Hiện tại, nguồn xăng dầu tiêu dùng trong nước hoàn toàn nhập khẩu
với giá cao. Để bảo đảm nguồn vốn và ngoại tệ đáp ứng đầy đủ, kịp thời,
Nhà nước cần có chế độ ổn định, lâu dài để cân đối và ưu tiên nguồn
ngoại tệ đủ cho các doanh nghiệp nhập khẩu xăng dầu.
43 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2925 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quản lý giá của mặt hàng xăng dầu trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
6 triệu thùng mỗi ngày,
đồng thời cơ quan năng lượng quốc tế (IEA) quyết định bán ra thị trường
2,5 triệu thùng dầu thô/ngày. Đến cuối của thập niên 90 của thế kỷ trước,
giá dầu thô hạ xuống còn 13-14 USD/thùng do cung dầu thô vượt 1,3
triệu thùng/ngày so với nhu cầu.
10
Bước sang những năm đầu của thế kỷ 21, giá dầu thô tăng mạnh do
cung - cầu vận động theo chiều hướng ngược lại so với thời gian trước.
Theo số liệu thống kê về giá dầu của tờ Platt’s tại thị trường Singapo (thị
trường giao dịch mua bán chủ yếu của các doanh nghiệp nhập khẩu xăng
dầu Việt Nam), nếu lấy mức giá bình quân 5 năm thời kỳ 2000-2004,
năm 2005, năm 2006 so với mức giá bình quân của các thời kỳ trước đó,
mức tăng của giá dầu thế giới trong vòng hơn 10 năm qua được thể hiện
ở bảng 1.
Bảng 1: giá trung bình của một số sản phẩm xăng dầu, 1995-2005
S
t
t
Mặt
hàng
Đơn vị
tính
BQ
(1995
-
1999)
BQ
(2000-
2004)
BQ
năm
2005
BQ 4
tháng
năm
2006
BQ
(2000-
2004)/
BQ
(1995-
1999)
%
BQ
2005/
bq
(2000-
2004)
%
BQ 4
tháng
2006/
bq
2005
%
A B C 1 2 3 4 5=2/1 6=3/2 7=4/3
1 Xăng
92
USD/thùng 20,68 32,69 61,08 66,22 158,08 186.84 108,43
2 diesel USD/thùng 21,50 33,05 64,04 69,22 153,72 193,78 108,08
3 Dầu
hỏa
USD/thùng 22,77 34,20 67,63 75,88 150,20 197,74 112,2
4 Madut USD/tấn 95,77 158,98 264,1 324,97 166,00 166,12 123,05
5 WTI USD/thùng 18,98 31,06 56,55 63,51 163,65 182,07 112,31
6 brent USD/thùng 17,73 29,11 55,03 62,74 164,18 189,04 114,01
Giá dầu đã tăng mạnh trong năm 2005, lên đến mức kỉ lục gần 70
USD/thùng vào tháng 8, trước khi giảm xuống còn hơn 60 USD/thùng
11
vào cuối năm. Quá trình này diễn ra tiếp theo đợt tăng giá dầu vào năm
2003, sau một thời gian dài giá dầu bình ổn mức hơn 20 USD/thùng.
Tính trung bình giá dầu danh nghĩa trong năm 2005 cao hơn gấp đôi so
với năm 2004 và gần gấp 3 so với năm 2002. Giá dầu thực cũng cao hơn
so với các năm 1974 và 1985, và xấp xỉ so với mức của năm 1980, năm
đỉnh điểm của khủng hoảng giá dầu. Theo nhiều đánh giá, giá dầu còn
tiếp tục có những biến động đáng kể và đứng ở mức cao do tác động của
các nhân tố ở cả phía cung và cầu.
Cung dầu mỏ năm 2005 sụt giảm do tác động của cơn bão Katrina và
Rita.Theo UNESCAP (2005), công suất khai thác dầu tới hạn lại thấp,
làm giảm khả năng phản ứng của tổng cung dầu mỏ khi giá dầu và cầu
dầu mỏ tăng mạnh. Trên thực tế, lượng dầu mỏ cung ứng ra thị trường đã
tăng đáng kể vào năm 2004, nhưng chững lại vào năm 2005. Cung dầu
mỏ cũng thiếu ổn định do bất ổn chính trị ở các nước xuất khẩu dầu.
Trong khi đó nhu cầu dầu mỏ liên tục tăng do kinh tế thế giới tiếp tục đà
tăng trưởng và có lẽ có nhiều ảnh hưởng đến giá dầu hơn (so với cung)
trong thời gian vừa qua. Tổng nhu cầu dầu mỏ trong năm 2004 đã tăng
đến 3,2% so với năm 2003.
Trong 3 quí đầu của năm 2005, nhu cầu dầu mỏ có tăng chậm lại
nhưng cũng ở mức 1,5% so với cùng kỳ năm 2004. Mỹ và các nước khác
thuộc tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đóng góp chủ yếu
vào cầu dầu mỏ. Những năm gần đây, Trung Quốc và Ấn Độ đang nổi
lên là những nguồn tiêu thụ dầu rất lớn. Một nhân tố khác là số lượng
hành khách vận tải theo đường hàng không ăng đột biến, mặc dù giá vé
tăng, cũng làm tăng nhu cầu dầu. Hơn nữa, để đảm bảo an ninh năng
lượng, nhiều nước tiêu thụ dầu mỏ lớn (như Trung Quốc) đã lập kế
12
hoạch xây dựng kho dự trữ dầu. Cầu dầu mỏ được dự báo sẽ tiếp tục
tăng, lên 86 triệu thùng/ ngày vào năm 2006 (UNESCAP 2005).
Tính đến ngày 21/4/2006, giá dầu thô tại thị trường Mỹ ở mức 75,17
USD/thùng, tăng 6,1% so với mức giá đỉnh điểm của năm 2005, tăng
khoảng 7 lần so với giá tại thời điểm thấp nhất (năm 1998).
Giá dầu mỏ tăng mạnh trong những năm qua là do nguyên nhân cơ
bản sau:
Thứ nhất, nhu cầu chung thế giới tăng nhanh, vượt khả năng cung
ứng của một số quốc gia có nến kinh tế phát triển như Mỹ, EU, Trung
Quốc, Ấn Độ.
Thứ hai, nguồn cung ứng không ổn định do những bất ổn chính trị ở
các nước xuất khẩu dầu mỏ như: Negienia, Nauy, Iran, Irac, Venezuena,
Ecuado. Sự kiện công ty khai thác kinh doanh dầu mỏ Yukos ở Nga, cơn
bão Katrina, Rita…làm ngưng trệ các dàn khoan và các nhà máy lọc dầu
ở khu vực vịnh Mehico.
Thứ ba, khả năng lọc dầu thấp do thiếu các nhà máy lọc dầu và do
công nghệ lọc dầu lạc hậu.
Thứ tư, vai trò điều tiết giá dầu của OPEC đang ngày càng bị hạn chế
bởi sự lũng đoạn và thao túng của một số nước lớn vẫn nuôi ý đồ khống
chế nguồn cung, đầu cơ để trục lợi.
1.2. Phản ứng của các nước đối với vấn đề tăng giá dầu thô:
13
Như một nguyên tắc chung, chính phủ nên đảm bảo rằng những phần
thu từ khai thác dầu thô là nguồn tài nguyên chung ít nhất giữ được giá
trị như khi nó nằm trong lòng đất. Điều này đòi hỏi các khoản thu từ dầu
thô nên được đầu tư theo hướng đảm bảo lợi xuất tối thiểu nhất định với
sự cân nhắc thích đáng về khả năng hấp thu của quốc gia nếu đầu tư
trong nước. Do đó tăng giá dầu hiện tại tương đối với giá kỳ vọng trong
tương lai dẫn tới việc khai thác nhanh hơn và có sự cân nhắc về tính hiệu
quả. Tất nhiên, trên thực tế, tốc độ khai thác còn tùy thuộc vào những
hiệp định toàn cầu và những hiệp định khu vực khác nhau cũng như năng
lực sản xuất.
Ở cấp độ kinh tế vĩ mô, phản ứng của các nước nhập khẩu dầu trước
việc tăng giá dầu thô sẽ tùy thuộc vào việc giá tăng là tạm thời hay lâu
dài. Nếu giá tăng tạm thời, phản hồi chính sách ít gây ảnh hưởng đột
ngột nên được áp dụng để giá trên thị trường biến động nhẹ. Tuy nhiên,
nếu giá biến động lâu dài, phản hồi chính sách nên cho phép sự chuyển
tải hoàn toàn (của sự tăng giá dần) nhằm đưa tín hiệu sớm để thị trường
trong nước điều chỉnh theo sự thay đổi về giá tương đối giữa dầu và các
sản phẩm phi dầu.
Hai phản hồi chính sách khác cũng cần được áp dụng. Đầu tiên, chính
phủ nên cố gắng giảm chi phí điều chỉnh băng cách trợn giá cho các
nhóm đối tượng mục tiêu dễ bị tổn thương thay vì cho tất cả các đối
tượng. Thứ hai, để giảm thiểu việc những thay đổi tương đối về giá biến
chuyển thành vòng xoáy chi phí đẩy, các chính sách kinh tế vĩ mô cần
phải được thắt chặt.
Nếu chính phủ cho phép sự tăng giá dầu chuyển tải hoàn toàn đối với
nền kinh tế, thâm hụt cán cân vãng lai đối ngoại sẽ tăng lên. Tuy nhiên,
14
nếu chính phủ gánh chịu chi phí (tức là không có chuyển tải) thì nguồn
tài trợ các chi phí sẽ quyết định bản chất của sự tác động nên nền kinh tế.
Chẳng hạn, nếu nguồn tài trợ được thu từ việc tăng thuế thì tác động
ròng đối với cán cân vãng lai có thể sẽ tương tự (tùy vào những giả thiết
về độ co giãn) với hiệu ứng tái phân phối những thu nhập bất lợi và sự
tác động méo mó lên nền kinh tế. Nếu chính phủ tài trợ cho chi phí bằng
nguồn vay nợ nước ngoài, không chỉ chi phí cho trả nợ sẽ tăng thêm mà
còn tăng cả chi phí cho sự trì hoãn điều chỉnh cần thiết đối với nền kinh
tế. Không có nguồn tài trợ nào đã nêu là bền vững.
Đối với các nước nhập khẩu dầu, phản ứng chính sách có thể tùy
thuộc vào việc tăng giá tạm thời hay lâu dài. Nếu là tạm thời, nên tiết
kiệm phần thu nhập tăng thêm do giá dầu tăng trừ phi có dấu hiệu rõ rệt
rằng việc chi phần thu nhập đó có thể tạo ra lợi suất cao hoặc là có nhu
cầu cần chi tiêu gấp, nếu không chính phủ sẽ phải vay nợ. Nếu giá dầu
tăng lâu dài, chính phủ nên xem xét làm thế nào điều chỉnh lại cơ cấu
danh mục đầu tư, có nghĩa là nếu dành một phần thu từ dầu để tiết kiệm
về tài chính, chính phủ có thể cân nhắc để đa dạng hóa các nguồn đầu tư
tài chính. Nếu chính phủ quyết định chi gần hết phần thu từ dầu thô thì
phải chuẩn bị tinh thần là sẽ có sự thay đổi về cơ cấu trong nên kinh tế
do sự lên giá thật của đồng nội tệ.
Trên thực tế, trước đây các nước xuất khẩu dầu đã thích nghi khá
nhanh với những khoản tiết kiệm có thêm nhờ giá dầu tăng cao. Cán cân
vãng lai tính theo phần trăm GDP của các nước này đã được điều chỉnh
ngược về trước thời kỳ khi dầu tăng giá với mức nhanh hơn việc điều
chỉnh giá dầu. Trong chừng mực mà những đợt tăng giá dầu hiện tại vẫn
15
tiếp diễn mà không biết chắc là khi nào sẽ ngừng thì thặng dư cán cân
vãng lai của các nước sản xuất dầu vẫn tiếp tục tăng.
2. Tình hình quản lý giá của mặt hàng xăng dầu trong điều kiện hội
nhập
2.1. Cơ chế quản lý điều hành hoạt động kinh doanh xăng dầu qua
các thời kỳ:
Nhất quán với các nguyên tắc trên, thị trường xăng dầu trong nước
được Nhà nước kiểm soát chặt chẽ. Tuy nhiên, tùy theo điều kiện của
mỗi thời kỳ, cơ chế quản lý của Nhà nước được điều chỉnh cho phù hợp
với tình hình cụ thể.
2.1.1. Giai đoạn trước năm 2000:
- Cùng với sự chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, bao cấp sang nền
kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, cơ chế quản lý đối với
mặt hàng xăng dầu cũng từng bước chuyển đổi từ cơ chế phân phối theo
chỉ tiêu định mức sang cơ chế tự bảo đảm kinh doanh, được chiết khấu
bán hàng theo tỷ lệ phần trăm xác định trên doanh thu.
- Từ năm 1993, Nhà nước áp dụng cơ chế “ giá trần” (giá bán lẻ),
doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu tự quyết định giá nhập khẩu và
hưởng lãi gộp. Tùy theo những biến động của thị trường dầu thế giới,
Nhà nước điều chỉnh giá trần, hoặc điều chỉnh tăng – giảm thuế nhập
khẩu, hoặc bù lỗ cho doanh nghiệp kinh doang xăng dầu để thực hiện
mục tiêu điều tiết lợi ích giữa Nhà nước – người tiêu dùng doanh nghiệp
theo phương thức sau:
+ Ban vật giá chính phủ (nay là cục quản lý giá của cục bộ tài chính)
chủ trì cùng các bộ ngành có liên quan, xác định mặt bằng giá tối đa trên
cơ sở tương quan với giá các vật tư, nguyên liệu khác trên thị trường,
16
đảm bảo giá xăng dầu không tác động đột biến đến sản xuất và được
người tiêu dùng chấp nhận.
+ Tùy theo biến động, giá nhập khẩu xăng dầu, bộ tài chính cân đối
điều chỉnh tăng – giảm thuế nhập khẩu trên cơ sở định mức chi phí lưu
thông bình quân của ngành và xăng dầu và giá trần đã được xác định.
+ Để dự phòng nguồn bù lỗ (không ảnh hưởng đến cân đối ngân
sách), năm 1993 Nhà nước quyết định hình thành quỹ bình ổn giá thông
qua cơ chế phụ thu và thực hiện cơ chế thu lệ phí giao thông qua giá
xăng dầu nay là phí xăng dầu.
Xét chung trong giai đoạn này, với cơ chế quản lý và điều hành của
Nhà nước, được thực hiện trong điều kiện tương đối thuận lợi (giá xăng
dầu thế giới ở vào giai đoạn giảm xuống thấp nhất sau chiến tranh vùng
vịnh lần thứ nhất), nên các mục tiêu quản lý của Nhà nước đều thực hiện
được. Cụ thể là:
+ Cân đối cung cầu được bảo đảm, thị trường ổn định, sản xuất và
người tiêu dùng được bảo hộ.
+ Các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu bù đắp đủ chi phí và có
lợi nhuận hợp lý. Nhà nước không phải bù lỗ và thu ngân sách với mức
tương đối cao (khoảng 3500 – 5500 tỷ đồng/năm đối với tổng công ty
xăng dầu Việt nam).
Tuy nhiên, cơ chế quản lý điều hành trong giai đoạn này cũng tiềm
ẩn những bất cập mà hậu quả là những khó khăn trong giai đoạn giá thị
trường có biến động mạnh và ở mức cao.
2.1.2. Từ năm 2000 đến nay:
17
- Về cơ bản, nội dung và phương thức quản lý điều hành hoạt động
kinh doanh xăng dầu không có sự thay đổi. Đến năm 2003, trước diễn
biến của thị trường xăng dầu thế giới, thị trường xăng dầu trong nước có
dấu hiệu bất ổn, Nhà nước phải bù lỗ với mức tương đối lớn và ngày
càng tăng. Nhà nước đã có sự thay đổi nhất định trong cơ chế quản lý.
- Tư tưởng chủ đạo và nội dung của cơ chế quản lý theo các quyết
định trên được xem như một sự điều chỉnh cần thiết và tích cực trong
giai đoạn vừa qua. Cụ thể là:
+ Với cơ chế “ giá định hướng” (được xây dựng trên cơ sở giá nhập
khẩu dự báo cho một thời kỳ nhất định) và doanh nghiệp kinh doanh
xăng dầu được điều chỉnh giá bán trong phạm vi 10% đối với xăng và
5% đối với dầu nhằm tạo ra mặt bằng giá “ tiếp cận” với giá thế giới,
giảm dần sự bảo hộ của Nhà nước đối với người tiêu dùng. Doanh
nghiệp kinh doanh xăng dầu đủ bù đắp chi phí và có lãi hợp lý.
+ Trong điều kiện thị trường xăng dầu thế giới có nhiều biến động bất
lợi cả về giá và nguồn, song các doanh nghiệp vẫn bảo đảm ổn định
được thị trường do được Nhà nước bảo đảm bằng cơ chế cấp bù.
+ Hệ thống phân phối xăng dầu được phát triển nhanh, mạnh và từng
bước được xác lập tương đối ổn định và có sự chuyển biến cả về nội
dung và phương thức kinh doanh. Người tiêu dùng và xã hội bắt đầu có
những nhận thức mới trước sự điều chỉnh giá của chính phủ.
2.1.3. Thực trạng và những tồn tại:
Bên cạnh những kết quả tích cực của cơ chế quản lý Nhà nước trong
giai đoạn vừa qua trong điều hành thực tiễn và trước những biến động
của thị trường trong và ngoài nước, cơ chế hiện hành còn chứa đựng
những bất cập cần được xem xét và giải quyết bằng các phương pháp vĩ
mô trong giai đoạn tới, trong đó có thể xét đến:
18
Thứ nhất, với chính sách bảo hộ được duy trì quá dài, giá thường
được giữ ổn định trong một chu kỳ dài hoặc chỉ điều chỉnh theo một
chiều thông qua việc điều chỉnh thuế hoặc bù giá đã khiến người tiêu
dùng có tâm lý trông chờ, ỷ lại và thường có phản ứng khi Nhà nước
điều chỉnh giá tăng. Điều quan trọng hơn, một khi giá xăng dầu được bảo
hộ sẽ tạo giá thành có tính cạnh tranh ảo, lợi nhuận ảo, khiến các nhà sản
xuất ít quan tâm đến giải pháp tiết giảm chi phí hoặc cải tiến quản lý,
công nghệ để nâng sức cạnh tranh của sản phẩm. Nếu tình hình này tiếp
tục được duy trì là cản trở lớn trong hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
Thứ hai, Nhà nước phải dành khoản ngân sách đáng kể để bù lỗ, bù
giá trong khi điều kiện ngân sách còn khó khăn. Trong trường hợp
những biến động giá xăng dầu nhập khẩu không tiên liệu được, kế hoạch
cân đối ngân sách thường bị phá vỡ. Đây là một sự bất hợp lý, trong khi
Việt Nam cần tập trung mọi nguồn tài lực cho phát triển cơ sở hạ tầng
của nền kinh tế.
Thứ ba, cơ chế bảo hộ giá, không tính đến mặt bằng giá của các
nước trong khu vực làm gia tăng “ thẩm lậu” qua biên giới và các hành
vi gian lận thương mại khác. Nhà nước khó có thể kiểm soát và kiềm chế
bằng các biện pháp hành chính. Tương tự, cũng khó có thể thực hiện
được chủ trương tiết kiệm nhiên liệu.
Thư tư, các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu theo cơ chế bù lỗ sẽ
mất đi tính chủ động trong kinh doanh, tạo ra tâm lý ỷ lại, tiêu giảm
động lực phát triển do không có khả năng tích tụ tái đầu tư và đầu tư
phát triển, hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật.
Thứ năm, trong thực tế điều hành, dù có nỗ lực lớn, cũng khó có thể
điều hành giá trần và thuế kịp thời trước sự biến động nhanh chóng,
thường xuyên của thị trường xăng dầu thế giới. Nói cách khác, tính khả
19
thi của cơ chế có những hạn chế nhất định. Bên cạnh đó, phương pháp,
tiêu chí cấp bù lỗ cho doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu cũng khó có
thể đạt được các chuẩn mực, chưa kể đến chi phí cho công việc này (từ
phía cơ quan quản lý Nhà nước và doanh nghiệp).
Cuối cùng, cơ chế quản lý hiện hành đối với xăng dầu sẽ không phù
hợp với các nguyên tắc và yêu cầu khi Nhà nước thực hiện các cam kết
hội nhập kinh tế quốc tế.
2.2. Tác động của tăng giá xăng dầu trên thế giới và ở Việt Nam
2.2.1. Tác động của tăng giá xăng dầu trên thế giới:
a. Tác động tiêu cực
- Có tác động tiêu cực tới tăng trưởng kinh tế và các cân đối vĩ mô
của nhiều nước;
- Làm nguồn thu ngân sách giảm;
- Ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp kinh
doanh xăng dầu;
b. Tác động tích cực
- Việc tiêu dùng xăng dầu sẽ trở nên hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả hơn;
- Thúc đẩy ngành công nghiệp khai thác, lọc hóa dầu phát triển nhằm
bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận các ngành sản xuất trong xã hội;
- Thúc đẩy công tác nghiên cứu, tìm kiếm sản phẩm thay thế xăng dầu;
Điều đáng lý giải là việc giá dầu tăng mạnh trong hai năm lại đây đã
không gây ra tình trạng suy thoái nền kinh tế thế giới như trong những
năm 1970 và đầu 1980. Thực tế cho thấy ảnh hưởng vượt trội của các
20
dầu mỏ lên giá dầu trong thời gian gần đây có tác động tiêu cực ở mức
độ thấp hơn và ngắn hơn so với trường hợp có sự sụt giảm cung dầu mỏ
(UNESCAP 2005). Trong khi đó, tỷ trọng của dầu trong sản xuất và tiêu
dùng, đặc biệt là ở các nước phát triển, dã giảm tương đối. Hơn nữa, các
nước tiêu thụ dầu lớn như Trung Quốc và Ấn Độ cũng đang tập trung
đầu tư vào các công nghệ tiết kiệm năng lượng.
Mặc dù vậy, giá dầu tăng cũng có những ảnh hưởng tiêu cực nhất
định tới sự ổn định vĩ mô, tăng trưởng kinh tế và việc giảm nghèo ở các
nước trong khu vực châu Á- Thái Bình Dương. Tốc độ tăng trưởng kinh
tế năm 2005 của nhiều nước có lẽ cao hơn nếu giá dầu không ở mức quá
cao. Theo đánh giá của UNESCAP (2005), nếu giá dầu ổn định ở mức
cao hơn hiện tại 10 USD\thùng, tăng trưởng kinh tế của nhiều nước, đặc
biệt là Philippin, Thái Lan và Singapo sẽ chậm lại đáng kể. Đồng thời,
lạm phát ở các nước đều tăng. Tăng trưởng kinh tế chậm cộng với giá
hàng hóa dịch vụ thiết yếu tăng có tác động tiêu cực đến những người
nghèo. Thành tựu xóa đói giảm nghèo ở nhiều nước như Việt Nam,
Trung Quốc sẽ bị ảnh hưởng đáng kể. các ngành kinh tế sử dụng nhiều
lao động như nông nghiệp xây dựng, đánh bắt thủy hải sản, v.v. cũng
khó phát triển nhanh như trước, và đời sống của người dân đặc biệt là
của người nghèo trở lên khó khăn hơn.
2.2.2. Tác động của tăng giá xăng dầu ở Việt Nam:
Việt Nam tuy là một nước khai thác dầu với sản lượng khoảng 18-19
triệu tấn/năm để xuất khẩu nhưng lại phải nhập khẩu 100% lượng xăng
dầu thành phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước vì thế giá xăng
dầu phụ thuộc vào thị trường thế giới. Tuy nhiên, giá bán xăng dầu ở
trong nước lại chưa được áp dụng cơ chế giá thị trường
Bảng 2: Sơ đồ quản lý hoạt động xăng dầu ở Việt Nam
21
Nhu cầu xăng trong nước của Việt Nam ngày càng tăng cùng với quá
trình phát triển kinh tế. Trong giai đoạn 2000-2004, nhu cầu xăng trong
nước tăng bình quân khoảng 5,8%/năm, từ gần 8,2 triệu tấn năm 2000
lên hơn 10,2 triệu tấn năm 2004. Trong khi đó, năng lực chế biến các sản
phẩm xăng dầu của Việt Nam lại gần như bằng không. Mỗi năm lượng
xăng dầu sản xuất trong nước chỉ ở khoảng 200.000-300.000 tấn, xấp xỉ
2% tổng nhu cầu trong nước. Do đó, nhu cầu xăng dầu trong nước chủ
yếu được đáp ứng bằng nguồn nhập khẩu.
Từ đầu năm 2004 đến nay giá xăng dầu trên thị trường thế giới tăng
cao gây áp lực lớn đối với kinh doanh xăng dầu và đối với thu chi của
nền kinh tế nên Nhà nước phải điều chỉnh giá bán xăng dầu nhiều lần và
thực hiện phương châm chia sẻ khó khăn giữa Nhà nước, doanh nghiệp
và người tiêu dùng. Nhà nước giảm thuế nhập khẩu xăng dầu xuống 0%
và thực hiện bù lỗ đối với kinh doanh dầu để bao cấp qua giá dầu cho
nền kinh tế.
Các loại thuế
Tài sản chính phủ
nhà nước
Thu từ dầu thô
Các loại thuế
Chỉ
tiêu
Bù
lỗ
Tài nguyên
thiên
nhiên(dầu)
Khu vực tư nhân
Nhập
khẩu
xăng dầu
Xuất khẩu
dầu thô
22
Năm 2004 thực hiện 3 lần điều chỉnh giá; cụ thể: tháng 2 khi giá
xăng dầu thế giới tăng 16-24% thì Nhà nước chỉ điều chỉnh tăng 5,6-9%
(tùy loại); tháng7 khi giá xăng dầu thế giới tăng từ 11-55% so với giá
bình quân năm 2003 thì Nhà nước chỉ điều chỉnh giá các loại dầu tăng 4-
5% xăng tăng 17% đồng thời thực hiện cơ chế giá đảm bảo kinh doanh
đối với xăng, Nhà nước không bù lỗ từ 01/7/2004; tháng 11 tiếp tục điều
chỉnh tăng giá xăng lên khoảng 7%...
Năm 2005, nước ta đã 4 lần điều chỉnh giá (trong đó có 3 lần điều
chỉnh tăng giá xăng dầu và một lần điều chỉnh giảm giá xăng); cụ thể:
đầu tháng 3, giá xăng dầu thế giới tăng mạnh, cao hơn mức bình quân
năm 2004 từ 20-40%, do đó ngày 29/3/2005, tiếp tục thực hiện cơ chế
giá bảo đảm kinh doanh, không bù lỗ đối với xăng nên Nhà nước đã tăng
giá xăng lên 6,6%, các loại dầu 2-12% và thực hiện bù lỗ cho các loại
dầu. Ngày 03/7 tăng giá xăng khoảng 10%, diezel 18%, dầu hỏa 32%,
madut 17,5%. Ngày 17/8 tăng giá xăng dầu lên khoảng 10,6-15,4% tùy
loại xăng dầu.
Cùng với việc tăng giá xăng dầu ở các thời điểm trên, Nhà nước vẫn
thực hiện giảm thuế nhập khẩu xăng dầu xuống 0% và bù lỗ đối với các
loại dầu. Ngày 22/11, giá dầu thô trên thế giới giảm, Nhà nước đã giảm
giá xăng 500 đồng/lít, tăng thuế nhập khẩu xăng từ 0% lên 5% và đầu
tháng 12 điều chỉnh tăng thuế nhập khẩu lên 10%. Đối với các loại dầu,
Nhà nước vẫn giữ thuế suất nhập khẩu 0% và bù lỗ cho các đầu mối
nhập khẩu xăng dầu. Tháng 4/2006, giá dầu thô trên thế giới tăng mạnh,
Nhà nước lại buộc phải điều chỉnh giá xăng dầu trong nước tăng lên và
vẫn áp dụng nguyên tắc không bù lỗ đối với xăng, tiếp tục bù lỗ đối với
các loại dầu, giữ thuế nhập khẩu xăng dầu bằng 0%.
Bảng 3: Diễn biến giá xăng dầu năm 2005-2006, đồng/lít
23
2005 2006 Chủng
loại
Trước
29/3/05 29/3 03/7 17/8 22/11 27/4 9/8
Xăng
A92
7.500 8.000 8.800 10.000 9.500 11.000 12.000
Xăng
A90
7.300 7.800 8.600 9.800 9.300 10.800 11.800
Xăng
A83
7.100 7.600 8.400 9.600 9.100 10.600 11.600
Diezel 4.850 5.500 6.500 7.500 7.500 7.900 8.600
Dầu hỏa 4.800 4.900 6.500 7.500 7.500 7.900 8.600
Ma dút 4.000 4.700 4.700 5.500 6.000
Cơ cấu thị trường xăng dầu có mức độ “tích tụ” tương đối cao. Có 9
doanh nghiệp được Bộ Thương mại cấp giấy phép nhập khẩu xăng dầu.
Các doanh nghiệp này có trách nhiệm nhập khẩu các sản phẩm xăng dầu
và được Nhà nước đảm bảo cân đối ngoại tệ. Trong số 9 doanh nghiệp
được Nhà nước cấp giấy phép nhập khẩu xăng dầu, Petrolimex chiếm tỉ
trọng lớn nhất (khoảng 60% năm 2004), tiếp theo là công ty thương mại
dầu khí Petechim (10%). Mặc dù vậy, cũng chỉ có Petrolimex, Petec
(công ty thương mại kỹ thuật và đầu tư), Petechim và Saigon Petro là có
mạng lưới bán lẻ sản phẩm trên thị trường.
Hơn nữa, hệ thống công ty con của Petrolimex và Saigon Petro,
những doanh nghiệp Nhà nước hầu như chi phối thị trường xăng dầu
trong nước. Trong khi các đầu mối nhập khẩu và phân phối sản phẩm
xăng dầu khác được quyền lựa chọn địa điểm, Petrolimex lại phải đảm
bảo một mạng lưới bán lẻ rộng khắp cả nước (đều với mức giá theo quy
định của Nhà nước). Đây chính là một kênh quan trọng nhằm đảm bảo
24
chính sách quản lý xăng dầu của chính phủ được thực thi một cách có
hiệu lực. Tuy nhiên, trong trường hợp các cơ quan hữu trách chậm phản
ứng trước diễn biến giá dầu, hậu quả kinh tế đối với những doanh nghiệp
này, cũng như gánh nặng trợ giá cho Ngân sách có thể rất tốn kém.
Bản thân nhiều đại lý bán lẻ xăng dầu lại có năng lực yếu, chưa đủ
điều kiện kinh doanh. Thực tế, không ít các doanh nghiệp đã tiếp tay cho
buôn lậu xăng dầu, hay gian lận thương mại. Chẳng hạn pha thêm vào
sản phẩm xăng dầu trở thành một cách kiếm lời, vì chỉ cần pha dầu vào
xăng A92 rồi bán theo giá xăng A92 thì có thể kiếm lời lớn (Lao động
2006). Thực trạng hoạt động của các đại lý kinh doanh xăng dầu lại rất
khó kiểm soát và điều chỉnh do số đại lý quá lớn.
Trong khi đó, sự hiện diện của các công ty nước ngoài trong thị
trường phân phối và bán lẻ xăng dầu trong nước còn rất hạn chế. Ngoại
trừ việc tham gia thị trường nhựa đường, dầu nhờn, khí hóa lỏng, các
công ty này còn chưa được phép tham gia thị trường bán lẻ các sản phẩm
xăng dầu khác. Điều này phần nào đã hạn chế cạnh tranh trên thị trường
xăng dầu Việt Nam, mặc dù quan điểm của Chính phủ vẫn là kiểm soát
thị trường này nhằm bình ổn giá cả và hạn chế tác động tiêu cực có thể
có đến hoạt động sản xuất kinh doanh.
Kéo theo đó là sự tăng giá cả tiêu dùng của người dân và Nhà nước
đã phải điều chỉnh cho phù hợp với sự thay đổi, biến động này. Giá xăng
dầu tăng tác động cả trực tiếp và gián tiếp đến chỉ số giá tiêu dùng xã hội
qua hai kênh:
25
Kênh thứ nhất là: trực tiếp kéo chỉ số giá của nhóm hàng xăng dầu
trong “rổ” hàng hóa tính chỉ số giá tăng. Đồng thời cũng trực tiếp đẩy giá
dịch vụ sử dụng xăng dầu tăng (như vận tải).
Kênh thứ hai là: gián tiếp đẩy giá hàng hóa trong “rổ” hàng hóa tính
chỉ số giá tăng do trong sản xuất, lưu thông hàng hóa đó có sử dụng xăng
dầu.
Vì thế xu hướng vận động của chỉ số giá trong nước của những loại
hàng hóa liên quan đến xăng dầu diễn ra cùng chiều với việc điều chỉnh
giá xăng dầu tăng, nhất là 2 nhóm: nhà ở và vật liệu xây dựng (trong đó
có dầu hỏa đun nấu và thắp sáng), phương tiện đi lại, bưu điện (trong đó
có xăng dầu và phương tiện vận tải có sử dụng xăng dầu). Tuy nhiên tốc
độ biến động có thể không như nhau vì còn tùy thuộc vào định mức sử
dụng và cơ cấu sử dụng xăng dầu, cụ thể:
Bảng 4: Tác động của xăng dầu đến chỉ số giá cả
Năm 2004 Năm 2005 Năm
2006
Mức tăng giá xăng dầu trong
nước so với năm trước:
+ Xăng A92
+ Dầu diezel
Chỉ số giá tiêu dùng:
+ Nhóm hàng nhà ở, vật liệu
xây dựng
+ Phương tiện đi lại, bưu
điện
33,9%
5,4%
7,4%
5,9%
33,0%
54,0%
9,8%
9,1%
41,8%
66,0%
9,02%
8,43%
26
Tác động này thực chất không lớn đối với một nền kinh tế có trình độ
phát triển còn thấp như nước ta bởi vì giá dầu đã được kiềm chế tăng
bằng con đường bù lỗ và bao cấp qua giá.
Với chính sách giá xăng dầu như trên đã tác động đến nhiều mặt đối
với nền kinh tế.
Một là, giá xăng dầu tăng đã tác động đến nhiều ngành sản xuất, đẩy
giá thành những sản phẩm sản xuất lưu thông có sử dụng xăng dầu tăng,
làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp; nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn
do phải thực hiện chủ trương phấn đấu kiềm chế tăng giá đầu ra. Nhà
nước vừa phải giảm thu do giảm thuế nhập khẩu, giảm thu từ thuế thu
nhập doanh nghiệp đối với một số mặt hàng, vừa phải bỏ số tiền lớn hỗ
trợ cho sản xuất kinh doanh; cụ thể:
- Đối với Nhà nước: năm 2004 giảm thuế nhập khẩu xăng dầu
xuống 0% làm giảm thu ngân sách Nhà nước khoảng 4.500 tỷ đồng, thực
hiện cơ chế giá bao cấp nên phải bù lỗ cho các đầu mối nhập khẩu xăng
dầu khoảng 6.000 tỷ đồng. Năm 2005, tiếp tục giữ thuế nhập khẩu
khoảng 7.300 tỷ đồng, giảm thu từ thuế thu nhập doanh nghiệp khoảng
600 tỷ đồng, bù lỗ cho các loại dầu khoảng 10.000 tỷ đồng.
- Đối với các doanh nghiệp, qua 3 lần điều chỉnh tăng giá dầu năm
2005 làm cho chi phí của ngành than tăng thêm khoảng 300 tỷ đồng,
ngành xi măng 300 tỷ đồng, ngành điện 536 tỷ đồng…Cước vận tải hàng
hóa bằng ôtô giá thành tăng khoảng 9,83%, vận tải đường sắt tăng 6%,
vận tải đường sông tăng 5,8%, đánh bắt hải sản xa bờ tăng 8%. Đợt điều
27
chỉnh giá tháng 4/2006 làm giá thành đánh bắt hải sản xa bờ tăng 5-6%,
cước vận tải tăng 2-3%, chi phí của ngành nông nghiệp tăng 0,5-1%.
Hai là, tuy phải điều chỉnh giá nhiều lần, nhưng cơ chế giá vẫn bao
cấp nên đã tạo ra những hệ quả bất lợi như sau:
- Không phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, không huy
động được nguồn tài nguyên đặc biệt của quốc gia vào đầu tư phát triển
(bán dầu thô bù cho xăng dầu nhập khẩu).
- Tạo tâm lí ỷ lại, không có sức ép thúc đẩy các đơn vị sản xuất
kinh doanh có sử dụng dầu đẩy mạnh áp dụng tiến bộ kỹ thuật, đổi mới
quản lý, tăng năng xuất, sử dụng hợp lý định mức tiêu hao nguyên nhiên
vật liệu, giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành, bảo đảm để hàng hóa làm ra
cạnh tranh được trên thị trường.
- Làm “méo mó” hệ thống giá trong nước do hệ thống giá không
phản ánh đúng giá trị của hàng hóa. Nhà nước phải bỏ khối lượng ngân
sách lớn để bù lỗ cho sản xuất kinh doanh, nếu kéo dài thì Nhà nước
cũng không có khả năng bù lỗ hàng năm với một khoảng kinh phí bằng
khoảng 1,5-2% GDP, một khoảng chi bằng khoảng 5,2% chi ngân sách
Nhà nước.
- Tạo ra nạn buôn lậu làm “chảy máu” xăng dầu sang các nước láng
giềng có giá cao hơn. Tình hình buôn lậu xăng dầu ở các tỉnh biên giới
Tây Nam trở thành hết sức nhức nhối trong năm trước (2006). Nhà nước
vừa mất tiền bù lỗ, lại phải chi kinh phí nhiều hơn để nuôi dưỡng hoạt
động bộ máy chống buôn lậu.
Tóm lại, tình hình giá xăng dầu trên thế giới có nhiều biến động và
cũng đã ảnh hưởng đáng kể đến Việt Nam. Tuy được Nhà nước bao cấp,
trợ giá nhưng thực tế, chúng ta vẫn chưa dự đoán được giá dầu sẽ biến
28
động như thế nào trong thời gian dài hạn vì thế đây chỉ là chính sách
mang tính tạm thời, cần thiết phải có những công cụ quản lý, điều chỉnh
hoàn hảo hơn, mang tính lâu dài hơn như là: đặt mục tiêu trợ giá cho
những nhóm đối tượng cần thiết, thả nổi mặt hàng xăng dầu hay thực
hiện tiết kiệm phần tăng thu từ dầu trong tương lai.
CHƯƠNG III : QUẢN LÝ KINH DOANH XĂNG DẦU VÀ
GIẢI PHÁP
1. Tính cấp thiết của quản lý Nhà nước đối với mặt hàng xăng dầu
Nhà nước quản lý giá xăng dầu là điều phổ biến trên thế giới. Tính
trung bình, trong giai đoạn 1998-2004, mặc dù giá dầu thô tăng gần 6
lần, từ 13 USD/thùng vào năm 1998 lên tới 70 USD/thùng vào năm 2004
song giá xăng bán lẻ trung bình chỉ tăng 2 lần, từ 0,6 USD/lít lên 1,2
USD/lít. Một số lý do quan trọng để khẳng định rằng Nhà nước cần phải
quản lý xăng dầu như sau:
Một là, đây là loại hàng hóa đặc biệt có ảnh hưởng lớn tới sản xuất và
đời sống của nhân dân. Đối với sản xuất, giá xăng dầu có ảnh hưởng trực
tiếp tới giá thành sản phẩm thông qua giá nhiên liệu dùng trực tiếp cho
sản xuất và ảnh hưởng gián tiếp thông qua việc vận chuyển đầu vào, đầu
ra cho sản xuất. Sức cạnh tranh của cả một nền kinh tế có thể bị kém đi
một cách tương đối so với các nước khác khi giá nhiên liệu tăng cao mà
Nhà nước không can thiệp. Khi giá nhiên liệu đột ngột tăng cao lên 6 lần
29
như vừa qua thì khó có một nền kinh tế nào có thể đứng vững nếu không
có những biện pháp kiềm chế giá cả có hiệu quả.
Hai là, xăng dầu được dùng ở khắp mọi vùng, khu vực kinh tế, do đó
giá xăng dầu phải bảo đảm thống nhất trên phạm vi cả nước để tạo sự
cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệpv và mức giá ngang bằng
cho người dân ở các khu vực địa lý khác nhau. Yêu cầu này đòi hỏi Nhà
nước phải có chính sách quản lý giá xăng dầu thích hợp.
Ba là, phân phối xăng dầu có tính độc quyền tự nhiên do phải có đầu
tư lớn, có tính chuyên nghiệp và vốn lớn nhằm bảo đảm an toàn cháy nổ,
độc hại. Trong lĩnh vực này không thể có quá nhiều nhà phân phối hoạt
động, có quá nhiều cây xăng, đặc biệt là trong các đô thị. Theo nguyên
tắc về quản lý độc quyền thì Nhà nước phải quản lý, có cơ chế điều tiết
về giá cả và chất lượng sản phẩm để tránh những ảnh hưởng tiêu cực của
các hành vi độc quyền.
Bốn là, do xăng dầu là mặt hàng thiết yếu nên về nguyên tắc, việc
kinh doanh luôn có lợi nhuận. Nếu cứ để cho thị trường tự do ổn định giá
thì ngay cả khi giá thế giới tăng cao như hiện nay nhà kinh doanh xăng
dầu vẫn có lãi (do người tiêu dùng phải gánh chịu việc tăng giá chứ
không phải nhà phân phối).
Với một sản phẩm có đặc tính như trên thì Nhà nước phải quản lý để
bảo vệ người tiêu dùng, tránh việc tăng giá tùy tiện, ngay cả khi giá cả
trên thị trường bình thường. Và còn nhiều lý do để khẳng định tính cần
thiết phải quản lý xăng dầu của Nhà nước. Tuy nhiên cách thức quản lý
như thế nào lại là vấn đề phức tạp và không dễ giải quyết.
2. Các cơ chế quản lý xăng dầu trên thế giới
2.1. Cơ chế thả nổi giá xăng dầu:
30
Đây là cơ chế đơn giản nhất theo đúng nguyên tắc thị trường tự do là
để các nhà phân phối tự quyết định giá bán lẻ xăng dầu và được coi là cơ
chế “nhàn nhã” và “trong sạch” nhất và Nhà nước không cần phải can
thiệp, không có chuyện “ xin cho” nên không có sự móc ngoặc. Tuy
nhiên cơ chế này chẳng những không ổn định được giá cả mà còn làm
cho nền kinh tế dễ bị tổn thương do sự biến động trên thị trường năng
lượng thế giới mà còn tiềm ẩn nhiều mối nguy hại.
Trước hết là xu hướng đẩy giá xăng dầu tăng cao. Khi giá xăng dầu
cao, nhà phân phối phải đầu tư nhiều vốn hơn, tiêu thụ xăng dầu khó
hơn. Vậy nên để đảm bảo lợi nhuận của mình, nhà phân phối sẽ tìm cách
đẩy giá bán lẻ lên cao hơn bằng cách bán hàng theo kiểu nhỏ giọt, tạo sự
khan hiếm giả tạo với các lí do “hợp lý” như thiếu vốn để nhập xăng dầu,
sợ bị lỗ nên phải chờ cho giá giảm xuống mới giám nhập.
Thực trạng này đã từng xảy ra với thị trường thép xây dựng Việt Nam,
khi giá thép thế giới tăng cao thì giá thép thị trường trong nước tăng
nhanh hơn giá thép của thế giới. Đây là điều rất nguy hiểm cho nền kinh
tế nhưng không thể trách các nhà phân phối trong chuyện này vì có thể
được coi là nghệ thuật kinh doanh.
Hơn nữa trong trường hợp thả nổi giá xăng dầu, các khu vực có khó
khăn, các vùng sâu, vùng xa có thể bị “bỏ rơi” do phải tăng chi phí nhiều
cho vận chuyển và việc tiêu thụ chậm xăng dầu tại các vùng này. Như
vậy, bất luận trong trường hợp nào cũng không nên để cho nhà phân phối
hay nhập khẩu xăng dầu tự quyết định giá.
2.2. Cơ chế quản lý của Nhà nước có phụ thu hoặc bù giá:
31
Đây là cơ chế khá phổ biến ở nhiều nước trong đó có Việt Nam. Nhà
nước trong trường hợp này đóng vai trò như một cái “bánh đà” để điều
hòa giá cả: thu tiền vào lúc giá thấp thông qua phụ thu hoặc thuế cao để
rồi lại đưa ra để bù giá khi giá nhập khẩu cao nếu cần thiết. Trong trường
hợp của Malaixia là nước có cơ chế quản lý được coi là tương đối hiệu
quả.
Cơ chế quản lý giá xăng dầu của Malaixia
Có thể nói Malaixia là nước điển hình về việc Nhà nước quản lý giá xăng
dầu theo một cơ chế được gọi là cơ chế Định giá tự động (Automatic Pricing
Mechanism – APM), được thực hiện từ năm 1983 đến nay. Mục tiêu của việc
thực hiện cơ chế này là giữ ổn định giá, ổn định việc cung câp xăng dầu,
kiểm soát lạm phát và tạo cơ sở chắc chắn, ổn định và có thể tiên đoán được
cho việc đầu tư của các công ty dầu khí.
Theo cơ chế này thì giá bán lẻ xăng dầu ở Malaixia do Nhà nước xác định
cho ba vùng khác nhau là Kuala lampua, Kota kinabalu và Kuching. Những
vùng nằm càng xa các vùng nói trên thì giá bán lẻ càng cao hơn do phải cộng
thêm chi phí vận chuyển. Giá bán lẻ được xác định theo công thức:
Giá bán lẻ = giá nhập khẩu + chi phí tiếp thị + chi phí phân phối + hoa
hồng đại lý bán lẻ + lợi nhuận cho nhà phân phối + phụ thu hay trợ giá
của Nhà nước.
Trong đó, giá nhập khẩu là giá Platts Singapore bình quân của hai tháng
trước do công ty Mcgraw Hill công bố hàng ngày. Khoản phụ thu hay trợ giá
của Nhà nước tùy thuộc tình hình giá xăng dầu trên thị trường quốc tế cao
32
hay thấp. Khi giá thấp, nhà phân phối có lãi nhiều thì Nhà nước thu thêm một
khoản thông qua phụ thu, ngược lại, khi giá cao và tăng nhanh, để giữ giá
bán lẻ đủ thấp và tăng chậm, Nhà nước sẽ bù giá một cách hợp lý. Bảng sau
cho ta thấy cách xác định giá bán lẻ một số xăng dầu vào thời điểm tháng
8/2005.
Dầu Diezel Xăng 97 Xăng 92 LPG (khí ga hóa lỏng) (kg)
Giá nhập khẩu 172,44 164,21 151,57 167,20
Chi phí tiếp thị 6,92 6,92 6,92 21,82
Chi phí phân phối 2,62 2,62 2,62 17,13
Hoa hồng đại lý 3,50 8,00 8,00 21,42
Lợi nhuận công ty 1,75 4,45 4,45 11,35
Phụ thu/bù giá /59,13 /24,2 /15,56 /93,92
Giá bán lẻ 128,10 162,00 158,00 145,00
Giá bán lẻ này được tính và điều chỉnh trên cơ sở hàng tháng. Tại Malaixia
có 7 nhà phân phối bán lẻ xăng dầu được hưởng cơ chế giá bán này là BP,
shell, Caltex, exon-Mobil, BHP, Conoco và Petronas. Tuy nhiên khi giá quá
cao như hiện nay, Nhà nước phải bù giá nhưng chỉ cho một số đối tượng
được hưởng. Chẳng hạn, đối với dầu diezel thì chỉ có các công ty vận chuyển
hàng hóa và tầu đánh cá của ngư dân có đăng ký và báo cáo kết quả vận
chuyển hàng năm thì mới được hưởng giá bù lỗ. Đối với xăng thì có thêm
người tiêu dùng là cá nhân có xe máy hoặc ô tô thông qua việc phát phiếu
mua hàng với định mức do Nhà nước ấn định (bằng mức sử dụng trung bình
của một đầu xe máy).
Cơ chế định giá nói trên có ưu điểm nổi bật là ổn định được giá cả, có thể
33
kiểm soát được giá cả theo hướng tăng từ từ trước những cơn đột biến về giá
cả, đạt được các mục tiêu về quản lý, tránh được việc thất thoát do buôn lậu
qua các nước có cơ chế định giá xăng dầu theo thị trường tự do hoặc có giá
cao hơn. Tuy nhiên cơ chế này cần khoản bù lỗ khá lớn do đó phải là những
nước giàu, không có khó khăn về ngân sách nhà nước. Ngoài ra, việc cấp
phát phiếu cũng khó tránh khỏi tiêu cực.
2.3. Cơ chế dự trữ dầu mỏ và các sản phẩm dầu:
Đây là cơ chế mà chính phủ bỏ ra một số tiền lớn mua dầu để dự trữ
trong lúc giá thấp hơn để rồi tung ra bán lúc giá xăng dầu tăng vọt nhằm
“hạ nhiệt” cơn sốt giá. Kết quả là chính phủ có thể không bị “thua thiệt”
vì dầu bán ra với giá cao hơn so với lúc mua vào. Vấn đề quan trọng là
chính phủ phải có một số tiền lớn để dự trữ và có các phương tiện để lưu
trữ, bảo quản.
2.4. Cơ chế quản lý hỗn hợp:
Là cơ chế phối hợp với cơ chế định giá theo thị trường tự do với cơ
chế bù giá và dự trữ xăng dầu. Việc bù giá chỉ cho những đối tượng hạn
chế nào đó như cách làm của Malaixia. Tuy nhiên như phần trên đã phân
tích, việc phát phiếu mua hàng giảm giá xăng dầu là vấn đề khó tránh
khỏi sự không công bằng và tham nhũng.
3. Giải pháp, định hướng về quản lý kinh doanh xăng dầu trước yêu
cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Việt Nam vẫn còn là nước nghèo với thu nhập của người dân còn
thấp, sức cạnh tranh của các ngành công nghiệp vẫn còn yếu xong đã gia
nhập vào quá trình hội nhập, cạnh tranh quốc tế. Trong bối cảnh đó, việc
Nhà nước hỗ trọ bù giá xăng dầu là rất cần thiết. Điều này cũng phù hợp
34
với chủ trương khống chế lạm phát ở mức một con số do xăng dầu có
ảnh hưởng hầu hết tới giá cả của các loại hàng hóa.
Từ những phân tích trên đề nghị Nhà nước nên giữ cơ chế quản lý
xăng dầu như đã làm từ trước tới nay, đặc biệt là trong khi giá xăng dầu
trên thế giới chưa hoàn toàn ổn định và còn đang ở mức cao.
3.1. Dự báo điều kiện môi trường kinh doanh trong thời gian tới:
3.1.1. Dự báo xu hướng xăng dầu thế giới:
Theo dự báo của hãng British Petrol, Goldman Sachs và cơ quan
năng lượng quốc tế (IEA), giá dầu thô khó có thể giảm về mức giá thời
kỳ 2000-2004 (mức 31,06 USD/thùng), mà sẽ giao động ở mức giá 60-
70 USD/thùng, tương đương với mức giá bình quân của năm 2005 (56,6
USD/ thùng), với lý do:
- Xét về lâu dài, cung _cầu đang có xu thế trái chiều nhau. Nguồn dầu
thế giới ngày càng cạn kiệt, trong khi đó nhu cầu năng lượng ngày càng
tăng cao. Xu hướng này sẽ còn tiếp diễn trong một thời gian khá dài.
- Xét trong giai đoạn hiện nay, nếu chiến tranh Mỹ và Iran-Irac vẫn
tiếp diễn, giá dầu thô có thể lên tới mức 250 USD/thùng.
3.1.2. Dự báo nhu cầu xăng dầu trong nước trong 2008-2010:
- Ước tổng nhu cầu xăng dầu cho tiêu dùng nội địa trong 3 năm tới
khoảng 79 triệu m3, bình quân khoảng 16 triệu m3/năm.
- Nguồn cung ứng các nhà máy lọc dầu trong nước đến năm 2009
có khả năng đáp ứng khoảng trên 7 triệu m3/năm (chiếm trên 40% nhu
cầu), như vậy Việt Nam còn phải nhập khẩu khoảng 9 triệu m3/năm
(khoảng 60% nhu cầu).
3.1.3. Những khó khăn, thách thức và cơ hội:
35
Cạnh tranh với sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài vào khâu phân
phối sẽ tăng, do đó lợi thế sẽ thuộc về các doanh nghiệp có tiềm năng và
kinh nghiệm. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam còn thấp
(do không có nguồn lực, quy mô cơ sở vật chất kỹ thuật vốn kinh doanh
nhỏ) do đó sẽ gặp nhiều khó khăn.
Tuy vậy các cơ hội sẽ được mở rộng như thị trường sẽ được mở rộng,
môi trường cạnh tranh sẽ bình đẳng hơn giữa các doanh nghiệp và được
thực hiện cơ chế giá bán bảo đảm kinh doanh.
3.2. Quan điểm quản lý điều hành thị trường xăng dầu trong nước:
Nhà nước tiếp tục kiểm soát nhằm hướng tới 3 mục tiêu:
- Đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và phát triển kinh tế đất nước, bình ổn
thị trường xăng dầu trong mọi trường hợp, kể cả tình trạng khẩn cấp
(Nhà nước can thiệp trực tiếp theo điều 13 tại Quyết định số 187/CP của
Thủ tướng Chính phủ).
- Doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu xăng dầu không bị lỗ, có tích
lũy cho đầu tư phát triển (theo Điều 12, Quyết định 187/CP của Thủ
tướng Chính phủ).
- Kế hoạch hóa nguồn thu ngân sách Nhà nước từ hoạt động kinh
doanh xăng dầu.
Giá xăng dầu trong nước tiếp cận với giá bán bảo đảm kinh doanh
trên cơ sở trước hết là giá nhập khẩu, các khoản thuế, chi phí lưu thông,
lợi nhuận hợp lý và được điều hành theo một lộ trình xác định, theo
hướng giảm dần sự bảo hộ can thiệp của Nhà nước tiến tới tự do hóa thị
trường xăng dầu vào cuối thập niên này.
36
3.3. Những giải pháp định hướng:
3.3.1. Cơ chế định giá và điều hành giá
Trước hết xuất phát từ thực trạng và những vấn đề bất cập như đã nêu
ở trên, đồng thời xuất phát từ yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, thì việc
định giá cho thị trường trong nước cần có sự thay đổi can bản (như là
một chính sách trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập
kinh tế khu vực và quốc tế), theo đó giá xăng dầu được coi là một trong
những yếu tố cơ bản để xác định giá của các sản phẩm khác với sự điều
tiết các yếu tố cấu thành khác (chủ yếu là thuế, lãi suất, tỷ giá hoặc bù
giá ở mức tối thiểu nếu có).
Trong trường hợp đặc biệt, khi giá nhập khẩu xăng dầu biến động quá
giới hạn tính toán (tác động tiêu cực đến thị trường), Nhà nước có thể áp
dụng các biện pháp hành chính để can thiệp (như bù giá trong một chu kì
giá xác định).
Với quan điểm trên, trước mắt thực hiện đầy đủ Quyết định số
187/CP với từng mặt hàng, theo một lộ trình xác định, với phương án dự
định như sau:
- Đối với mặt hàng xăng ô tô: đây được coi là mặt hàng tiêu dùng xã
hội (không khuyến khích tiêu dùng thậm chí là mặt hàng được áp thuế
tiêu thụ đặc biệt), chỉ tác động không lớn đối với vận tải trong sản xuất,
nên có thể xác định giá theo cơ chế thị trường. Tuy nhiên để hạn chế sự
biến động đột biến nên tạm thời giảm thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt và
giảm thu phí xăng dầu từ 500 đồng/lít xuống 0 đồng/lít, xác định giá tối
37
đa trong trường hợp giá nhập khẩu tăng vượt quá mức này Nhà nước có
thể áp dụng biện pháp kinh tế, hành chính đặc biệt để điều tiết thị trường.
- Đối với mặt hàng xăng dầu (diezel): đây là mặt hàng được sử dụng
rộng rãi trong nhiều lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nếu giá được xác định
ở mức tương đương thị trường khu vực có thể ảnh hưởng đến phát triển
kinh tế đặc biệt là đối với mặt hàng xuất khẩu. Do vậy trước mắt áp dụng
cơ chế giá “định hướng” ở mức hợp lí và sử dụng biên độ điều chỉnh
(5%) theo Quyết định số 187/CP, đồng thời không áp dụng phí xăng dầu
(300 đồng/lít) để từng bước có thể thực hiện định giá theo cơ chế thị
trường.
- Đối với mặt hàng madut sử dụng chủ yếu cho một số ngành sản
xuất công nghiệp có thể xác định như than, điện, xi măng, vật liệu xây
dựng… trong đó có nhiều cơ sở có sự tham gia của các nhà đầu tư nước
ngoài. Do vậy, có thể sớm chuyển sang cơ chế định giá theo thị trường.
Trong trường hợp cần thiết có thể thực hiện cơ chế bù giá trực tiếp cho
các đối tượng cụ thể.
- Đối với mặt hàng dầu hỏa là mặt hàng chủ yếu dùng để “thắp sáng”
cho các vùng sâu vùng xa, miền núi. Tuy nhiên nhu cầu thực sự đối với
mặt hàng này không lớn, có thể áp dụng giá tương đương như mặt hàng
diezel (chủ yếu để tránh gian lận thương mại), áp dụng cơ chế bù giá trực
tiếp trong một số trường hợp, khu vực nhất định từ nguồn ngân sách Nhà
nước hoặc có thể phân giao cho các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu
hỗ trợ từ nguồn lợi nhuận của các mặt hàng khác.
3.3.2. Cơ chế điều hành giá thuế
38
Để việc định giá ổn định, thuận tiện kế hoạch thu ngân sách không bị
phá vỡ, việc xác định mức thuế nhập khẩu có thể chuyển từ %( theo giá
nhập khẩu) sang mức tuyệt đối (đồng/lít) và được cân đối ở mức hợp lý
trên cơ sở nguồn thu ngân sách từ xuất khẩu dầu thô, kết hợp với lộ trình
tiết giảm thuế quan theo lộ trình hội nhập khu vực và quốc tế.
3.3.3. Các giải pháp đồng bộ khác
- Về ổn định nguồn cung và an toàn năng lượng:
Như dự báo trên, thị trường xăng dầu còn có những biến động phức
tạp, khó xác định trước cả về nguồn và giá. Để đảm bảo an toàn năng
lượng, Nhà nước cần có cơ chế: gắn kết nguồn dầu thô với việc bảo đảm
nguồn sản phẩm cho thị trường trong nước (thông qua hình thức hàng
đổi hàng hoặc thuê chế biến ở nước ngoài. Đồng thời cân đối tài chính
của nguồn thu từ xuất khẩu dầu thô với nguồn chi hỗ trợ cho các đối
tượng cần thiết hoặc trong các trường hợp đặc biệt, Nhà nước sớm có
phương án tăng thêm lượng dầu dự trữ quốc gia để điều tiết thị trường
trong các trường hợp đặc biệt
- Về quản lý thị trường
Trước hết cần tăng cường hoạt động thanh – kiểm tra của các cơ quan
quản lý Nhà nước có liên quan và ban hành các chế tài xử lý các vi phạm
quy định nhằm sắp xếp, ổn định hệ thống phân phối, lành mạnh hóa thị
trường theo tinh thần của Quyết định số 187/CP và Quyết định số
1505/TM.
Xem xét lại các điều kiện kinh doanh nhập khẩu và các hộ kinh doanh
theo hướng khuyến khích các doanh nghiệp có đủ điều kiện kinh doanh
định hình được hướng kinh doanh lâu dài, văn minh hóa thương mại,
hiện đại hóa cơ sở phương tiện kinh doanh, giảm thiểu các yếu tố làm bất
39
ổn thị trường và nguy cơ cháy nổ, ô nhiễm môi trường…, chủ động nâng
cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp và an toàn xã hội.
Từ đó xem xét, đánh giá giảm bớt các đầu mối kinh doanh nhập khẩu
xăng dầu thuộc thành phần Nhà nước, tạo điều kiện cho doanh nghiệp
cùng tham gia, tạo sự năng động, hiệu quả chung của toàn ngành xăng
dầu, hạn chế các hộ kinh doanh nhỏ lẻ, có tính thời vụ
- Về qui hoạch và đầu tư các cơ sở vật chất kỹ thuật kinh doanh xăng
dầu:
Hiện nay việc đầu tư các cơ sở tiếp nhận, lưu thông, phân phối còn
mang tính tự phát, manh mún dẫn đến lãng phí các nguồn lực xã hội,
tăng chi phí lưu thông, hạn chế kinh doanh và làm giảm sức cạnh tranh.
Nhà nước cần xác định qui hoạch tổng thể và có cơ chế giám sát thực
hiện một cách thiết thực và hiệu quả, đồng thời tạo điều kiện cần thiết
cho các dự án trọng điểm, khuyến khích hình thành, phát triển các doanh
nghiệp kinh doanh kho cảng, phương tiện vận tải để các tổ chức kinh
doanh sử dụng chung, tạo hiệu quả nâng cao khả năng cạnh tranh chung
cho các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu.
- Về vốn và ngoại tệ
Hiện tại, nguồn xăng dầu tiêu dùng trong nước hoàn toàn nhập khẩu
với giá cao. Để bảo đảm nguồn vốn và ngoại tệ đáp ứng đầy đủ, kịp thời,
Nhà nước cần có chế độ ổn định, lâu dài để cân đối và ưu tiên nguồn
ngoại tệ đủ cho các doanh nghiệp nhập khẩu xăng dầu. Đồng thời trong
trường hợp Nhà nước cần phải áp dụng cơ chế bù lỗ, bù giá (qua xăng
dầu), cần xem xét đổi mới cơ chế cấp bù trên cơ sở xác định chi phí hợp
lý và lãi gộp cố định theo từng chu kỳ (biến động giá) nhất định nhằm
kịp thời bù lỗ, khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng các biện pháp tiết
40
giảm chi phí, tự chịu trách nhiệm về hiệu quả kinh doanh trong chu kỳ
đó và tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh.
Ngoài ra, về lâu dài phải tính ngay đến các phương án đa dạng hóa
việc tiêu dùng nguyên liệu như các nước đang làm. Ví dụ cụ thể như ở
trường hợp nước ta ông Nguyễn Danh Nam – giám đốc công ty TNHH
Long life Việt Nam đã công bố giải pháp tiết kiệm xăng hoàn toàn mới
cho động cơ, giúp nâng hiệu suất sử dụng nhiên liệu lên đến 200%. Áp
dụng đối với xe ô tô có dung tích 2000 phân khối, giải pháp này đã giúp
chiếc xe đi 100 km chỉ tiêu thu hết 6-7 lít xăng, trong khi bình thường nó
“đốt” không dưới 13 lít xăng. Theo vụ năng lượng – bộ công nghiệp,
hiệu ứng buồng đốt động cơ theo giải pháp tiết kiệm xăng của ông
Nguyễn Danh Nam lên đến hơn 90% - nghĩa là động cơ đốt tối đa nhiên
liệu, giảm khí thải độc hại, trong khi mức hiệu ứng buồng đốt thực tế của
các động cơ hiện nay đang thấp hơn rất nhiều.
Hay hướng dẫn tiêu dùng năng lượng có lợi cho nền kinh tế quốc dân,
như tính đến yếu tố thay thế lẫn nhau giữa các dạng năng lượng, giảm
thiểu sự phụ thuộc quá mức vào xăng dầu. Khuyến khích sử dụng nguồn
năng lượng sạch như khí, khí hóa lỏng, nhiên liệu sinh học… và các
nguồn năng lượng sản xuất trong nước như than, điện.
Tóm lại, trước yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế và trước những
biến động bất thường của thị trường xăng dầu thế giới, việc đổi mới cơ
chế quản lý Nhà nước trong các lĩnh vực nói chung, đối với mặt hàng
xăng dầu nói riêng là một nhu cầu tất yếu, một giải pháp có tính “đột
phá” để thích nghi và phát triển. Vấn đề còn lại là, những giải pháp cụ
thể với những nội dung khả thi và cách thức tiến hành hợp lý là quan
trọng và có tính chất quyết định hình thành các cơ chế chính sách mới.
41
42
KẾT LUẬN
Việt Nam đang trên lộ trình bước vào hội nhập kinh tế quốc tế nên cơ
chế chính sách quản lý kinh doanh xăng dầu trong nước cần phải phù
hợp với thông lệ thị trường xăng dầu quốc tế. Nguồn xăng dầu tiêu thụ
trong nước phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu thì quản lý xăng dầu nội địa
lại càng phải phù hợp với sự vân động của thị trường xăng dầu thế giới.
Trước diễn biến giá của dầu thô trên thị trường thế giới, các bộ ngành
liên quan đã tính toán các phương án điều chỉnh giá bán lẻ nhiên liệu
trong nước nhằm giảm bớt khó khăn cho doanh nghiệp cũng như chia sẻ
gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Mức tăng giá cũng được cân nhắc kỹ
lưỡng vừa đảm bảo được hai mục tiêu trên, đồng thời cũng nhằm hạn chế
tác động tiêu cực tới toàn nền kinh tế.
Tóm lại toàn bộ bài viết của em đã phần nào làm sáng tỏ một số vấn
đề liên quan đến thị trường xăng dầu trong nước. Về khái niệm chung
của giá sản phẩm, hoạt động quản lý giá, sự cần thiết phải quản lý giá;
thực trạng quản lý giá xăng dầu trong nước và quốc tế trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế; cũng như bàn về các giải pháp mang tính khả
thi, rút ra bài học từ cơ chế quản lý của các nước trong khu vực và trên
thế giới để nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước nhằm làm cho sự
biến động giá xăng dầu trên thế giới không tác động mạnh mẽ đến nền
kinh tế trong nước.
43
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình quản trị Marketing
2. Giáo trình quản trị kinh doanh
3. Giáo trình Marketing căn bản
4. Tạp chí thị trường giá cả, năm thứ xxv_số 13-258
5. Tạp chí quản lý kinh tế, năm 2007
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận Văn- Quản lý giá của mặt hàng xăng dầu trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.pdf