Quá trình tổ chức và thực hiện chính sách đối ngoại của Liên Bang Nga

Khi tuyên truyền giải thích thì các cơ quan tổ chức thực hiện đã dùng mọi phương tiện truyền thông có thể để tuyên truyền chủ trương đường lối của chính sách. Người dân được nắm rõ và hiểu rõ thông tin, được biết các mục tiêu hướng tới của chính sách đối ngoại, cho nhân dân hiểu rõ quyền lợi và trách nhiệm của mình khi chính sách được ban hành. Bước vào tổ chức thực hiện thì mọi mâu thuẫn phát sinh nhanh chóng được làm rõ và giải quyết để tránh để lại hậu quả. Đây có lẽ là một kinh nghiệm sâu sắc. Việc làm rõ cơ quan giải quyết mâu thuẫn sẽ nhanh chóng giải quyết được tránh được sự chồng chéo rối ren chức năng. Kế hoạch được triển khai theo từng bước cụ thể.

docx33 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2641 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quá trình tổ chức và thực hiện chính sách đối ngoại của Liên Bang Nga, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ăng thủy điện cũng rất phong phú. Bước vào thế kỷ XXI, nền kinh tế LBN đã phục hồi nhanh chóng. Nước Nga bước ra khỏi khủng hoảng và bắt đầu phát triển tương đối ổn định. GDP mỗi năm tăng trung bình 6%, đến năm 2006 GDP cua LBN đạt gần 1.000 tỷ USD. Thị trường tài chính, tiền tệ ổn định, dự trữ vàng, ngoại tệ tăng nhanh. Tính đến tháng 7- 2007 dự trữ ngoại tệ đạt trên 413 tỷ USD. LBN cũng thanh toán trước thời hạn các khoản nợ từ thời Liên Xô cho câu lạc bộ Paris. Hiện nay LBN được xếp vào danh sách 10 nền kinh tế lớn nhất thế giới. 1.2.2 Bối cảnh lịch sử LBN hình thành do sự phân rã của Liên Xô – một trong hai siêu cường thế giới nửa cuối thế kỷ XX. Liên Xô sụp đổ, mô hình chính trị Liên Xô sụp đổ khiến cho vị thế của nước Nga suy yếu nghiêm trọng, mô hình chính trị – văn hóa – xã hội Nga gần như không có ảnh hưởng và lôi cuốn bất cứ một nước nào trên thế giới. Không gian chính sách địa chính trị của nước Nga bị thu hẹp. Buộc Nga phải điều chỉnh các chiến lược chính trị – quân sự ở hai đại dương (rút khỏi căn cứ quân sự ở Cuba và Việt Nam), phải từ bỏ ảnh hưởng ở các nước Đông Âu và vùng bán đảo Bancăng, đã và đang bị Mỹ và các nước Tây Âu gạt bỏ ảnh hưởng của Nga khỏi các nước thuộc Liên Xô. Tiềm lực kinh tế – khoa học của Nga bị suy giảm lớn, tổng sản phẩm quốc dân (GDP) không nằm trong mười quốc gia hàng đầu thế giới, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Các nhóm ly khai sắc tộc, đặc biệt nhóm ly khai người Trexnhia đã gây tổn thất nặng nề cho LBN về người và của trong thời gian dài, để lại hậu quả to lớn đến sự bền vững thống nhất của Nga. Mặt khác LBN kế thừa hầu hết các di sản mà Liên Xô để lại: tiềm lực kinh tế, tiềm lực quân sự, tiềm năng và văn hóa, địa vị pháp lý quốc tế… Mặc dù LBN mất đi vị thế siêu cường nhưng vẫn còn vị thế của một cường quốc lớn. LBN vẫn là một trong năm ủy viên thường trực của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc. Nga kế thừa gần như nguyên vẹn kho vũ khí hạt nhân khổng lồ của Liên Xô, nhiều thành tựu về khoa học quân sự hạt nhân và công nghệ vũ trụ còn cao hơn Mỹ. Nga duy trì hầu hết các mối quan hệ hữu nghị mà Liên Xô trước đây đã xây dựng với các nước trên thế giới. Lãnh thổ LBN rộng từ Châu Âu sang Châu Á, khả năng khống chế địa bàn chính sách xung yếu của thế giới còn cao. Trên lãnh thổ rộng lớn đó, với nguồn năng lượng than đá, dầu mỏ, thủy điện dồi dào, Nga có khả năng làm khuynh đảo thị trường năng lượng thế giới. Vì vậy Nga xây dựng chính sách đối ngoại của mình trong bối cảnh kế thừa Liên Xô, mặt khác mất vị thế siêu cường khiến Nga phải có những điều chỉnh lớn để xây dựng một chính sách đối ngoại phù hợp với tình hình mới. Quá trình phát triển chính sách đối ngoại hiện đại của Nga trải qua hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn khủng hoảng và hình thành: từ tháng 12 năm 1991 đến tháng 5/2000, còn gọi là “giai đoạn Enxin”. Tháng 12-1991 Gioocbachốp từ chức, Liên Xô tan rã, LBN thành một chủ thể độc lập kế thừa địa vị pháp lý của Liên Xô trên trường quốc tế, Enxan lên làm tổng thống Nga trong bối cảnh hết sức khó khăn, phức tạp cả về kinh tế, chính trị xã hội cũng như đối nội và đối ngoại. Suốt 9 năm làm tổng thống Nga, B.Enxin đã chuyển xã hội Nga từ mô hình kinh tế – xã hội tập trung bao cấp sang mô hình kinh tế – xã hội tự do. Enxin đã phải đối đầu với nhiều khủng hoảng, chấn động hỗn loạn cả về kinh tế lẫn xã hội. Đây cũng là quá trình nước Nga chịu nhiều thử thách để hình thành 1 chính sách đối ngoại mới: phải từ bỏ chính sách siêu cường của Liên Xô để hình thành chính sách đối ngoại phù hợp với thực lực hiện tại của Nga. Chính sách mới này cố gắng giữ cho Nga có uy thế toàn cầu, tranh thủ được nguồn lực hợp và sự hợp tác quốc tế để phát triển kinh tế Nga, giữ cho vùng ngoại biên láng giềng Nga không đối đầu với Nga, không lệ thuộc vào Mỹ. Giai đoạn thứ 2 là giai đoạn hình thành và ổn định: Từ tháng 5-2000 đến nay, còn gọi là “giai đoạn Putin”. Ngày 7-5-2000, V.Putin lên làm Tổng thống Nga. Về đối nội. V.Putin củng cố quyền lực thống nhất vào chính quyền trung ương và tổng thống. Ông đã thành công trong việc điều hành 89 chủ thể của LBN, luật pháp hóa các hoạt động của các đảng phái chính trị Nga, trấn áp giới tài phiệt âm mưu lũng đoạn sự điều hành của nhà nước. V.Putin đã có nhiều biện pháp chấn chỉnh nền kinh tế thị trường tự do của nước Nga, làm cho kinh tế Nga liên tục tăng trưởng và ổn định. Trên cơ sở đó, V.Putin đã hình thành và ổn định chính sách đối ngoại của Nga, ngày càng phù hợp với tình hình mới, nhằm đảm bảo tăng cường vị thế của Nga trên thế giới và tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự phát triển kinh tế xã hội của Nga. 1.2.3 Một số nội dung cơ bản của Chính sách đối ngoại. 1.2.3.1 Cơ quan tổ chức thực hiện chính sách Tổng thống LBN giao cho Chính phủ LBN soạn thảo và đệ trình chính sách, sau đó chuyển cho các Ban nghành có liên quan xem xét và cho ý kiến cụ thể. Khi quá trình hoàn tất, chính sách được Tổng thống ký và được Chính phủ ban hành. Chính phủ và Bộ ngoại giao là đơn vị trực tiếp thực hiện chính sách đối ngoại trên mọi phương diện. Vì Tổng thống LBN có nhiều thực quyền lớn như: bổ nhiệm thủ tướng chính phủ dưới sự đồng ý của Đuma quốc gia. Các Phó thủ tướng và các bộ trưởng do Tổng thống bổ nhiệm theo đề nghị của Thủ tướng. Một số bộ chủ chốt như Ngoại giao, Quốc phòng, Nội vụ… hoạt động dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng thống. Bộ Ngoại giao sẽ có trách nhiệm tổ chức thực hiện chính sách đối ngoại, nhưng khi chính sách khi ban hành đều phải được sự phê chuẩn của Tổng thống. 1.2.3.2 Vấn đề chính sách, mục đích, đối tượng, phạm vi chính sách hướng tới. Hiện nay, LBN đang thi hành chính sách đối ngoại thực dụng và linh hoạt, đa dạng hóa quan hệ trên tất cả các lĩnh vực như chính trị, kinh tế, an ninh quốc phòng, đồng thời tranh thủ hợp tác kinh tế với các đối tác khác nhau, tạo môi trường hòa bình ổn định cho đất nước phát triển. Tư tưởng chủ đạo của trong chính sách đối ngoại của LBN là bảo vệ kiên quyết và triệt để lợi ích quốc gia dựa trên lập trường thực tiễn và thực dụng trong bối cảnh phức tạp chứa đựng nguy cơ mới và sự bất ổn định đang gia tăng. Mốc định hướng chính của toàn bộ hoạt động đối ngoại của LBN là tạo ra những điều kiện thuận lợi tối đa nhằm bảo đảm an ninh và phát triển đất nước, củng cố chủ quyền Nhà nước Nga, tăng phúc lợi cho nhân dân, phát triển nền dân chủ và xã hội công dân cũng như vì sự tiến bộ kinh tế và xã hội. LBN cũng hướng tới việc khôi phục và tăng cường vị thế nước lớn của mình, cùng cộng đồng quốc tế đấu tranh vì nền dân chủ, công bằng, bình đẳng giữa các dân tộc và thực thi công pháp quốc tế. Chính sách đối ngoại đó đã được thực hiện một cách nhất quán trong các công việc cụ thể và những sáng kiến đối ngoại của LBN. Trên các hoạt động đối ngoại đa phương: Ngay trong những năm 2000, quan điểm thuộc về chủ trương của LBN đã được thể hiện đầy đủ trong các văn kiện Hội nghị Thượng đỉnh thiên lien kỷ của Liên hợp quốc, trong đó có sự tham dự của tổng thống Nga. Tại Liên hợp quốc từ năm 2000-2004, những sáng kiến do Nga đề xuất đã khẳng định phần nào LBN trở thành một quốc gia chủ đạo trong việc bảo vệ Công pháp quốc tế dựa vào Hiến chương Liên hợp quốc cũng như ưu thế trong những hoạt động tập thể nhằm vô hiệu hóa những nguy cơ và thách thức của thế kỷ XXI. Trước hết LBN góp phần quan trọng vào việc tìm kiếm lời đáp trả những thách thức mới của an ninh quốc tế. Cùng với Tổ chức An ninh và Hợp tác Châu Âu, EU, NATO và với các nước trong quan hệ hợp tác song phương, LBN đã tham gia chấn chỉnh cuộc đấu tranh có hệ thống chống khủng bố quốc tế, tội phạm có tổ chức, buôn bán vũ khí, buôn ma túy và buôn người bất hợp pháp. Nhất là trong cuộc chiến chống khủng bố quốc tế, LBN đã tỏ rõ vai trò tiên tiến của mình, bởi vì bản than Nga cũng là đối tượng bị các phần tử hồi giáo cực đoan Trexnia lien tục khủng bố ở Matxcơva, Bexlan… Nga đã không hề giảm bớt nỗ lực theo hướng giải trừ vũ khí, tập trung chú ý vào các vấn đề không cho phép quân sự hóa khoảng không vũ trụ, không cho phép phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt và không để chúng lọt vào tay bọn khủng bố, góp phần làm giảm căng thẳng xung quanh tính minh bạch của các chương trình hạt nhân của Iran và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Nga triệt để ủng hộ vai trò trung tâm của Liên hợp quốc, coi đó là một trong những nguyên tắc cơ bản của hệ thống quan hệ quốc tế tương lai đang hình thành. Vì thế, việc củng cố vị thế Liên hợp quốc, tăng cường sức mạnh, uy tín và vai trò thực tế của tổ chức này trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế vẫn là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất trong chính sách đối ngoại của LBN. Nga đã thực hiện nhiều chính sách nhằm củng cố các mối quan hệ quốc tế không phải dựa trên quyền của kẻ mạnh với sự thống trị những quan điểm sức mạnh đơn phương, mà là quyền lực tối thượng của Công pháp quốc tế và việc giải quyết các vấn đề thế giới then chốt phải dựa trên cơ sở hợp tác đa phương. Nhờ sự bảo vệ kiên quyết và nhất quán của những nguyên tắc được đa số các nước dân chủ ủng hộ, đồng thời nhờ đường lối không đối đầu, Nga tránh được sự gia tăng khủng hoảng quốc tế ở một số khu vực thế giới. Chính sách cân bằng của Nga đã được cộng đồng thế giới đánh giá cao. Chính được sự hỗ trợ của Nga mà nhiều nghị quyết của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc về các vấn đề quốc tế phức tạp đã được thông qua, nhất là ở Trung đông, Trung Á, Đông bắc Á. Tiến hành đường lối khẳng định những nguyên tắc đa phương trong chính sách thế giới một cách nhất quán, Nga đã tích cực phát triển hợp tác với các thể chế quốc tế khác nhau. Những thể chế có thể trở thành những thành phần của một hệ thống quan hệ quốc tế mới đang hình thành trong thế kỷ XXI, trong đó có nhóm G8, thường đưa ra những sáng kiến cơ bản. Đối với các nước láng giềng thuộc Liên Xô cũ. Giữa LBN và các nước này có mối quan hệ lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hóa. Một trong những ưu tiên trọng tâm đối ngoại của LBN là việc hình thành không gian hợp tác và đối tác láng giềng than thiện dọc theo chiều dài biên giới của mình. Trong bối cảnh đó, việc chuyển sang sự lãnh đạo ở các cấp khác nhau và với tốc độ khác nhau diễn ra trong những năm gần đây trong không gian SNG có ý nghĩa nguyên tắc. SNG đã chứng tỏ nó là một cơ chế phối hợp hợp hoạt động đa phương có ích trong không gian hậu Liên Xô. Hoạt động của nó đã trở lên cụ thể hơn, tập trung vào những hướng mà ở đó có khả năng cho hiệu suất cao nhất. Năm 2000, Hiệp ước Nga – Bêlarút về thành lập nhà nước Liên bang có hiệu lực. Tháng 9-2003, hiệp định về thành lập không gian kinh tế chung giữa Nga, Ucraina, Belarut và Cadắctan đã được ký. Trong những năm đó, sự lien kết chính trị - quân sự đã được củng cố giữa các thành viên Hiệp ước an ninh tập thể, trên cơ sở đó đến năm 2003 đã thành lập một số tổ chức quốc tế khu vực – Tổ chức hiệp ước an ninh tập thể. Tháng 6 – 2001, SCO với sự tham gia của hai cường quốc hạt nhân, ủy viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc là Nga và Trung Quốc cũng như các nước chủ chốt của Trung Á đã được thành lập. Hiện nay, tổ chức này là một cơ cấu khu vực phát triển, có khả năng giải quyết các vấn đề quan trọng trong lĩnh vực chính sách đối ngoại, kinh tế, đối phó với những nguy cơ thách thức chung. Tuy nhiên, Mỹ và các cường quốc Tây Âu muốn ảnh hưởng và lợi ích của họ ở các địa bàn chính sách sát biên giới Nga. Ba nước Bantich đã kiên quyết gia nhập EU và NATO, xu hướng chính trị gắn chặt với Tây Âu, xa rời Nga đã lan mạnh từ các nước vùng ngoại Capcadơ, LBN đang hình thành một chính sách đối ngoại mềm mỏng và tổng hợp để chặn đứng xu hướng này. Đối với Châu Âu, trong khi ưu tiên phát triển quan hệ với các nước láng giềng, LBN không quên rằng, phạm vi lợi ích chủ yếu về kinh tế, chính trị, quân sự của Nga về mặt lịch sử tập trung ở Châu Âu. Do đó quan hệ Nga - EU và Nga – NATO trong những năm qua có ý nghĩa nguyên tắc. Mối quan hệ với EU – đối tác chính sách của Nga hiện nay bao trùm toàn bộ lĩnh vực – từ kinh tế, năng lượng, khoa học và kỹ thuật, cho đến việc đối phó với những nguy cơ thách thức mới. Hội nghị thượng đỉnh Nga – EU được tiến hành mỗi năm hai lần có nội dung phong phú và đạt nhiều kết quả. Các biện pháp tích cực được thực thi nhằm giảm thiểu những hậu quả tiêu cực của việc mở rộng EU đối với kinh tế Nga. Ngăn chặn việc tạo thành một khoảng trống pháp lý trong mối quan hệ với các đối tác lâu đời trong số các thành viên mới của EU. Quan hệ với NATO đã có bước đột phá về chất lượng – Hội đồng Nga – NATO được thành lập. Cơ quan này đã đảm bảo cho sự tham gia bình đẳng của Nga vào việc giải quyết các vấn đề an ninh cơ bản trong không gian Châu Âu – Đại Tây Dương. Tuy nhiên, Nga vẫn giữ quan điểm nhất quán: Nga không xếp hàng để gia nhập NATO, mà còn phải xem NATO biến đổi theo chiều hướng nào: “theo hướng cơ cấu chính trị hay lien minh quân sự”. Quan hệ với Hoa Kỳ, đây là mối quan hệ có ý nghĩa to lớn và là hướng ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Nga, bởi hai nước đều có trách nhiệm chung đối với việc duy trì sự ổn định chính sách trên thế giới. Các cuộc gặp gỡ giữa Tổng thống hai nước đã đặt nền móng vững chắc cho cuộc đối thoại mới dựa trên lợi ích lâu dài trùng hợp nhau. Ưu thế vượt trội của lợi ích đó đối với những bất đồng về chính sách đã cho phép tránh khỏi khủng hoảng trong quan hệ giữa hai nước do quyết định của Mỹ hồi tháng 12-2001 rút khỏi Hiệp ước tên lửa đạn đạo (ABM) ký năm 1972 gây ra. Hai bên đã không để xảy ra việc phá vỡ sự ổn định chính sách và đã ký một hiệp ước mới vào năm 2002, trù định việc căt giảm tiềm lực hạt nhân. Khuôn khổ mối quan hệ chính sách giữa Hoa kỳ và Nga được xây dựng khác với trước kia. Điều quan trọng là Nga đã duy trì được khả năng tiếp tục bảo vệ anh ninh chính sách của mình ở mức thích đáng, tự xác định cơ cấu và thành phần các lực lượng hạt nhân của mình. Mối quan hệ với Hoa kỳ đang trở nên ổn định và dự đoán được. Cơ sở nền móng của nó đủ mạnh để thảo luận một cách xây dựng và cởi mở những bất đồng hiện có, trong đó có các vấn đề nguyên tắc và khắc phục những vấn đề mới đặt ra hiện nay. Tuy nhiên trong mối quan hệ với Hoa kỳ, Nga vẫn giữ vững nguyên tắc độc lập của mình. Nga duy trì quan hệ ổn định với Mỹ để hội nhập kinh tế quốc tế, nhằm tránh sự tụt hậu suy giảm sức mạnh so với các cường quốc khác. Hoa Kỳ cũng rất cần quan hệ bình ổn với LBN bởi vì trong điều kiện hòa bình, Hoa Kỳ có thể chủ động thu hẹp không gian chính sách của LBN. Ngược lại, nếu LBN trở lại tư duy chiến tranh lạnh sẽ bất lợi lớn với Hoa Kỳ. LBN cho rằng vấn đề Trexnia, cải cách chính quyền… là công việc nội bộ của Nga, Hoa Kỳ không có quyền can thiệp. Đồng thời LBN cũng công khai chỉ trích chính sách hai mặt của Hoa Kỳ trong cuộc chiến chống khủng bố. Một mặt, LBN cố gắng cải thiện quan hệ với Hoa Kỳ. Mặt khác, Nga cho rằng, trên thế giới hiện nay vẫn còn có những người ủng hộ quan điểm thời chiến tranh lạnh trong quan hệ với LBN, những thế lực không muốn từ bỏ quan điểm này và vẫn coi Nga không phải là đối tác chính trị. Nga không cần tới sự giúp đỡ của Phương Tây trong việc giải quyết những vấn đề xây dựng nền dân chủ đất nước. LBN phải tìm kiếm đồng minh, cần phải phá tan tảng băng không tin tưởng lẫn nhau hình thành từ những năm 1980, khi Liên Xô đối đầu với thế giới còn lại. Mục đích chính của LBN là biến LBN trở thành thành viên đầy đủ của cộng đồng thế giới. Đối với các nước Châu Á, LBN đã phát triển mối quan hệ tích cực với các nước ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, không gây tổn thất cho bất kỳ quốc gia nào, dựa trên tinh thần vì lợi ích an ninh và sự phồn vinh chung. Tại khu vực này quan hệ giữa LBN với Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, với hai miền Nam – Bắc Triều Tiên, với ASEAN, APEC đều có những tiến triển. Quan hệ LBN – Trung Quốc trải qua đoạn đường dài khúc khuỷu, bước vào thế kỷ XXI hai nước đã thiết lập mối quan hệ đối tác toàn diện, hợp tác chính sách. Năm 2001, hai nước ký Hiệp định hợp tác, hữu nghị song phương; biên giới LBN – Trung Quốc đã trở thành biên giới hòa bình, than thiện; trao đổi thương mại năm 2004 đạt 20 tỷ USD; giao lưu hữu nghị nhân dân tăng cường. Hai nước có quan điểm giống nhau, có sự phối hợp với nhau trên nhiều vấn đề quốc tế quan trọng như vấn đề chống khủng bố, vai trò Liên Hợp Quốc, chống chủ nghĩa đơn phương, Trung Đông, Trung Á, hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên… Ở các vùng phức tạp của thế giới, vai trò của LBN như một cường quốc có ảnh hưởng và uy tín lớn ở Trung – Cận Đông đã được duy trì và tăng cường. Bằng chứng cho thấy đó là sự tham gia của Nga trong “bộ tứ” quốc tế (gồm Liên hợp quốc, Hoa Kỳ, EU, LBN) nhằm giải quyết khủng hoảng ở Trung Đông. Thành tích ngoại giao của LBN là việc thông qua nghị quyết của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhất trí ủng hộ “lộ trình hòa bình” do “bộ tứ” đề xuất để giải quyết dứt điểm cuộc xung đột dai dẳng nhất trong lịch sử hiện đại, nhằm đem lại hòa bình và ổn định cho khu vực này. Kết quả hoạt động quốc tế những năm gần đây chứng tỏ một cách thuyết phục rằng, Liên Bang Nga đã trở thành một nhà nước dân chủ với chính sách đối ngoại độc lập và có thể dự đoán được cũng như với phạm vi đối tác chính sách rộng lớn. 1.2.3.3 Ý nghĩa việc tổ chức thực hiện trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội Liên Bang Nga. Với việc đề ra chính sách đối ngoại như vậy đã tác động mạnh mẽ trong chiến lược phát t riển kinh tế xã hội của LBN cụ thể là: Trong sáu tháng đầu năm 2012, GDP của Nga đã tăng 4,4% so với cùng kỳ năm ngoái, thu nhập thực tế của dân chúng tăng 2,2% và mức lương trung bình của người lao động đạt hơn 27.000 rúp/tháng (khoảng 900 USD/tháng), theo thông báo ngày 20/8 của Ủy ban Thống kê Nhà nước Nga. Kim ngạch bán lẻ tăng 6,8%, đạt 11.534 tỷ rúp (gần 385 tỷ USD), đầu tư vào vốn cố định tăng 10,2%, đạt 896 tỷ rúp (gần 30 tỷ USD), tổng dân số đã tăng thêm 85.600 người, đạt 143,1 triệu người. Trong khi đó, số người thất nghiệp ở Nga tính đến đầu tháng Bảy qua đã giảm 20.000 người và nước Nga hiện còn 4,124 triệu người không có việc làm, chiếm 5,4% tổng số người có khả năng lao động, còn lạm phát duy trì ở mức 6-7%/năm. Nga hôm nay có một nền kinh tế đa dạng, nhưng khu vực quan trọng nhất là việc bán nguyên liệu thô và hàng hóa cơ bản như dầu, gỗ, và vàng. Nga đang hợp tốt với các nguồn tài nguyên thiên nhiên và nguyên liệu. Nga có các nhà sản xuất hàng đầu thế giới của dầu mỏ và khí đốt, đồng, mangan, bauxite, than chì, uranium, titan, vàng, bạc, và bạch kim. Liên Xô trước đây là một nhà sản xuất các mặt hàng chế biến như hóa chất, vũ khí và thiết bị quân sự và hàng không vũ trụ quốc tế hàng đầu. Nhiều cơ sở công nghiệp của các khu vực sản xuất nằm trong phạm vi của Cộng hoà Nga chính nó. Tuy nhiên, sự tan rã của Liên Xô dẫn đến gián đoạn đáng kể trong các mối quan hệ thương mại. Trong suốt 73 năm tồn tại, Liên Xô đã tăng lên là một siêu cường quân sự tuyệt vời. Đo về sản lượng dầu thô, Liên Xô đã tạo ra nền tảng cho khả năng sản xuất lớn. Liên bang Xô viết đã trở thành một trong những nhà sản xuất lớn nhất thế giới rất nhiều nguyên liệu chế biến và các mặt hàng sản xuất khác nhau, từ thực phẩm đến các đầu đạn hạt nhân. Tuy nhiên, hiệu quả của sản xuất mà là tỷ lệ đầu vào đến đầu ra cho bất kỳ sản phẩm không phải là một mục tiêu chính của hệ thống kinh tế của Liên Xô Nhấn mạnh rất lớn đã được đưa vào kết quả đầu ra. Theo đó, Liên Xô đã phát triển một hệ thống kinh tế đã được hầu như chỉ tập trung vào việc đạt được các mục tiêu sản xuất. Hệ thống được chứng minh là vô cùng quan liêu và có độ bền cao với sự thay đổi công nghệ. Các hệ thống kinh tế Liên Xô là không có khả năng đáp ứng yêu cầu của thị trường quốc tế năng động của thế kỷ 21. Ngay cả trước khi Liên Xô tan rã, chính phủ Nga đã bắt đầu khởi xướng cải cách để di chuyển nền kinh tế từ một trực thuộc Trung ương lập kế hoạch sang nền kinh tế dựa trên thị trường tự do. Quá trình thay đổi này đã được biết đến như là quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Chẳng bao lâu sau khi độc lập, chính phủ Nga đã công bố một chương trình đầy tham vọng về cải cách chính trị và kinh tế hơn nhiều. Chương trình bao gồm một chuyển đổi của nền kinh tế từ các nguyên tắc của kế hoạch nhà nước và chỉ đạo hành chính kinh tế dựa trên thị trường đã được dỡ bỏ kiểm soát giá. Chính phủ trợ cấp đã bị loại bỏ hoặc giảm. Ngân sách của chính phủ đã được tổ chức dọc theo các đường mới để nó có thể được cân bằng thông qua việc mang lại thu nhập từ thuế vào phù hợp với chi tiêu của chính phủ. Một chính sách hạn chế tiền tệ đã được thông qua. Thương mại nước ngoài được tự do hóa thông qua việc dỡ bỏ kiểm soát xuất khẩu và nhập khẩu.Các loại tiền tệ của Nga, đồng rúp được phép phải phá giá để đưa nó vào phù hợp với lãi suất thị trường. Tư nhân hóa và tái cơ cấu các lĩnh vực độc quyền nhà nước đã được thực hiện. Những nỗ lực đã bắt đầu thiết lập cấu trúc pháp lý và quy định cho một môi trường thị trường. Luật mới đã được thông qua để thiết lập luật pháp và thủ tục cho ngành ngân hàng, thị trường vốn, pháp luật và hợp đồng dân sự, xét xử các tranh chấp thương mại và phát triển của một mạng lưới an toàn xã hội để đệm tác động xã hội của sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên, những năm đầu tiên của quá trình chuyển đổi tỏ ra rất khó cho Nga. Trong thập niên đầu của nó như là một nền kinh tế định hướng thị trường, nền kinh tế Nga bị co lại của gần 60% so với mức độ độc lập trước khi được đo bằng GDP. Giảm mạnh sản xuất trong các ngành công nghiệp và xuất khẩu then chốt dẫn đến một nền kinh tế liên tục ký kết hợp đồng giữa năm 1990 và 1997 như sản xuất công nghiệp đã đi vào một "rơi tự do, giảm hơn 50% trong thập kỷ của những năm 1990. Phức hợp công nghiệp quân sự của Liên Xô, các nhà cung cấp hàng hóa cho khu vực nhà nước và công nghiệp nhẹ là bị ảnh hưởng nặng nề nhất do điều chỉnh cơ cấu sang nền kinh tế theo định hướng thị trường và thu hồi từ trạng thái siêu cường. Năm 1997, nền kinh tế bắt đầu để hiển thị các dấu hiệu đầu tiên của phục hồi sau quá trình chuyển đổi, đăng một tốc độ tăng trưởng chút ít hơn 1%. Mặc dù "liệu pháp sốc" của một quá trình chuyển đổi nhanh chóng và sự suy giảm trong sản xuất công nghiệp, gia tăng nghèo đói và thất nghiệp, và sự suy yếu của các cơ sở hạ tầng dịch vụ xã hội, Nga đã bắt đầu cho thấy dấu hiệu của một thay đổi hoàn toàn kinh tế. Lạm phát, tăng vọt vào năm 1993 và năm 1994, cuối cùng đã được kiểm soát. Đồng rúp đã được ổn định. Một chương trình tư nhân đầy tham vọng đã chuyển hàng ngàn doanh nghiệp sở hữu tư nhân. Định hướng thị trường quan trọng pháp luật cũng đã được thông qua, trong đó có một mã thương mại trong quan hệ kinh doanh và thành lập một tòa án trọng tài để giải quyết tranh chấp kinh tế. Tuy nhiên, trong mùa hè năm 1998, một làn sóng mạnh mẽ của sự bất ổn tài chính bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 tràn qua các cộng đồng tài chính Nga. Nền kinh tế Nga đã trải qua sự căng thẳng rất lớn vì nó đã chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang một hệ thống thị trường tự do. Những khó khăn trong thực hiện cải cách tài chính nhằm nâng cao thu ngân sách Nhà nước và sự phụ thuộc vào vay ngắn hạn để tài trợ cho thâm hụt ngân sách của chính phủ đã dẫn đến một cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng vào năm 1998. Giá thấp hơn cho người có thu nhập xuất khẩu chính của Nga (dầu mỏ và khoáng sản) và mất lòng tin của các nhà đầu tư do cuộc khủng hoảng tài chính châu Á làm trầm trọng thêm vấn đề tài chính. Kết quả là một sự suy giảm nhanh chóng trong giá trị của đồng rúp, chuyến bay của đầu tư nước ngoài, các khoản thanh toán bị trì hoãn về chính phủ và các khoản nợ tư nhân, một sự cố của các giao dịch thương mại thông qua hệ thống ngân hàng, và mối đe dọa của lạm phát. Trong tháng 8 năm 1998, chính phủ Nga cho phép đồng rúp giảm precipitously và hoãn thanh toán trên 40 tỷ USD trái phiếu kho bạc. Trong sự trỗi dậy của cuộc khủng hoảng tài chính, hàng tỷ đô la đầu tư trực tiếp nước ngoài đã bị cuốn trôi ra khỏi đất nước, niềm tin nhà đầu tư giảm, và Nga di chuyển vào một thu hẹp kinh tế sắc nét. Cuộc khủng hoảng tài chính năm 1998 sản xuất giảm mạnh và đột ngột thu nhập cá nhân, như GDP bình quân đầu người ở Nga đã giảm từ 3.056 USD vào năm 1997 lên 1.867 USD vào năm 1998. Giảm mạnh trong thu nhập bình quân đầu người và co lại của các thị trường tài chính cũng đã có một số hiệu ứng lành tính, tuy nhiên. Trong một số lĩnh vực kinh tế, hiệu quả kinh tế Nga được cải thiện khi giá thế giới cao hơn cho giá dầu nhiên liệu thế giới tăng gần gấp ba vào năm 1999 và một số kim loại tạo điều kiện cải thiện trong lĩnh vực xuất khẩu. Đồng rúp Nga mất giá trong mối liên hệ với cuộc khủng hoảng tài chính. Đồng rúp mất giá trả lại sản phẩm do Nga chế tạo tương đối rẻ hơn so với nhập khẩu. Điều này góp phần để mua tăng hàng hóa và dịch vụ sản xuất trong nước cũng như xuất khẩu tạo điều kiện thuận lợi. Năm 1999 sản lượng tăng thời gian chỉ thứ hai kể từ năm 1991,% 3.2 chính thức ước tính, lấy lại đất đai bị mất trong quá trình giảm 4,6% năm 1998. Sự gia tăng năm 1999 đã đạt được bất chấp một năm hỗn loạn tiềm năng bao gồm lật đổ của 3 thủ tướng và lên đến đỉnh điểm trong từ chức đêm giao thừa năm mới của Tổng thống Boris Yeltsin. Giúp đỡ rất nhiều gấp ba lần giá dầu quốc tế trong nửa thứ hai của năm 1999, nâng cao thặng dư xuất khẩu 29 tỷ USD. Về mặt tiêu cực, lạm phát đã tăng lên trung bình 86% vào năm 1999, so với mức trung bình 28% vào năm 1998. Công dân trung bình tìm thấy tiền lương thực tế của họ giảm khoảng 30% và lương hưu của họ bằng 45%. Chính phủ Nga mới, dưới sự lãnh đạo của Vladimir Putin, dành ưu tiên cao để bổ sung thu nhập thấp bằng cách trả lại tờ giấy vay tiền lương và lương hưu. Tuy nhiên, nhiều nhà đầu tư, cả trong nước và quốc tế, vẫn bên lề, sợ hãi bởi các vấn đề lâu dài của Nga với chuyến bay vốn, tham nhũng tràn lan, và các bài báo về tội phạm có tổ chức và mafia Nga. Báo chí quốc tế đã cho bảo hiểm sensational điều tra âm mưu rửa tiền được thiết kế để di chuyển lợi bất thành nơi trú ẩn an toàn ra khỏi Nga. Sự hồi phục tiếp tục vào năm 2000 như nền kinh tế Nga đã tăng trưởng nhanh nhẹn trong suốt cả năm, vượt xa mong đợi. Phấn chấn bởi sự mất giá của đồng rúp và sự tăng giá xuất khẩu dầu trung bình so với năm 1999 cấp độ, GDP thực tế đã vượt qua mức trước-1998 cuộc khủng hoảng, tăng trưởng hơn 8% trong năm 2000. Tăng trưởng sản lượng công nghiệp, đạt 8% vào năm 1999, tiếp tục tăng trong năm 2000. Sự gia tăng trong sản xuất công nghiệp đã dẫn đến việc giảm tỷ lệ thất nghiệp, với ghi nhận tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống hơn 10% vào cuối năm 2000. Chương 2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA LIÊN BANG NGA 2.1 CƠ QUAN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH. Các chính sách là phương tiện quản lý của nhà nước, do đó việc thực hiện các chính sách trước hết thuộc về cơ quan nhà nước. Mỗi chính sách cũng đề cập đếm nhiều khía cạnh nên có nhiều cơ quan nhà nước tham gia vào quá trình tổ chức thực hiện. Để phát huy có hiệu quả hoạt động của toàn bộ hệ thống tổ chức sẽ có một cơ quan được nhà nước ủy quyền chịu trách nhiệm chung, thống nhất điều phối các hoạt động chung về thực hiện chính sách. Và cơ quan tổ chức thực hiện chính sách đối ngoại của Liên Bang Nga chính là chính phủ. Chính phủ LBN là cơ quan chịu trách nhiệm chung bởi cơ quan này có vị thế cao hơn các cơ quan khác. Bên cạnh cơ quan chủ chốt là Chính phủ Liên Bang Nga, còn có cơ quan phối hợp thực hiện chính sách. Đây là cơ quan có chức năng lien đới thực hiện mà hoạt động của cơ quan này sẽ góp phần thúc đẩy trong thực thi chính sách. Cơ quan phối hợp là Bộ Ngoại giao Liên bang Nga và các cơ quan quyền lực hành pháp khác của Liên bang Nga thực hiện chính sách. Giữa các cơ quan này phải hình thành mối quan hệ phân công và phối hợp thực hiện chính sách. Phân công để giữa các cơ quan không có sự trùng lặp chức năng, nhiệm vụ; nhưng khi thực hiện chức năng nhiệm vụ đó lại cần có sự phối hợp nhằm đảm bảo tính tập trung, tạo nên sự lien kết nhịp nhàng, ăn khớp và đồng bộ trong hoạt động của cả hệ thống để đạt được mục tiêu chung. Phối hợp quản lý thể hiện ở tất cả các mặt: giữa yếu tố con người, công việc và tổ chức; cần phối hợp chặt chẽ với các yếu tố không gian và thời gian; phối hợp quá khứ, hiện tại và tương lai; phối hợp các cấp các vùng cho đến từng cá nhân với nhau. 2.2 TUYÊN TRUYỀN, GIẢI THÍCH Yêu cầu cao nhất của triển khai chính sách là huy động sự ủng hộ chính trị về mọi mặt để mọi người chấp nhận nó với nhiệt tình cao. Do đó, tuyên truyền giải thích nhằm làm cho tầng lớp nhân dân hiểu được nội dung, ý nghĩa, mục đích, cách thức triển khai cùng những hiệu quả và lợi ích của chính sách để họ nhận thức được rằng những thay đổi sắp diễn ra là vì quyền lợi của họ. Và trong quá trình tổ chức thực hiện, Chính phủ Liên Bang Nga đã tuyên truyền giải thích cặn kẽ chính sách, nhằm hướng cho nhân dân hiểu được. Việc tuyên truyền giải thích này thông qua nhiều kênh thông tin khác nhau như đài truyền hình, các báo và tạp chí khác nhau, thậm trí còn có các sắc lệnh được công bố rộng rãi như ngày 7-5-2012, ngay sau khi tuyên thệ nhậm chức, Tổng thống Nga V.Putin đã ký sắc lệnh "Về các biện pháp thực hiện chính sách đối ngoại của Liên bang Nga". 2.3 CÁC BƯỚC TRIỂN KHAI Mục tiêu cao nhất của giai đoạn tổ chức thực hiện chính sách là biến ý đồ chủ quan về chính sách thành thực tế khác quan; biến chủ trương đường lối, pháp luật của nhà nước thành hành động tự giác của quần chúng. Để làm tốt chính sách đối ngoại này thì Nhà nước Liên Bang Nga đã làm tốt những yêu cầu sau đây: Có kế hoạch thực hiện chu đáo: để thực hiện chính sách đối ngoại một cách có hiệu quả, Nhà nước Liên Bang Nga đã đã xây dựng được các bước triển khai, trong đó thời gian biểu cho việc huy động người, thiết bị và tiền đã được vạch ra một cách tỉ mỉ. Kế hoạch thực hiện được phân công tới từng người. Nguồn lực vật chất và tài chính phải được đảm bảo. Trong quá trình tổ chức thực hiện, cần phát huy tính chủ động trong tổ chức thực hiện. Quá trình triển khai chính sách luôn bắt gặp những yếu tố mới nảy sinh. Hơn nữa trong quá trình tổ chức thực hiện, cơ quan tổ chức thực hiện chính sách đã phát huy toàn bộ sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị tham gia thực hiện chính sách: Bộ tài chính Liên Bang Nga cung cấp vật chất mà ở đây là tiền, Bộ Ngoại giao trực tiếp nhận trách nhiệm thực hiện, Thủ tướng, Tổng thống đều tham gia thực hiện trong quá trình này. Nội dung công tác tổ chức thực hiện chính sách cụ thể như sau: Cơ quan thông qua chính sách đối ngoại là Tổng thống Liên Bang Nga xác định những tổ chức chủ yếu chịu trách nhiệm thực hiện chính sách (trong đó tổ chức quản lý chung toàn bộ quá trình thực hiện là Bộ Ngoại Giao Liên Bang Nga). Xác định nhiệm vụ của từng tổ chức và giao trách nhiệm trực tiếp cho thủ trưởng các cơ quan này, như về cơ quan chính phủ giao cho Thủ tướng. Các tổ chức thực hiện dựa trên cơ sở những nhiệm vụ trên giao, xây dựng phương hướng kế hoạch và các biện pháp thực hiện của tổ chức mình, trình cấp trên thông qua. Đồng thời tiến hành công tác tổ chức nội bộ và chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thực hiện chính sách. Toàn bộ các tổ chức trong cơ cấu thực hiện chính sách triển khai các hoạt động của mình, ra quyết định thuộc thẩm quyền, thực hiện những nhiệm vụ và những biện pháp cụ thể để điều hành quá trình chính sách phù hợp với thực tế, duy trì mối quan hệ quản lý và phối hợp theo chiều dọc và chiều ngang. Trong quá trình này các nhà lãnh đạo cấp cao ra quyết định quản lý cho cấp dưới, các cấp này ra quyết định quản lý xuống cấp dưới thấp hơn, cho đến từng thành viên của bộ máy. Ví dụ như cơ quan Hành Pháp LBN sẽ ra những quyết định cho cấp dưới thấp hơn của mình về việc thực hiện hoặc hỗ trợ thực hiện chính sách. Các tổ chức thực hiện duy trì chế độ báo cáo lên trên những thông tin về quá trình thực hiện, những vấn đề nảy sinh ở cấp cao hơn có những biện pháp thích hợp. Hoạt động truyền thông của cả hệ thống bao gồm sự truyền đạt thông tin (các quyết định, các chuẩn mực, nhiệm vụ, các hướng dẫn…) của lãnh đạo và thủ lĩnh đến toàn bộ hệ thống, được diễn ra theo cả chiều dọc và chiều ngang. Các cơ quan đều có trách nhiệm báo cáo trước cơ quan cấp trên, rồi chịu trách nhiệm trước chính phủ, chính phủ chịu trách nhiệm trước Tổng thống về quá trình thực hiện chính sách của mình, riêng Bộ ngoại giao LBN chịu trách nhiệm trước Tổng thống bởi đây là cơ quan trực thuộc Tổng thống. 2.4 ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA LIÊN BANG NGA. Trước hết đánh giá về các khâu tổ chức thực hiện chính sách: về khâu chuẩn bị và vạch ra kế hoạch, kế hoạch thực hiện đã được phổ biến và phân công phối hợp tới từng người trong cơ quan thực hiện. Xây dựng một cách hợp lý kế hoạch triển khai, thời gian biểu cho việc huy động người, thiết bị và tiền đã được vạch ra một cách tỉ mỉ trong kế hoạch tổ chức thực hiện Chính sách Đối ngoại của LBN. Trong quá trình triển khai Chính sách Đối ngoại, cơ quan thực hiện luôn bắt gặp những yếu tố mới nảy sinh dù đã chuẩn bị công phu. Các nhà lãnh đạo đã dự tính những khả năng và tình huống có thể phát sinh để có thể chủ động giải quyết. Sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị Liên Bang Nga đã thực sự vào cuộc, đây là một thành công lớn trong quá trình tổ chức thực hiện vì chỉ khi các tổ chức chính trị thực sự vào cuộc mới mang lại sức mạnh tổng hợp mạnh mẽ, các khâu tổ chức thực hiện sẽ được thực hiện triệt để hơn. Tổng thống LBN đã lựa chọn thích hợp cơ quan chủ chốt thực hiện chính sách. Cơ quan chủ chốt đã làm tốt được vai trò cũng như trách nhiệm của mình. Cơ quan phối hợp thực hiện chính sách cũng cho thấy rõ sự lựa chọn hợp lý, việc đưa cơ quan Hành pháp trở thành cơ quan phối hợp thực hiện chính sách đã mang lại nhiều bước thuận tiện cho quá trình thực hiện. Đối tượng chịu tác động của Chính sách Đối ngoại đã được lựa chọn cặn kẽ và khá hợp lý. Đối tượng chịu tác động đã thể hiện đúng sự lựa chọn mục tiêu chính sách hướng tới. Hầu hết các tầng lớp nhân dân trong nước đều tỏ thái độ hài lòng và ủng hộ chính sách đối ngoại này. Hơn nữa điều này cũng cho thấy các khâu tuyên truyền giải thích đạt được những kết quả hơn mong đợi, chính sách khi đã ban hành thì mọi người dân đều biết và ủng hộ chính sách, cơ quan tổ chức đã lựa chọn nhiều kênh thông tin hơn cho việc tuyên truyền giải thích chính sách. Để đánh giá được chính sách chúng ta phải dựa vào những tiêu chí sau: Tính hiệu lực của Chính sách Đối ngoại. Đây là tiêu chí phản ánh mức độ tác động, làm biến đổi hoặc duy trì tồn tại xã hội của chính sách đó trên thực tế theo mong muốn của chính phủ. Khi chính sách ban hành đã có hiệu lực lý thuyết, đó là được Nhà nước LBN công nhận để đưa chính sách vào vận hành trong cuộc sống. Còn hiệu lực thực tế, khi chính sách áp dụng đã mang lại những kết quả nhất định như: Nga đã cải thiện được quan hệ với Mỹ và các nước Phương Tây. Các quốc gia trong khu vực Đông Âu cũng có những cái nhìn thân thiện hơn đối với quốc gia này. Quan hệ Nga - Trung luôn đóng vai trò rất quan trọng trong khu vực. Trung Quốc trở thành bạn của Nga nhờ kim ngạch song phương năm 2011 đạt 80 tỷ USD. Trong thương mại song phương, chủ yếu Nga cung cấp nguyên liệu năng lượng và bán vũ khí cho Trung Quốc. Đối với Trung Quốc, nước này đang muốn sử dụng đặc quyền trong thương mại năng lượng và khoáng sản của Nga. Do an ninh chiến lược, Bắc Kinh luôn mong muốn việc vận chuyển bằng đường bộ các nguyên liệu năng lượng; và cho rằng, việc nhập khẩu dầu mỏ từ các nước châu Phi, Ả-rập và vịnh Péc-xích không đáng tin cậy trong trường hợp quan hệ với Mỹ bị xấu đi. Đầu tư của Trung Quốc tại Nga liên tục gia tăng. Lý Khắc Cường, Thủ tướng tương lai của Trung Quốc đã ký dự án trị giá 15 tỷ USD nhân chuyến thăm Nga hồi tháng 4/2012. Matxcơva đã không nêu vấn đề công dân Trung Quốc luôn thâm nhập khu vực Viễn Đông của Nga, vì Bắc Kinh và Matxcơva đang hợp tác chặt chẽ với nhau. Trung Quốc có 3 tỉnh với trên 100 triệu dân, có ngành công nghiệp nặng và cơ sở hạ tầng phát triển, tiếp giáp với khu vực Viễn Đông thưa thớt người. Thực trạng này cho thấy, một mặt đang có sự đe dọa thực tế về an ninh của Nga nhưng nếu không có đầu tư của Trung Quốc thì hầu như không có điều kiện để cải cách kinh tế và phát triển cơ sở hạ tầng ở vùng Viễn Đông và vùng phụ cận Thái Bình Dương của Nga. Matxcơva và Bắc Kinh có mối quan tâm lợi ích chung trong chính sách đối ngoại, như chính sách về thế giới đa cực, ổn định chính trị ở Cận Đông và Trung Á, hòa dịu ở bán đảo Triều Tiên. Liên minh tay đôi Nga - Trung gia tăng trong khuôn khổ SCO cũng đóng vai trò chính trong việc hạn chế Mỹ tiến hành chính sách ở Đông và Trung Á. Liên Bang Nga – Nhật Bản. Việc người dân Nhật Bản phê phán sử dụng năng lượng hạt nhân khiến nước này phải thay đổi mạnh chiến lược tìm kiếm nguồn năng lượng thay thế và sử dụng nguyên liệu năng lượng khác đang yêu cầu Nhật Bản phải gia tăng nhập khẩu dầu mỏ và khí đốt hóa lỏng. Đây là kịch bản có lợi cho Nga và trao cho Nga cơ hội khẳng định thêm vị trí của người cung cấp dầu, khí ở Đông Bắc Á. Tập đoàn Gazprom cùng với công ty dầu khí Duch/Sell và Hãng Mitsui và Mitsubishi của Nhật Bản (chung vốn 22,5% cổ phần) đang tham gia dự án “Sakhalin-2”. Nhật Bản sẽ sử dụng phần lớn thành phẩm cuối cùng của dự án đường ống dẫn khí hóa lỏng này. Việc Nhật Bản luôn đòi Nga trao trả các đảo Sakhalin cũng làm cho quan hệ Matxcơva -Tokyo trở nên căng thẳng, nhất là việc Tổng Thống Nga lần đầu tiên ra thăm các đảo Sakhalin và bố trí tên lửa loại “đất đối không” tại đây nhằm tăng thêm sức mạnh cho Hạm đội Thái Bình Dương của Nga cũng làm cho quan hệ song phương xấu thêm. Tuy nhiên, Tokyo luôn coi Nga là đối tác có vai trò quan trọng đối với việc giảm bớt sự ảnh hưởng đang gia tăng của Trung Quốc. Nga - Hàn Quốc. Tình hình kinh tế và điều kiện địa chính trị khiến chính sách của Nga hướng tới bán đảo Triều Tiên, Nga đang cố tăng thêm ảnh hưởng của mình tại bán đảo này. Đối với Nga, kế hoạch cung cấp khí đốt cho Hàn Quốc đi qua lãnh thổ Triều Tiên đang có một số mục đích, như khí đốt của Nga vận chuyển cho Hàn Quốc có giá rẻ, làm lắng dịu tình hình căng thẳng quân sự, chính trị của hai miền Triều Tiên nhờ cam kết nghĩa vụ và hợp tác với nhau, bán đảo Triều Tiên nói chung sẽ kết nối với mạng lưới đường sắt của Nga. Hàn Quốc là bạn hàng lớn thứ 3 của Nga tại Đông Bắc Á; 2/3 lượng xuất khẩu của Nga sang Hàn Quốc chủ yếu là nguyên liệu năng lượng và nhiên liệu uran phục vụ các nhà máy điện hạt nhân. Các công ty Hàn Quốc chủ yếu đầu tư ở phần lãnh thổ châu Âu của Nga. Ở vùng Viễn Đông chỉ có một dự án duy nhất của doanh nghiệp Hàn Quốc; đó là nhà máy đóng tàu thủy của Tập đoàn Dae-u ở vùng Primorski. Nga - Bắc Triều Tiên. Đối với Nga, Bắc Triều Tiên không có vai trò nào với tư cách là bạn hàng; kim ngạch song phương năm 2010 chỉ đạt 62 triệu USD. Đường ống dẫn khí hóa lỏng đi qua lãnh thổ Bắc Triều Tiên (tổng chiều dài 1.100 km, đi qua Bắc Triều Tiên 700 km) nằm trong kế hoạch của Liên Bang Nga sẽ được bắt đầu từ năm 2017, mỗi năm vận chuyển sang Hàn Quốc được 10 triệu m3 khí lỏng và Bắc Triều Tiên cũng nhận được khoảng 100 triệu USD/năm tiền phí vận chuyển quá cảnh qua lãnh thổ nước mình. Việc thiết lập quan hệ ngoại giao Matxcơva - Seoul năm 1990 khiến sự tham gia của Nga vào công việc của Bắc Triều Tiên bị giảm mạnh. Hiệp ước Hòa bình, Hữu nghị giữa Bình Nhưỡng và Matxcơva ký năm 1991 được đổi mới trong tháng 4/2000 đã bỏ điều khoản “hai bên sẽ giúp đỡ lẫn nhau khi có chiến tranh”. Bình Nhưỡng luôn nhận thức rõ rằng, cơ sở sinh tồn của Bắc Triều Tiên là sự giúp đỡ của Trung Quốc. Mục tiêu mà Bắc Triều Tiên hợp tác với Nga là cố giảm bớt sự quá lệ thuộc vào Trung Quốc. Tính hiệu quả của chính sách. Đó là kết quả tổng hợp về kinh tế xã hội của chính sách đó. Hiệu quả tổng hợp phản ánh mức độ đạt được các kết quả đạt được về kinh tế và mục tiêu của xã hội. Khi chính sách đối ngoại được ban hành, đã tác động mạnh mẽ tới nền kinh tế, kim ngạch xuất khẩu của LBN và một số nước đã tăng lên đáng kể, LBN thu hút được nhiều nguồn đầu tư từ nước ngoài vào khi thấy chính sách đối ngoại theo hướng mở của đó. Các mặt xã hội cũng được cải thiện, đời sống nhân dân được nâng lên đáng kể, người dân hiểu và tin vào các chính sách của Tổng thống và Chính phủ hơn. Tính hữu dụng của chính sách. Tính hữu dụng của chính sách phản ánh mức độ chính sách được đến đâu. Khi Chính sách Đối Ngoại được ban hành với mục đích cụ thể với từng quốc gia khu vực, do đã giải quyết đúng vấn đề do mục tiêu đặt ra. Mọi vấn đề trong khâu thực hiện chính sách đều được giải quyết một cách triệt để nhanh chóng. Mục tiêu ban đầu của chính sách được giữ nguyên không bị một thế lực nào chi phối và bóp méo. Điều này thể hiện trình độ cao của các nhà thực hiện và quản lý chính sách, vì chỉ có theo sát và giải quyết triệt để thì chính sách mới đạt được sự thành công như vậy. Tính công bằng của chính sách. Trong quá trình tổ chức thực hiện chi phí và lợi ích đã được phân phối công bằng giữa các cá nhân tổ chức. Nhìn chung chính sách khi ban hành đã mang lại một nguồn lợi ích to lớn cho Liên Bang Nga, và nguồn lợi ích này đều được san sẻ giữa các cá nhân và tổ chức với nhau. Ví dụ như các doanh nghiệp trong nước nhờ việc thực hiện tốt chính sách đối ngoại của Nhà nước LBN mà thị trường xuất khẩu các mặt hàng được rộng mở hơn. Thậm chí các công ty xuyên quốc gia cũng có được lợi ích từ vấn đề này, có cơ hội được đầu tư vào quốc gia này. Tính đáp ứng yêu cầu của đối tượng chính sách. Việc thực hiện chính sách đề ra đã đáp ứng được phần nào mong muốn cũng như nguyện vọng của các nhóm đối tượng chính sách. Chương 3 MỘT SỐ KINH NGHIỆM NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI LIÊN BANG NGA VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM 3.1 NHỮNG KINH NGHIỆM NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA LIÊN BANG NGA. Thứ nhất: Phải lựa chọn được cơ quan chủ chốt thực hiện chính sách. Vì để phát huy hiệu quả hoạt động của toàn bộ hệ thống tổ chức sẽ phải có một cơ quan được nhà nước ủy quyền thống nhất điều phối các hoạt động chung về thực hiện chính sách. Thứ hai: Phải lựa chọn được các cơ quan phối hợp thực hiện chính sách. Thực tế cho thấy vấn đề này LBN đã làm rất tốt, sự thống nhất trong phân công tổ chức thực hiện đã mang lại sự thành công cho việc thực hiện chính sách. Các cơ quan phối hợp thực hiện đều đã thực sự vào cuộc và tỏ rõ trách nhiệm của mình. Đáp ứng mọi nhu cầu có thể khi chính sách được đưa vào thực tế. Điều đó thể hiện ở chỗ cơ quan Hành pháp LBN đã có những tác động thích hợp để quá trình tổ chức thực hiện được diễn ra nhanh hơn và hiệu quả hơn. Thứ ba: Việc hình thành mối quan hệ phân công và phối hợp giữa các cơ quan thực hiện chính sách được mạch lạc cụ thể, tình trạng trách nhiệm cũng như chức năng của các cơ quan trong quá trình tổ chức thực hiện không bị chồng chéo. Thứ tư: Việc xác định đối tượng chịu tác động của chính sách cũng rất cụ thể và sâu sắc. Nhờ việc thực hiện tốt khâu này mà các cơ quan thực hiện chính sách đã gặp nhiều thuận lợi. Các đối tượng được áp dụng từng bước cụ thể, không bỏ sót đối tượng cũng như nhầm lẫn. Trong Chính sách Đối ngoại của mình, LBN đã vạch ra những điều cần làm, cần phải thực hiện với từng quốc gia vùng lãnh thổ. Và trên cơ sở đó các cơ quan thực hiện dựa trên những tiêu chí trên và tiến hành. Khi tuyên truyền giải thích thì các cơ quan tổ chức thực hiện đã dùng mọi phương tiện truyền thông có thể để tuyên truyền chủ trương đường lối của chính sách. Người dân được nắm rõ và hiểu rõ thông tin, được biết các mục tiêu hướng tới của chính sách đối ngoại, cho nhân dân hiểu rõ quyền lợi và trách nhiệm của mình khi chính sách được ban hành. Bước vào tổ chức thực hiện thì mọi mâu thuẫn phát sinh nhanh chóng được làm rõ và giải quyết để tránh để lại hậu quả. Đây có lẽ là một kinh nghiệm sâu sắc. Việc làm rõ cơ quan giải quyết mâu thuẫn sẽ nhanh chóng giải quyết được tránh được sự chồng chéo rối ren chức năng. Kế hoạch được triển khai theo từng bước cụ thể. Mọi trách nhiệm của các cơ quan tổ chức thực hiện khi để xảy ra sai sót đều được làm rõ và tránh tình trạng chung chung. 3.2 BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM. Về phía Việt Nam hiện nay, cần áp dụng một cách triệt để những kinh nghiệm trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách, để những chính sách ban hành mang lại hiệu quả thiết thực hơn. Một vấn đề gần đây đó là việc ban hành Nghị Định 71 của Chính phủ về việc xử lý hành chính người vi phạm giao thông đã cho thấy những mặt hạn chế của quá trình tổ chức thực hiện chính sách công của Việt Nam. Quá trình tổ chức thực hiện chính sách công ở Việt Nam phải làm tốt khâu đề ra kế hoạch thực hiện, tiếp đó là cơ quan thực hiện chính sách và cơ quan phối hợp thực hiện chính sách. Trong khi một số các cơ quan có trách nhiệm cũng như quyền lợi xung quanh chính sách đó lại không được tính đến. Việt Nam cần làm tốt khâu tuyên truyền giải thích, vì muốn đạt được sự đồng thuận ủng hộ trong nhân dân thì phải làm tốt khâu này, tránh làm cho nhân dân hiểu sai lệch nội dung mục tiêu chính sách hướng tới. Khâu này ở Việt Nam hiện nay còn yếu kém nhiều. Thậm chí nhiều chính sách ban hành ra mà nhiều người dân không biết. Em xin chân thành cảm ơn Thầy (cô) đã theo dõi tiểu luận của em!

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxqua_tri_nh_to_chu_c_thu_c_hie_n_chi_nh_sa_ch_do_i_ngoa_i_cu_a_lien_bang_nga_tu_1991_de_n_nay_nguye_n_van_lo_c_82.docx