I.Tổng quan về tái bảo hiểm và thị trường tái bảo hiểm 2
1.1.Khái niệm,bản chất,vai trò của tái bảo hiểm 2
1.2. So sánh bảo hiểm,đồng bảo hiểm và tái bảo hiểm. 5
1.3. Hợp đồng tái bảo hiểm 9
1.4. Các phương thức tái bảo hiểm. 14
1.4.1 Tái bảo hiểm theo tỷ lệ. 14
1.4.2 Tái bảo hiểm phi tỷ lệ. 17
1.5.Thị trường tái bảo hiểm. 20
1.5.1.Khái niệm và đặc điểm của thị trường tái bảo hiểm 20
1.5.2.Các bên tham gia thị trường tái bảo hiểm. 21
II.Thị trường tái bảo hiểm ở Việt Nam 24
2.1.Thị trường tái bảo hiểm ở Việt Nam trước khi gia nhập WTO 24
2.2.Thị trường tái bảo hiểm Việt Nam sau khi gia nhập WTO 30
III.Giải pháp phát triển thị trường tái bảo hiểm Việt Nam. 32
3.1. Đối với các cơ quan chức năng. 32
3.2. Đối với bản thân những chủ thể tham gia thị trường tái bảo hiểm. 33
PHẦN 3:KẾT LUẬN. 35
36 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 9783 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thị trường tái bảo hiểm ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c quy luật thống kê.Với nhiệm vụ trên tái bảo hiểm ổn định kinh doanh cho các công ty bảo hiểm gốc và tạo điều kiện cho các công ty này có thể nhận bảo hiểm cho những rủi ro vượt quá khả năng tài chính của mình.
Nhưng dù thế nào thì bản chất của tái bảo hiểm cũng được thể hiện ở những nội dung sau:
+ Tái bảo hiểm là sự phân tán rủi ro cho nhà bảo hiểm,thay vì một nhà bảo hiểm gánh chịu tất cả các tổn thất xảy ra với đối tượng bảo hiểm thì sẽ có nhiều nhà bảo hiểm khác cùng chia sẻ tổn thất đó với họ.Vì vậy giá trị tổn thất mà mỗi nhà bảo hiểm gánh chịu được giảm đi nhiều lần.
+ Hoạt động tái bảo hiểm không cung cấp lợi nhuận cho các doanh nghiệp bảo hiểm gốc nhưng đảm bảo sự ổn định trong kinh doanh cho họ.
+ Tái bảo hiểm hoạt động trên cơ sở số lớn nhằm phân chia rủi ro giữa những nhà bảo hiểm với nhau.
+ Hoạt động tái bảo hiểm có tính chất quốc tế cao:Một hợp đồng bảo hiểm gốc trong nước có thể được tái bảo hiểm sang các công ty bảo hiểm khác ở nước ngoài.
* Vai trò của tái bảo hiểm:
Tái bảo hiểm có vai trò to lớn đối với các doanh nghiệp bảo hiểm, đối với cả những người tham gia bảo hiểm.Vai trò của tái bảo hiểm được thể hiện:
- Phân tán rủi ro,góp phần ổn định tài chính cho công ty bảo hiểm gốc, đặc biệt là trong những trường hợp xảy ra các sự cố thảm họa hay tích luỹ rủi ro.
- Nâng cao khả năng nhận bảo hiểm của công ty bảo hiểm gốc đối với những rủi ro vượt quá khả năng tài chính của nó.Thường xảy ra đối với các hợp đồng bảo hiểm có số tiền bảo hiểm lớn,mức trách nhiệm cao liên quan đến khả năng nhận bảo hiểm của công ty bảo hiểm gốc với người tham gia bảo hiểm.Nhờ có tái bảo hiểm mà các công ty bảo hiểm có thể nhận được những hợp đồng bảo hiểm lớn,vừa đảm bảo tuân thủ quy định của pháp luật về biên khả năng thanh toán,vừa không phải từ chối khách hàng.
-Phòng ngừa thảm hoạ.Khi các rủi ro bất thường,rủi ro mang tính thảm hoạ(bão, động đất,khủng bố,dịch bệnh…)xảy ra sẽ ảnh hưởng đến khả năng bồi thường của công ty bảo hiểm gốc.Tái bảo hiểm cho phép các công ty bảo hiểm gốc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình đối với khách hàng bất chấp các rủi ro đó xảy ra.
- Tái bảo hiểm là một công cụ quản trị rủi ro hữu hiệu của những nhà bảo hiểm trong việc dàn trải rủi ro và tổn thất.
- Thông qua hoạt động tái bảo hiểm,công ty bảo hiểm gốc được hỗ trợ về mặt tài chính nhờ khoản hoa hồng tái bảo hiểm,hỗ trợ về mặt kĩ thuật…
- Đối với khách hàng tham gia bảo hiểm: Do bảo hiểm là một hoạt động dịch vụ đặc thù,cung cấp sự cam kết bồi thường trên cơ sở phí bảo hiểm đóng trước nên có thể nói tái bảo hiểm là công cụ giúp cho khách hàng yên tâm hơn trong việc đảm bảo khả năng thanh toán của các công ty bảo hiểm gốc.Nhờ có tái bảo hiểm mà khách hàng có thể nhận được bồi thường chình xác,đầy đủ và kịp thời.
- Đối với nền kinh tế và xã hội: Tái bảo hiểm không chỉ là sự phân tán rủi ro cho những nhà bảo hiểm mà còn là sự phân tán rủi ro giữa các quốc gia với nhau vì vậy những tổn thất lớn hoàn toàn có thể được chia sẻ với số lượng đông người tham gia bảo hiểm.Nhờ đó góp phần thúc đẩy và phát triển quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước bởi tái bảo hiểm là hoạt động mang tính chất quốc tế : các hoạt động nhân tái và nhượng tái diễn ra giữa các công ty bảo hiểm,tái bảo hiểm trong và ngoài nước nhằm san sẻ rủi ro và lợi nhuận.
1.2. So sánh bảo hiểm,đồng bảo hiểm và tái bảo hiểm.
* Giống nhau:
+ Cả ba hoạt động này đều bảo vệ sự ổn định về tài chính cho người được bảo hiểm.
+ Đều tuân thủ theo quy luật số đông.
+ Đều là hiện tượng phân tán rủi ro,chuyển giao tổn thất.
+ Đều là hoạt động dịch vụ tài chính.
*Khác nhau:
Tiêu thức so sánh
Bảo hiểm
Đồng bảo hiểm
Tái bảo hiểm
1.Bản chất
Bảo hiểm là tổng thể các mối quan hệ kinh tế xã hội giữa bên tham gia với bên bảo hiểm nhằm mục đích ổn định cuộc sống và sản xuất cho bên tham gia khi đối tượng bảo hiểm gặp phải những rủi ro bất ngờ gây hậu quả thiệt hại và đáp ứng một số nhu cầu khác của họ.
Đồng bảo hiểm nghĩa là một đối tượng bảo hiểm có thể được bảo hiểm bới các nhà bảo hiểm khác nhau cùng một lúc
Tái bảo hiểm là hoạt động bảo hiểm cho các công ty bảo hiểm
2. Đối tượng được bảo hiểm
Bao gồm tài sản,trách nhiệm,con người.
Bao gồm tài sản,trách nhiệm,con người.
+Trách nhiệm,nghĩa vụ bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm gốc với tài sản,trách nhiệm,con người được bảo hiểm trong đơn bảo hiểm.
+ Giá trị hợp đồng bảo hiểm gốc.
3.Mối liên hệ đối với người tham gia bảo hiểm ban đầu.
Một nhà bảo hiểm liên hệ trực tiếp với khách hàng.
Nhiều nhà bảo hiểm cùng một lúc liên hệ trực tiếp với khách hàng.
Không bao giờ tồn tại mối quan hệ trực tiếp giữa khách hàng với doanh nghiệp tái.
4.Phương thức bảo hiểm.
Hầu hết là tự nguyện.
Hầu hết là tự nguyện.
Tự nguyện và bắt buộc tuỳ thuộc vào khả năng tài chính và dòng sản phẩm.
5.Khả năng sinh lời.
Hoạt động bảo hiểm mang lại lợi nhuận trực tiếp cho doanh nghiệp bảo hiểm
Hoạt động đồng bảo hiểm cũng trực tiếp mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp bảo hiểm dựa trên mức trách nhiệm mà họ nhận bảo hiểm.
+ Không trực tiếp tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp bảo hiểm là hoạt động chia sẻ rủi ro đã nhận cho công ty tái.
+ Tạo điều kiện cho doanh nghiệp bảo hiểm nâng cao khả năng nhận bảo hiểm.
6.Bồi thường và chi trả bảo hiểm.
Bồi thường và chi trả trực tiếp cho khách hàng.
Bồi thường và chi trả trực tiếp cho khách hàng.
+ Tuỳ thuộc vào thoả thuận tái bảo hiểm mà lựa chọn phương thức chi trả nào nhưng không bao giờ doanh nghiệp tái được phép bồi thương trực tiếp cho người tham gia bảo hiểm.
Sơ đồ quan hệ giữa công ty bảo hiểm,công ty đồng bảo hiêm,công ty tái bảo hiểm với khách hàng.
BẢO HIỂM
người tham gia bảo hiểm
Công ty bảo hiểm
ĐỒNG BẢO HIỂM
Người được bảo hiểm
Công ty đồng bảo hiểm(40%)
Công ty đồng bảo hiểm(30%)
Công ty đồng bảo hiểm(30%)
Người được bảo hiểm
TÁI BẢO HIỂM
Công ty bảo hiểm
Công ty tái bảo hiểm(30%)
Công ty tái bảo hiểm(10%)
Công ty tái bảo hiểm(20%)
1.3. Hợp đồng tái bảo hiểm
Hợp dồng tái bảo hiểm là bằng chứng,cam kết có giá trị pháp lí cao nhất về quan hệ kinh doanh giữa người nhận và nhượng tải trong tưng nghiệp vụ cụ thể.
Hợp đồng tái bảo hiểm là thoả thuận chi tiết và rõ ràng giữa bên nhận và nhượng tái về các điều khoản, điều kiện chu trình thực hiện.Công tác tái bảo hiểm được thực hiện một cách tự nguyện,bình đẳng bằng hình thức văn bản.
Căn cứ vào mức độ phong phú,tính chất và mối quan hệ giữa bên nhận và nhượng tái bảo hiểm,hoạt động tái bảo hiểm được chia thành 3 loại:
Loại 1: Hợp đồng tái bảo hiểm tạm thơi.
Loại 2: Hợp đồng tái bảo hiểm cố định.
Loại 3:Hợp đồng tái bảo hiểm kết hợp.
*Hợp đồng tái bảo hiểm tạm thời:
- Khái niệm: Hợp đồng tái bảo hiểm tạm thời là hợp đồng tái bảo hiểm trong đó công ty nhượng có toàn quyền lựa chọn rủi ro cần phải tái bảo hiểm và ngược lại người tái bảo hiểm có quyền nhận hoặc từ chối rủi ro đó.
- Đây là hình thức tái bảo hiểm cơ bản và cổ điển nhất.
- Để thực hiện được hình thức tái bảo hiểm nay,trước hết công ty nhượng tái phải thông báo cho nhà tái một dịch vụ nào đó mà họ cần tái bảo hiểm.Hình thức thông báo được thực hiện bằng phiếu đề nghị.Trên phiếu đề nghị bao gồm các thông tin:
+ Đặc điểm chính của rủi ro được tái bảo hiểm bao gồm tên, địa chỉ của người được bảo hiểm,tính chất của rủi ro được bảo hiểm,ngày bắt đầu và chấm dứt của thời hạn bảo hiểm.
+ Số tiền bảo hiểm,phí bảo hiểm,phần giữ lại của công ty nhượng.
+ Tỷ lệ thủ tục phí bảo hiểm.
+ Phương thức tái,thủ tục thanh toán,bồi thường…
Sau khi nhận được đề nghị,nhà tái bảo hiểm có quyền lựa chọn nhận toàn bộ hay một phần tỷ lệ nào đó hoặc một số tiền cố định trên cơ sở rủi ro được đề nghị.Nhà tái bảo hiểm xác nhận phần tham gia của mình vào một phiếu đề nghị và gủi lại cho công ty nhượng, đồng thời nhà tái bảo hiểm có thể yêu cầu cung cấp thêm thông tin cần thiết.Nhà tái bảo hiểm quyết định từ chối hoặc chấp nhận căn cứ vào các yếu tố: đặc điểm rủi ro được tái,kinh nghiệm bảo hiểm,khả năng tài chính…Khi nhận được giấy thông báo chấp nhận từ phía nhà nhận tái bảo hiểm thì dịch vụ tái bảo hiểm này mới có hiệu lực và cũng tự động chấm dứt vào ngày đến hạn nếu không có bổ sung thêm.
- Ưu điểm của hình thức tái bảo hiểm này:
+ Giúp các công ty nhượng đặc biệt là các công ty mới thành lập,các công ty bảo hiểm ở thị trường mới ít kinh nghiệm có thể hoàn thành việc nhận bảo hiểm cho những đơn vị rủi ro có giá trị lớn vượt quá khả năng tài chính của họ trên cơ sở sử dụng chuyên môn và khả năng của thị trường tái bảo hiểm quốc tế.
+ Giúp các công ty nhượng chủ động trong việc chấp nhận bảo hiểm, đặc biệt với những nhu cầu bảo hiểm mà không được chấp nhận trong các hợp đồng tái bảo hiểm cố định.Ví dụ như:các rủi ro động đất,chiến tranh, đình công,bạo loạn…
- Nhược điểm của hình thức này:
+ Khi thực hiện hợp đồng tái bảo hiểm này thì khối lượng công việc tương đối phức tạp, đòi hỏi công ty bảo hiểm và công ty nhận tái bảo hiểm phải xem xét kĩ ở lần kí hợp đồng tái đầu tiên cũng như lần tái tục kế tiếp nên thường có xu hướng làm gia tăng chi phí của hai bên.
+ Công ty bảo hiểm phải liên lạc với nhà tái bảo hiểm để cung cấp thông tin và thiết lập hợp đồng.Trên thực tế thường họ phải liên lạc với nhiều nhà tải trong cùng một thời gian cho một đơn vị rủi ro dẫn đến lãng phí thời gian và cũng làm gia tăng chi phí.
+ Công ty bảo hiểm gốc không thể bảo đảm ngay cho người được bảo hiểm những rủi ro vượt quá khả năng thanh toán khi nhà tái chưa chấp nhận bảo hiểm.Vì vậy không đảm bảo về mặt thời gian và sự chắc chắn trong việc phân tán rủi ro tái bảo hiểm do đó có thể sẽ bị mất cơ hội tranh thủ bảo hiểm hoặc không có khả năng để nhận bảo hiểm cho rủi ro có giá trị lớn,hay ít nhất cũng làm cho công ty nhượng tái mất uy tín vì sự chậm trễ trả lời người được bảo hiểm.
*Hợp đồng tái bảo hiểm cố định:
- Hợp đồng tái bảo hiểm cố định là sự thoả thuận bắt buộc bằng văn bản giữa công ty nhượng và công ty tái bảo hiểm trong đó công ty nhượng bắt buộc phải nhượng cho nhà tái tất cả các đơn vị rủi ro bảo hiểm gốc mà hai bên đã quy ước trong hợp đồng ngược lại nhà tái bảo hiểm cũng bắt buộc phải nhận toàn bộ những đơn vị rủi ro đó.
Thủ tục thu xếp hợp đồng được thực hiện qua các bước sau:
Bước 1: Công ty nhượng gửi tới công ty tái bảng thống kê các đơn vị rủi ro(số lượng,số tiền bảo hiểm,tổn thất) thuộc loại hình dịch vụ dự định tái bảo hiểm theo hợp đồng cố định.
Bước 2: Hai bên tiến hành các chi tiết của hợp đồng cố định,phạm vi bảo vệ của hợp đồng.Sau khi thống nhất thì tiến hành kí kết hợp đồng.
Thông thường hợp đồng tái bảo hiểm cố định được thu xếp trước khi bắt đầu một năm nghiệp vụ
- Ưu điểm của hình thức tái bảo hiểm này:
+ Tái bảo hiểm theo hình thức này giúp công ty nhượng chủ động trong việc ký kêt hợp đồng với người tham gia bảo hiểm.
+ Khi công ty tái đã bị ràng buộc bởi hợp đồng tái bảo hiểm cố định thì không nhất thiết phải cân nhắc từng rủi ro.Do vậy thủ tục kí kết hợp đồng cũng được tiến hành nhanh chóng,tiết kiệm được thời gian,chi phí,góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các công ty bảo hiểm.
+ Theo hình thức tái bảo hiểm này,công ty nhượng được nhà tái bảo vệ cho mọi rủi ro thuộc phạm vi hợp đồng tái,do vậy độ an toàn cao.
+ Thông thường các hợp đồng tái cố định mang tính liên tục và sẽ được tái tục tự động hàng năm( trừ trường hợp một trong hai bên có ý định chấm dứt hợp đồng).Vì vậy công ty nhận tái sẽ có sự phân tán rủi ro tốt hơn có lợi cho hoạt động kinh doanh của họ.
+ Thông thường công ty nhận tái trả hoa hồng cho công ty nhượng tái căn cứ vào phần dịch vụ mà họ nhận ,do vậy công ty nhượng có thể bù đắp một phần chi phí khai thác dịch vụ gốc,còn công ty nhận có thể khai thác dịch vụ với chi phí thấp hơn khi phải khai thác trực tiếp.
- Nhược điểm của hình thức tái bảo hiểm này:
+ Trong hình thức bảo hiểm này,nếu công ty nhượng tái còn non trẻ ,yếu kém, đặc biệt trong việc đánh giá rủi ro bảo hiểm gốc thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của cả hai bên.
+ Công ty nhượng phải tái đi tất cả các đơn vị rủi ro mà họ khai thác được kể cả những đơn vị rủi ro nằm trong khả năng nhận bảo hiểm của họ. Điều này đồng nghĩa với việc công ty nhượng phải chuyển đi một phần lớn phí gốc lớn hơn mong muốn của họ.Do vậy công ty nhượng không thể tối đa hoá lợi nhuận.
+ Các hợp đồng cố định thường không thay đổi trong một thời gian nhất định do vậy cứng nhắc,thiếu linh hoạt,công ty nhượng cũng phải tự ràng buộc mình trên một số phương diện như thời gian,rủi ro tái đi…Trong khi đó việc thay đổi mức giữ lại,cách thức tiến hành đều cần sự chấp thuận trước của bên nhận tái.
+ Tất yếu sẽ tồn tại những đơn vị rủi ro bảo hiểm gốc bị hợp đồng tái bảo hiểm cố định loại trừ , điều này gây khó khăn cho công ty nhượng.Họ sẽ phải giữ lại các rủi ro này hoặc lại phải thu xếp hợp đồng tái bảo hiểm tạm thời.
*Hợp đồng tái bảo hiểm kết hợp:
- Hợp đồng tái bảo hiểm kết hợp là hợp đồng theo đó công ty nhượng không bắt buộc phải nhượng cho nhà tái tất cả những đơn vị rủi ro mà họ nhận bảo hiểm nhưng nhà tái bắt buộc phải chấp nhận tất cả các rủi ro đã được đem tái với điều kiện các dịch vụ đó phù hợp với hợp đồng đã thoả thuận từ trước.
- Đối với hình thức này,công ty nhận có thể thu được phí ổn định và lớn hơn so với hợp đồng tái bảo hiểm tạm thời.
- Ưu điểm của hình thức tái bảo hiểm này:
+ Với hình thức này công ty nhượng có điều kiện đem chào tái bảo hiểm từng phần trách nhiệm thặng dư của khả năng giữ lại cho một hoặc một số nhà tái mà họ lựa chọn thay vì tái tất cả theo đơn cố định.
+ Công ty bảo hiểm gốc có thể giữ lại cho mình các rủi ro tốt.
+ Còn đối với công ty nhận tái,họ có điều kiện thu nhập nguồn phí tái bảo hiểm lớn hơn, ổn định hơn.
+ Ngày nay,trong quan hệ quốc tế đây là hình thức tái bảo hiểm dễ thực hiện nhất vì hầu hết các công ty tái bảo hiểm chuyên nghiệp trên thế giới đều có tiềm lực kinh tế mạnh và họ luôn muốn mở rộng thị trường đến những nước đang phát triển và chậm phát triển.
- Nhược điểm của hình thức tái bảo hiểm này:
+ Công ty nhận tái không có quyền từ chối những rủi ro mà họ không muốn nhận. Đây là bất lợi của công ty nhận tái.
+ Hợp đồng loại này đôi khi được coi như là phương tiện để công ty nhượng tái cố tình đưa ra các rủi ro xấu,phí thấp,tỷ lệ tổn thất cao hoặc có tư tưởng ỷ lại không chặt chẽ trong quá trình đánh giá rủi ro và định phí.
+ Đối với nhà tái bảo hiểm,nguồn dịch vụ theo hợp đồng tái bảo hiểm kết hợp thường không thường xuyên ,không đồng đều ,tổn thất xảy ra bất thường.Vì vậy đòi hỏi cả hai bên có sự trung thực tuyệt đối để đảm bảo ổn định cho các công ty nhận tái.
+ Hình thức tái bảo hiểm kết hợp thường có mức phí cao hơn so với tái bảo hiểm cố định.
1.4. Các phương thức tái bảo hiểm.
Phương thức tái bảo hiểm là cách thức phân chia trách nhiệm và quyền lợi giữa công ty nhượng và công ty nhận tái.
Có hai phương thức tái bảo hiểm chủ yếu là:
+ Tái bảo hiểm theo tỷ lệ.
+ Tái bảo hiểm phi tỷ lệ.
1.4.1 Tái bảo hiểm theo tỷ lệ.
Là phương thức tái bảo hiểm mà theo đó quyền lợi giữa công ty nhận và công ty nhượng đều phân chia theo tỷ lệ và dựa trên cơ sở số tiền bảo hiểm.
Phương pháp tái bảo hiểm theo tỷ lệ được chia thành 2 dạng chính:
+ Tái bảo hiểm số thành.
+ Tái bảo hiểm mức dôi.
Tái bảo hiểm số thành:
Tái bảo hiểm số thành là phương thức tái bảo hiểm theo đó trách nhiệm của công ty nhượng và công ty nhận tái đối với mỗi đơn vị rủi ro được bảo hiểm được phân bổ theo tỷ lệ tham gia của mỗi bên trên cơ sở số tiền bảo hiểm.
Đặc điểm của phương thức tái bảo hiểm này là: tất cả các hợp đồng tái bảo hiểm gốc khi được nhượng tái bảo hiểm,trách nhiệm và quyền lợi của công ty nhận,nhượng đều được phân chia theo một tỷ lệ nhất định.Tỷ lệ này được thoả thuận ngay từ khi kí kết hợp đồng tái bảo hiểm.
Ưu điểm của phương thức tái bảo hiểm số thành:
+ Phương thức này đơn giản, dễ tinh toán,chi phí hành chính và cách quản lí đơn giản ít tốn kém.
+ Phương thức tái bảo hiểm này có tính cân đối, dễ chấp nhận và có khả năng phân tán rủi ro tốt hơn so với các phương thức tái bảo hiểm khác.
+ Thủ tục phí tái bảo hiểm cao,ngoài ra điều kiện về tạm giữ phí tái bảo hiểm cũng có tỷ lệ cao,nhờ vậy công ty nhượng có điều kiện sử dụng vốn nhàn rỗi để đầu tư vào việc khác.
Bên cạnh những ưu điểm trên,phương thức này cũng có một số nhược điểm:
+ Công ty nhượng phải tái đi tất cả các hợp đồng bảo hiểm gốc dù số tiền bảo hiểm là lơn hay nhỏ nên không khai thác hết khả năng của công ty.
+ Công ty nhượng tái không khống chế được tỷ lệ bồi thường đối với mức giữ lại,không có khả năng làm giảm hệ số biến thiên của phần tổn thất thuộc mức giữ lại làm ảnh hưởng tới kết quả hoạt động kinh doanh của công ty.
Tái bảo hiểm mức dôi:
- Là phương thức tái bảo hiểm theo đó công ty nhượng giữ lại cho mình một số tiền bảo hiểm nhất định phù hợp với khả năng,phần còn lại được tái đi cho công ty nhận.
- Đặc điểm :
+ Căn cứ vào khả năng nhận bảo hiểm,công ty nhận tái có thể chấp nhận một mức nhất định.
+ Căn cứ vào khả năng tài chính của mình,công ty nhượng tái sẽ quyết định mức giữ lại chung cho tất cả các hợp đồng.
+ Việc phân chia trách nhiệm và quyền lợi giữa công ty nhận và công ty nhượng tái dựa trên tỷ lệ phần trăm trách nhiệm mà mỗi bên gánh chịu so với tổng giá trị của hợp đồng gốc.
+ Tỷ lệ giữ lại và tỷ lệ tái trong mọi hợp đồng gốc không giống nhau.
- Ưu điểm:
+ Đơn giản,dễ hiểu,vì vậy kết hợp với các phương pháp khác rất dễ dàng.
+ Phát huy khả năng tài chính của công ty nhượng và giúp công ty nhượng có điều kiện kinh doanh ổn định hơn vì đối với những đơn vị rủi ro có số tiền bảo hiểm bằng mức giữ lại trở xuống công ty nhượng sẽ giữ lại toàn bộ.
+ Phương pháp này rất phù hợp với những nghiệp vụ bảo hiểm mà có số tiền bảo hiểm biến thiên mạnh do nó quy định hạn mức trách nhiệm của công ty nhượng nên công ty nhượng không sợ bảo hiểm những hợp đồng bảo hiểm có số tiền lớn vượt quá khả năng của mình như trong phương pháp tái bảo hiểm số thành.
-Nhược điểm:
+ Chi phí hành chính tốn kém
+ Sử dụng nhiều nhân lực.
+ Có ảnh hưởng lớn đến kinh doanh trong trường hợp tổn thất rơi nhiều vào những rủi ro dưới mức giữ lại của công ty nhượng tái.
Thủ tục phí bảo hiểm(hoa hồng nhượng tái):
Thủ tục phí bảo hiểm là khoản tiền mà công ty nhận tái bảo hiểm hỗ trợ (trả) cho công ty nhượng tái bảo hiểm nhằm mục đích hỗ trợ một phần cho các chi phí cố định của công ty gốc trong việc khai thác bảo hiểm,giám định và bồi thường.
Có hai loại thủ tục phí:Thủ tục phí cố định và thủ tục phí theo thang luỹ tiến.
+ Thủ tục phí cố định:Trong trường hợp này công ty nhượng và công ty nhận tái bảo hiểm thoả thuận với nhau một tỷ lệ thủ tục phí tái bảo hiểm cố định so với phí nhận tái cam kết cho mọi hợp đồng.
+ Thủ tục phí theo thang luỹ tiến:Là cách tính phí tái bảo hiểm không chỉ nhằm chia sẻ phí khai thác,giám định,bồi thường mà còn khuyến khích các công ty bảo hiểm gốc nâng cao chất lượng khai thác.Công ty nhận tái cam kết trả phí tái bảo hiểm theo thang luỹ tiến phụ thuộc vào tỷ lệ bồi thường theo hướng:tỷ lệ bồi thường càng cao phí tái bảo hiểm càng thấp và ngược lại.
1.4.2 Tái bảo hiểm phi tỷ lệ.
Là phương thức tái bảo hiểm mà trong đó công ty nhượng tái sẽ giữ lại cho mình một số tiền bảo hiểm nhất định tuỳ thuộc vào khả năng tài chính của họ.Phần tổn thất vượt quá mức giữ lại này được chuyển sang cho các công ty nhận tái.
Tái bảo hiểm phi tỷ lệ có những đặc điểm chung sau:
+ Trách nhiệm của công ty nhượng và công ty nhận không chia sẻ theo tỷ lệ,bất kể phí,số tiền bảo hiểm hay số tiền bồi thường.
+ Tiêu chuẩn cơ bản để phân định trách nhiệm giữa các bên là số tiền bồi thường cho các tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm của đơn bảo hiểm gốc.
+ Công ty nhượng tái bảo hiểm phải chịu trách nhiệm bồi thường cho những tổn thất dưới hoặc bằng hạn mức bồi thường tự giữ lại(mức tự bồi thường)
+ Công ty nhận tái chỉ bồi thường cho phần tổn thất vượt quá mức bồi thường của công ty nhượng và tối đa bằng mức giới hạn đã thoả thuận theo hợp đồng tái bảo hiểm(còn gọi là mức trách nhiệm của công ty tái).
Ưu điểm của phương thức tái bảo hiểm phi tỷ lệ:
+ Công ty nhượng có thể xem xét căn cứ vào khả năng tài chính của mình để ấn định một mức bồi thường nhất định, ít bị phụ thuộc vào quy mô và hậu quả của tổn thất xảy ra.
+ Do nhà tái không có trách nhiệm bồi thường cho các tổn thất nhỏ hơn điểm tự bồi thường của công ty nhượng,do vậy công ty nhượng có thể thu được phí bảo hiểm nhiều hơn.
+ Chi phí hành chính ít tốn kém hơn (do công ty nhượng không phải phân loại từng đơn vị rủi ro bảo hiểm,tính toán mức giữ lại,phí tái bảo hiểm,mức tái bảo hiểm...)
Nhược điểm của phương thức tái bảo hiểm phi tỷ lệ:
+ Việc tính phí bảo hiểm sẽ rất phức tạp và khó chính xác đòi hỏi kĩ năng và kĩ thuật tính toán cao đặc biệt là đối với các hợp đồng tái bảo hiểm phi tỷ lệ vượt mức bồi thường đảm bảo cho thảm hoạ.
+ Mức tự bồi thường nếu được tính quá cao có thế ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của công ty nhượng,nếu tính quá thấp thì chi phí hành chính của công ty tái sẽ tăng.
+ Tái bảo hiểm phi tỷ lệ không có tác dụng nhiều trong việc hỗ trợ cho công ty nhượng trong việc dàn trải chi trả tài chính trong hoạt động kinh doanh do phải đóng phí nhượng tái trước.
Các phương thức tái bảo hiểm phi tỷ lệ:
* Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường:
-Khái niệm: Là phương thức tái bảo hiểm phi tỷ lệ trong đó công ty nhượng tái giới hạn trách nhiệm của mình ở một số tiền bồi thường nhất định nếu tổn thất xảy ra có giá trị lớn hơn mức bồi thường đó,phần vượt quá sẽ được chuyển sang công ty nhận tái. Đồng thời khả năng tài chính của công ty nhận tái không phải là vô hạn,do vậy họ cũng giới hạn mức trách nhiệm của mình ,phần vượt quá mức trách nhiệm này sẽ chuyển đến công ty nhận tái khác hoặc chuyển trả lại cho công ty nhượng.
- Thu xếp tái bảo hiểm:Công ty nhượng sau khi kí kết hợp đồng bảo hiểm gốc với người được bảo hiểm sẽ tìm kiếm công ty nhận tái bảo hiểm cho phần vượt mức giữ lại của họ.Có thể có nhiều nhà nhận tái khác nhau tham gia trong một hợp đồng.Trách nhiệm của các nhà nhận tái sẽ được sắp xếp theo lớp.Các lớp chính là mức nhận tái của mỗi công ty nhận tái.Các lớp này không cần phải bằng nhau theo hợp đồng trách nhiệm của các nhà nhận tái được xếp theo trình tự lần lượt các nhà nhận tái lớp sau chỉ bồi thường khi thiệt hại bồi thường vẫn tồn tại và người nhận tái lớp trước đã hoàn thành nhiệm vụ của mình.
- Có hai loại tái bảo hiểm vượt mức bồi thường:
+ Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường đảm bảo thảm hoạ: Là phương thức tái bảo hiểm phi tỷ lệ bảo vệ công ty nhượng tránh những trường hợp tổn thất quá mức bình thường trong những sự cố nằm ngoài khả năng kiểm soát bảo hiểm thông thường (Ví như các đơn vị rủi ro tích tụ hoặc kết gộp nhiều tổn thất xảy ra từ sự cố và tổn thất mang tính thảm khốc)
Các rủi ro được bảo hiểm thường liên quan đến một đối tượng nhưng được bảo hiểm bởi nhiều nghiệp vụ,đặc biệt là trong các trường hợp :các rủi rỏ thiên tai như động đất,lũ lụt ..;các rủi ro xảy ra trong các ngành hàng không,dầu khí,vệ tinh hằng hải.Các nghiệp vụ bảo hiểm nàydo một công ty bảo hiểm gốc cung cấp.
+ Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường đảm bảo nghiệp vụ: Là phương thức tái bảo hiểm phi tỷ lệ trong đó mức tự bồi thường của công ty nhượng được ấn định sao cho khi một số nghiệp vụ bị tổn thất,thong thường xảy ra thì nhà tái vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Có hai phương thức tái bảo hiểm vượt mức bồi thường đảm bảo nghiệp vụ:
① Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường đảm bảo nghiệp vụ không giới hạn sẽ không giới hạn số nghiệp vụ bồi thường cũng như tổng số tiền bồi thường.Các nhà tái đảm bảo cho tất cả các trường hợp theo hợp đồng tái bảo hiểm.
② Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường có hạn mức từng sự cố: đối với loại này quy định trách nhiệm tối đa của nhà tái trong từng trường hợp tổn thất hoặc trường hợp tổn thất nặng nề có quá nhìu rủi ro xảy ra dẫn đến số tiền bồi thường lớn.
*Tái bảo hiểm vượt tỷ lệ bồi thường: Đặc trưng của phương thức này là công ty bảo hiểm gốc giữ lại cho mình một tỷ lệ bồi thường nhất định,phần vượt quá được tái đi.
Ưu điểm: Đối với một số nghiệp vụ bảo hiểm có tỷ lệ bồi thường cao hoặc ổn định có thể áp dụng phương thức tái bảo hiểm này để phân tán rủi ro cho công ty bảo hiểm gốc.
Đặc điểm:
+ Căn cứ vào tình hình kinh doanh công ty nhượng tái có thể lựa chọn cho mình một tỷ lệ bồi thường nhất định để giữ lại trong phạm vi tỷ lệ đó.
+ Công ty nhận tái thường giới hạn trách nhiệm của mình trong một khoảng tỷ lệ bồi thường nhất định.
+ Phí tái bảo hiểm được tính toán tương tự như phí bảo hiểm gốc dựa trên kết quả nhận,nhượng tái bảo hiểm trong một khoảng thời gian nhất định giữa hai công ty.
1.5.Thị trường tái bảo hiểm.
1.5.1.Khái niệm và đặc điểm của thị trường tái bảo hiểm
*Khái niệm:
Để hiểu được thị trường tái bảo hiểm trước hết chúng ta xem xét khái niệm về thị trường nói chung.
Thị trường là một phạm trù kinh tế gắn liền với nền sản xuất hàng hoá.Có rất nhiều quan điểm về thị trường,nhưng có thể nói quan điểm chung nhất là :thị trường bao gồm toàn bộ các hoạt động trao đổi hàng hoá được diễn ra trong sự thống nhất hữu cơ với các mối quan hệ do chúng phát sinh gắn liền với một không gian nhất định.
Theo thuật ngữ của bảo hiểm,thị trường tái bảo hiểm được hiểu là nơi mua và bán các sản phẩm bảo hiểm giữa công ty bảo hiểm gốc và công ty tái bảo hiểm.Các sản phẩm bảo hiểm ở đây là những sản phẩm bảo hiểm đã được bảo vệ bởi công ty bảo hiểm gốc và cần có sự san sẻ rủi ro của các nhà tái.
*Đặc điểm của thị trường tái bảo hiểm:
Cũng như các loại thị trường khác,thị trường tái bảo hiểm cũng có những đặc điểm đẳc trưng như:cung,cầu về các loại sản phẩm luôn luôn biến động;Giá cả sản phẩm phụ thuộc vào nhiều yếu tố( như số tiền bảo hiểm,tỷ lệ phí,chi phí quản lý…);Cạnh tranh và liên kết diễn ra liên tục;thị phần các doanh nghiệp hoạt động trên thị trường luôn luôn thay đổi…
Ngoài ra thị trường tái bảo hiểm có một số đặc trưng riêng như:
+)Thị trường bảo hiểm,tái bảo hiểm cung cấp những sản phẩm liên quan đến những rủi ro,sự bấp bênh. Đây là những sản phẩm vô hình,trừu tượng vì vậy việc triển khai bán là vô cùng khó khăn,phức tạp.
+)Thị trường bảo hiểm,tái bảo hiểm có đối tượng khách hàng rất rộng vì đối tượng bảo hiểm đa dạng,bao gồm tài sản,trách nhiệm dân sự và con người.
+)Thị trường tái bảo hiểm là thị trường dịch vụ tài chính,do đó cũng như thị trường chứng khoán,thị trường tiền tệ…chịu sự kiểm tra kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước.Nhà nước có thể can thiệp khá sâu vào hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm.Nhà nước không những xét duyệt biểu phí mà còn xác định trách nhiệm phải bồi thường(trong một số nghiệp vụ).
+)Thị trường bảo hiểm thường ra đời muộn hơn các thị trường khác như thị trường hàng hoá,lao động…vì vậy thị trường tái bảo hiểm cũng ra đời muộn hơn các thị trường khác.
1.5.2.Các bên tham gia thị trường tái bảo hiểm.
Như chúng ta đã biết công việc kinh doanh tái bảo hiểm mang tính chất quốc tế.Tuy nhiên trong thị trường tái bảo hiểm việc mua hay bán bảo hiểm ở đâu là không mấy quan trọng.Nhưng có một điểm cần lưu ý rằng người được bảo hiểm không xuất hiện trong khi mô tả về thị trường tái bảo hiểm, đây là một điểm cơ bản để phân biệt thị trường tái bảo hiểm và thị trường bảo hiểm. Để hiểu rõ hơn về thị trường tái bảo hiểm chúng ta tìm hiểu các thành viên của thị trường tái bảo hiểm.
*Những người mua tái bảo hiểm.
- Công ty bảo hiểm gốc: Nhóm này đại diện cho những công ty bảo hiểm bình thường giao dịch với công chúng.Họ mua (nhận) tái bảo hiểm vì những lí do như muốn tăng doanh thu từ việc nhận tái,tăng cường hợp tác về nghiệp vụ và đào tạo chuyên môn với các chuyên gia bảo hiểm trong nước và quốc tế.
- Công ty bảo hiểm chuyên ngành: Các công ty này do công ty mẹ không phải là công ty bảo hiểm sở hữu,và chủ yếu giao dịch bảo hiểm cho công ty mẹ.Nói cách khác,một công ty sản xuất có thể lập công ty con là công ty bảo hiểm, để bảo hiểm cho mọi rủi ro của họ.Công ty bảo hiểm chuyên ngành này không đủ lớn để thực hiện nhận bảo hiểm mọi rủi ro của nó và do vậy,một phần lớn sự bảo vệ của việc tái bảo hiểm thường được yêu cầu.Công ty bảo hiểm chuyên ngành giữ lại phần trăm rủi ro hoặc là một tỷ lệ cố định và phần còn lại-thường là phần lớn rủi ro -sẽ được tái bảo hiểm.
- Công ty bảo hiểm: Người mua tái bảo hiểm cuối cùng mà chúng ta liệt kê ở đây là bản thân công ty tái bảo hiểm.Mỗi công ty tái bảo hiểm tìm kiếm sự bảo vệ giống như người được bảo hiểm và các công ty bảo hiểm gốc.Họ cũng không tránh khỏi mức độ tổn thất bất ngờ và có thể đảm bảo ổn định tài chính cho chính họ bằng cách mua tái bảo hiểm.
*Trung gian tái bảo hiểm.
- Môi giới tái bảo hiểm: Tái bảo hiểm là một hoạt động phức tạp và là một lĩnh vực hoạt động chuyên môn,vì vậy người người mua rất cần sự trợ giúp trong việc thu xếp những bảo hiểm cần thiết và chọn lựa các công ty tái bảo hiểm phù hợp.Những người môi giới tái bảo hiểm đóng một vai trò quan trọng trong vấn đề này.Họ có hiểu biết chuyên môn về tái bảo hiểm và các thị trường tái bảo hiểm trên thế giới.
- Công ty quản lý: Sự lớn mạnh của các công ty bảo hiểm chuyên ngành cũng đồng thời kéo theo sự phát triển của một số công ty quản lý chuyên ngành.Các công ty này mời chào các dịch vụ quản lý cho các tổ chức có các công ty chuyên ngành.Một công ty quản lý sẽ phụ trách vài công ty chuyên ngành và việc quản lý công ty bảo hiểm chuyên ngành thường bao gồm cả việc thu xếp tái bảo hiểm.
*Những công ty bán tái bảo hiểm.
- Công ty tái bảo hiểm: Hầu hết việc tái bảo hiểm do các công ty tái bảo hiểm thực hiện. Đó là các công ty lớn chuyên bán tái bảo hiểm mà không khai thác bảo hiểm
gốc.Họ thường là các công ty quốc tế,kinh doanh tái bảo hiểm ở nhiều nơi trên thế giới.Vài công ty tái bảo hiểm do các công ty bảo hiểm hỗn hợp sở hữu nhưng chúng hoạt động khá độc lập với các công ty này.
- Công ty bảo hiểm gốc: Công ty bảo hiểm phi nhân thọ cũng kinh doanh tái bảo hiểm.Họ có thể được yêu cầu bán tái bảo hiểm cho các công ty bảo hiểm gốc hoặc cho các công ty tái bảo hiểm.Bằng cách này họ vừa là người mua vừa là người bán trong thị trường bảo hiểm.
- Công ty bảo hiểm chuyên ngành: Công ty bảo hiểm chuyên ngành cũng có thể là người cung cấp tái bảo hiểm khi các công ty này tiến hành kinh doanh từ những nguồn khác ngoài công ty mẹ.Hoạt động này thường được gọi là “khai thác dịch vụ từ bên thứ ba”.Trong hầu hết các trường hợp,yếu tố kinh doanh này chỉ chiểm rất ít.Một phần của loại kinh doanh này có thể là thực hiện tái bảo hiểm cho các công ty bảo hiểm chuyên ngành khác hoặc thậm chí cho các công ty bảo hiểm gốc,do vậy công ty bảo hiểm chuyên ngành có thể là người mua và người bán.
*Mối quan hệ giữa các bên:
Thị trường tái bảo hiểm.
Người mua
Trung gian tái bảo hiểm
Người bán
Công ty bảo hiểm gốc
Môi giới của các công ty tái bảo hiểm
Công ty tái bảo hiểm
Các công ty bảo hiểm chuyên ngành
Các công ty quản lý
Các công ty bảo hiểm chuyên ngành
II.Thị trường tái bảo hiểm ở Việt Nam
2.1.Thị trường tái bảo hiểm ở Việt Nam trước khi gia nhập WTO
* Giai đoạn trước 1995 (từ năm 1965 đến 1995):Sau giải phóng miền Nam - 1975, đất nước đã hoàn toàn thống nhất và bước đầu có kế hoạch xây dựng về kinh tế.Từ 1986,Việt Nam chính thức bước vào thời kỳ đổi mới,thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.Cùng với sự ra đời và phát triển nhanh chóng các thị trường như thị trường hàng hoá,thị trường tư liệu sản xuất…thị trường bảo hiểm cũng có những thành tựu ban đầu nhất định.Tuy nhiên kinh doanh bảo hiểm là một loại hình kinh doanh dịch vụ tài chính nên bước đầu còn có rất nhiều khó khăn,hạn chế.
Giai đoạn này trên thị trường bảo hiểm Việt Nam chỉ tồn tại một công ty bảo hiểm duy nhất là công ty bảo hiểm Việt Nam(nay là tập đoàn tài chính bảo hiểm Bảo Việt).Từ năm 1965 đến 1975 Bảo Việt chỉ phục vụ một nhóm nhỏ khách hàng là các đơn vị kinh tế nhà nước đang kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu,tầu biển thuộc miền Bắc.Từ năm 1976 trở đi,Bảo Việt đã bắt đầu mở rộng mạng lưới kinh doanh, đa dạng hoá các loại hình dịch vụ bảo hiểm như bảo hiểm hàng không,bảo hiểm con người,bảo hiểm tầu biển,bảo hiểm xe cơ giới…Vì vậy các hợp đồng bảo hiểm gốc ngày càng gia tăng.Thị trường bảo hiểm sôi động nên nhu cầu tái bảo hiểm trở thành nhu cầu cần thiết.Tuy nhiên,lúc đó toàn bộ các hợp đồng tái bảo hiểm được tái ra nước ngoài hoặc không có hoạt động nhận tái.
* Giai đoạn từ 1995 đến đầu 2007 ( Trước khi gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO): Giai đoạn này được đánh dấu bằng sự ra đời của tổng công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam – VINARE.
Để hiểu về thị trường tái bảo hiểm Việt Nam giai đoạn này,chúng ta sẽ nghiên cứu hoạt động nhận và nhượng tái của một số công ty tham gia hoạt động tái bảo hiểm tiêu biểu như Vinare,PVI,Bảo Minh….
Tình hình nhận và nhượng tái tại Vinare:
Kinh doanh nhận và nhượng tái bảo hiểm là một loại hình nghiệp vụ kinh doanh hoàn toàn mới đối với thị trường bảo hiểm Việt Nam. Mặc dù Bảo Việt ra đời từ năm 1965 song cho đến trước tháng 9/1995 (khi VINARE được thành lập và đi vào hoạt động) toàn bộ các dịch vụ bảo hiểm có tái bảo hiểm đều được tái bảo hiểm ra thị trường nước ngoài. Trong bối cảnh đó, khi Bộ Tài chính quyết định thành lập VINARE làm chỗ dựa cho thị trường bảo hiểm Việt Nam đặc biệt là cho các doanh nghiệp bảo hiểm mới ra đời.
Tổng công ty cổ phần Tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam Vinare, trước đây là Công ty Tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam, được thành lập năm 1994 và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/01/1995.Sự ra đời của Vinare đã đánh dấu sự phát triển vượt bậc của thị trường bảo hiểm Việt Nam nói chung và đánh dấu sự ra đời của thị trường tái bảo hiểm Việt Nam nói riêng.Hoạt động chủ yếu trên thị trường tái bảo hiểm Việt Nam lúc này chính là hoạt động giữa Vinare với các công ty bảo hiểm,công ty môi giới bảo hiểm trong và ngoài nước.
Cũng như thị trường tái bảo hiểm Việt Nam,Vinare ra đời trong bối cảnh thị trường bảo hiểm trong và ngoài nước có nhiều khó khăn, đội ngũ cán bộ còn thiếu kinh nghiệm.Trong thời gian đầu, mới có doanh nghiệp duy nhất trên thị trường lúc đó là Bảo Việt, nên hoạt động của VINARE rất khó khăn. Lúc đó việc ban hành quyết định về tái bảo hiểm bắt buộc là cần thiết,theo quyết định của nghị định 100,các công ty bảo hiểm trên thị trường bảo hiểm Việt Nam bắt buộc phải tái tối thiểu 20% của các hợp đồng tái cho Vinare. Đây là một thuận lợi lớn cho hoạt động của Vinare.
Trở thành đầu mối điều tiết dịch vụ cho thị trường trong nước, hỗ trợ tích cực về kỹ thuật và tư vấn cho các doanh nghiệp bảo hiểm gốc trong việc đánh giá các rủi ro bảo hiểm để lựa chọn phương án kinh doanh thích hợp kể cả trong khai thác dịch vụ, bảo hiểm, giải quyết bồi thường..., sau 10 năm họat động, Công ty Tái bảo hiểm Quốc gia (Vinare) ngày càng khẳng định được vai trò của mình trong việc thực hiện các mục tiêu về chuyên nghiệp hoá hoạt động tái bảo hiểm; tạo lập các điều kiện cho việc mở cửa thị trường, đa dạng hoá và phát triển thị trường tái bảo hiểm Việt Nam nói riêng và góp phần phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam nói chung.
Trong thời gian đầu,doanh thu phí bảo hiểm bắt buộc chiếm phần lớn trong cơ cấu doanh thu của Vinare.Tuy nhiên,qua thời gian,tổng doanh thu phí bảo hiểm bắt buộc đã không còn chiếm phần đa nữa.
Cụ thể tổng doanh thu phí nhận tái bảo hiểm từ năm 1995 đến tháng 6/2004 đạt 3.189 tỷ VND, trong đó phí nhận tái bảo hiểm trên cơ sở tự nguyện và nhận tái bảo hiểm từ thị trường nước ngoài đạt 1.635 tỷ VND, chiếm 51% tổng doanh thu.
(Số liệu trên trang web của Vinare).
Việc nhận tái trên cơ sở tự nguyện thực sự phản sự cố gắng phấn đấu của công ty cũng như sự phát triển bước đầu của thị trường tái bảo hiểm Việt Nam.Ngay từ năm 1996,công ty đã nhận dịch vụ từ các thị trường trên thế giới và trong khu vực như:Nhật Bản,Hàn Quốc,Thái Lan,Singapo,Trung Quốc.Vì vốn hoạt động còn nhỏ,thị trường bảo hiểm quốc tế lại hết sức cạnh tranh nên kết quả nhận tái bảo hiểm từ thị trường quốc tế còn khá hạn chế.Tổng doanh thu phí nhận tái từ thị trường ngoài nước từ năm 1995 đến tháng 6/2004 đạt gần 70tỷ VND.
Trong hoạt động kinh doanh nhận và nhượng tái bảo hiểm,theo lẽ thường,nếu sau khi nhận dịch vụ tái bảo hiểm từ các doanh nghịêp bảo hiểm gốc trong nước,nhất là các dịch vụ tái bảo hiểm tự nguyện,Vinare có thể tái ra nước ngoài cho an toàn.Nhưng bằng bản lĩnh và bề dày nghiệp vụ của mình,Vinare đã nỗ lực thu xếp nhượng dịch vụ cho các công ty bảo hiểm gốc trong nước.Các công ty mà Vinare thường nhượng tái như Bảo Việt,Bảo Minh,PVI,…Ngoai ra Vinare cũng thường nhượng tái cho các công ty tái lớn trên thị trường tái bảo hiểm quốc tế như Munich Re,Swiss Re…
Việc thực hiện dịch vụ,điều tiết dịch vụ đã nâng phần dịch vụ giữ lại cho thị trường trong nước, hạn chế phí tái bảo hiểm bằng ngoại tệ ra thị trường nước ngoài. Đây cũng là một chủ trương và nhiệm vụ chính của thị trường tái bảo hiểm cũng như của công ty. Kể từ khi thành lập, công ty đã cố gắng cải tiến thu xếp các hợp đồng chuyển nhượng tái bảo hiểm với các điều kiện, điều khoản ưu đãi hơn chuyển nhượng dịch vụ ra nước ngoài. Nhờ chất lượng dịch vụ được kiểm soát chặt chẽ hơn, đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được chia sẻ dịch vụ của thị trường trong nước. Tổng phí giữ lại thông qua hoạt động của Vinare giai đoạn 1995 - 2003 đạt 1.073 tỷ VND. Điều này cũng đồng nghĩa với việc hạn chế được trên 1.000 tỷ VND phí bảo hiểm phí chuyển ra nước ngoài.
Trở thành đầu mối điều tiết dịch vụ cho thị trường trong nước, hoạt động của Vinare đã đóng góp vào việc duy trì sự ổn định của thị trường bảo hiểm trong nước, đồng thời, tăng nhanh khả năng giữ lại phí bảo hiểm, thông qua đó đầu tư trở lại cho nền kinh tế, hạn chế việc chuyển dịch vụ, phí ra nước ngoài, đáp ứng tinh thần mục tiêu chính sách của Nhà nước là hạn chế chuyển phí, dịch vụ ra thị trường nước ngoài.
Thông qua nghiệp vụ nhận và nhượng tái bảo hiểm, Vinare đã thực hiện tốt nhiệm vụ trung chuyển dịch vụ cho thị trường trong nước, đảm bảo cho các doanh nghiệp bảo hiểm khác được chia sẻ dịch vụ của thị trường trong nước. Đến năm 2004 công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam cũng chuyển thành công ty cổ phần,do vốn nhà nước chi phối,hoạt động chuyên lĩnh vực tái bảo hiểm duy nhất trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Đến năm 2005,Vinare đủ sức giữ vai trò điều tiết thị trường tái bảo hiểm Việt Nam,không để phụ thuộc vào thị trường tái bảo hiểm quốc tế trong việc thu xếp các dịch vụ tái bảo hiểm lớn và phức tạp như tái bảo hiểm hàng không,dầu khí,năng lượng,…ngay cả khi thị trường tái bảo hiểm quốc tế có sự biến động,thu hẹp năng lực nhận tái bảo hiểm.
Bên cạnh Vinare trên thị trường tái bảo hiểm Việt Nam lúc này còn có nhiều công ty cũng thực hiện hoạt động nhận và nhượng tái như:tổng công ty cổ phần bảo hiểm dầu khí Việt Nam-PVI,công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex-PJICO,Bảo Việt,Bảo Minh…Sự hoạt động trên lĩnh vực tái bảo hiểm của các công ty này cũng làm cho thị trường tái bảo hiểm Việt Nam tăng thêm phần sôi động.
Sau đây chúng ta sẽ điểm qua hoạt động tái bảo hiểm của một số công ty này:
Đối với PVI:
Là một công ty độc quyền hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm dầu khí,PVI luôn coi trọng hoạt động tái bảo hiểm như các công tác khai thác trực tiếp để mở rộng kinh doanh và tăng tỷ trọng giữ lại của công ty.Trước năm 2004,hoạt động kinh doanh nhận tái bảo hiểm chỉ nằm trong phạm vi thị trường trong nước.Quan hệ với thị trường quốc tế và khu vực đều thông qua hoạt động nhượng tái bảo hiểm.Nhưng từ năm 2004 trở đi,việc tiến hành nhận tái bảo hiểm nước ngoài đã được công ty rất quan tâm và yêu cầu là một trong những mục tiêu hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm.
Hiện nay,công tác nhận tái có bước nhảy vọt,thực sự mang lại lợi nhuận cho công ty, đặc biệt việc nhận tái ở ngoài nước.
Trước năm 2004,công ty chưa có dịch vụ nhận tái từ nước ngoài,doanh thu nhận tái được từ thị trường trong nước,chủ yếu từ các công ty Bảo Việt,Pjico,PTI,Vinare.
Thực trạng nhận tái bảo hiểm của PVI (2002-2006)
(Đơn vị:triệu đồng)
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
2005
2006
Tổng doanh thu nhận tái.
10.366
16.560
20.175
38.768
52.152
Nhận tái trong nước
10.366
16.560
18.775
33.340
41.220
Nhận tái nước ngoài
0
0
1.400
5.428
10.952
(Số liệu lấy từ web của PVI)
Đối với Pjico:
Pjico luôn luôn chủ động xây dựng phương án tái bảo hiểm hằng năm,mở rộng quan hệ tái bảo hiểm trực tiếp với nhiều công ty bảo hiểm lớn như Munich Re,Swiss Re,Cologne…Các nhà tái luôn đánh giá cao về tính công nghiệp của Pjico và gần đây những công ty này đã quyết định đầu tư thêm 40% năng lực nhận tái bảo hiểm cho Pjico để công ty có điều kiện phục vụ khách hàng trong nước tốt hơn.
Tổng hợp toàn thị trường:
Năm 2004 tổng phí giữ lại trong nước của thị trường chiếm 86.19% tổng phí bảo hiểm gốc.Phí bảo hiểm nhận tái từ thị trường nước ngoài tăng từ 38 tỷ đồng năm 2003 lên 61 tỷ đồng năm 2004. Điều này xuất phát từ năng lực tài chính,năng lực kinh doanh ,công tác đánh giá rủi ro và đề phòng hạn chế tổn thất của các doanh nghiệp bảo hiểm được cải thiện nên đã làm tăng mạnh doanh thu phí bảo hiểm,tăng năng lực giữ lại của thị trường.
Hoạt động tái bảo hiểm năm 2003,2004.
(Đơn vị:tỷ đồng).
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Tổng phí bảo hiểm gốc
10.390
12.400
Nhận tái từ thị trường nước ngoài
38
61
Nhượng tái ra thị trường nước ngoài
1.448
1.773
Tổng phí bảo hiểm giữ lại
8.980
10.688
(Nguồn số :Bộ tài chính)
Thị trường tái bảo hiểm cũng không kém phần sôi động trong năm 2006.Hoạt động tái bảo hiểm nước ngoài ngày một tăng trưởng,doanh thu phí tái bảo hiểm nước ngoài ngày một chiếm tỷ trọng cao hơn trong tổng doanh thu phí nhận tái bảo hiểm.Hoạt động tái bảo hiểm của các công ty bảo hiểm trong nước ngày một chuyên nghiệp và hiệu quả hơn.Thị trường tái bảo hiểm đã có những tiến triển đáng kể,doanh thu nhận tái bảo hiểm trong nước của toàn thị trường 9 tháng đầu năm 2006 là 304,807 tỷ đồng tăng 129% so với năm 2005;nhận tái bảo hiểm nước ngoài của toàn thị trường là 63,667 tỷ đồng tăng 131% so với 2005.Dẫn đầu thị trường về nhận tái bảo hiểm là Vinare,Tiếp sau đó là Bảo Việt với doanh thu phí nhận tái trong nước là 85,926 tỷ đồng,sau đó là Bảo Minh vơi doanh thu phí nhận tái trong nước là 44,859 tỷ đồng,PVI đứng thứ tư với doanh thu phí nhận tái trong nước là 29,699 tỷ đồng(số liệu trong 9 tháng đầu năm 2006).
2.2.Thị trường tái bảo hiểm Việt Nam sau khi gia nhập WTO
Năm 2007 là năm đầu tiên Việt Nam thực hiện các cam kết khi trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức Thương mại quốc tế WTO. Nền kinh tế Việt Nam tiếp tục mở cửa và hội nhập quốc tế với mức độ sâu rộng hơn với nhiều cơ hội và thách thức cho sự nghiệp phát triển nền kinh tế xã hội nói chung và ngành bảo hiểm nói riêng.
Năm 2007 tăng trưởng GDP đạt 8,5% đầu tư trực tiếp nước ngoài tương đương 20,3 tỉ USD, đầu tư toàn xã hội đạt 40% GDP, vốn ODA đạt 5,4 tỉ USD xuất khẩu đạt 48 tỉ USD. Các ngành công nghiệp vận tải biển và đóng tàu, hàng không dân dụng, dệt may, giày da có những bước phát triển đột phá. Thị trường tài chính tiền tệ tiếp tục phát triển theo xu thế ổn định sau một thời gian phát triển nóng như: tín dụng ngân hàng, chứng khoán, quỹ đầu tư, bảo hiểm. Đây là những tiền đề cơ bản tạo điều kiện thuận lợi cho ngành bảo hiểm Việt Nam phát triển.
Trong năm 2007, thiên tai, tai nạn xảy ra tương đối nhiều, điển hình như: bão lụt tại miền Trung, sập cầu Cần Thơ, sạt lở núi tại Hà Tĩnh cũng như các vụ đắm tàu, tai nạn giao thông, cháy nổ, dịch tiêu chảy, dịch lợn tai xanh, dịch cúm gia cầm tiếp tục hoành hành. Điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh doanh bảo hiểm,tái bảo hiểm.
Năm 2007, các doanh nghiệp bảo hiểm tiếp tục nâng cao năng lực hoạt động, chấp nhận cạnh tranh lành mạnh trong xu thế mở cửa hội nhập ngày càng sôi động. Các doanh nghiệp bảo hiểm đã chú ý tới đào tạo cán bộ bảo hiểm, đào tạo và sử dụng đội ngũ đại lý bảo hiểm ngày càng có chất lượng. Hầu hết các doanh nghiệp bảo hiểm đều đầu tư lớn vào phát triển công nghệ thông tin phục vụ cho công tác quản lý và khai thác bảo hiểm. Nhiều doanh nghiệp bảo hiểm đã tăng vốn với quy mô lớn cao hơn cả vốn pháp định, tăng khả năng tài chính, tăng năng lực giữ lại và giảm bớt phần tái bảo hiểm. Một số doanh nghiệp bảo hiểm đã chọn được đối tác chiến lược là những tập đoàn bảo hiểm, tài chính hàng đầu quốc tế như Bảo Việt với HSBC, Bảo Minh với AXA, VINARE với Swiss Re vừa thu được nguồn thặng dư vốn lớn, vừa tiếp thu được kinh nghiệm công nghệ quản lý bảo hiểm, đầu tư và phát triển sản phẩm bảo hiểm mới.
Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam trong 9 tháng đầu năm 2008 tiếp tục tăng trưởng tốt với mức độ tăng trưởng đạt hơn 25% so với cùng kì năm trước.Chính sự phát triển này đã tác động mạnh mẽ đến hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm.
Cụ thể như Vinare:
Doanh thu phí nhận tái của Vinare trong 9 tháng đầu năm 2008 đạt trên 899 tỷ VND-tăng 25,2% so với cùng kỳ năm trước.Mức giữ lại của Vinare cũng tăng lên,tạo điều kiện cho thị trường trong nước được nhận dịch vụ qua hoạt động của mình.Vinare đã giữ lại được trên 264 tỷ VND-tăng trên 26,44% so với cả năm 2007,nhượng lại cho thị trường trong nước đạt 222 tỷ VND tăng trên 30% so với cùng kỳ năm 2007.Nếu tính chung cả phần giữ lại này thì hoạt động của Vinare đã giữ lại được trong nước đạt 486 tỷ VND-tăng trên 6,9% so với cả năm 2007 và chiếm đến 84,22%/phí cam kết của Vinare.
(Số liệu trên trang web của Vinare).
Doanh thu phí nhận tái của Vinare tăng lên đáng kể (lớn hơn cả doanh thu nhận tái của toàn thị trường 9 tháng đầu năm 2006- trên 304 tỷ đồng) đã cho thấy sau khi gia nhập WTO thị trường bảo hiểm,tái bảo hiểm Việt Nam đã có sự phát triển nhanh chóng,tạo nhiều cơ hội cho các công ty đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam phát triển mạnh mẽ.
III.Giải pháp phát triển thị trường tái bảo hiểm Việt Nam.
Để phát triển thị trường bảo hiểm nói chung và thị trường tái bảo hiểm nói riêng,không chỉ một người,một lực lượng nào đó có thể làm được mà nó cần có sự phối kêt hợp của nhiều cơ quan,ban ngành,nhiều lực vực,nhiều lực lượng khác nhau trong nền kinh tế.
3.1. Đối với các cơ quan chức năng.
Trong việc phát triển bất kể thị trường gì cơ quan chức năng có vai trò quan trọng trong việc hoạch định chính sách,hoàn thiện văn bản pháp luật…đặc biệt đối với thị trường bảo hiểm,tái bảo hiểm cơ quan chức năng càng thể hiện vai trò quan trọng hơn.Với thực trạng của thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay,cơ quan chức năng cần:
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế,chính sách, pháp luật trong nước nhằm tạo niềm
tin cho các nhà đâu tư trong và ngoài nước, đồng thời cũng tạo được thị trường bảo hiểm,tái bảo hiểm phát triển lành mạnh, đảm bảo tính chủ động và tự chịu trách nhiệm cho các doanh nghiệp.
Ưu tiên phát triển các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong
nước,phát triển mạng lưới đại lý bảo hiểm chuyên nghiệp,mở rộng các kênh phân phối.
Khuyến khích các doanh nghiệp trong nước hiện đại hoá công nghệ thông
tin,nâng cao kiến thức quản lý tiên tiến, đào tạo đội ngũ nhân viên có đủ trình độ theo tiêu chuẩn quốc tế, được thuê chuyên gia trong và ngoài nước để quản lý một số lĩnh vực hoạt động theo đúng quy định của pháp luật.
Khuyến khích các doanh nghiệp trong nước mở rộng phạm vi hoạt động kinh
doanh,kể cả thị trường bảo hiểm quốc tế và khu vực,tham gia góp vốn vào các công ty bảo hiểm ,công ty môi giới bảo hiểm,tái bảo hiểm đang hoạt động thành công ở nước ngoài.
Đổi mới phương thức quản lý nhà nước bằng cách giám sát hoạt động kinh
doanh bảo hiểm thông qua các hệ thống chỉ tiêu kinh tế của các doanh nghiệp và kiểm tra xử lý vi phạm theo pháp luật,không can thiệp hành chính vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.Kiện toàn,hoàn thiện bộ máy tổ chức của hiệp hội bảo hiểm Việt Nam nhằm mục tiêu thực hiện được vai trò cầu nối giữa các doanh nghiệp bảo hiểm với các cơ quan quản lý nhà nước.
3.2. Đối với bản thân những chủ thể tham gia thị trường tái bảo hiểm.
Để nâng cao hiệu quả của nghiệp vụ tái bảo hiểm,bản thân các doanh nghiệp bảo hiểm,tái bảo hiểm phải có những biện pháp cụ thể.
Xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ có năng lực chuyên môn.Hoạt động tái bảo
hiểm là hoạt động mang tính quốc tế và có tính chuyên môn cao,vì vậy phải có đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn vững vàng. Đây là một hoạt động mang tính chiến lược để nâng cao hiệu quả của nghiệp vụ tái bảo hiểm cũng như phát triển thị trường tái bảo hiểm.
Mở rộng các mối quan hệ kinh doanh hợp tác,tăng cường năng lực tài chính
để có thể tăng khả năng giữ lại trong các hợp đồng tái.
Nâng cao chất lượng đầu tư vào các dự án lớn nhằm sử dụng phí bảo hiểm,tái
bảo hiểm,vốn nhàn rỗi hiệu quả nhất.
Công tác thống kê cần phải được coi trọng.Hoạt động kinh doanh bảo hiểm là
hoạt động dựa trên nguyên tắc số lớn,chu trình kinh doanh đảo ngược,giá sản phẩm được hình thành trước,chi phí tạo ra sản phẩm đó chi trả sau.Việc định phí bảo hiểm phải dựa trên số liệu thống kê của nhiều năm trước,do đó công tác thống kê nếu không được thực hiện tốt thì rất dễ dẫn đến kinh doanh bị thua lỗ.
Tăng cường hoạt động khai thác hợp đồng bảo hiểm gốc,hoạt động
Marketing.Tái bảo hiểm chỉ có thể phát triển khi thị trường bảo hiểm phát triển mạnh mẽ.Vì vậy việc tăng cường khai thác hợp đồng bảo hiểm gốc đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển hoạt động tái.
Tăng cường công tác đề phòng hạn chế tổn thất.
Các công ty bảo hiểm.tái bảo hiểm trong nước cần tăng cường việc mở các
văn phòng đại diện ở khu vực để thuận lợi cho việc nghiên cứu thị trường nước ngoài.
PHẦN 3:KẾT LUẬN.
Tái bảo hiểm là một hoạt động rộng lớn mang tính chất quốc tế.Hoạt động tái bảo hiểm bao gồm nhận và nhượng tái bảo hiểm.Nhận tái bảo hiểm không chỉ mang lại lợi nhuận to lớn cho công ty từ khoản phí nhận tái mà nó còn có tác dụng làm tăng GDP của mỗi một quốc gia.Nhượng tái bảo hiểm không chỉ là một phương pháp quản trị rủi ro của một doanh nghiệp bảo hiểm bất kỳ mà nó còn là một phương pháp san sẻ rủi ro giữa các quốc gia với nhau.Do vậy cả hoạt động nhận và nhượng tái đều có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của một quốc gia.Chính vì thế mà phát triển thị trường bảo hiểm,tái bảo hiểm không chỉ là nhiệm vụ của các doanh nghiệp bảo hiểm,của cả các cơ quan chức năng mà là của toàn xã hội.
Môc lôc
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thị trường tái Bảo Hiểm ở Việt Nam.doc