Thị trường mở Việt Nam thực trạng và xu hướng phát triển trong giai đoạn hiện nay

Từ những phân tích lý luận trên đề tài này đã đi vào phân tích những vấn đề sau: Phân tích về mặt lý luận những nội dung cơ bản của N VTTM , trong đó nhấn mạnh vai trò quan trọng của ngân hàng trung ương trong việc sử dụng công cụ N VTTM để tác dụng tới lượng tiền trong lưu thông và lượng vốn khả dụng của các N HTM . Phân tích thực trạng hoạt động của N VTTM trong thời gian qua, tổng kết những kết quả đạt được đồng thời một phần nào đó đưa ra những tồn tại cần khắc phục trong thời gian tới. Qua những phân tích trên Phần 3 là phần trọng tâm mà đề tài muốn hướng tới để đưa ra những giải pháp định hướng để phát triển NVTTM trong thời gian tới phục vụ cho chính sách phát triển của Quốc gia

pdf38 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2476 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thị trường mở Việt Nam thực trạng và xu hướng phát triển trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
công cụ có hiệu quả nhất của chính sách tiền tệ. Điều hành TTM là ban chỉ đạo NVTTM . Trước mỗi kỳ giao dịch, Ban chỉ đạo NVTTM sẽ họp bàn với Ngân hàng dự trữ Liên bang để quyết định lượng chứng khoán cần mua bán ở TTM trên sơ sở phân tích tình hình tiền tệ, tín dụng, lãi suất, mức dự trữ của các NHTM và mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. TTM ở Mỹ không giới hạn các loại hình chứng khoán được phép giao dịch, tuy nhiên, trong thực tế, trái phiếu Chính phủ luôn chiếm tỷ lệ giao dịch cao nhất, thời hạn trái phiếu rất đa dạng, từ 1 đến 10 năm, chiếm vị trí tiếp theo là giấy nhận nợ của tổ chức liên bang và hối phiếu NHTM. Chủ thể giao dịch trên TTM không bị hạn chế, bất cứ ai sở hữu chứng khoán đủ điều kiện cũng có thể giao dịch trên TTM , bao gồm: ngân hàng, các trung gian tài chính, các doanh nghiệp lớn. Tùy theo từng điều kiện cụ thể mà Ngân hàng dự trữ liên bang dùng hình thức mua bán hẳn hoặc mua bán có kỳ hạn và thường được thực hiện qua đấu thầu lãi suất. Trong trường hợp muốn tác động dài hạn đến lượng tiền ngoài lưu thông và lượng dự trữ của các NHTM , Ngân hàng Liên bang thường sử dụng các giao dịch mua bán hẳn. Ngoài ra, khi cần tiếp tục tăng dự trữ, bên cạnh việc mua đứt, Ngân hàng Liên bang có thể sử dụng thêm hình thức trả trước hạn các loại chứng khoán. Cả hai nghiệp vụ mua giao ngay và trả trước hạn đều có tác động làm tăng dự trữ ngân hàng trong dài hạn. TIỂU LUẬN MÔN HỌC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH Trang 13 Nếu dự báo cho thấy cần thay đổi tạm thời dự trữ hoặc không thể dự báo chính xác được mức độ và thời hạn thay đổi dự trữ thì phương thức mua bán có kỳ hạn sẽ được chọn. Thời hạn mua bán lại thường không quá 7 ngày và tín phiếu kho bạc được thực hiện nhiều nhất qua giao dịch này. 1.9.2 Hoạt động TTM của NHTW Châu Âu Đây là ngân hàng của khu vực tiền tệ thống nhất đầu tiên trên thế giới nên NHTW Châu Âu luôn đặt tính ổn định đồng tiền lên vị trí hàng đầu, do đó, việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ, trong đó có công cụ NVTTM phải đạt được hiệu quả cao, trong thực tế công cụ này đã được chú ý sử dụng ngay từ khi NHTW Châu Âu đi vào hoạt động (1/1/1999). Hình thức giao dịch trên TTM của Châu Âu rất đa dạng: giao dịch mua bán hẳn, mua bán có kỳ hạn, giao dịch hoán đổi ngoại tệ, phát hành chứng chỉ nợ của NHTW,… Hàng hóa giao dịch trên TTM cũng không giới hạn chủng loại, nó có thể là trái phiếu, tín phiếu, thương phiếu, các loại chứng chỉ tiền gửi ngân hàng… Phương thức giao dịch được thực hiện qua hình thức đấu thầu, có hai dạng đấu thầu là đấu thầu tiêu chuẩn và đấu thầu nhanh:  Đấu thầu tiêu chuẩn được tiến hành trong vòng 24 giờ kể từ khi thông báo thầu cho đến khi xác nhận kết quả phân phối thầu. Hoạt động nhằm thực hiện việc tái cấp vốn, hoặc điều chỉnh cơ cấu vốn trong nền kinh tế.  Đấu thầu nhanh được tiến hành trong vòng 1 giờ kể từ khi thông báo đấu thầu cho đến khi xác nhận kết quả. Loại này chỉ được sử dụng can thiệp vào thị trường khi cần thiết, vì vậy, số lượng cũng hạn chế. Thủ tục đấu thầu của NHTW Châu Âu bao gồm các bước sau: 1. Thông báo đấu thầu: NHTW Châu Âu thông báo qua các phương tiện thông tin đại chúng và NHTW các quốc gia, sau đó, NHTW các quốc gia tiếp tục thông báo lại cho các thành viên của mình. 2. Các thành viên chuẩn bị đệ trình hồ sơ dự thầu. 3. NHTW thu nhận các hồ sơ dự thầu. 4. Phân phối thầu và thông báo kết quả trúng thầu. 5. Thanh toán thầu. TIỂU LUẬN MÔN HỌC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH Trang 14 1.9.3 Hoạt động TTM của NHTW Thái Lan Hàng hóa giao dịch trên TTM của Thái Lan bao gồm các chứng khoán Chính phủ, trái phiếu NHTW, chứng khoán của các doanh nghiệp Nhà nước được Bộ tài chính bảo lãnh phát hành. Trong những năm gần đây, lượng phát hành trái phiếu Chính phủ đã giảm mạnh từ tình trạng ngân sách Nhà nước bội chi nên Thái Lan đã mở rộng các loại giao dịch bằng tín phiếu ngân hàng để tạo thuận lợi cho hoạt động của TTM . Hình thức giao dịch thường xuyên trên TTM của Thái Lan là mua bán có kỳ hạn (hợp đồng mua bán lại), đã có lúc NHTW Thái Lan dựa hoàn toàn vào hình thức giao dịch trên thị trường thứ cấp qua hình thức giao dịch hợp đồng mua bán lại, bỏ hoàn toàn hoạt động thị trường sơ cấp nhưng thời gian sau vì lượng trái phiếu của Chính phủ trên thị trường ít nên Thái Lan thường thực hiện đấu thầu tín phiếu NHTW. Các chủ thể giao dịch trên TTM của Thái Lan bao gồm NHTM , các tổ chức tài chính và các doanh nghiệp, do đó, phạm vi hoạt động TTM của Thái Lan tương đối rộng so với các nước đang phát triển khác. Tuy nhiên, sự hạn chế về hàng hóa và sự phát triển chưa hoàn hảo của thị trường làm cho tác động can thiệp của NHTW còn nhiều hạn chế.  Trong tình hình NHNN Việt Nam đang chuyển dần từ việc sử dụng các công cụ trực tiếp sang các công cụ gián tiếp, việc học hỏi kinh nghiệm của các nước phát triển và đang phát triển về NVTTM là hết sức cần thiết, nhằm hạn chế những sai sót, thất bại có thể xảy ra để góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và phù hợp với thông lệ quốc tế. TIỂU LUẬN MÔN HỌC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH Trang 15 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 2.1 Tình hình kinh tế vĩ mô Tình hình kinh tế vĩ mô tăng trưởng cao và ổn định sẽ tạo tiền đề cho thị trường vốn phát triển, từ đó, sẽ xuất hiện nhu cầu vốn của nền kinh tế và nhu cầu luân chuyển vốn của các TCTD. Đó là những cơ sở cần thiết để TTM ra đời và phát huy hiệu quả. Tình hình kinh tế vĩ mô qua các thời kỳ có một số nét đặc trưng sau:  Giai đoạn từ 1989 đến 1991: Nền kinh tế chuyển từ cơ chế quản lý tập trung, bao cấp sang cơ chế thị t rường có sự điều tiết của nhà nước, giai đoạn này các chính sách kinh tế mới tỏ ra có hiệu lực, cơn sốt lạm phát 3 con số đã được đẩy lùi một bước. Tuy nhiên, tỷ lệ vẫn còn ở mức cao (2 con số).  Giai đoạn từ năm 1992 đến 1997: Đây là giai đoạn tăng trưởng kinh tế cao (tỷ lệ tăng GDP>8%/năm). Tỷ lệ lạm phát giảm trong trạng thái tương đối ổn định (từ 2 con số xuống còn 1 con số). Yếu tố quyết định sự ổn định trong giai đoạn này là do Chính phủ chấm dứt việc phát hành tiền bù đắp bội chi ngân sách, chính sách cải cách thuế đã làm tăng nguồn thu và cải thiện cán cân ngân sách. Bội chi ngân sách trong giai đoạn này ổn định ở mức 3% GDP. Nguồn bù đắp bội chi chủ yếu là vay trong dân chúng bằng hình thức phát hành trái phiếu chính phủ và vay nước ngoài. Đồng thời, việc thực hiện các chính sách kinh tế theo hướng thị trường để phát triển sản xuất, tăng lượng hàng cung ứng cho xã hội đã mang lại những kết quả khả quan, mức sản lượng các ngành đều tăng. Trong đó, các ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong GDP. Tuy nhiên, mặc dù đã bước đầu ngăn chặn lạm phát nhưng Chính phủ cũng chưa kiểm soát được lạm phát như mục tiêu đã được đề ra, nền kinh tế dễ rơi vào bất ổn, lạm phát tăng cao khi có những yếu tố bên ngoài tác động như thiên tai, khủng hoảng kinh tế trong khu vực…  Giai đoạn từ năm 1998 đến nay: Do ảnh hưởng từ kinh tế khu vực và thế giới, tăng trưởng kinh tế trong nước đã có lúc giảm và lạm phát không ổn định (năm 1999, 2000 số liệu bảng 1). Tuy nhiên, từ 2001 trở về sau mức tăng trưởng rất khả quan, cứ năm sau cao hơn năm trước. Bảng 1: Tăng trưởng kinh tế và lạm phát TIỂU LUẬN MÔN HỌC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH Trang 16 Đvt: % năm Năm Chỉ tiêu 95 96 97 98 99 2000 2001 2002 2003 2004 Tỷ lệ tăng GDP 9,5 9,3 8,1 5,8 4,8 6,7 6,8 7 7,2 7,3 Tỷ lệ lạm phát 12,7 4,5 3,6 9,2 0,1 -0,6 0,8 4 3 9,5 Nguồn: Internet Mặc dù những thành tựu đạt được trong thời gian qua là đáng khích lệ, mức độ tăng trưởng đạt được khá cao. Tuy nhiên, nó đã bộc lộ nhiều nhược điểm gây ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình tăng trưởng lâu dài:  Tốc độ tăng trưởng mặc dù tăng nhưng có dấu hiệu không bề vững, cơ cấu kinh tế, đặc biệt là cơ cấu vùng và ngành đã xuất hiện những mất cân đối, nông nghiệp lạc hậu, đời sống nông dân còn nhiều khó khăn, phân hóa giàu nghèo ngày trở nên gay gắt, thu nhập xã hội giảm, tham nhũng gia tăng.  Cơ sở hạ tầng yếu kém, công nghệ lạc hậu, hiệu quả sử dụng vốn thấp, năng lực cạnh tranh yếu kém, khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế so với các nước trong khu vực còn khá xa.  Các vấn đề xã hội ngày càng trở nên bức xúc, hệ thống giáo dục, y tế, giao thông xuống cấp nghiêm trọng, tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng nặng nề… có nguy cơ đe dọa sự phát triển lâu dài của đất nước.  Sức đề kháng của nền kinh tế đối với những biến động trên thị trường thế giới và trong nước thấp: Khi giá vàng và giá nguyên liệu, nhiên liệu nhập khẩu tăng giá thì lập tức sản xuất trong nước lâm vào tình trạng khó khăn và thị trường trong nước mất ổn định, điều này cho thấy năng lực dự trữ trong nước còn hạn chế.  Thị trường tài chính phát triển chậm chạp, yếu kém, giao dịch trong xã hội chủ yếu vẫn dùng tiền mặt, thị trường thứ cấp chưa phát triển, các loại hàng hóa giao dịch trên thị trường chứng khoán, thị trường tiền tệ, TTM còn xa lạ đối với dân chúng và các nhà đầu tư. Trước những khó khăn trên, đòi hỏi cơ chế quản lý kinh tế phải có những cải cách kịp thời, những chính sách và công cụ sử dụng cũng cần thay đổi để thích ứng với mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó, chính sách tiền tệ và các công cụ gián tiếp luôn luôn được chú trọng. TIỂU LUẬN MÔN HỌC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH Trang 17 2.2 Cơ sở pháp lý cần thiết cho hoạt động của NVTTM Hiện nay, hệ thống các quy định cần thiết cho TTM đã cơ bản hoàn thành. Bao gồm: 2.2.1 Các quy định về thị trường và công cụ  Điều 21 Luật NHNN Việt Nam (ban hành năm 1997) quy định: “NHNN thực hiện NVTTM thông qua việc mua, bán tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu NHNN và các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác trên thị trường tiền tệ để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia”  Điều 9 Luật NHNN Việt Nam quy định:  Thị trường tiền tệ là thị trường vốn ngắn hạn, nơi mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn, bao gồm tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN, chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.  Giấy tờ có giá ngắn hạn là giấy tờ có giá có thời hạn dưới 1 năm. Cụ thể, các loại giấy tờ có giá được giao dịch trên TTM, bao gồm: + Tín phiếu kho bạc phát hành qua NHNN. + Tín phiếu NHNN. + Chứng chỉ tiền gửi của các TCTD được thống đốc NHNN cho phép giao dịch trên TTM . + Các loại giấy tờ có giá khác do Thống đốc NHNN quy định cụ thể trong từng thời kỳ. Như vậy, TTM ở Việt Nam trước đây chỉ mua bán các loại giấy tờ có giá ngắn hạn và TTM được giới hạn trọng thị trường tiền tệ.  Cuối năm 2003, NHNN đã bổ sung, sửa đổi quy chế về NVTTM theo hướng mở rộng các loại giấy tờ có giá được sử dụng trong giao dịch NVTTM. Theo các quy định trên, TTM hiện nay đã được mở rộng bao gồm cả trái phiếu Kho bạc, trái phiếu đầu tư do ngân sách Trung ương thanh toán và công trái. 2.2.2 Các quy định về thị trường sơ cấp (phát hành chứng khoán ngắn hạn)  Quy chế phát hành tín phiếu NHNN do Thống đốc NHNN ban hành kèm theo quyết định số 326/1999/QĐ/NHNN1 ngày 8/10/1999.  Quy chế phát hành trái phiếu Chính phủ theo nghị định số 72/CP ngày 26/7/1994. TIỂU LUẬN MÔN HỌC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH Trang 18 2.2.3 Các quy định về thị trường thứ cấp cho các loại chứng khoán ngắn hạn trên  Quy chế về nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu của NHNN đối với các ngân hàng kèm theo quyết định số 356/1999/QĐ-NHNN14 ngày 6/10/1999 của Thống đốc NHNN. M ặc dù đây là quy chế liên quan đến nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu nhưng nó là căn cứ để các TCTD mua bán giấy tờ có giá giữa các TCTD trên thị trường liên ngân hàng.  Quy chế về tổ chức và hoạt động của thị trường nội tệ liên ngân hàng theo quyết định số 136/QĐ/NH2 ngày 20/7/1993.  Quy chế về tổ chức và hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng theo quyết định số 101/1999/QĐ/NHNN13 ngày 26/3/1999. 2.2.4 Quy định về sự can thiệp của NHNN trên TTM  Quy chế NVTTM ban hành theo quyết định số 85/2000/QĐ/NHNN14 ngày 9/3/2000.  Hướng dẫn nghiệp vụ giao dịch trên TTM, nghiệp vụ lưu ký, thanh toán chứng khoán…  Quy chế về quản lý vốn khả dụng được ban hành theo quyết định số 37/2000/QĐ-NHNN1 ngày 24/1/2000. Như vậy, hiện nay, hệ thống các quy định cần thiết cho TTM đã cơ bản hoàn thành, nền tảng cơ sở pháp lý đã đầy đủ, đảm bảo sự hoạt động trôi chảy của TTM . Tuy nhiên, sự can thiệp của NHNN bằng nghiệp vụ này có hiệu quả hay không còn chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố khác thuộc về thị trường. 2.3 Tình hình huy động vốn qua các năm Bắt đầu hoạt động từ tháng 7/2000, tính đến nay, NVTTM (NVTTM) đã thực hiện được hơn 7 năm, trong thời gian qua, NVTTM đã có nhiều cải tiến, đổi mới đem lại những hiệu quả, trở thành kênh chủ yếu để bơm tiền ra nền kinh tế và thu tiền về từ lưu thông, bước đầu đã phát huy vai trò điều tiết vốn khả dụng của các TCTD, tác động tích cực trong điều hành chính sách tiền tệ, góp phần tăng trưởng kinh tế. Khối lượng giao dịch NVTTM theo cả 2 chiều mua và bán giấy tờ có giá tăng mạnh qua các năm. Chúng ta hãy cùng nhau điểm lại tình hình hoạt động của NVTTM qua các năm để minh chứng cho nhận định trên: Ngày 12/07/2000, NHNN chính thức khai trương NVTTM . Trên cơ sở dự báo vốn khả dụng của các TCTD, NHNN chủ động thực hiện thu tiền về hoặc đưa tiền ra TIỂU LUẬN MÔN HỌC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH Trang 19 lưu thông thông qua việc điều hành TTM . Tuy nhiên, trong năm 2000, do mới đi vào hoạt động, nên tác động của nó đến thị trường tiền tệ chưa đáng kể. Tại thời điểm này, hàng hóa giao dịch trên thị trường còn hạn hẹp, chỉ bao gồm tín phiếu NHNN và tín phiếu kho bạc Nhà nước; số lượng thành viên tham gia còn hạn chế, khoảng 20 TCTD, nhưng nhìn chung, lúc này, chỉ có 4 NHTM Nhà nước là các thành viên thường xuyên tham gia NVTTM ; doanh số giao dịch và số phiên giao dịch còn ít. Tính đến cuối năm 2000, có 17 phiên giao dịch với tổng doanh số giao dịch đạt 1.903,50 tỷ đồng, trong đó mua kỳ hạn đạt 873,50 tỷ đồng, mua hẳn đạt 480,00 tỷ đồng và bán hẳn đạt 550,00 tỷ đồng. Tuy bước đầu hình thành có dấu hiệu tác động chưa rõ rệt đến thị trường tiền tệ và nền kinh tế, nhưng ít nhiều cũng cho ta thấy việc thực hiện NVTTM của NHNN phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ, bám sát thị trường và góp phần điều chỉnh vốn khả dụng của các TCTD. Trong năm 2001, TTM thực hiện 48 phiên, định kỳ 7 ngày/phiên, tổng số giao dịch là 3.933, 81 tỷ đồng; trong đó, mua kỳ hạn là 3.253,81 tỷ đồng, mua hẳn 60 tỷ đồng, bán kỳ hạn 50 tỷ đồng, bán hẳn 570 tỷ đồng. Bước sang năm 2002, đây là một năm đánh dấu sự tăng trưởng rõ rệt của NVTTM . Số phiên giao dịch và tổng doanh số giao dịch trên TTM tăng mạnh so với năm 2001. Cụ thể, nếu năm 2001, thực hiện được 48 phiên, trung bình 7 ngày/ phiên, thì trong năm 2002, con số đó đã lên đến 85 phiên, trung bình 7 ngày/ 2 phiên. Tổng doanh số giao dịch đạt 9.145,53 tỷ đồng bằng khoảng 232% tổng doanh số giao dịch của năm 2001. Trong đó, doanh số mua kỳ hạn đạt 7.245,53 tỷ đồng, doanh số bán kỳ hạn đạt 1.900,00 tỷ đồng. Sở dĩ có sự tăng trưởng mạnh như vậy là do NHNN đã có những bước hoàn thiện, đưa ra những chính sách điều hành linh hoạt và phù hợp hơn, tăng số phiên giao dịch trong tuần (từ đầu tháng 5/2002, TTM đã tăng từ 1 phiên/ tuần lên 2 phiên/ tuần, giao dịch vào ngày thứ ba và thứ năm hàng tuần), rút ngắn thời gian thanh toán (từ tháng 9/2002, thời gian thanh toán các phiên giao dịch TTM được rút xuống từ thực hiện một ngày sau ngày đấu thầu xuống thực hiện ngay trong ngày đấu thầu). Năm 2003, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc, do NHNN và Bộ tài chính phối hợp tổ chức, đã đạt được thành công lớn ngoài dự kiến. Trên TTM , bằng cách tiếp tục duy trì hai phương thức giao dịch là mua có kỳ hạn và bán hẳn, NHNN đã tổ chức được 107 phiên giao dịch với tổng doanh số giao dịch đạt 21.184,15 tỷ đồng, khối lượng giao dịch bình quân mỗi phiên đạt khoảng 197 tỷ đồng; trong đó doanh số mua kỳ hạn đạt 9.844,15 tỷ đồng và doanh số bán hẳn đạt 11.340,00 tỷ đồng. Từ tháng 01 năm 2004, việc NHNN tăng định kỳ giao dịch từ 2phiên/tuần lên 3phiên/tuần và điều chỉnh linh hoạt các kỳ hạn giao dịch từ 7 lên 60 ngày cho phù hợp TIỂU LUẬN MÔN HỌC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH Trang 20 với nhu cầu vốn khả dụng của các NHTM và thực hiện mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt của NHNN cũng giúp cho hoạt động này phát triển mạnh hơn. Dựa vào kết quả của năm 2004, ta thấy, tổng doanh số giao dịch đạt 61.935,91 tỷ đồng, tăng gấp 3 lần so với năm 2003 và tăng tới 16 lần so với năm 2001; hai phương thức giao dịch mua kỳ hạn và bán hẳn vẫn tiếp tục được duy trì với doanh số mua kỳ hạn đạt 60.985,91 tỷ đồng và doanh số bán hẳn đạt 950 tỷ động. Số lượng các thành viên tham gia trên thị trường đã tăng lên đáng kể, do từ năm 2004, sau khi NHNN cho phép cả các giấy tờ có giá dài hạn, như các loại trái phiếu Chính phủ, sử dụng trong giao dịch NVTTM , các TCTD đã quan tâm hơn tới nghiệp vụ này và tham gia vào thị trường. Tính đến cuối năm 2004, có 27 TCTD tham gia, trong đó có 5 NHTM Nhà nước, 13 ngân hàng cổ phần, 6 ngân hàng nước ngoài, 1 ngân hàng liên doanh, 1 công ty tài chính và Quỹ tín dụng Nhân dân Trung ương. M ặt khác, NVTTM trong năm 2004 đạt được khởi sắc còn do đã cải tiến kỹ thuật bằng cách áp dụng trang Web trong giao dịch đặt thầu và đấu thầu, do đó tạo thuận lợi và giảm chi phí đầu tư ban đầu cho các thành viên tham gia thị trường. Trong năm 2005, NHNN đã tổ chức được 159 phiên giao dịch TTM , với tổng doanh số giao dịch tăng gần gấp đôi so với năm 2004, đạt 102.479,15 tỷ đồng. Hầu hết, các phiên giao dịch trong năm 2005 đều có kết quả trúng thầu, với khối lượng trúng thầu bình quân cao hơn nhiều ở năm 2004 và các năm trước đó từ 500 tỷ đồng đến 1.000 tỷ đồng, có nhiều phiên trúng thầu từ 1.200 tỷ đồng đến 2.000 tỷ đồng, cá biệt có phiên lên tới 3.500 tỷ đồng/phiên (thời điểm giáp tết). Doanh số mua kỳ hạn trong năm 2005 đạt 100.679, 15 tỷ đồng. Điều đó có nghĩa là thông qua nghiệp vụ mua lại giấy tờ có giá còn kỳ hạn ngắn, NHNN trong mỗi tháng đã cung ứng hàng chục nghìn tỷ đồng cho các NHTM để đáp ứng nhu cầu vốn khả dụng của mình, có điều kiện mở rộng cho vay. Số lượng các thành viên tham gia trên TTM trong năm 2005 tăng thêm 3 thành viên, gồm một chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, hai NHTM cổ phần tham gia. Năm 2006, tình hình tiền tệ có nhiều điểm khác so với các năm trước. Vốn khả dụng của các TCTD dư thừa khá lớn, kéo dài từ tháng 3 đến cuối năm chủ yếu do khối lượng vốn VND huy động tăng hơn cho vay, luồng ngoại tệ vào Việt Nam gia tăng mạnh do xuất khẩu và đầu tư tăng. Trong tháng 1, nửa cuối tháng 3/2006 và một số ngày cuối tháng 12/2006, NHNN đã thực hiện 29 phiên chào mua giấy tờ có giá với kỳ hạn ngắn 7-28 ngày. Từ sau tết nguyên đán và những thời điểm còn lại trong năm 2006, NHNN đã thực hiện 133 phiên chào bán giấy tờ có giá với kỳ hạn ngắn 14-56 ngày. Tổng doanh số mua vào và bán ra tăng mạnh so với các năm 2005 và 2004. Quy mô hoạt động NVTTM tiếp tục được mở rộng: tăng 21% so với năm 2005. Doanh số giao dịch bình quân một phiên khoảng 767 tỷ đồng/phiên. Số lượng thành viên tham TIỂU LUẬN MÔN HỌC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH Trang 21 gia giao dịch NVTTM trong năm 2006 tăng 26% so với năm 2005. Trong năm 2006, thông qua NVTTM , NHNN đã tăng cường chào bán tín phiếu NHNN để hút tiền về, góp phần giảm áp lực tăng tổng phương tiện thanh toán. Đồng thời, NHNN giữ nguyên các mức lãi suất cơ bản (8,25%/năm), lãi suất tái cấp vốn (6,5%/năm), lãi suất chiết khấu (4,5%/năm), duy trì ổn định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VND và ngoại tệ của các TCTD, góp phần hạn chế sức ép tăng lãi suất thị trường. Mặt khác, trong điều hành NVTTM , các bộ phận liên quan của NHNN đã có sự phối hợp chặt chẽ hơn với bộ phận quản lý và kinh doanh vốn của các NHTM. Bên cạnh đó trong điều hành NVTTM vẫn còn tồn tại một số hạn chế, vướng mắc đó là việc thị trường tiền tệ còn có sự phân tách và chủ yếu chịu sự chi phối của 4 NHTM Nhà nước; số thành viên tham gia các phiên giao dịch NVTTM chỉ chiếm 54% trong tổng số các TCTD đã được công nhận là thành viên NVTTM . Việc dự báo vốn khả dụng để đưa ra kiến nghị cho NVTTM vẫn còn nhiều khó khăn, kết quả dự báo vốn khả dụng chủ yếu mang tính ngắn hạn, hiệu quả điều tiết NVTTM còn chưa cao và hiện tại quy trình đăng ký, lưu ký giấy tờ có giá để tham gia NVTTM vẫn còn khá phức tạp. Trước tình hình đó, trong năm 2007, NHNN đã có những định hướng điều hành NVTTM với việc đề ra một số giải pháp thực hiện như nâng cao năng lực dự báo vốn khả dụng của các TCTD theo định kỳ tháng, quý và dài hạn hơn để có quyết định hướng giao dịch phù hợp với điều kiện thị trường và hoạt động kinh doanh của các TCTD bằng các giải pháp như phân tích kinh tế vĩ mô, phối hợp thu nhập thông tin, tổ chức họp các thành viên vào đầu tháng, tiếp tục hoàn thiện hệ thống thông tin, nhất là thông tin về thị trường liên ngân hàng phục vụ công tác dự báo vốn khả dụng, đồng thời tiếp tục cải tiến điều hành NVTTM bằng cách tăng số phiên giao dịch trong tuần từ 3 phiên/tuần như hiện nay lên 4 phiên/tuần (mỗi ngày 1 phiên, từ thứ 3 đến thứ 6), đa dạng hoá các kỳ hạn giao dịch chào mua, chào bán giấy tờ có giá... , tăng khối lượng giấy tờ có giá chào, cải tiến quy trình giao dịch NVTTM để đơn giản hoá các thủ tục giao dịch NVTTM, thực hiện quy trình lưu ký qua mạng, nâng cấp chất lượng đường truyền, tạo thuận lợi cho các thành viên tham gia thị trường, đưa ra các giải pháp hỗ trợ để thực hiện đổi mới điều hành NVTTM trong đó tập trung vào triển khai Đề án đổi mới điều hành lãi suất của NHNN, điều hành các công cụ CSTT khác một cách linh hoạt và tăng cường phối hợp với Bộ Tài chính để thu thập các thông tin về tình hình thu chi ngân sách Nhà nước, đồng thời đề nghị Kho bạc Nhà nước đa dạng hoá kỳ hạn trái phiếu Kho bạc để hình thành đường cong lãi suất chuẩn, làm cơ sở cho các loại lãi suất trên thị trường tiền tệ. Kết quả, tình hình hoạt động của TTM trong năm 2007 đã có những bước tiến đáng kể so với năm 2006. TIỂU LUẬN MÔN HỌC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH Trang 22 2.4 Các thành viên tham gia NVTTM: Tổng số thành viên tham gia NVTTM đến 31/10/2006 là 35 thành viên gồm các TCTD sau: TT Tên thành viên Ngày tham gia 01 NH Đầu tư & PTVN 07/7/2000 02 NH TMCP Đông á 07/7/2000 03 NH TMCP Sài gòn thương tín 07/7/2000 04 NH TMCP Quân đội 07/7/2000 05 NH Chinfon Commercial, HN 07/7/2000 06 NH TMCP Quốc tế VN 07/7/2000 07 NH TMCP Phương Nam 07/7/2000 08 Công ty Tài chính bưu điện 07/7/2000 09 NH TMCP các DN ngoài QD 07/7/2000 10 ABN AMRO Bank, CN Hà Nội 07/7/2000 11 NH Ngoại thương VN 07/7/2000 12 Quỹ Tín dụng nhân dân TW 07/7/2000 13 NH Công thương VN 07/7/2000 14 NH Nông nghiệp & PTNT VN 07/7/2000 15 NH TMCP Tân Việt 11/7/2000 16 STANDARD CHARTERED, CN HN 24/7/2000 17 NH TMCP Á châu 25/7/2000 18 NH TMCP Hàng Hải VN 01/8/2000 19 Citi Bank, CN Hà Nội 16/10/2000 20 NH VID Public 27/10/2000 21 NH TMCP Sài gòn công thương 18/5/2001 22 Ngân hàng ANZ 22/01/2002 23 NH TMCP Kỹ thương VN 12/6/2003 24 NH PT nhà đồng bằng SCL 10/11/2003 25 NH TMCP Xuất nhập khẩu 15/6/2004 26 NH TMCP Nhà Hà Nội 30/9/2004 27 Deutsche Bank,CN Hà Nội 28/12/2004 28 NH TMCP Nam Á 30/9/2005 29 NH United Overseas, CN HCM 30/9/2005 30 NH TMCP An Bình 15/12/2005 31 NH BNP PARIBAR 05/5/2006 32 NH TMCP Đông Nam Á 24/5/2006 33 NH TMCP Việt Á 24/5/2006 34 NH TMCPNT Đồng Tháp Mười 12/9/2006 35 NH ANZ 12/9/2006 Khối lượng giao dịch NVTTM TIỂU LUẬN MÔN HỌC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH Trang 23 (12/7/2000 – 31/10/2006) Năm thực hiện Số phiên thực hiện Khối lượng trúng thầu theo các phương thức giao dịch (tỷ đồng) Mua kỳ hạn Mua hẳn Bán kỳ hạn Bán hẳn Tổng cộng 2000 17 873,50 480,00 550,00 1.903,50 2001 48 3.253,81 60,00 50,00 570,00 3.933,81 2002 85 7.245,53 1.900,00 9.145,53 2003 107 9.844,15 11.340,00 21.184,15 2004 123 60.985,91 950,00 61.935,91 2005 159 100.679,15 700,00 1.100,00 102.479,15 10t/2006 133 26.332,77 200,00 77.102,00 103.634,77 Tổng cộng 672 209.214,82 540,00 950,00 93.512,00 304.216,82 2.5 Đánh giá hoạt động của NVTTM trong thời gian qua Hoạt động của NVTTM trong thời gian qua đã đạt được những thành tựu đáng kể, tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế cần được đánh giá nghiêm túc để vạch ra chiến lược phát triển nghiệp vụ này trong tương lai, cụ thể như sau: 2.5.1 Những thành tựu đạt được: Góp phần củng cố thêm vai trò quản lý của NHNN trong nền kinh tế thị trường, phù hợp với xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa. Hoạt động của TTM trong thời gian qua mặc dù còn trong giai đoạn mới hình thành nhưng đã phần nào đáp ứng nhu cầu về vốn khả dụng và giải quyết một phần lượng vốn thừa của các TCTD, từ đó, góp phần thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ, ổn định thị trường tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Khi nền kinh tế có dấu hiệu, bằng cách bơm tiền ra lưu thông, NVTTM đã góp phần thúc đẩy sản xuất, nâng cao sức mua của xã hội, thực hiện chủ trương kích cầu của Chính phủ, ngược lại, khi có dấu hiệu lạm phát cao, NHNN ban hành lệnh bán để rút bớt tiền về, làm giảm áp lực lạm phát. Việc hoàn thiện các văn bản pháp lý cũng như việc lắp đặt các trang thiết bị, thiết kế các chương trình phần mềm phục vụ cho hoạt động của TTM đã giúp cho hoạt động của thị trường này thông suốt, đảm bảo đúng quy chế và an toàn. Mặc dù là công cụ điều hành chính sách hoàn toàn mới ở Việt Nam nhưng nghiệp vụ này đã thu hút đông đảo các thành viên tham gia, qua việc tham gia thị trường này các thành viên đã sử dụng nguồn vốn của mình một cách linh hoạt, có hiệu quả hơn trong điều kiện thực tiễn của nền kinh tế thị trường. TIỂU LUẬN MÔN HỌC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH Trang 24 Doanh số hoạt động của TTM không ngừng tăng lên, điều này thể hiện tính ưu việt của nó trong việc sử dụng nguồn vốn của các TCTD. Lãi suất trúng thầu tại các phiên giao dịch TTM không chênh lệch đáng kể với lãi suất thị trường, do đó, phần nào phản ảnh được lãi suất thị trường. Mặt khác, chênh lệch các mức lãi suất hình thành thông qua đấu thầu giữa các phiên giao dịch ngày càng thu hẹp, thể hiện sự ổn định dần của thị trường này. Công tác thông tin, tuyên truyền, tập huấn về NVTTM trên các phương tiện thông tin đại chúng bước đầu đã có chuyển biến tốt, giúp các TCTD hiểu thêm về lợi ích và tự nguyện tham gia vào thị trường này. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả bước đầu đạt được, TTM vẫn còn những hạn chế nhất định sau đây. 2.5.2 Hạn chế Hoạt động NVTTM ở Việt Nam là một hoạt động mới nên một số TCTD vẫn còn nhiều bỡ ngỡ, thái độ thận trọng, thăm dò khi tham gia. Lý do, vì NVTTM đang trong giai đoạn đầu hình thành và phát triển, nó ra đời trong điều kiện nền kinh tế đang trong tình trạng phát triển thấp, tình hình kinh tế vĩ mô chưa thật sự ổn định, thị trường tài chính, tiền tệ chưa phát triển, nền kinh tế thế giới không ngừng biến động, môi trường hoạt động của các TCTD còn chứa đựng nhiều rủi ro, cho nên thái độ thận trọng trên cũng là điều dễ hiểu và chỉ có thể khắc phục được khi hoạt động của NVTTM thật sự có hiệu quả. Hoạt động của TTM chưa thật sự sôi động, quy mô thị trường còn nhỏ bé. Mỗi phiên giao dịch NVTTM chỉ có từ 1 đến 5 thành viên tham gia, chiếm tỷ lệ thấp so với tổng số các thành viên đăng ký giao dịch và chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với tổng số các TCTD, các thành viên tham gia chủ yếu là các NHTM quốc doanh còn các TCTD khác tham gia rất hạn chế. Hàng hóa còn nghèo nàn, không đa dạng về chủng loại và thời hạn. Luật NHNN trước kia quy định, TTM chỉ giao dịch hai loại chứng khoán ngắn hạn là tín phiếu Kho bạc và tín phiếu NHNN nhưng hiện nay đã được mở rộng bao gồm cả trái phiếu Kho bạc, trái phiếu đầu tư do ngân sách trung ương thanh toán và công trái, còn các loại giấy tờ có giá khác chưa được phép đưa vào giao dịch, do đó mặc dù đã được mở rộng nhưng vẫn còn bị giới hạn và thu hẹp phạm vi hoạt động của thị trường này, đồng thời làm hạn chế các giao dịch của thị trường thứ cấp. TIỂU LUẬN MÔN HỌC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH Trang 25 Các TCTD vẫn chưa quan tâm đúng mức tới công tác đào tạo chuyên sâu về NVTTM , việc đầu tư trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho công tác này vẫn còn nhiều hạn chế. Lý do là các TCTD vẫn đang thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh ở mức độ thấp, chỉ quan tâm đến các phương án kinh doanh cổ điển TIỂU LUẬN MÔN HỌC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH Trang 26 CHƯƠNG III CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ ĐẾN NĂM 2010 3.1 Các giải pháp về tạo môi trường hoạt động cho NVTTM: 3.1.1 Duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định, bền vững nhằm mở rộng nhu cầu và gia tăng khả năng cung ứng vốn trong nền kinh tế TTM chỉ có hiệu quả khi tình hình kinh tế ổn định, việc thiếu ổn định về chính trị, kinh tế làm cho Chính phủ và NHTW thiếu uy tín để phát hành công cụ nợ. Nền kinh tế Việt Nam hiện nay vẫn đang đạt tỷ lệ tăng trưởng cao, tuy nhiên trong giai đoạn gần đây đã xuất hiện những nhân tố có thể gây ảnh hưởng bất lợi đến quá trình tăng trưởng dài hạn. Đó là sự mâu thuẫn giữa cơ chế quản lý kinh tế không mạnh dạn cải cách so với nhu cầu xã hội đang tăng trưởng quá nhanh ở tất cả các mặt: về quy hoạch đô thị, về giao thông vận tải, về giáo dục, y tế, bưu chính viển thông, các chính sách về cổ phần hóa và thực hiện tự do hóa cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. … Đây là bài toán khó cho các quốc gia đang phát triển trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong giai đoạn nay chúng ta nên học tập kinh nghiệm của các nước, Chính phủ chỉ nên tập trung quản lý vĩ mô nền kinh tế, thực hiện việc quy hoạch tổng thể nền kinh tế và các khu đô thị lớn, đồng thời hoàn thiện hệ thống luật và các văn bản dưới luật, trên cơ sở đó thực hiện tự do cạnh tranh ở tất cả các ngành mà bức xúc nhất là xóa bỏ độc quyền, đặc quyền đặc lợi trong các lĩnh vực điện, nước, bưu chính viễn thông, ngân hàng. Bởi vì độc quyền chỉ có lợi cho một số người nhưng xã hội phải gánh chịu thiệt hại rất lớn, đó là chi phí sản xuất xã hội sẽ rất cao. Điều đó sẽ làm chúng ta bất lợi khi hội nhập kinh tế quốc tế, xét cho cùng là lợi ích quốc gia sẽ bị xâm phạm. Trên cơ sở Chính phủ quy hoạch tổng thể và quản lý vĩ mô chặt chẽ, tạo điều kiện cho các lĩnh vực, các ngành, các doanh nghiệp cạnh tranh và phát triển bền vững, nhu cầu về vốn trong xã hội sẽ ngày càng tăng và đó là mảnh đất màu mở để nghiệp vụ thị trường phát huy tác dụng. TIỂU LUẬN MÔN HỌC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH Trang 27 3.1.2 Lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng Một hệ thống ngân hàng lành mạnh phản ánh tình trạng sức khỏe tốt của nền kinh tế, trên cơ sở đó, các chứng khoán nợ của Chính phủ, ngân hàng vá các chủ thể kinh tế khác mới được công chúng quan tâm và tạo sự hấp dẫn trên TTM . Do đó trong giai đoạn hiện nay, NHNN xem đây là nhiệm vụ chính trong đề án cải cách hệ thống ngân hàng, đặc biệt là cải thiện tình hình tài chính và tỷ lệ an toàn của các ngân hàng. Các giải pháp thực hiện kiểm toán 100% đối với NHTM và các TCTD, xử lý nợ quá hạn, tăng vốn điều lệ đối với các ngân hàng chưa đạt mức quy định, các yêu cầu về hoàn thiện bộ máy tổ chức và nhân sự, thực hiện việc giám sát đặc biệt đối với các ngân hàng vi phạm…là những vấn đề mà NHNN cần thực hiện triệt để trong thời gian tới: Đối với NHTM Nhà nước: Lành mạnh hóa tình hình tài chính, đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo quy định, xử lý triệt để các yếu kém phát hiện qua kiểm toán, nhất là các khoản nợ tồn đọng thuộc nhóm 3,4,5 của các NHTM NN Đối với các NHTM CP: Kiên quyết giải thể hoặc sát nhập các ngân hàng yếu hoặc không có khả năng tăng vốn. Tạo điều kiện cho các N HTMCP hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, đào tạo, nâng cao trình độ quản lý, tham gia vào thị trường tiền tệ thứ cấp, NVTTM và hệ thống thanh toán NHNN. Đối với các quỹ tín dụng nhân dân: Tăng cường kiểm tra, giám sát, xử lý kịp thời các tồn động trong quỹ tín dụng nhân dân, đẩy nhanh tiến độ thanh lý đối với các quy định đã bị thu hồi giấp phép, chỉ cho phép thành lập mới quỹ tín dụng nhân dân ở những tỉnh, thành phố đã cơ bản hoàn thành việc chấn chỉnh, củng cố và hội đủ điều kiện theo quy định. 3.1.3 Hoàn thiện thị trường liên ngân hàng: TTM chỉ hoạt động thực sự hữu hiệu khi thị trường liên ngân hàng phát triển. trong lịch sử, thị trường liên ngân hàng hoạt động trước TTM . Thị trường liên ngân hàng chính là nơi NHTW xác định nhu cầu vốn khả dụng của các NHTM và qua đó nắm bắt nhu cầu vốn của nền kinh tế. Ở Việt Nam hiện nay, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng có vai trò khá lớn trong việc luân chuyển vốn ngoại tệ, xác định và điều chỉnh tỷ giá hối đoái nhưng thị trường nội tệ liên ngân hàng gần như đóng băng, điều này đã làm giảm đáng kể khả năng quản lý vốn của NHNN, cũng như sự phối hợp giữa các thị trường chứng khoán-TTM- thị trường tiền tệ. Do đó, việc hoàn thiện thị trường liên ngân hàng phải được xem là cơ sở cho các hoạt động khác của NHNN trong bối cảnh hội nhập kinh tế. TIỂU LUẬN MÔN HỌC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH Trang 28 3.1.4 Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng trong kinh doanh ngân hàng để kích cầu tín dụng: Một trong các điều kiện tham gia NVTTM là các thành viên phải có giấy tờ ngắn hạn để bàn và chủ động vốn khả dụng của mình. Nhưng trong thực tế, các TCTD chưa đầu tư nhiều vào giấy tờ có giá ngắn hạn, một trong những nguyên nhân là do họ chịu sự thiếu bình đẳng trong kinh doanh được vay theo chỉ định, vay với lãi suất lợi hơn. Các NHTM cổ phần, NH liên doanh, quỹ tín dụng ít có được ưu thế này, tạo sự phân biệt trên thị trường. Để các TCTD ngoài quốc doanh tích cực tham gia vào TTM thì phải tạo cho họ một sân chơi bình đẳng, NHNN cần hạn chế các hình thức cung ứng vốn tín dụng khác từ NHNN như tái cấp vốn, cho vay theo chỉ định, phân biệt rõ tín dụng chính sách và tín dụng thương mại. Ngoài ra cần tuyên truyền thường xuyên, sâu rộng cho các TCTD về hiệu quả nghiệp vụ này để họ tích cực tham gia. 3.1.5 Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng: Trong định hướng hoạt động của ngành, vấn đề hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, từng bước thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế về ngân hàng luôn được đề cập đến, trong đó, trước mắt tích cực thực hiện các nội dung: Tiếp tục tăng số lượng thành viên và mở rộng địa bàn thực hiện thanh toán qua hệ thống thanh toán điệu tử liên ngân hàng và hệ thống giao dịch điện tử. Thực hiện tin học hóa quản lý hành chính Nhà nước của NHNN, mở rộng triển khai phần mềm hệ thống thông tin quản lý, ứng dụng các nghiệp vụ mới, đẩy mạnh đào tạo, nâng cao trình độ công nghệ thông tin của ngành. Tiếp tục mở rộng và phát triển dịch vụ các ngân hàng như dịch vụ ngân hàng điện tử, thanh toán thẻ, rút tiền qua máy ATM, liên kết với các doanh nghiệp, công ty bảo hiểm, bưu điện…để phát triển các dịch vụ thanh toán và thu hút khách hàng. Phát triển các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, tăng thanh toán qua NHNN và các TCTD. Để thực hiện những định hướng trên, NHNN và Chính phủ cần có những chính sách cụ thể và hỗ trợ tài chính cần thiết để các NHTM đầu tư, phát triển công nghệ hiện đại và đào tạo cán bộ sử dụng công nghệ cao. TIỂU LUẬN MÔN HỌC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH Trang 29 3.1.6 Sự phối hợp đồng bộ giữa Bộ tài chính và NHNN Ở các nước có TTM phát triển, kho bạc và NHTW cùng kết hợp đưa ra các quyết định về quản lý nợ, cân đối tiền gửi và đây là điều kiện cần thiết cho sự vận hành NVTTM một cách trôi chảy. Việc phát hành các chứng khoán nợ của kho bạc ảnh hưởng đến lượng hàng hóa trên thị trường mở, mặt khác, thể hiện sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ để thực hiện những mục tiêu kinh tế vĩ mô. Vì vậy, ngay từ đầu, bộ tài chính và NHNN cần được phân định rõ trách nhiệm, vị trí và những phối hợp cần thiết trong việc điều hành và tổ chức NVTTM. 3.2 Các giải pháp về vận hành NVTTM: 3.2.1 Nâng cao khả năng dự đoán vốn khả dụng, NHNN cần tiến hành thu thập và công khai thông tin kịp thời, chính xác. Quá trình thu nhập và công khai thông tin cần được tiến hảnh theo thông lệ quốc tế, những thông tin về hệ số tạo tiền, khối lượng đăng ký dự thầu, khối lượng trúng thầu, lãi suất, dự trữ, tỷ giá hối đoái, cung cầu vốn khả dụng cuối ngày… cần được liên tục cập nhật và công khai trên các phương tiện thông tin để đảm bảo tính trung thực của thị trường, hạn chế các hoạt động đầu cơ, xuyên tạc thông tin gây ảnh hưởng xấu đến thị trường. Mặt khác, NHNN cần kết hợp việc theo dõi phản ứng của thị trường sau các phiên giao dịch thị trường mở thông qua các giao dịch trện thị trường liên ngân hàng, lượng vay tái cấp vốn, sự thay đổi lượng dự trữ của các NHTM , số dư tiền gửi của các NHTM, lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng để đưa ra những dự báo tốt về cung cầu vốn khả dụng của nền kinh tế. Trên thực tế, để dự báo chính xác nhu cầu tiền, NHNN cần dựa vào lãi suất trên thị trường liên ngân hàng, đặc biệt là lãi suất cho vay qua đêm. Chính mức lãi suất này thể hiện nhu cầu hay áp lực đối với khả năng thanh toán của hệ thống, đồng thời nó còn là cơ sở quan trọng cho việc xác định lãi suất của NVTTM . Hiện nay, NHNN đang gặp nhiều khó khăn trong việc thu thập thông tin, số liệu, đặc biệt là các số liệu từ thị trường liên ngân hàng và bộ tài chính. Do đó, NHNN cần quy định cụ thể về việc cung cấp các số liệu nói trên đối với các ngành có liên quan, trên cơ sở cải tiến chế độ thông tin giữa các bộ, cục, vụ, sở giao dịch của NHNN. 3.2.2 Hoàn thiện quy trình giao dịch NVTTM: Các giao dịch TTM rất ngắn hạn nên việc thanh toán phải đảm bảo nhanh chóng, chính xác và tiện lợi. TIỂU LUẬN MÔN HỌC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH Trang 30 Hiện nay, khi thực hiện giao dịch nghiệp vụ TTM vẫn còn một số khó khăn về quy trình kỹ thuật như quy trình chuyển lưu ký trái phiếu. Chính phủ giữa NHNN và các TCTD tại trung tâm giao dịch chứng khoán chưa được hoàn thiện, hoặc đối với các TCTD không thường xuyên thực hiện NVTTM , khi có nhu cầu giao dịch trên thị trường này, kỹ thuật giao dịch qua mạng còn gặp trục trặc nên thực hiện giao dịch không thành công. Điều này đã hạn chế việc tham gia NVTTM của các thành viên. Mặt khác, từ đầu tháng 9/2002, thời gian thanh toán các phiên giao dịch TTM được rút xuống thực hiện ngay trong ngày đấu thầu nhưng với nhu cầu tiền tệ rất linh hoạt trong nền kinh tế, thời gian này nên thực hiện tức thời ngay sau phiên giao dịch và giảm đến mức tối thiểu các thủ tục không cần thiết bằng việc thực hiện chuyển khoản thông qua hệ thống tài khỏan tại NHNN đối với các thành viên. Do đó, việc tạo lập và đưa vào sử dụng hệ thống thanh toán bù trừ trong phạm vi toàn quốc là rất cần thiết cho TTM . Từ đó giúp NHNN và ban điều hành NVTTM thuận tiện trong quá trình hạch toán, phân tích và xử lý các vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện. Trên cơ sở công nghệ thông tin hiện đại, hiệu quả hoạt động của TTM càng tăng, khi đó, phần mềm nối kết giữa NHNN với các NHTM đã được thực hiện, các công đoạn từ khi công nhận thành viên, đăng ký chữ ký điện tử, thông báo mời thầu, đăng ký giấy tờ có giá, xét thầu, tạo lập và ký hợp đồng mua bán lại, thanh toán chuyển khoản, thông báo…đều được thực hiện tự động hóa thông qua hệ thống điều khiển trung tâm của NHNN. Trong thời gian tới, cục công nghệ tin học ngân hàng nên đẩy mạnh nghiên cứu cải tiến quy trình kỷ thuật để nâng cao chất lượng thu thập thông tin phục vụ công tác quản lý vốn khả dụng và đảm bảo giao dịch qua mạng được thực hiện thông suốt. Điều này sẽ giúp các giao dịch trên TTM nói riêng và giao dịch ngân hàng nói chung được tiến hành thuận tiện, nhanh chóng, phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo điều kiện hội nhập quốc tế về ngân hàng. 3.2.3 Tạo hàng hóa đa dạng cho NVTTM: Ngoài những giấy tờ có giá ngắn hạn và các loại trái phiếu trung hạn, dài hạn có thời gian đáo hạn ngắn được quy định theo luật, NHNN nên cho phép tham gia mua bán trên TTM cả chứng khoán dài hạn để làm TTM mang tính mở hơn, góp phần nâng cao hiệu suất hoạt động và tính linh hoạt của công cụ này bởi vì thời hạn của giấy tờ có giá không mâu thuẫn gì với tính nhanh nhạy của chính sách tiền tệ, việc mua bán giấy tờ có giá là hoạt động diễn ra thường xuyên ở TTM , nếu NHNN cảm thấy mình mua quá nhiều thì có thể sửa sai ngay lập tức bằng cách bán chứng khoán và ngược lại. TIỂU LUẬN MÔN HỌC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH Trang 31 Chính việc giao dịch mua bán thường xuyên này sẽ giúp cho người có vốn yên tâm đầu tư vào chứng khoán trung, dài hạn mà không sợ ứ vốn. Trong thời gian tới, TTM cần tập trung phát triển, đa dạng hóa các hàng hóa giao dịch trên TTM cả về số lượng, chủng loại, kỳ hạn. Cụ thể:  Gia tăng phát hành số lượng chứng khoán có kỳ hạn ngắn để làm tăng khối lượng hàng hóa trên thị trường. Trong thời gian qua, đã có tình trạng sau khi đã mua các chứng khoán này trên thị trường sơ cấp, các tổ chức tài chính không muốn bán lại trên thị trường thứ cấp, mà coi đó như vốn đầu tư hơn là sử dụng để điều tiết vốn, do đó hàng hóa trên thị trường đã ít nay lại càng ít hơn nữa. Vì vậy, Trong giai đoạn tới NHNN nên gia tăng số lượng phát hành tín phiếu NHNN, tín phiếu kho bạc, nhất là mở rộng thị trường đấu thầu hai loại tín phiếu trên.  Cho phép lưu hành trên TTM trái phiếu Chính phủ dài hạn, trái phiếu Chính phủ phát hành bằng ngoại tệ, chứng khoán của các doanh nghiệp, thương phiếu và chứng chỉ tiền gửi. Đối với trái phiếu Chính phủ dài hạn: Các loại trái phiếu Chính phủ dài hạn được phát hành để tài trợ cho nhu cầu đầu tư của Chính phủ, hiện nay khối lượng phát hành rất lớn trên thị trường, tính an toàn lại cao. Vì vậy, đưa các loại hàng hóa này vào TTM sẽ gây hiệu ứng rất nhanh chóng trong toàn xã hội trong việc điều chỉnh mức cung tiền. Mặt khác khi giao dịch của trái phiếu Chính phủ được thực hiện sôi động trên thị trường thứ cấp cũng làm tăng tính hấp dẫn của nó trên thị trường sơ cấp. Đối với trái phiếu Chính phủ phát hành bằng ngoại tệ: Trong thời gian tới Chính phủ cần xem xét để phát hành trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ và đưa chúng vào hoạt động của TTM để giúp TTM tác động tích cực trong việc điều hành chính sách tiền tệ và tỷ giá. Đối với chứng khoán của các doanh nghiệp (cổ phiếu, trái phiếu): NHNN nên mở rộng phạm vi NVTTM bằng việc thực hiện giao dịch chứng khoán của các doanh nghiệp. Điều này vừa làm tăng hàng hóa cho TTM vừa có tác dụng điều chỉnh cơ cấu đầu tư cảu các doanh nghiệp, vì khi chứng khoán của các doanh nghiệp gia tăng, làm tăng khả năng thu hút vốn của các doanh nghiệp để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Đối với thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi: trên cơ sở pháp lệnh thương phiếu và luật NHNN ban hành, NHNN cần có các văn bản dưới luật hướng dẫn việc phát hành và xem xét tiêu chuẩn sử dụng các loại chứng khoán này. NHNN còn xây dựng quy chế về tiêu chuẩn thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi được chấp nhận mua bán ở TTM TIỂU LUẬN MÔN HỌC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH Trang 32 để xác định trước chất lượng của chúng. Tuy nhiên, việc sử dụng công cụ này trên TTM cần hết sức thận trọng, nhất là trong giai đoạn đầu, việc sử dụng chúng luôn hàm chứa rủi ro cao.  Mở rộng nghiệp vụ mua bán có kỳ hạn (repos) trên TTM để làm tăng lượng chứng khoán trên thị trường. Nghiệp vụ mua bán có kỳ hạn trên TTM nhằm làm tăng, giảm tạm thời một lượng tiền nhất định trong nền kinh tế, thông qua các repos, các thành viên tham gia thị trường có thể mua, bán đảo ngược tại một thời điểm quy định trước trong tương lai. Điều đó sẽ hạn chế những sai sót trong việc cung ứng tiền, thích hợp trong điều kiện khó dự báo chính xác lượng vốn khả dụng trong nền kinh tế. Việc giao dịch NVTTM dưới hình thức mua, bán hẳn sẽ ảnh hưởng dài hạn đến cung tiền và tác động lớn đến giá chứng khoán. Vì vậy, NHNN chỉ nên thực hiện hình thức này khi cần can thiệp nhanh, mạnh, tức thì vào thị trường tiền tệ. Cũng với lí do trên, đối với các loại chứng khoán trung, dài hạn NHNN chỉ nên sử dụng hình thức giao dịch có kỳ hạn. Mặt khác, dùng nhiều hình thức mua bán, càng làm đa dạng nghiệp vụ giao dịch trên TTM thì càng làm tăng khả năng can thiệp của NHNN vào thị trường để điều tiết cung tiền trong xã hội. 3.2.4 Thu hút thêm thành viên của TTM: Sự sôi động và tác động của TTM đến xã hội phụ thuộc rất nhiều vào số lượng và thành phần các thành viên tham gia. Hiện nay, mặt dù có trên 20 TCTD là thành viên tham gia giao dịch NVTTM nhưng trong thực tế, các phiên giao dịch chỉ có các NHTMNN đặt thầu. Tồn tại này do các TCTD chưa chú trọng đầu tư vào các giấy tờ có giá mà chỉ chú trọng váo các nghiệp vụ truyền thống. Một thực tế nữa cần kể đến là, một số TCTD còn bị động trong việc cân đối, quản lý nguồn vốn. Đặc biệt, một số TCTD chưa thực sự quan tâm đến lợi ích khi tham gia TTM, kể cả khi có nhu cầu vay vốn từ NHNN, họ chỉ quan tâm đến nghiệp vụ cho vay truyền thống như nghiệp vụ cầm cố mà chưa khai thác tối đa các lợi thế của TTM. Trong thời gian tới, NHNN cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tăng cường quản bá hoạt động NVTTM trên các phương tiện thông tin đại chúng, phổ biến lợi ích của việc tham gia TTM đối với các TCTD, chỉ đạo các TCTD quan tâm hơn nữa đến việc quản lý, cân đối vốn hợp lý, tham gia đầu tư vào giấy tờ cá giá làm công cụ giao dịch trên TTM , đồng thời đơn giản các thủ tục, hiện đại hóa kỹ thuật giao dịch qua mạng để tạo thuận lợi và thu hút thêm nhiều thành viên tham gia. TIỂU LUẬN MÔN HỌC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH Trang 33 Khi TTM đã dần ổn định, NHNN có thể nghiên cứu bổ sung điều lệ tham gia TTM cho các thành viên mới của thị trường như các tổ chức tài chính, các doanh nghiệp lớn. Khi TTM đã phát triển ở mức độ cao, lượng thành viên tham gia đông đảo, NHNN cần tổ chức mạng lưới các nhà giao dịch chuyên nghiệp (thông thường là các công ty chứng khoán) và chỉ cần giao dịch trực tiếp với họ, giảm thời gian thông báo đến các thành viên. 3.2.5 Quan tâm đến công tác đào tạo cán bộ chuyên môn: Hiện nay, hoạt động của NVTTM là hoạt động bán chuyên nghiệp do chưa được quan tâm và đầu tư đúng mức, do đó, hiệu quả hoạt động phần nào bị hạn chế. Ngoài những giải pháp về hoàn thiện cơ sở vật chất, điều kiện vận hành…thì NHNN càng cần phải quan tâm đến công tác về đào tạo cán bộ chuyên môn về NVTTM, NHNN nên cử cán bộ, nhân viên đi học hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho NHTM gửi người đi học ở các nước có TTM phát triển để có được những kiến thức, kinh nghiệm quý báu, áp dụng thích hợp cho tình hình cụ thể ở nước ta. Tiếp theo, NHNN cần tổ chức các lớp tập huấn về quy trình giao dịch hiện đại thích hợp với nước ta, vừa để giao dịch thuận tiện, vừa để quảng bá nghiệp vụ này, làm cho nó trở thành một hoạt động thường xuyên, quen thuộc trong đời sống xã hội. Cùng với quá trính nâng cao nghiệp vụ, NHNN cần cải tiến phương thức điều hành TTM , giao quyền điều hành cho ban điều hành NVTTM để họ linh hoạt, chủ động và chịu trách nhiệm trong việc điều hành trên cơ sở luật, nghị định, chủ trương đã ban hành. 3.3 Các giải pháp hỗ trợ cho NVTTM: 3.3.1 Đối với các công cụ khác của chính sách tiền tệ Khi NVTTM đã trở thành công cụ chính của chính sách tiền tệ, thì các công cụ khác cần được điều chỉnh để trở thành công cụ hỗ trợ trong việc thực hiện các mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ như lãi suất hoặc lượng dự trữ của hệ thống ngân hàng, trong đó, đáng quan tâm nhất là công cụ chiết khấu và dự trữ bắt buộc. Đối với công cụ chiết khấu: NHNN cần hạn chế cửa sổ chiết khấu một cách thận trọng vì nếu không các NHTM sẽ đến với cửa sổ chiết khấu mà không có nhu cầu tham gia mua bán trên TTM . Đối với công cụ dự trữ bắt buộc: Cũng như công cụ chiết khấu, NHNN cần giảm dần dần hiệu lực của công cụ này để có NHTM tập trung vào TTM bằng các quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc ở mức tối thiểu và không thay đổi thường xuyên. TIỂU LUẬN MÔN HỌC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH Trang 34 3.3.2 Cũng cố uy tín của các giấy nợ tư nhân: Khi TTM càng phát triển, hàng hóa càng đa dạng, các loại giấy nợ tư nhân như chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu, kỳ phiếu ngân hàng,…càng nhiều, NHNN cần tổ chức (hoặc chọn một tổ chức có uy tín) xếp hạng tín dung dựa trên những tiêu chuẩn đánh giá hợp lý để giảm những tác hại cho xã hội đồng thời làm cơ sở cho các TCTD và các doanh nghiệp phấn đấu vươn lên những thứ hạng cao hơn. 3.3.3 Phát triển thị trường tài chính năng động Muốn thị trưởng mở phát huy tác dụng tích cực trong việc điều hành chính sách tiền tệ thì thị tường tiền tệ và thị trường chứng khoán phải hoạt động thông suốt, năng động và hổ trợ trong công việc điều tiết vốn cho xã hội. Từ đó, với nhu cầu giao dịch ngày càng tăng sẽ thu hút nhiều chủ thể tham gia vào TTM làm tăng vai trò của NHNN trong việc điều hành chính sách tiền tệ. TIỂU LUẬN MÔN HỌC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH Trang 35 PHẦN KẾT LUẬN Từ những phân tích lý luận trên đề tài này đã đi vào phân tích những vấn đề sau: Phân tích về mặt lý luận những nội dung cơ bản của NVTTM , trong đó nhấn mạnh vai trò quan trọng của ngân hàng trung ương trong việc sử dụng công cụ NVTTM để tác dụng tới lượng tiền trong lưu thông và lượng vốn khả dụng của các NHTM. Phân tích thực trạng hoạt động của NVTTM trong thời gian qua, tổng kết những kết quả đạt được đồng thời một phần nào đó đưa ra những tồn tại cần khắc phục trong thời gian tới. Qua những phân tích trên Phần 3 là phần trọng tâm mà đề tài muốn hướng tới để đưa ra những giải pháp định hướng để phát triển NVTTM trong thời gian tới phục vụ cho chính sách phát triển của Quốc gia.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnghiep_vu_tt_mo_nhom_3_6476.pdf
Luận văn liên quan