PHẦNMỞĐẦU
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, loài người không ngừng tìm kiếm những mô hình thể chế kinh tế thích hợp đềđạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Một trong những mô hình thể chế kinh tế như thế là mô hình kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Kinh tế thị trường là nấc thang phát triển cao hơn kinh tế hàng hoá, khi mà các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều được thực hiện thông qua thị trường.
Sự phát triển của sản xuất hàng hoá làm cho phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc, chuyên môn hoá, hiệp tác hoá ngày càng tăng, mối liên hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng chặt chẽ.
Hơn nữa, những nhà sản xuất kinh doanh muốn chiếm được ưu thế trên thị trường phải năng động, nhạy bén, không ngừng cải tiến kỹ thuật và hoịp lý hoá sản xuất. Từđó làm tăng năng suất lao động xã hội, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Phát triển sản xuất hàng hoá với quy mô lớn sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tếở trong nước và nước ngoài, hội nhập nền kinh tế thế giới.
Việt Nam đang trong thời kỳ quáđộ lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nên cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém, lạc hậu, khả năng cạnh tranh hạn chế. Trong khi đó, thị trường thế giới và khu vực đãđược phân chia bởi hầu hết các nhà sản xuất và phân phối lớn. Ngay cả thị trường nội địa cùng chịu sự phân chia này.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế của đời sống kinh tế xã hội, đểổn định kinh tế trong nước và hội nhập quốc tế ta phải xây dựng một nền kinh tế mới, một nền kinh tế nhiều thành phần, đa dạng hoá các hình thức sở hữu.
Phát triển kinh tế thị trường có vai trò rất quan trọng, đối với nước ta muốn chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa thì phải phát triển kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan. Qua đây em xin chọn đề tài:
“Tại sao Đảng ta cho rằng: Chính sách kinh tế nhiều thành phần cóý nghĩa chiến lược lâu dài có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH”
MỤCLỤC
Trang
Phần mởđầu 1
I/ Cơ sở lý luận của việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kỳ quáđộ lên CNXH nói chung 2
1. Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về sự phát sinh phát triển của sản xuất hàng hoá 2
2. Những ưu điểm của kinh tế hàng hoá 8
3. Sự tồn tại khách quan của kinh tế hàng hoá trong thời kỳ quáđộ 9
II/ Tính tất yếu khách quan phải phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam 10
1. Phát triển kinh tế hàng hoá do yêu cầu của sự phát triển lực lượng sản xuất. Thực chất là việc chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn 10
2. Phát triển kinh tế hàng hoá do ở Việt Nam tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần 11
3. Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần do đòi hỏi nâng cao đời sống nhân dân 15
III/ Thực trạng và giải pháp để phát triển kinh tế hàng hoáở Việt Nam 16
1. Nội dung của phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở Việt Nam 16
2. Phát triển kinh tế hàng hoá theo mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài 18
3. Phát triển kinh tế hàng hoá theo định hướng XHCN thông qua bản chất và vai trò quản lý của Nhà nước 18
4. Thực trạng kinh tế hàng hoáở nước ta hiện nay 19
5. Những giải pháp cụ thể 22
IV/ Kết luận vàý nghĩa của việc nghiên cứu 26
Tài liệu tham khảo 29
10 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3571 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tại sao Đảng ta cho rằng: Chính sách kinh tế nhiều thành phần cóý nghĩa chiến lược lâu dài có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, loài người không ngừng tìm kiếm những mô hình thể chế kinh tế thích hợp đề đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Một trong những mô hình thể chế kinh tế như thế là mô hình kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Kinh tế thị trường là nấc thang phát triển cao hơn kinh tế hàng hoá, khi mà các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều được thực hiện thông qua thị trường.
Sự phát triển của sản xuất hàng hoá làm cho phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc, chuyên môn hoá, hiệp tác hoá ngày càng tăng, mối liên hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng chặt chẽ.
Hơn nữa, những nhà sản xuất kinh doanh muốn chiếm được ưu thế trên thị trường phải năng động, nhạy bén, không ngừng cải tiến kỹ thuật và hoịp lý hoá sản xuất. Từ đó làm tăng năng suất lao động xã hội, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Phát triển sản xuất hàng hoá với quy mô lớn sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế ở trong nước và nước ngoài, hội nhập nền kinh tế thế giới.
Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nên cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém, lạc hậu, khả năng cạnh tranh hạn chế. Trong khi đó, thị trường thế giới và khu vực đã được phân chia bởi hầu hết các nhà sản xuất và phân phối lớn. Ngay cả thị trường nội địa cùng chịu sự phân chia này.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế của đời sống kinh tế xã hội, để ổn định kinh tế trong nước và hội nhập quốc tế ta phải xây dựng một nền kinh tế mới, một nền kinh tế nhiều thành phần, đa dạng hoá các hình thức sở hữu.
Phát triển kinh tế thị trường có vai trò rất quan trọng, đối với nước ta muốn chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa thì phải phát triển kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan. Qua đây em xin chọn đề tài:
“Tại sao Đảng ta cho rằng: Chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH”
NỘI DUNG
I/ CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ HÀNG HOÁ NHIỀU THÀNH PHẦN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH NÓI CHUNG.
1. Lý luận của chủ nghĩa Mac- Lênin về sự phát sinh phát triển của sản xuất hàng hoá.
* Sản xuất hàng hoá.
Sản xuất hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm được sản xuất ra để bán trên thị trường.
Trong kiểu tổ chức kinh tế này, toàn bộ quá trình sản xuất phân phối - trao đổi - tiêu dùng; sản xuất ra cái gì, như thế nào và cho ai đều thông qua việc mua bán, thông qua hệ thống thị trường và do thị trường quyết định.
Trong lịch sử đã diễn ra 3 cuộc phân công lớn:
+ Ngành chăn nuôi tách khỏi ngành trồng trọt.
+ Ngành thủ công tách ra khỏi ngành nông nghiệp.
+ Dẫn tới xuất hiện ngành thương nghiệp.
* Thị trường và cơ chế thị trường.
Thị trường là một lĩnh vực trao đổi hàng hoá mà trong đó các chủ thể kinh tế thường cạnh tranh với nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hoá làm ra.
Cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế trong đó các vấn đề kinh tế được giải quyết thông qua thị trường (mua bán và trao đổi hàng hoá), cơ chế thị trường hoàn toàn đối lập với nền kinh tế tự nhiên. Trong cơ chế thị trường người sản xuất và người tiêu dùng thường tác động lẫn nhau để giải quyết 3 vấn đề trung tâm của một tổ chức kinh tế: sản xuất ra cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai.
* Ưu thế của sản xuất hàng hoá.
- Sự phát triển của sản xuất hàng hoá làm cho phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc, chuyên môn hoá, hiệp tác hoá ngày càng tăng,mối liên hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng chặt chẽ.
- Tính cách biệt kinh tế đòi hỏi người sản xuất hàng hoá phải năng động trong sản xuất, kinh doanh để sản xuất và tiêu thụ hàng hoá.
- Sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, với quy mô ngày càng lớn làm cho hiệu quả kinh tế đối với xã hội ngày càng cao.
Với những tác dụng kể trên, hiện nay trên thế giới có rất nhiều nước (trong đó có Việt Nam) đã và đang tập trung cho việc phát triển kinh tế hàng hoá.
1.2. Hàng hoá.
Hàng hoá là một vật phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người và được và được sản xuất ra để bán.
Hàng hoá có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng. Trong đó giá trị sử dụng là thuộc tính tự nhiên, còn giá trị là thuộc tính xã hội của hàng hoá. Hai thuộc tính này là hai mặt đối lặp cùng tồn tại trong hàng hoá. Cũng từ hai thuộc tính ấy mà lao động sản xuất hàng hoá mang tính hai mặt: lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
1.3. Kinh tế hàng hoá.
Kinh tế hàng hoá là kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó hình thái phổ biến của sản xuất hàng hoá là sản xuất ra sản phẩm để bán để trao đổi trên thị trường.
Để phát triển kinh tế hàng hoá ở nước ta, cần đẩy mạnh và chú trọng phát triển các loại thị trường. Quá trình chuyển đổi ở nước ta cần phải từng bước hình thành thị trường thống nhất và thông suốt cả nước.
Ở nước ta, kinh tế hàng hoá mà Đảng chủ trương xây dựng và phát triển trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là “nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”.
2. Những ưu điểm của kinh tế hàng hoá.
Cơ chế thị trường tự điều tiết kinh tế rất linh hoạt, mềm dẻo, uyển chuyển. Tạo môi trường kinh doanh và gia tăng động lực phát triển kinh tế xã hội mà thành tựu đạt được là đưa nước ta ra khỏi thời kỳ khủng khoảng và suy thoái kéo dài.
Tuy nhiên, kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường cũng có những khuyết tật của nó. trên thị trường chưa đựng tính tự phát, chứa đựng nhiều yếu tố bất ổn, mất cân đối. Vì vậy, để phát huy ưu thế, khắc phục những khuyết tật của nó, cần phải tăng cường sự quản lý của Nhà nước.
3. Sự tồn tại khách quan của kinh tế hàng hoá trong thời kỳ quá độ
Sự phân công lao động xã hội và các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Ở nước ta hiện nay, những điều kiện chug của kinh tế hàng hoá vẫn còn nên sự tồn tại của kinh tế hàng hoá là một tất yếu khách quan.
Đối với nước ta hiện nay, muốn chuyển từ nền kinh tế còn kém phát triển nên sản xuất lớn XHCN thì không còn con đường nào khác là phải phát triển kinh tế thị trường. Bởi vì phát triển kinh tế thị trường được coi là chiếc đòn xeo để xây dựng CNXH, là phương tiện để xã hội hoá nền sản xuất.
II/ TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN PHẢI PHÁT TRIỂN KINH TẾ HÀNG HOÁ NHIỀU THÀNH PHẦN Ở VIỆT NAM.
1. Phát triển kinh tế hàng hoá do yêu cầu của sự phát triển lực lượng sản xuất. Thực chất là việc chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn.
Ở nước ta hiện nay, do tính đa dạng về trình độ của LLSX nên về hình thức QHSX và thành phần kinh tế được đa dạng hoá là tất yếu.
Vì vậy, khi xác định các thành phần kinh tế cần phải xem xét đến tính chất và trình độ LLSX và tất nhiên phải xem xét trong trạng thái động
Chính vì vậy, để đạt được mục tiêu cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 Đảng đã xác định công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước bằng cách ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, thực chất là việc chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn.
2. Phát triển kinh tế hàng hoá do ở Việt Nam tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần.
Đại hội Đảng VIII khẳng định, các thành phần kinh tế tồn tại khách quan tương ứng với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, trong giai đoạn lịch sử hiện nay, đó là kinh tế Nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản chủ nghĩa và kinh tế tư bản Nhà nước.
Để có những chính sách và chiến lược phát triển thích hợp cho từng thời kỳ ta phải tìm hiểu rõ các thành phần kinh tế đang tồn tại hiện nay.
Thứ nhất, thành phần kinh tế Nhà nước (TPKTNN) là những đơn vị tổ chức trực tiếp sản xuất kinh doanh hoặc phục vụ sản xuất, kinh doanh mà toàn bộ nguồn lực thuộc sở hữu Nhà nước, hoặc phần của toàn Nhà nước chiểm tỷ lệ khống chế.
Các ngành kinh tế thuộc sở hữu Nhà nước cung cấp hàng hoá hay dịch vụ cho xã hội. Bao gồm hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông, bưu điện, hệ thống ngân hàng tài chính, bảo hiểm (ngân hàng công thương Việt Nam, ngân hàng đầu tư và phát triển, kho bạc....). Các xí nghiệp liên doanh trong đó vốn Nhà nước chiếm tỷ lệ khống chế (51%).
Nhưng lực lượng vật chất thuộc sở hữu Nhà nước bao gồm: đất đai, tài nguyên, ngân hàng, tài chính, dự trữ quốc gia...
Các doanh nghiệp ở nướcta được hình thành qua ba con đường:
- Nhà nước đầu tư vốn để xây dựng mới hoàn thành ngay từ đâu
- Nhà nước cấp vốn để liên doanh với các ngành khác.
- Nhà nước tiến hành việc đòi nợ, quốc hữu hoá các xí nghiệp tư bản tư nhân.
Thứ hai, thành phần kinh tế hợp tác là sự liên kết kinh tế tự nguyện của chủ thể kinh tế với các hình thức đa dạng, linh hoạt, phù hợp với nhu cầu, khả năng và lợi ích của các bên tham gia, có thể dẫn tới hoặc không dẫn tới pháp nhân.
Thứ ba, thành phần kinh tế tư bản Nhà nước (TPKTTBNN) là sản phẩm của sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động của các tổ chức, đơn vị kinh tế tư bản trong và ngoài nước.
Nhà nước cần đa dạng hoá các hình thức liên doanh liên kết với các tổ chức và công ty tư bản nước ngoài, nâng dần tỷ lệ đầu tư của phía Việt Nam. Đồng thời áp dụng nhiều phương thức góp vốn kinh doanh giữa nhà nước với các nhà kinh doanh tư nhân trong nước dưới nhiều hình thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, nhằm tạo thế và lực mới cho các doanh nghiệp trong nước phát triển, tăng sức cạnh tranh và hợp tác bên ngoài.
Thứ tư, thành phần kinh tế cá thể (TPKTCT): là thành phần kinh tế hoạt động sản xuất kinh doanh dựa vào kinh nghiệm của bản thân là chính.
Do các ưu thế của nó, nhà nước và các thành phần kinh tế khác không thể không tạo điều kiện giúp đỡ, hướng dẫn thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ về vốn, kỹ thuật... để nó từng bước tham gia kinh tế hợp tác một cách tự nguyện hoặc làm “vệ sinh” cho các doanh nghiệp của nền kinh tế.
Thành phần kinh tế thứ năm và cũng là thành phần kinh tế cuối cùng. Thành phần kinh tế tư bản tư nhân (TPKTTBTN): là các đơn vị kinh tế mà vốn do một hoặc một số nhà tư bản trong và ngoài nước đầu tư để sản xuất kinh doanh dịch vụ.
Trong quá trình phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, một vấn đề có tính nguyên tắc cần phải nắm vững, đó là kinh tế Nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế hợp tác dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế.
3. Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần do đòi hỏi nâng cao đời sống nhân dân.
Việt Nam đi lên từ một nước phong kiến thuộc địa lạc hậu, tiếp theo đó là chiến tranh kéo dài. Khi kết thúc chiến tranh, thống nhất đất nước Việt Nam có thời gian nhìn lại mình thì đã tụt hậu về kinh tế quá xa so với thế giới.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế của đời sống xã hội, để ổn định kinh tế trong nước và hội nhập quốc tế ta phải xây dựng một nền kinh tế mở, một nền kinh tế nhiều thành phần, đa dạng hoá các hình thức sở hữu.
Sự thành công của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN không chỉ biểu hiện ở tốc độ tăng trưởng cao, mà còn ở chỗ mức sống thực tế của mọi tầng lớp dân cư đều được nâng lên, y tế, giáo dục đều phát triển, khoảng cách giữa giàu nghèo được thu hẹp, đạo đức, truyền thống bản sắc văn hoá dân tộc được giữ vững, môi trường được bảo vệ.
III. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ HÀNG HOÁ Ở VIỆT NAM.
1. Nội dung của phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở Việt Nam.
Nội dung của phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở Việt Nam là: Phát triển nền kinh tế hàng hoá dựa trên cơ sở nền kinh tế nhiều thành phần. Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ kinh tế kém phát triển, mang nặng tính tự cấp tự túc và quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường.
Đại hội Đảng VII đã khẳng định, các thành phần kinh tế đang tồn tại khách quan tương ứng với tính chất và trình độ sản xuất. Trong giai đoạn lịch sử hiện nay, đó là: Kinh tế Nhà nước; Kinh tế hợp tác; Kinh tế cá thể; Kinh tế tư bản tư nhân; Kinh tế tư bản nhà nước. Nhận thức tính chất nhiều thành phần của kinh tế là một tất yếu khách quan, từ đó có thái độ đúng đắn trong việc khuyến khích sự phát triển của chúng theo nguyên tắc tự nhiên của kinh tế, phục vụ cho sự nghiệp đi lên CNXH ở nước ta.
2. Phát triển kinh tế hàng hoá theo hướng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài dưới nhiều dạng khác nhau đối với nước ta như là một tất yếu trong sự phát triển, khi trình độ khoa học kỹ thuật của thế giới cho phép đáp ứng nhu cầu cả về sản xuất lần tiêu dùng. Thông qua mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài để biến nguồn lực bên ngoài thành nguồn lực bên trong. Điều đó tạo điều kiện cho quá trình phát triển rút gắn ở nước ta.
Mở rộng quan hệ kinh tế với nước bằng nhiều hình thức như tăng cường hoạt động ngoại thương, hợp tác, liên doanh, liên kết đề thu hút vốn đầu tư cho nước ta. Việc “mở cửa” về kinh tế phải đảm bảo nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, đảm bảo chủ quyền và cũng có lợi.
3. Phát triển kinh tế hàng hoá theo định hướng XHCN thông qua bản chất và vai trò quản lý của Nhà nước.
Nhà nước sử dụng luật pháp và các công cụ kinh tế vĩ mô khác để quản lý kinh tế hàng hoá, làm cho nền kinh tế “lành mạnh” hơn, giảm bớt các thăng trầm, đột biến xấu trên con đường của nó, khắc phục được tình trạng phân hoá bất bình đẳng, bảo vệ được tài nguyên môi trường của đất nước.
Sự vận dung của nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước ở nước ta là sự vận động được điều tiết bởi sự thống nhất giữa cơ chế thị trường - “bàn tay vô hình”, và sự quản lý của nhà nước - “bàn tay hữu hình”.
4. Thực trạng kinh tế hàng hoá ở nước ta hiện nay.
Nước ta đang từng bước quá độ lên CNXH không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, xu hướng vận động và phát triển kinh tế hàng hoá gắn liền với các đặc điểm sau:
Một là, kinh tế thị trường bao gồm nhiều loại hình đan xen nhau: nhiều thành phần kinh tế với nhiều hình thức sở hữu khác nhau tham gia vào nền kinh tế thị trường.
Hai là, nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế kém phát triển, mang nặng tính tự cấp tự túc và quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá, vận hành theo cơ chế thị trường.
Ba là, nền kinh tế phát triển theo hướng hoà nhập vào thị trường thế giới và khu vực. Cách mạng khoa học - kỹ thuật công nghệ càng phát triển càng làm cho lực lượng sản xuất phát triển trình độ xã hội hoá cao, dẫn đến quá trình khu vực hoá, quốc tế hoá nền kinh tế ngày càng mở rộng.
Bốn là, nền kinh tế thị trường phát triển định hướng XHCN thông qua bản chất và vai trò của nhà nước. Sự vận động của nền kinh tế hàng hoá thông qua cơ chế thị trường không thể nào giải quyết được những vấn đề như: lạm phát, thất nghiệp, khủng hoảng, phân hoá bất bình đẳng, ô nhiễm môi trường, sự bùng nổ dân số cũng như các hiện tượng xã hội khác.
Phát triển kinh tế hàng hoá gắn liền với nền kinh tế mở là tất yếu, nhưng trong quá trình đó, bên cạnh việc tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới, thì cũng có nguy cơ du nhập những yếu tố văn hoá xa lạ với truyền thống, đặc điểm của dân tộc. Ở nước ta, khu vực sản xuất nông nghiệp chiếm tới từ 70% sức lao động và 80% dân số - nơi khai sinh của sự nghiệp đổi mới bằng “khoán 10” “chỉ thị 100”, từ chỗ thiếu đói đã vươn lên đứng thứ ba thế giới về xuất khẩu gạo.
Khu vực kinh tế tư nhân là khu vực phát triển mạnh thứ hai, cho đến nay chúng ta có khoảng 22.000 doanh nghiệp tư nhân, gấp hai lần số doanh nghiệp nhà nước khi bắt đầu đi vào công cuộc đổi mới và gấp 3 lần số doanh nghiệp nhà nước có đến hiện nay. Trong đó có những doanh nghiệp sử dụng 10.000 công nhân. Khu vực ngoài quốc doanh (bao gồm không nhiều bộ phận của kinh tế hợp tác) chiếm trên dưới 2/3 tổng sản phẩm trong nước.
Nhận thấy rõ những khiếm khuyết của nền kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp, tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, qua thực hiện 5 năm đổi mới Đảng ta khẳng định “phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Sự tác động của Nhà nước vào nền kinh tế là một tất yếu của sự phát triển kinh tế xã hội. Thiếu sự “cạn thiệp” của Nhà nước vào nền kinh tế thị trường tự do hoạt động, thì sự điều hành kinh tế nước ta sẽ không có hiệu quả, cũng giống như ta muốn vỗ tay mà chỉ dùng một “bàn tay”.
Nhà nước sử dụng luật pháp vào các công cụ vĩ mô khác để quản lý kinh tế làm cho nền kinh tê “lành mạnh” hơn, giảm bớt những thăng trầm, đột biến xấu trên con đường phát triển của nó, khắc phục được tình trạng phân hoá bất bình đẳng, bảo vệ được tài nguyên môi trường của đất nước.
Như vậy, sự vận động của nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là sự vận hành được điều tiết bởi sự thống nhất giữa cơ chế thị trường - bàn tay vô hình “và sự quản lý của Nhà nước - bàn tay hữu hình”.
5. Những giải pháp cụ thể.
5.1. Trước hết cần đẩy mạnh quá trình đa dạng hoá các chế độ sở hữu, tạo điều kiện pháp triển mạnh nền kinh tế hàng hoá ở nước ta.
Cơ sở tồn tại và phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường là sự tách biệt về kinh tế do chế độ sở hữu khác nhau, về tư liệu sản xuất quy định. Vì vậy, để phát triển kinh tế thị trường phải đa dạng hoá các hình thức sở hữu trong nền kinh tế. Đối với nước ta quá trình đa dạng hoá được thể hiện bằng việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần như các nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII đã chỉ ra.
Thành phần kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nước ta. Khu vực kinh tế Nhà nước cần phải sắp xếp lại, đổi mới công nghệ và tổ chức quản lý, kinh doanh có hiệu quả, liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác, thực hiện vai trò chủ đạo và chức năng của một công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước. Đối với những cơ sở không cần giữ hình thức kinh tế Nhà nước cần chuyển sang hình thức sở hữu khác hoặc giải thể, đồng thời giải quyết việc làm và đời sống cho người lao động.
5.2. Đẩy mạnh quá trình phân công lại lao động xã hội ở nước ta.
Phân công lao động xã hội là điều kiện của sản xuất hàng hoá, của phát triển KTTT. Vì vậy, quá trình phát triển KTTT ở nước ta đòi hỏi phải đẩy mạnh phân công lại lao động xã hội. Phân công lại lao động giữa các ngành theo hướng chuyên môn hoá sản xuất, hợp tác hoá, lao động công nghiệp và dịch vụ tăng tuyệt đối và tương đối, lao động nông nghiệp giảm tuyệt đối giữa lao động và tài nguyên, bảo vệ và phát triển môi trường sinh thái. Cùng với mở rộng phân công lao dộng trong nước tiếp tục mở rộng phân công và hợp tác lao động quốc tế.
5.3. Tạo lập và phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường.
Để mở rộng thị trường và tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường cần tôn trọng quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, xây dựng thị trường thống nhất và thông suốt cả nước; phát triển mạnh thị trường hàng hoá và dịch vụ, trên cơ sở tìm hiểu nhu cầu mà tăng quy mô, chủng loại, nâng cao chất lượng, tăng sức cạnh tranh của hàng tiêu dùng để thoả mãn nhu cầu trong nước và mở rộng kim ngạch xuất khẩu.
5.4. Đẩy mạnh cách mạng khoa học công nghệ, nhằm phát triển nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trong kinh tế thị trường, các doanh nghiệp chỉ có thể đứng vững trong cạnh tranh nếu thường xuyên tổ chức lại sản xuất, đổi mới thiết bịi, công nghệ nhằm tăng năng suất lao động, hạ thấp chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Muốn vậy, phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu mới của cách mạng khoa học - công nghệ vào sản xuất và lưu thông, đảm bảo cho hàng hoá đủ sức cạnh tranh trên thị trường tiếnhành công nghiệp hoá, hiện đại hoá để tạo điều kiện cho kinh tế thị trường phát triển.
5.5. Tiếp tục đổi mới và nâng cao vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Để nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN, nhất thiết phải coi trọng vai trò - quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Trong xu thế hộp nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực, cần phải tiếp tục đổi mới các công cụ, chính sách vĩ mô, đặc biệt là hệ thống tài chính tín dụng lưu thông tiền tệ, chính sách phân phối thu nhập và kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội. Việc đổi mới này vừa phải theo quy tắc phù hợp với những phương thức quản lý của nền kinh tế thị trường, đồng thời, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo định hướng mà Đảng đã chọn.
5.6. Giữ vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới chính sách tài chính tiền tệ giá cả.
Nhà nước cần tăng cường kiểm soát việc sử dụng mọi nguồn lực nhằm bảo toàn và phát triển những tài sản quốc gia. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ là công cụ rất quan trọng để quản lý nền KTTT nhiều thành phần. Nó tạo hành lang pháp lý cho tất cả mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp trong và ngoài nước. Với hệ thống pháp luật đồng bộ, các doanh nghiệp chỉ có thể làm giàu trên cơ sở tuân thủ pháp luật.
5.7. Đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh giỏi.
Con người lao giờ cũng là lực lượng sản xuất cơ bản nhất của xã hội. Con người vừa là kết quả, vừa là đièu kiện để sản xuất phát triển. Mỗi cơ chế quản lý có đội ngũ cán bộ quản lý, kinh doanh tương ứng. Chúng ta cần đẩy mạnh việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, kinh doanh cho phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế trong thời kỳ mới.
5.8. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để phát triển kinh tế thị trường.
Trong xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế, mọi quốc giá muốn thúc đẩy KTTT phát triển phải hoà nhập kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới (mở rộng thị trường ngoài nước , mở rộng hợp tác đầu tư với nước ngoài).
Muốn vậy phải đa dạng hoá hình thức, đa phương hoá đối tác, phải quán triệt nguyên tắc đôi bên cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và phân không biệt chế độ chính trị - xã hội phải triệt để khai thác lợi thế so sánh của đất nước trong quan hệ kinh tế nhằm khai thác tiềm năng lao động, tài nguyên thiên nhiên của đất nước, tăng suất khẩu để nhập khẩu, thu hút vốn kỹ thuật, công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý.
KẾT LUẬN
Chúng ta khẳng định tính tất yếu của công cuộc đổi mới, đặc biệt là đổi mới về kinh tế, nhưng cũng thấy mặt trái của nhiệm vụ này. Việc chuyển nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước là hoàn toàn đúng đắn và cần thiết để giải phóng và phát huy các tiềm năng sản xuất trong xã hội. Nhưng sẽ sai lầm nếu cho rằng nền kinh tế thị trường là liều thuốc vạn năng. Cùng với sự kích thích sản xuất phát triển, kinh tế thị trường cũng là môi trường thuận lợi cho việc nảy sinh và phát triển nhiều loại tiêu cực xã hội. Đã xuất hiện khuynh hướng làm giàu bằng bất cứ giá nào, kể cả lừa đảo, gây tội ác vi phạm pháp luật sẵn sàng chà đạp lên lương tâm và nhân phẩm, lối sống trụy lạc, chạy theo những thị hiếu thấp hèn, văn hoá không lành mạnh và những hủ tục mê tín, dị đoan đang phục hồi và phát triển.
Tóm lại, phát triển kinh tế hàng nhiều thành phần trong nền kinh tế thị trường mở không phải không có những hạn chế và tiêu cực nhưng những thành tựu đạt được đặc biệt là động lực phát triển được tạo ra là không thể phủ nhận. Hơn nữa việc phát triển kinh tế thị trường ở nước ta không phải là tự phát và sao chép cứng nhắc mà là phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Có thể nói đây không phải là mô hình có sẵn trong lịch sử mà đây là một sự khám phá mới, được xem như sự đột phá về mặt lý luận vốn đang cần được bổ sung trong thời kỳ quá độ hiện nay.
Chắc chắn còn nhiều khó khăn và thử thách trên con đường đi tới mục tiêu trên. Song những thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng trong những năm qua cho chúng ta cơ sở để tin rằng mục tiêu đó nhất định sẽ thực hiện được.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Giáo trình KTCT tập I +II xuất bản 1999
2/ Nghị quyết VIII
3/ Nghiên cứu - Trao đổi số 9 - (5/98)
4/ Thương mại số 10 - 99
5/ Thương mại số 13 - 96
6/ Thương mại số 16 - 97
7/ Thương mại số 12 - 98
8/ Nghiên cứu kinh tế số 258 (11 - 99)
9/ Thông tin - Lý luận số 6 - 2000 (268)
10/ Phát triển kinh tế số 16 - 97
11/ Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương số 2 (27)
12/ Kinh tế & Phát triển số 12 - 96
13/ Phát triển kinh tế số 86 - 97
14/ Phát triển kinh tế số 99 - 98
15/ Phát triển kinh tế số 53 - 95
MỤC LỤC
Trang
Phần mở đầu
1
I/ Cơ sở lý luận của việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH nói chung
2
1. Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về sự phát sinh phát triển của sản xuất hàng hoá
2
2. Những ưu điểm của kinh tế hàng hoá
8
3. Sự tồn tại khách quan của kinh tế hàng hoá trong thời kỳ quá độ
9
II/ Tính tất yếu khách quan phải phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam
10
1. Phát triển kinh tế hàng hoá do yêu cầu của sự phát triển lực lượng sản xuất. Thực chất là việc chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn
10
2. Phát triển kinh tế hàng hoá do ở Việt Nam tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần
11
3. Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần do đòi hỏi nâng cao đời sống nhân dân
15
III/ Thực trạng và giải pháp để phát triển kinh tế hàng hoá ở Việt Nam
16
1. Nội dung của phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở Việt Nam
16
2. Phát triển kinh tế hàng hoá theo mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài
18
3. Phát triển kinh tế hàng hoá theo định hướng XHCN thông qua bản chất và vai trò quản lý của Nhà nước
18
4. Thực trạng kinh tế hàng hoá ở nước ta hiện nay
19
5. Những giải pháp cụ thể
22
IV/ Kết luận và ý nghĩa của việc nghiên cứu
26
Tài liệu tham khảo
29
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tại sao Đảng ta cho rằng- Chính sách kinh tế nhiều thành phần cóý nghĩa chiến lược lâu dài có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH.docx