làm cho người dân có trách
nhiệm hơn với chất lượng của chè và tạo động lực cho họ yên tâm trồng chè.
Có thể nói kỹ thuật trồng chè có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của chè
mà hầu như người dân trồng chè ở nước ta thường không được học các kỹ thuật
để chăn sóc và trồng cây chè, chỉ dựa vào kinh nghiêm từ xa xưa đã mai một dần
và đã quá lạc hậu , vì vậy chung ta cần phải đưa các cán bộ kỹ thuật nên phổ
biến kỹ thuật cho họ, hay mở các lớp bổ túc kiến thức cho họ
Các doanh nghiệp chế biến chè có thể ký hợp đồng thu mua chè cho người
dân trước vụ thu hái. Nếu làm tốt điều nay thì cả hai bên đều có lợi; Các doanh
nghiệp thì yên tâm về nguồn nguyên liệu được ổn định, còn người trồng chè thì
yên tâm đầu ra của mình được ổn định không sơ phải huỷ bỏ đi.
*Tăng cường vai trò của các đại diện thương mại của Việt Nam ở nước
ngoài. Chúng ta nên học tập kinh nghiệm của một số nước XK lớn như Mỹ,
Nhật Bản… trong lĩnh vực này. Hàng hoá của họ có thể thâm nhập ở hầu hết các
thị trường trên Thế giới không chỉ nhờ yếu tố chất lượng mà còn do nhiều yếu tố
khác, trong đó không thể không kể đến mạng lưới cơ quan Kinh tế - Thương
mại ở nước ngoài được quan tâm và hoạt động cực kỳ có hiệu quả. Các cơ quan
này thực hiện các chức năng thông tin và trung gian vì lợi ích của các nhà XK.
Đặc biệt là thu thập thông tin về thị trường nước sở tại về các điều kiện buôn
bán, phong tục tập quán, cách thức làm ăn, các công ty có khả năng hợp tác …
để lập một ngân hàng dữ liệu chuyển về trong nước. Ngoài ra, còn giúp đỡ các
ĐỀ ÁN
45
nhà xuất khẩu mở chi nhánh ở nước ngoài, lập chương trình cho các đoàn đàm
phán xuất khẩu gặp gỡ các bạn hàng tiềm năng, các cơ quan xúc tiến thương mại
ở các nước sở tại. Thậm chí với các bạn hàng lớn có nhiều cơ hội hợp tác, cơ
quan Thương mại có thể tổ chức cho họ những chuyến đi tới nước mình để tận
mắt tìm hiểu và phát triển quan hệ thương mại.
Nói như vậy không có nghĩa là các đại diện thương mại của ta cũng phải
thực hiện đầy đủ từng ấy chức năng, bởi vì nếu so với Mỹ, Nhật … thì ta còn
quá ít kinh nghiệm về thương mại quốc tế và thua xa về tiềm lực kinh tế. Tuy
nhiên, các đại diện thương mại của ta không thể chỉ thực hiện mãi các nhiệm vụ
chung chung như hiện nay. Để các cơ quan thương mại thực sự vào cuộc, Nhà
nước nên có các biện pháp : Cử cán bộ thực sự có trình độ về kinh tế và nhanh
nhạy trong việc nắm bắt thông tin, có thể xem xét lựa chọn một số nhà xuất khẩu
có kinh nghiệm trên cơ sở thi tuyển chứ không phải theo chế độ bổ nhiệm như
hiện nay. Có thể thành lập riêng đại diện thương mại ở các vùng kinh doanh lớn
chứ không nhất thiết phỉ gắn liền với cơ quan đại diện ngoại giao. Định kỳ, Bộ
thương mại đánh giá hoạt động của các cơ quan, nếu thị trường nào không đạt
chỉ tiêu thì đại diện thương mại ở đó sẽ phải chịu trách nhiệm giải thích lý do và
đề xuất các biện pháp đẩy mạnh XK vào thị trường này.
*Cải thiện về công tác hải quan: Nếu chúng ta khuyến khích các doanh
nghiệp sản xuất thật nhiều hàng xuất khẩu bằng cách tạo ra thật nhiều ưu đãi,
nhưng lại không làm tốt công tác hải quan, để hàng mắc lại ở các cửa khẩu thì
khác nào cố đổ gạo ra khỏi bao nhưng lại thắt chặt miệng bao. Vì vậy, để thực
hiện khuyến khích theo đúng nghĩa, cần có một thay đổi trong lĩnh vực hải quan
như: Đơn giản hoá các chứng từ và thủ tục xuất khẩu. Ban hành văn bản quy
định chi tiết các chứng từ và thủ tục này để tránh việc nhân viên hải quan lợi
dụng những thiếu sót nhỏ để sách nhiễu doanh nghiệp, tiến hành thanh tra và
kiên quyết xử lý các trường hợp tiêu cực.
4.Cải cách hệ thống tài chính cho hoạt động xuất khẩu
*Chính sách tài chính:
ĐỀ ÁN
46
Thuế :
+Miễn thuế sử dụng đất 5 năm cho các diện tích chè phục hồi và 12 năm cho các
diện tích chè trồng mới trên đất dốc từ 7 độ trở lên.
+Miễn thu 100% thuế nhập khẩu với thiết bị máy móc chế biến chè và
phụ tùng đặc chủng của các máy móc này trong một số năm ( khoảng 5 năm từ
1999 - 2004) để tạo điều kiện hiện đại hoá ngành chè.
+Những sản phẩm nhờ kinh doanh đa dạng mà có sẽ được miễn các loại
thuế trong 5 năm đầu, kể từ khi được thương mại hoá, để khuyến khích khai thác
mặt hàng mói, bổ sung vốn cho kinh doanh chè.
+Chỉ thu nhập doanh nghiệp của các nhà sản xuất chè 15% thay vì 35%
như hiện nay. Phần lợi nhuận vượt kế hoạch Nhà nước được giữ lại 100% để bổ
sung quỹ khen thưởng phúc lợi và quỹ nghiên cứu phát triển.
Trích lập quỹ :
Nhà nước cho phép sử dụng các khoản thu từ thanh lý tài sản cố định để
bổ sung quỹ phát triển sản xuất và quỹ phát triển ngoại thương.
Cho thành lập riêng quỹ bình ổn giá để ổn định giá mua chè búp tươi cho
nông dân, giữ cho giá này luôn tương đương với giá thóc. Quỹ này còn dùng để
dự trữ một lượng chè hợp lý nhằm giữ giá chè xuất khẩu. Để hình thành quỹ, các
hộ gia đình và các doanh nghiệp sẽ góp một khoản tương đương 5% giá thành ,
coi như chi phí và đưa vào giá thành. Nhà nước sẽ hỗ một phần bằng cách chi
ngân sách và cho trích lại khoảng 5% trị giá các hợp đồng trả nợ chè của Chính
phủ (khi ký được giá XK cao).
*Phối hợp các biện pháp tài chính, tín dụng để hỗ trợ XK như: Đảm bảo
tín dụng XK, cấp tín dụng XK, trợ cấp XK, công cụ tỷ giá hối đoái và các chính
sách miễn giảm thuế. Từ trước đến nay, Nhà nước mới chỉ tập trung vào các
biện pháp hỗ trợ nhà XK trong nước, tức là hỗ trợ người bán. nhưng theo các
nhà kinh tế thì biện pháp khuyến khích người tiêu dùng ở đây là các nhà nhập
khẩu bao giờ cũng có tác dụng hơn. Và trên thực tế, đã có rất nhiều nước áp
dụng hình thức này mà cho vay vốn ODA giữa các quốc gia chính là một ví dụ.
ĐỀ ÁN
47
Trong điều kiện ngoại thương và vận tải đường biển của ta phát triển chưa mạnh,
việc khuyến khích trực tiếp các doanh nghiệp nước ngoài nhập khẩu hàng hoá
của Việt Nam là con đường ngắn và hiệu quả nhất. Cụ thể là cho nước ngoài vay
tiền với lãi suất ưu đãi kèm điều kiện họ phải mua hàng của mình, lập thành quỹ
bảo lãnh XK để nhà XK Việt Nam cấp tín dụng hàng hoá cho nhà nhập khẩu
nước ngoài với lãi suất ưu đãi…
5.Một số kiến nghị của các doanh nghiệp chè nhất là của Tổng công ty
Việt Nam:
Để đạt được mục tiêu mà toàn ngành đã đề ra thì ngành chè có mốt số
kiến nghị với Bộ Nông nghiệp và PTNT như sau:
-Cần phải tổ chức và phân công lại sản xuất của ngành chè là:
+ Các tỉnh, các địa phương chịu trách nhiện về sản xuất nông nghiệp và
chế biến nhỏ phục vụ nội tiêu là chủ yếu, thực hiện quy hoạch các vùng chè, tổ
chức cho các hộ gia đình vay vốn trồng mới và thâm canh chè, tổ chức khuyên
nông,kiểm tra và hướng dẫn các quy trình canh tác: trồng, chăn sóc, thu hái và
bảo vệ thực vật.
+ Các doanh nghiệp trung ưng và cổ phần no thị trường xuất khẩu, chế
biến các loại chè xuất khẩu có quy mô lớn với các nàh máy lớn và hiện đại để
sản xuất và xuất khẩu luôn giữ vứng và nâng cao được chất lượng, số lượng
nhằm tăng sức cạnh tranh chè của Việt Nam trong khu vực cũng như trên thị
trường thế giới.
- Về quả lý chất lượng chè xuất khẩu:
Hiện nay việc quản lý chất lượng chè xuất khẩu chưa rõ ràng, việc chứng
nhận chất lượng sản phẩn chè xuất khẩu còn nhiều vấn đề bất cập, sản phẩn chất
lượng rất kém, rất xấu củng đưa vào thị trường làm giảm uy tín ủy chè Việt nam.
Do vậy, cần thống nhất quản lý ngành về chất lượng sản phẩn chè xuất khẩu, đề
nghị Bộ Nông nghiệp và Phát Triển Nông Thôn:
+Ban hành và thống nhất tiêu chuẩn một nhà máy chè chế biến xuất khẩu.
ĐỀ ÁN
48
+Ban hành tiêu chuẩn của ngành chè về kiểm tra chất lượng chè xuất khẩu
và giao cho ngành chè cấp giấy chứng nhận chất lượng sản phẩn xuất khẩu.
+Để đảm bảo giữ uy tín cho chè Việt Nam, sức khẻo cho người tiêu dùng
và bảo vệ nôi trường, cần có biện pháp hữu hiệu để quản lý chất luợng các loại
thuốc bảo vệ thực vật, đặc biệt nghiêm cấn lưu hành các loại thuốc trừ sâu đã
cấm sử dụng.
+Đề nghị Bộ dành một khoản vốn ngân sách để đầu tư trang thiết bị một
phòng kiểm tra và phân tích dư lượng các chất vô cơ trong chè, vì hiện nay trên
toàn quốc chưa có một cơ quan nào chuyên làm nhiện vụ này.
-Về việc đầu tư thuỷ lợi cho chè: Đề nghị Bộ có chương trình đầu tư thuỷ
lợi để tưới tiêu cho các vùng chè lớn giống như đầu tư cho cây lúa, cụ thể là: xây
dựng hồ, đập, kênh nương, hệ thống thiết bị tưới tiêu… bằng nguồn vốn ngân
sách của nhà nước .
-Cho phép tổng công ty chè Việt Nam được xắp xếp lại tổ chức sản xuất
và đầu tư thêm như sau:
+Hiện đại hoá 3 nhà máy sản xuất chè nội tiêu ở Hà Nội, Hải Phòng và
T.P Hồ Chí Minh, tại các nhà máy này sẽ trang bị các dây chuyền đóng chè túi
nhúng và chè bao gói hiện đại chất lượng cao.
III.NHỮNG ĐIỀU KIỆN TIỀN ĐỀ CHO HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT VÀ
XUẤT KHẨU CHÈ CỦA VIỆT NAM
1.Về mặt địa lý.
Như chúng ta đã biết nước ta nằm ở khu vực gần trung tâm Đông Nam Á
nơi có chất lượng đất trồng các cây công nghiệp và nông nghiệp rất thích hợp.
Nước ta có khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm qunh năm. và cây chè lại thích
hợp ở những nơi vùng cao và ở các cao nguyên. điều này làm cho Việt Nam của
chúng ta rất có lợi thế để phát triển cây chè vì chúng ta có nhưng nơi có độ cao
trên 1000m so với mực nước biển như một số huyện của Hà Giang, Thái Nguyên
và đặc biệt là cao nguyên Lâm Đồng. Nước chúng ta lại có địa hình với nhiều
ĐỀ ÁN
49
đồi núi và cao nguyên với chất đất đỏ và đất ba ran mầu mỡ phù hợp với các loại
cây công nghiệp dài ngày và trong đó có cây chè
2.Về mặt pháp luật
Có thể nói hiện nay pháp luậtjnước ta đang được sửa đổi để phù hơn với
nền kinh tế thị trường do vậy luật pháp quy định về xuất khẩt cungc đang được
gần cải thiện cho phù hợp hơn với các doanh nghiệp xuất khẩu, hiện nay chúng
ta đã co quỹ hỗ trợ xuất khẩu và nhà nước hầu như không đánh thuế vào hàng
xuất khẩu trong đó mặt hàng chè của chúng ta cũng nằn trong những hành không
phải chịu thuế xuất khẩu, điều này đã tạo ra nhiều thuận lơi cho các doanh
nghiệp xuất khẩu chè. Nhà nước có chủ trương khuyến khích mọi thành phần
kinh tế tham gia vào quá trình xuất khẩu.
3.Về con người.
Người dân Việt Nam chung ta vốn có truyền thống cần cù chịu thương
chịu khó cần cù thông minh sáng tạo. Va đặc biệt với cây chè thì người dân nước
ta đã trồng từ rất lâu đời rồi nên cung có một số ít kinh nghiện về loại cây này.
Đặc biệt hiện nay Đảng và nhà nước ta cung đưa cây chè vào loại cây xoá đói
giảm nghèo cho nhân dân ở các vung sâu và vung xa, hiện nay trình độ dân trí
của chung ta ngày một được cải thiện nên vấn đề tiết thu kỹ thuật cung được rễ
ràng hơn, phương tiện thông tin đại chúng cũng ngày một phổ biến hơn như:
Báo trí, Đài vô tuyến … cũng đã đến được các bà con ở vung sâu vung xa nên
vấn đề về tiếp nhận thông tin cũng như quá trình chăn soc cây chè cung không
gặp nhiều khó khăn như trước nữa và điều này cung đã tạo ra rất nhiều điều
thuận lợi cho cây chè phát triển. Đặc biệt số lương động ở các vùng này có rất
nhiều vì dân số của nước ta có khoảng 78% sống ở các vùng nông thôn và miền
núi và người dân ở đây còn rất khó khăn nên họ rất cần có một loại cây trồng để
tăng thêm thu nhập cho gia đình và tránh được hiện tượng nông nhàn trong dân
cư. Có thể nói đây là một điều kiện rất thuận lợi cho cây chè phát triển ở nước ta.
4.Chính sách của nhà nước.
ĐỀ ÁN
50
Hiện nay Đảng và Nhà nước ta đã tạo ra rất nhiều điều kiện để phát triển
cây chè như: cây chè nằm trong các cây công nghiệp để đưa nên các vung sâu và
vung xa để xoá đói giảm nghèo và phủ xanh đất trống đồi núi trọc. Do vậy đã tạo
ra nhiều điều kiện cho người trồng che. Cho họ vay vốn với lãi xuất thấp ở một
số nơi còn không thu thuế đất 5 năm đầu, và vai lãi với lãi suất thấp và có thể
không thu lãi trong vong 5 năm đầu. Chính phủ đã có một loạt các nghị quyết,
cũng như Nghị định về phát triển cây chè như nghị quyết 43/1999/TTG ngày
10/3/1999 về kế hoạch sản xuất chè năm 1999 – 2000 và định hướng phát triển
đến năm 2005 – 2010 và nghị định 80/2002/QĐ - TTG ngày 24/6/2002 của
chính phủ, do thủ tướng Pham Văn Khải ký, quy định rõ ràng các doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế kết hợp đồng bộ tiêu thụ nông sản phẩn hàng hoá
với người sản xuất, nhằm gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông sản hàng
hoá để phát triển sản xuất và ổn định. Với những quyết định này đã tạo ra hàng
lang thông thoáng cho việc phát triển cây chè để phục vụ cho mục đích xuất
khẩu và đạt được mục tiêu của ngành chè đã đề ra.
®Ò ¸n
51
PHẦN III: KẾT LUẬN
Xuất khẩu đang, sẽ được Đảng và nhà nước đưa vào trung tâm để làm
đòn bảy thúc đẩy kinh tế phát triển, tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX vừa
qua cung khẳng định xuất khẩu là một nhiện vụ quan trọng trong quá trình công
nghiếp hoá hiện đại hoá đất nước .
Trong những năm gần đây xuất khẩu chè của chúng ta đã đạt được một
số thành tựu quan trong đóng góp cho nền kinh tế quốc dân, xuất khẩu chè trở
thành 8 mặt hàng nông sản xuất khẩu quan trọng của nước ta. Xuất khẩu chè đã
giải quyết được công ăn việc làm cho ngàn nghìn lao động rất là những lao
động ở nông thôn và miền núi, cây chè đã trở thành cây xoá đói giảm nghèo của
Đảng và Nhà nước ta. Nhiều người đã giàu lên từ việc trồng chè. Vài năm trở
lại đây xuất khẩu chè của chúng ta đang gặp khó khăn như: Giá chè trên thế
giới đang giảm , thị trường chè xuất khẩu của chúng ta đang có xu hướng thu
hẹp lại, chất lượng chè phục vụ cho xuất khẩu không cao. Để thoát dỡ được vấn
đề nay chúng ta phải thực hiện tốt các biện pháp đã nêu ra ở trên. Để cây chè trở
thành một mặt hàng xuất khẩu quan trọng của nước ta và tương xướng với lợi
thế của cây chè. Tôi huy vọng trong thời gian tới chúng ta sẽ làm tốt các biện
pháp để thúc đẩy xuất khẩu chè và đạt được mục tiêu của ngành đã đạt ra.
®Ò ¸n
52
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo trình kinh tế thương mại
PGS – TS. Đặng Đình Đào, PGS – TS . Hoàng Đức Thân
2.Tạp chí người làm chè
Số: 6,7,8,9,10/2002
3.Tạp chí thương mại
Số: 7/2000,5/2001,3+4/2002
4.Tạp chí ngoại thương
Số: 3+4/2001, 20/2001, 29/2001, 32/2001
5.Tạp chí kinh tế phát triển
Số:42/2000
6.Tạp chí ThịTrường Giá Cả
Số 3/2001
7.Tạp chí Con Số Sự Kiện
Số 3/2002
®Ò ¸n
53
MỤC LỤC
PHẦN I: LỜI NÓI ĐẦU .............................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG ................................................................................3
Chương 1: cơ sở lý luận chung của xuất khẩu chè....................................3
I. VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU CHÈ TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC
DÂN .............................................................................................................3
1. Sự ra đời của ngành chè ................................................................3
2. Vị trí của xuất khẩu chè ..................................................................
3. Vai trò của xuất khẩu chè................................................................
II. QUY TRÌNH XUẤT KHẨU CHÈ CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY .........
1. Công tác tạo nguồn .........................................................................
2. ông tác giao hàng xuất khẩu ............................................................
3 .Công tác thanh toán ........................................................................
III. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN XUẤT KHẨU CHÈ ..........
1. Chất lượng chè................................................................................
2. Chính sách của nhà nước ................................................................
3. Hệ thống tài chính của nhà nước .....................................................
chương 2: thực trạng xuất khẩu chè của việt nam ......................................
I. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ KỸ THUẬT CỦA NGÀNH CHÈ.......................
1.Mang đặc điểm của ngành nông sản phẩn ........................................
2.Mang đặc điểm riêng của ngành chè ................................................
II. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU CHÈ CỦA VIỆT NAM........................
1. Phân tích kết quả tổng quát về xuất khẩu chè ..................................
2. Phân tích kết quả xuất khẩu chè theo chủng loại sản phẩn...............
3. Phân tích kết qảu xuất khẩu chè trên thị trường tiêu thụ ..................
III. NHỮNG KẾT LUẬN RÚT RA TỪ VIỆC NGHIÊN CỨC XUẤT
KHẨU CHÈ ..................................................................................................
®Ò ¸n
54
1. Những mặt tích cực.........................................................................
2. Những mặt còn hạn chế...................................................................
3. hững nguyên nhân ..........................................................................
chương 3: phương hướng và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu chè của việt
nam trong thời gian tới.................................................................................
I. MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG HƯỚNG CỦA NGÀNH CHÈ VIỆT NAM
TRONG NHỮNG NĂM SẮP TỚI...............................................................
1. Mục tiêu của ngành chè...................................................................
2. Phương hướng của ngành chè .........................................................
II. NHỮNG BIỆN PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU CHÈ
CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN SẮP TỚI ....................................
1. Quy hoạch lại các vùng trồng chè ...................................................
2. Nâng cao chất lượng và hạ giá thành của chè ..................................
3. Bổ sung và hoàn thiện cơ chế, chính sách phù hợp với
người trồng chè
4. Cải thiện hệ thống tài chính cho hoạt động xuất khẩu .....................
5. Một số kiến nghị ............................................................................
PHẦN III: KẾT LUẬN.................................................................................
Danh mục tài liệu tham khảo .......................................................................
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề tài Phương hướng và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu chè của Việt Nam trong thời gian tới.pdf