Thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam – Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu

Đây là bài tiểu luận xuất sắc của lớp mình môn Kinh tế và phân tích hoạt động ngoại thương HK 2010 đã được cô Võ Thanh Thu - giảng viên ĐHKT TPHCM chấm Nhóm đề tài 2: Thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam– Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu (gồm 2 bài tiểu luận tìm hiểu về cả 8 thị trường XK lớn của Việt Nam) Chúc bạn thu được những kiến thức bổ ích. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU . 3 I. Khái quát tình hình về thị trường xuất nhập khẩu Việt Nam 4 1. Thị trường xuất khẩu . 4 2. Thị trường nhập khẩu 4 II. Tình hình xuất nhập khẩu trên từng thị trường chủ lực của Việt Nam. Thuận lợi – Khó khăn 6 1. Hoa Kỳ 6 2. EU 21 3. Nhật Bản 32 4. Trung Quốc . 50 5. Singapore 63 6. Úc 75 7. Nga . 85 8. Các nước ASEAN 99 III. Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu trên từng thị trường 111 1. Giải pháp chung 111 2. Giải pháp riêng cho từng thị trường . 114 KẾT LUẬN 133 TÀI LIỆU THAM KHẢO 134 LỜI MỞ ĐẦU ™{˜ Nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển thì xuất nhập khẩu ngày càng khẳng định được vai trò quan trọng trong quá trình giao thương quốc tế. Xuất khẩu mang lại nguồn thu nhập ngoại tệ cho quốc gia thì nhập khẩu thể hiện sự giao thương hợp tác giữa các thị trường trên thế giới, tạo điều kiện cho người dân trong nước tiếp cận với các sản phẩm mang chuẩn quốc tế. Việt Nam đang trong quá trình hội nhập vào thương mại thế giới và xuất nhập khẩu giữ một vị trí vô cùng quan trọng trong ngân sách quốc gia. Trong tiến trình hộ nhập, Việt Nam đã và đang đạt được nhiều thành tựu, mở rộng ngày càng nhiều hơn nữa mối quan hệ với các quốc gia trên thế giới. Thị trường xuất khẩu của Việt Nam ngày càng được đa dạng, hàng hóa Việt Nam đã dần dần khẳng định chỗ đứng trên trường quốc tế. Thế nhưng, Việt Nam luôn phải đối mặt với tình trạng nhập siêu qua các năm. Cho thấy, Việt Nam vẫn chưa tận dụng, khai thác được tiềm năng tăng kim ngạch xuất khẩu ở các thị trường chủ lực. Do đó, các doanh nghiệp, phối hợp với các cơ quan chức năng cần nhanh chóng có những hành động khắc phục tình trạng nhập siêu của quốc gia. Bài tiểu luận sau đây với tên đề tài“Thị trường xuất khẩu chủ lực – Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu” với mục đích chính là điểm qua tình hình xuất khẩu qua các thị trường chủ lực của nước ta và đề ra giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu cho từng thị trường. Phương pháp nghiên cứu: Dùng phương pháp chuyên gia, phương pháp phân tích thống kê Bố cục đề tài: Đề tài gồm 3 phần chính: I: Tình hình chung về thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam II: Tình hình xuất khẩu trên từng thị trường chủ lực của Việt Nam III: Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu cho từng thị trường.

doc135 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2698 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam – Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng thị trường, các thông tin về hội chợ, triển lãm... đến các doanh nghiệp qua email (hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu đều sử dụng email) hoặc có những hình thức hỗ trợ thực sự hiệu quả khác; tránh việc các nghiên cứu về thị trường rất chi tiết của các cơ quan xúc tiến thương mại lại không đến được đúng đối tượng cần sử dụng. Bộ Công thương cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống thương vụ, nâng cao chất lượng hoạt động của tham tán, bổ sung tham tán thương mại, lập cơ quan thương vụ đầu mối tại các khu vực thị trường trọng điểm để làm tốt công tác tiền đồn hỗ trợ xuất khẩu. Tăng cường vai trò của Cơ quan tham tán thương mại Việt Nam tại từng thị trường. Cục xúc tiến thương mại Việt Nam để làm nhịp cầu nối thông tin, chỗ dựa cho doanh nghiệp khi kinh doanh với thị trường nước ngoài Chính phủ cần hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu tiếp cận với nguồn vốn hiệu quả hơn. Hiện nay, các doanh nghiệp xuất khẩu nói riêng và các doanh nghiệp nói chung đang chịu gánh nặng về việc thiếu vốn và phải vay với lãi suất cao của ngân hàng. Chính phủ nên chỉ đạo ngân hàng đề ra các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu như: tăng biên độ cho vay xuất khẩu hay giảm mức lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp xuất khẩu thông qua các quỹ tín dụng phục vụ xuất khẩu. Bên cạnh đó, việc cho vay ngoại tệ, bảo đảm chính sách tỷ giá hài hòa với các doanh nghiệp xuất khẩu để nhập nguyên vật liệu đầu vào cho chế biến là hết sức quan trọng. Vấn đề về điện, nước, kết cấu hạ tầng cho các doanh nghiệp xuất khẩu cũng cần được ưu tiên. Tình trạng kết cấu hạ tầng như cảng biển, hệ thống giao thông bị quá tải đã tác động mạnh tới giá thành của sản phẩm. Tình trạng cắt điện thường xuyên dù có hoặc không báo trước đều dẫn đến rất nhiều thiệt hại cho các doanh nghiệp. Tích cực đàm phán, ký kết hợp đồng thương mại song phương -đa phương,...tạo điều kiện thuận lợi cho cac hoạt động xuất khẩu. Gia nhập ký kết các hiệp ước quốc tế để tạo điều kiện thúc đẩy tự do buôn bán xúc tiến xuất khẩu,cử phái đoàn thương mại ra nước ngoài tìm kiếm thị trường, tiến hành PR, tham dự hội chợ triển lãm. Thiết lập chính sách xúc tiến xuất khẩu thông qua chính sách thúc đẩy xuất khẩu, lập trung tâm cung cấp thông tin cho nhà xuất khẩu, Đào tạo Ban hành biện pháp, chính sách hỗ trợ xuất khẩu, xây dựng chiến lược, định hướng xuất khẩu. Ngoài ra, các tổ chức nên tổ chức rèn luyện và đào tạo các chuyên gia hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp, tổ chức và quốc gia. Hiệp hội tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động về tìm kiếm, cung cấp các thông tin kịp thời cho các doanh nghiệp về cung cấp nguyên liệu, thay đổi về các quy định của pháp luật từng thị trường, cung cấp thông tin thay đổi về sở thích, thị hiếu, gắn kết chặt chẽ với các doanh nghiệp, có những hỗ trợ kịp thời Về phía doanh nghiệp xuất khẩu Các doanh nghiệp xuất khẩu cần nỗ lực nghiên cứu, phát triển, nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như tạo nên đặc điểm riêng, độc đáo chỉ có thể tìm thấy ở hàng Việt Nam để có thể một mặt đáp ứng được các tiêu chuẩn ngày càng khắt khe của thị trường thế giới, một mặt tạo được thương hiệu riêng có khả năng cạnh tranh cao. Các doanh nghiệp không nên phụ thuộc vào một thị trường mà nên đa dạng hóa thị trường xuất khẩu để tăng tính linh động. Hàng hóa của các doanh nghiệp đã xuất khẩu đến hơn 200 nước trên thế giới nhưng trên 80% giá trị hàng hóa tập trung tại Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật Bản… nên trước mắt, doanh nghiệp vẫn nên chú trọng và duy trì kim ngạch xuất khẩu đối với các thị trường truyền thống. Nhưng để tránh phụ thuộc về lâu dài, các doanh nghiệp cần chủ động nghiên cứu, mở rộng đến các thị trường mới như: Châu Á, Châu Phi, Nam Mỹ… Các doanh nghiệp nên giữ vững và củng cố các thị trường trọng điểm Các thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản về lâu về dài vẫn là những thị trường tiềm năng nhất mà các doanh nghiệp VN nên duy trì và phát triển Do đó, doanh nghiệp cần tăng cường công tác tìm kiếm thị trường, nắm bắt và tổ chức tốt các hoạt động giao lưu, tiếp xúc với các bạn hàng NK, các tổ chức bán buôn, bán lẻ để có hiểu biết kịp thời về bạn hàng và thị trường xuất khẩu của mình. Hiện Mỹ đã và đang chuẩn bị ban hành một số điều luật như: Đạo luật Farm Bill, Luật Lacey sẽ ảnh hưởng đến một số mặt hàng xuất khẩu của VN như hàng thuỷ sản, đồ gỗ… Do đó, doanh nghiệp DN cần tiếp xúc nhiều hơn nữa với cơ quan tham vấn để hiểu rõ về những quy định mới. Về phía các ngành hỗ trợ xuất khẩu Các ngành hỗ trợ cho xuất khẩu bao gồm giao thông vận tải, dịch vụ logicstic... Tuy không trực tiếp thực hiện xuất nhập khẩu hàng hóa nhưng các ngành này có vai trò lớn trong sự thành bại của ngành kinh doanh xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ. Vì các ngành tham gia và có mặt xuyên suốt tong quá trình các doanh nghiệp thực hiện kinh doanh xuất nhập khẩu: di chuyển hàng hóa, dịch vụ xuất nhập khẩu, vận chuyển nguồn thu nhập và chi trả của các chủ thể giao dịch xuất nhập khẩu… Có thể nói các ngành hỗ trợ phải hoạt động có hiệu quả thì mới có thể đem lại thành công không những cho kinh doanh xuất nhập khẩu. Vì vậy đẩy mạnh phát triển xuất nhập khẩu nhất thiết cần phải thực hiện cải tiến và phát triển hơn nữa các ngành hỗ trợ này. Các ngành giao thông tiếp tục cải thiện và nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng tạo thuận lợi cho vận chuyển trong xuất nhập khẩu: đường bộ, đường thủy, đường hàng không, nhất là các phương tiện vận tải đường biển cần có sự đầu tư ngày càng tốt hơn. Nâng cấp các hệ thống đường bộ, khai thông các tuyến đường thường xảy ra nạn ùn tắt, trang bị các loại thuyền hiện đại có khả năng vận chuyển khối lượng lớn hàng hóa Nâng cấp hệ thống sân bay quốc tế để đáp ứng nhu cầu vận chuyển những loại hàng hóa có tính chất công nghệ cao, các cảng biển quốc tế cần được đầu tư thêm kho bãi hiện đại đảm bảo cho hàng hóa an toàn trong khoảng thời gian chờ xuất cảng… Các ngành dịch vụ phục vụ xuất Nhập khẩu thực hiện đơn giản hóa các phương thức trong giao dịch xuất nhập khẩu và phổ biến rộng rãi đến các nhà xuất nhập khẩu để tránh các trường hợp thiếu sót hay sai sót làm hao tốn thời gian và tiền bạc trong thủ tục xuất nhập khẩu. Ngoài ra, các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ cần thực hiện tư vấn để nhà xuất khẩu hiểu rõ và có sự lựa chọn hợp lý nhất. Bên cạnh đó, cần nhận thức một cách đúng đắn vai trò quan trọng của ngành dịch vụ logistics. Đây vốn là lĩnh vực có khả năng sinh lợi rất cao nhưng các doanh nghiệp trong nước vẫn chưa thể tận dụng được, ngược lại nguồn lợi lại đa phần rơi vào tay các doanh nghiệp nước ngoài. Do đó, thiết nghĩ các doanh nghiệp nên thúc đẩy nâng cao khả năng, chất lượng hoạt động lĩnh vực này như đào tạo nguồn nhân lực ; học hỏi kinh nghiệm từ các doanh nghiệp nước ngoài ; giữa các công ty giao nhận với công ty vận tải hàng hải cần có sự liên kết với nhau chặt chẽ hơn để cùng nhau đấu tranh giành giá cước hợp lý cho các chủ hàng, giảm bớt sự phụ thuộc về vận chuyển vào các hãng đa quốc gia nước ngoài, tăng thị phần cho các ngành vận tải trong nước 2. Giải pháp riêng từng thị trường 1. HOA KỲ Đối với nhà nước và các bộ ngành: Tích cực phổ biến cho doanh nghiệp nắm được những quy định mới liên quan đến chính sách và điều tiết nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ, cũng như có biện pháp tổ chức thực hiện để có thể giảm thiểu tác động từ việc thực thi các quyết định này đến xuất khẩu của Việt Nam, tăng cường chất lượng của các quy định để phù hợp với các quy định của Hoa Kỳ. Để hưởng lợi trực tiếp từ Hiệp định thương mại Việt - Mỹ ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực, chúng ta cần tổ chức tốt các ngành hàng có triển vọng tốt để thâm nhập thị trường Mỹ:Dệt may, Giày dép, Thuỷ sản, Sành sứ, Mây tre đan, Đồ gỗ và đồ nội thất, Rau quả chế biến, Hàng cơ khí và kim khí, Gạo, cao su, cà phê… Hỗ trợ hoạt động hiệp hội ngành hàng tại Mỹ như Hiệp hội cà phê, Hiệp hội các nhà nhập khẩu hàng dệt may, Hiệp hội giày dép, Hiệp hội chế biến kinh doanh hàng gia vị... Đối với ngành gỗ: Nhà nước cũng cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam trực tiếp hợp tác liên kết với chủ rừng để khai thác nguyên liệu gỗ một cách chắc chắn, thông qua các hiệp định song phương đã ký kết giữa Việt Nam và các nước có rừng. Đồng thời xây dựng một Trung tâm hỗ trợ phát triển sản phẩm quốc gia để hỗ trợ việc thiết kế mẫu mã, định hướng thị trường phù hợp. Về phía doanh nghiệp: Không nên bỏ qua hoặc không quan tâm đúng mức đến các công đoạn trong chuỗi cung ứng. Muốn vậy, doanh nghiệp phải làm việc với những đối tác Hoa Kỳ có uy tín, có kinh nghiệm để có thể chuyển hàng hóa hiệu quả đến Hoa Kỳ. Các nhà sản xuất Việt Nam cần đảm bảo sản xuất hàng hóa có chất lượng thì doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu phải biết rõ nhà cung cấp nguyên liệu cho mình là ai, sản phẩm xuất khẩu có được kiểm nghiệm không, rồi tiếp đó là vấn đề vận chuyển, hệ thống phân phối vào Hoa Kỳ. Các doanh nghệp cần tổ chức tốt hơn công tác thị trường nước ngoài, nắm bắt và tổ chức các hoạt động giao lưu, tiếp xúc với các bạn hàng nhập khẩu, các tổ chức bán buôn, bán lẻ để hiểu rõ những thay đổi trong cơ chế quản lý nhập khẩu của Hoa Kỳ. Doanh nghiệp cần tiếp xúc với cơ quan tư vấn để họ hướng dẫn về 3 đạo luật mới trên do nó tác động trực tiếp đến hàng hóa xuất khẩu của các doanh nghiệp, bởi đây là những hàng rào kỹ thuật thương mại mới và phức tạp cho nên doanh nghiệp cần nghiên cứu sâu với sự hỗ trợ của các chuyên gia. Tận dụng các dịp mua sắm cuối năm của người Mỹ để xúc tiến phân phối sản phẩm. Hiểu rõ về những đối thủ cạnh tranh quan trọng của mình. Theo thống kê, đối thủ chính của Việt Nam trong ngành hàng cà phê hiện là Indonesia và Ấn Độ. Hạt tiêu thì có Indonesia, Ấn Độ, Malaysia; cao su là Thái Lan, lndonesia, Malaysia; hải sản là Thái Lan, Philippines; tin học là Ân Độ, Trung Quốc, Đài Loan. Riêng về hai ngành hàng có kim ngạch nhập khẩu cao nhất vào Mỹ hiện nay là may mặc và giày dép thì các đối thủ chính của Việt Nam là Trung Quốc, Bangladesh, Thái Lan, Philippines cùng với một số nước thuộc vùng Nam Mỹ, châu Âu.... Tham gia vào hoạt động của các hiệp hội là một trong những biện pháp thâm nhập vào thị trường Mỹ hiệu quả nhất. Thông qua hiệp hội, các công ty xuất khẩu Việt Nam có thể được tiếp xúc trực tiếp với các công ty thành viên qua mạng Internet, họp mặt, thư từ.... Doanh nghiệp còn thường xuyên được cung cấp các số liệu về tình hình kinh doanh, xu hướng giá cả cũng như được giải đáp các vướng mắc về thủ tục kinh doanh. Hiện chi phí mà một công ty thành viên phải đóng hàng năm cho hiệp hội chỉ vào khoảng từ 700-800 USD. Vấn đề xúc tiến thương mại: Các doanh nghiệp Việt Nam nên triệt để tận dụng các tiện ích có được từ mạng Intemet. Cụ thể như gửi thư điện tử, khai thác kho dữ liệu khổng lồ về thông tin và tìm kiếm bạn hàng trên mạng. Ngoài ra, doanh nghiệp trong nước còn có thể thu hút sự chú ý của các công ty tại đây bằng cách đưa ra những mẫu quảng cáo độc đáo trên trang chủ riêng của mình. Về lâu dài có thể hướng tới công tác chuẩn bị cho việc bán hàng qua mạng (e-commerce) một khi có đủ điều kiện về pháp lý và phương thức thanh toán. Chào hàng thông qua hội chợ. Doanh nghiệp hay các nhà tổ chức (thường là các trung tâm xúc tiến thương mại) nên có sự phối hợp chặt chẽ với một công ty tại Mỹ để có thể gặp đúng đối tượng và được hướng dẫn về đi lại. Ngoài các biện pháp tiếp thị, bán hàng, doanh nghiệp Việt Nam cần đầu tư công nghệ và thiết bị mới và đảm bảo giao hàng đúng hạn, giúp nâng cao chất lượng hàng hóa, giảm giá thành sản phẩm, qua đó nâng sức cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam so với hàng hóa của các nước khác vốn đã có mặt từ lâu tại thị trường Mỹ. Thiết lập được hệ thống các kênh phân phối tương đối ổn định trên thị trường Mỹ và đảm bảo được nguồn lực để tổ chức sản xuất với chi phí thấp nhằm tận dụng lợi thế so sánh của mình. Đối với hàng dệt may: Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam nên tiếp cận với phương thức sản xuất và xuất khẩu FOB. Vì lẽ, hàng dệt may bị ràng buộc bởi điều kiện xuất xứ và tỷ lệ nội địa hoá trên sản phẩm khi xuất khẩu vào thị trường này. Ngành dệt may cần tích cực tìm kiếm thị trường bán hàng thành phẩm FOB và đặc biệt lưu ý đến các hàng hoá với chất lượng bình dân, giá rẻ. Đây sẽ là cơ hội xâm nhập vào thị trường Mỹ. Xây dựng chương trình đầu tư phát triển cho toàn ngành từ nay đến năm 2010; trong đó tập trung đầu tư cho ngành dệt dưới dạng các cụm công nghiệp nhằm tạo ra nguồn nguyên phụ liệu chất lượng cao cung cấp cho ngành may xuất khẩu. Kết hợp chương trình đầu tư chiều sâu đối với các doanh nghiệp hiện có với chương trình cổ phần hoá, sắp xếp lại các doanh nghiệp dệt may nhằm từng bước hình thành doanh nghiệp vừa và nhỏ với công nghệ chuyên sâu, phù hợp với trình độ quản lý hiện nay. Do đặc thù vốn đầu tư thấp, công nghệ và lao động không quá phức tạp nên có thể phát triển rộng khắp đến tận các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa trên cơ sở củng cố 4 trung tâm làm hàng xuất khẩu chất lượng cao, đó là Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh. Đổi mới hệ thống quản lý, phương pháp làm việc nhằm nâng cao hiệu quả các cuộc làm việc với các đối tác nước ngoài, đặc biệt là doanh nhân Mỹ trên cơ sở đúng thời hạn giao hàng và ổn định số lượng, chất lượng sản phẩm. Bên cạnh đó là chiến lược dài hạn tăng cường khả năng xuất khẩu các loại bông, sợi hoá học, vải, nguyên phụ liệu trong nước Nâng cao năng lực cũng như quy mô sản xuất của các xí nghiệp may và chất lượng thiết kế mẫu mã, khả năng bán hàng theo phương thức FOB, tham gia hội chợ triển lãm, liên kết mạng lưới bạn hàng trong việc cung ứng nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm. Bên cạnh những cố gắng nỗ lực của các doanh nghiệp trong ngành dệt may, Nhà nước vẫn cần hỗ trợ các chính sách về vốn đầu tư, ưu đãi thuế, khuyến khích sản xuất mặt hàng mới. Đối với hàng giày dép: Tiếp tục đầu tư đổi mới công nghệ, trang thiết bị và nâng cao trình độ quản lý, kỹ thuật để tiếp cận và mở rộng thị trường vào Mỹ. Nhanh chóng có kế hoạch đầu tư chiều sâu cải tiến mẫu mã, xây dựng công nghệ khuôn đúc cho riêng mình thì e rằng khó có thể thâm nhập được vào thị trường Mỹ khó tính nhưng nhiều triển vọng về lâu dài này. Sản xuất trong nước cần đẩy mạnh việc chuyển dần từ nhận gia công sang chủ động mua nguyên liệu trong nước để sản xuất hàng xuất khẩu. Nhà nước cần đầu tư xây dựng một số Khu Công nghiệp liên hoàn về ngành thực phẩm và da giày để hỗ trợ nhau và tạo nên hiệu quả kinh tế tối ưu, bao gồm: nhà máy giết mổ, chế biến thức ăn sẵn, chế biến đồ hộp, thuộc da, chế biến sản phẩm da và thiết kế mẫu mốt. Liên doanh với các đối tác nước ngoài nhưng yêu cầu họ phải từng bước chuyển giao công nghệ... Đối với hàng thuỷ sản: Các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ hải sản Việt Nam sẽ phải không ngừng nâng cao chất lượng bởi hệ thống kiểm soát chất lượng của Mỹ rất ngặt nghèo, sự cạnh tranh giữa các sản phẩm cùng loại nhập từ nước khác là vô cùng quyết liệt. Các doanh nghiệp Việt Nam phải xây dựng cho được tiêu chuẩn hệ thống kiểm soát chất lượng theo chương trình HACCP. Các doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động tìm hiểu đầy đủ các thông tin về thị trường cũng như thị hiếu của khách hàng Mỹ, trên cơ sở đó xuất những mặt hàng vừa có lợi thế so sánh cao so với các nước khác, vừa được người tiêu dùng chấp nhận để duy trì khả năng cạnh tranh của mình. Phải nâng cao chất lượng và tính cạnh tranh của sản phẩm, đồng thời phải tăng cường xúc tiến thương mại để mở rộng thị trường. Xác định trọng lượng mạ băng vào trọng lượng tịnh của thủy sản đông lạnh; Không được lạm dụng các chất giữ nước trong bảo quản thủy sản Phải có tên chung cho tất cả các sản phẩm cá tra của Việt Nam khi xuất khẩu Ngăn chặn việc các doanh nghiệp vận chuyển hàng qua nước Mêhicô sau đó mới chuyển vào Mỹ, với mục đích để tránh bị đánh thuế chống bán phá giá; Ngoài các mặt hàng truyền thống như đã nêu trên, khả năng xuất khẩu phần mềm máy tính hay những phần mềm cho thương mại điện tử cũng là mặt hàng có nhiều triển vọng mà ta với Mỹ có những tương đồng phù hợp lợi ích cả hai bên. Nhà nước cần có các biện pháp mạnh mẽ khuyến khích các công ty Việt Nam sang Mỹ tiếp cận thị trường trong lĩnh vực này. Thị phần của thương mại điện tử ở Mỹ đang trên đà tăng trưởng mạnh và trong một số năm tới có thể lên đến hàng ngàn tỷ USD mỗi năm 2. EU Đối với nhà nước và các bộ ngành: Có chính sách thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng: tăng nhanh tỷ trọng hàng chế biến, chế tạo có hàm lượng công nghệ cao, giảm tỷ trọng xuất khẩu nguyên liệu. Để có cơ cấu hàng xuất khẩu như trên, nhà nước cần có chính sách cụ thể khuyến khích các doanh nghiệp thuộc các ngành công nghiệp chế biến (thực phẩm, công nghiệp nhẹ, điện tử gia dụng, tin học) đầu tư theo chiều sâu để nâng cao chất lượng, đa dạng hoá sản phẩm nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu sang thị trường EU. Sản phẩm gỗ: Có chiến lược khai thác hợp lý nguồn gỗ rừng tự nhiên, xác định tính hợp pháp và khả năng tái sinh của khu vực khai thác, kết hợp với quy hoạch trồng rừng mới để duy trì và mở rộng ngành chế biến gỗ vốn có thế mạnh về lao động và kỹ thuật tay nghề truyền thống. Có biện pháp hỗ trợ và khuyến khích trồng rừng và phát triển các loại sản phẩm từ gỗ rừng trồng. Thủ công mỹ nghệ: Khôi phục và phát triển các doanh nghiệp hợp tác xã, làng nghề thủ công và vùng nguyên liệu phục vụ sản xuất. Khuyến khích phát triển ở các vùng nông thôn để tận dụng lao động nông nhàn. Có chế độ ưu đãi về thuế nhập khẩu một số nguyên liệu phục vụ sản xuất, nhất là nguyên liệu phục vụ cho ngành thêu ren. Có chế độ hỗ trợ các ngành nghề thủ công giới thiệu sản phẩm ở thị trường nước ngoài như hội chợ, triển lãm... vì phần lớn các DN kinh doanh hàng thủ công đều là cơ sở sản xuất nhỏ, bị hạn chế về tài chính Về phía doanh nghiệp: Các doanh nghiệp cần hiểu rõ chính sách thương mại, các định chế, quy định và các yêu cầu của thị trường EU. Sản phẩm gỗ: Nâng cao trình độ thiết bị công nghệ. Mở rộng ngành công nghiệp sản xuất gỗ ván ép vừa tận dụng nguyên liệu, tránh bị tác động bởi thời tiết. Đa dạng hoá sản phẩm để đáp ứng nhu cầu phong phú của thị trường EU về mẫu mã, thị hiếu... Mở rộng nghiên cứu sản xuất bàn ghế lắp ghép hoặc liên doanh lắp ghép đồ gỗ tại thị trường tiêu thụ, tránh chi phí vận chuyển cao, có thể cả thuế vì thuế thành phẩm khác thuế bán thành phẩm. Tích cực chủ động tìm nhiều kênh phân phối để đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng này. Đồng thời phải tuân theo những quy định về tiêu chuẩn môi trường của EU về việc sản phẩm gỗ phải có giấy chứng nhận của Tổ chức Môi trường Xanh quốc tế xác nhận gỗ được khai thác từ rừng có khả năng tái sinh, nếu không sản phẩm gỗ không thể thâm nhập vào thị trường EU. Thủ công mỹ nghệ: Các doanh nghiệp sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ cần đầu tư nghiên cứu, thiết kế mẫu mã, kiểu dáng, màu sắc phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng của từng thị trường. Đáp ứng các yêu cầu của EU về hoá chất tẩy, phẩm nhuộm, đồ chơi trẻ em không được gây hại đến sức khoẻ khi chơi đồ chơi có chất tẩy hoặc nhuộm độc hại, dễ gây đứt tay chân khi chơi đùa... Các doanh nghiệp thủ công mỹ nghệ cần chú trọng đầu tư vốn, nhất là vốn để cải tiến công nghệ, máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất những mặt hàng thủ công mỹ nghệ đang được ưa chuộng tại thị trường EU. Ngành giày dép: Đa dạng hóa thị trường và sản phẩm: không lệ thuộc quá nhiều vào một thị trường là EU. Nâng dần tỷ lệ nguyên liệu nội địa. Cụ thể, các loại nguyên liệu và mức độ mà ngành da giày Việt Nam đã chủ động được là: trên 30% các loại nguyên liệu da, giả da, nguyên liệu tổng hợp cho sản phẩm cấp trung; trên 50% các loại phụ liệu như nhãn mác, chỉ, ruy băng, giấy carton tăng cường, các loại keo, dung môi...; trên 70% các loại vải dùng cho các loại giày cấp trung và thấp như canvas, các loại đế giày, gót giày, form giày và bao bì các loại như thùng, hộp, bao PE, giấy lót, giấy gói... Nắm bắt xu hướng thị trường Trước khi thiết kế và giới thiệu sản phẩm mới vào thị trường, cần nắm bắt xu hướng và thị hiếu mới nhất. Khi phân tích xu hướng thị trường, trước tiên cần dựa vào cơ cấu dân số và lối sống của người tiêu dùng. Đặc biệt chú ý tới vấn đề màu sắc. Màu sắc của những mặt hàng thời trang thường thay đổi hai năm một lần. Thông thường, màu của các sản phẩm bằng da sẽ theo màu sắc của quần áo và giầy dép. Nếu muốn sản xuất được các đôi giày có màu sắc thời trang, thì phải đặt hàng ở các cửa hàng thuộc da đủ sớm. Để đề phòng sự sai lệch màu sắc, bạn cần phải đặt hàng màu sắc da chính xác từ các xưởng thuộc da ở EU. Cách làm này khá đắt đỏ, nhưng cần thiết bởi chỉ cần sự khác biệt nhỏ trong màu sắc hoặc chất liệu hàng hoá cũng khiến người mua nhận ra nhanh chóng. Nếu như việc mua màu sản phẩm da và nguyên liệu sản xuất gặp khó khăn, có thể hỏi nhà nhập khẩu hoặc đại lý để được giúp đỡ. Khi gửi hàng mẫu cũng cần phải đảm bảo đúng màu sắc theo chuẩn yêu cầu. Thâm nhập thị trường thông qua các nhà nhập khẩu, đại lý, nhóm mua hàng, các chuỗi cửa hàng bán lẻ và cửa hàng bách hoá. Các nhà bán lẻ lớn chuyên ngành giầy (như Deichmann, Vivarte, Stylo, Shoezone) và không chuyên ngành giầy (H&M, New Look), cửa hàng bách hoá tổng hợp (El Corte Ingles, M&S, Hema) và đại siêu thị (Carrefour, Tesco, Metro) mua hàng hoá trực tiếp từ nhà sản xuất ngày càng tăng. Ngoài ra, các nhà xuất khẩu có thể tìm kiếm sự hỗ trợ của các tổ chức xúc tiến thương mại của EU (CBI của Hà Lan, DIPO của Đan Mạch...) để có thêm các thông tin chi tiết cụ thể. Tham gia thường xuyên cuộc thi đua sáng tác mẫu mã mà IFC tổ chức hàng năm nhằm nâng cao khả năng thiết kế mẫu, giúp ngành thoát dần cơ chế gia công. 3. NHẬT BẢN Về phía Nhà nước và các cơ quan chức năng Chỉ đạo cụ thể cho tham tán thương mại trong việc thu nhập thông tin, Bộ Công Thương cần phối hợp với JETRO ( Tổ chức Xúc tiến Thương mại Nhật Bản) tại Việt Nam để tăng cường hơn nữa công tác thu nhập và phổ biến thông tin về thị trường Nhật tới các doanh nghiệp Đặc biệt là các thông tin có liên quan đến phương thức phân phối, thủ tục xin dấu chứng nhận chất lượng JIS, JAS và Ecomark cũng như chế độ xác nhận trước về thực phẩm nhập khẩu. Đây là việc hết sức quan trọng, có ý nghĩa quyết định tới việc đẩy mạnh xuất khẩu nông sản và thực phẩm, mặt hàng mà ta có thế mạnh, vào một thị trường có đòi hỏi cao như thị trường Nhật. Trong tiến trình cải thiện môi trường đầu tư và đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài, Nhà nước cần hết sức quan tâm đến việc thu hút vốn đầu tư từ Nhật Bản bởi lý do ”xuất khẩu trở lại”. Các đề xuất của nhà đầu tư Nhật Bản cần được nghiên cứu kỹ lưỡng và giải quyết thoả đáng. Trong chừng mực nào đó có thể vượt khỏi nguyên tắc không phân biệt đối sử để giải quyết những yêu cầu của nhà đầu tư Nhật Bản. Để làm tốt công tác này, Bộ Công thương và Bộ Kế hoạch & Đầu tư nên khuyến khích thành lập Hiệp hội doanh nhân Nhật Bản tại Việt Nam và định kỳ tổ chức các buổi gặp gỡ Cần chính sách hỗ trợ doanh nghiệp : giảm các loại chi phí liên quan tới xuất khẩu như chi phí tại cảng biển, sân bay và chi phí vận tải; giảm tối đa thủ tục hành chính gây phiền hà cho doanh nghiệp xuất khẩu (có thể tài trợ chi phí cho doanh nghiệp xuất - nhập khẩu để thực hiện các thủ tục này được thuận tiện, thông qua bộ máy hành chính nhà nước phục vụ xuất khẩu như thuế, hải quan). Thủ tục giấy tờ cũng nên đơn giản hóa, có như vậy mới tạo điều kiện cho doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu. Thiết lập các phòng quản lý xuất nhập khẩu để cấp C/O tại chỗ cho các doanh nghiệp tại địa phương, đồng thời đẩy mạnh việc cấp C/O qua mạng dần dần tiến tới việc điện tử hóa hoàn toàn C/O để tiết kiệm thời gian cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó phân loại các ngành hàng, doanh nghiệp để đơn giản hóa các quy định về thủ tục chứng từ nhằm cải cách về thủ tục chứng từ trong việc cấp C/O ... Dệt may: cần tạo điều kiện cho các nhà đầu tư Nhật Bản đầu tư vào lĩnh vực sản xuất nguyên phụ liệu dệt may, thay thế hàng nhập khẩu, thực hiện công tác R&D ngay tại Việt Nam để sản xuất hàng dệt may có giá trị gia tăng cao cũng như tận dụng các ưu đãi về thuế sau khi Hiệp định hợp tác kinh tế toàn diện Việt Nhật được ký kết nhằm đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường này. Thủy sản : Hệ thống cơ quan thuộc Cục Quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y thủy sản, kiểm soát chặt chẽ quá trình sản xuất, chế biến của các doanh nghiệp đồng thời thực hiện nghiêm công tác kiểm tra kháng sinh cấm trong các lô hàng thủy sản xuất khẩu vào Nhật Bản. Trong quá trình triển khai, nếu gặp phải vướng mắc, các trung tâm phải có báo cáo nhanh về cơ quan cấp trên để có biện pháp giải quyết kịp thời. Đẩy mạnh công tác kiểm tra, kiểm soát an toàn vệ sinh chất lượng hàng thuỷ sản từ khâu nuôi trồng - nguyên liệu tới thành phẩm để giữ uy tín cho hàng thuỷ sản của Việt Nam cũng như đáp ứng được yêu cầu của thị trường nhập khẩu: Nghiên cứu và lai tạo các giống mới có chất lượng cao Gỗ và sản phẩm gỗ : Khuyến khích các doanh nghiệp Việt nam xin dấu chứng nhận Ecomark của Nhật, đặc biệt là cho các sản phẩm gỗ. Khuyến cáo các doanh nghiệp Việt Nam cần chú trọng cải tiến mẫu mã, chuyên nghiệp hoá khâu thiết kế, đa dạng hoá sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị hiếu và tiêu chuẩn quy định của thị trường Nhật Bản. Nhất là phát triển các loại sản phẩm làm bằng tay, tạo ra nét độc đáo riêng, có giá trị cao. Về phía doanh nghiệp Để có khách hàng truyền thống Nhật Bản, doanh nghiệp Việt Nam cần phải có hướng kinh doanh lâu dài, kiên trì trong bước đầu lập mối quan hệ, năng lực sản xuất và chất lượng ổn định, luôn giữ uy tín thương mại, tạo điều kiện cho khách hàng đến tìm hiểu, tham quan trực tiếp cơ sở sản xuất Các doanh nghiệp khi muốn làm ăn với đối tác Nhật Bản nên xem xét các điều khoản hợp đồng một cách cẩn trọng. Để tránh rủi ro đáng tiếc khi cung cấp hàng cho các nhà phân phối, doanh nghiệp xuất khẩu nên mở L/C thay vì sử dụng tài khoản TD. Các doanh nghiệp cần chủ động thực hiện hoạt động marketing một cách chuyên nghiệp và bài bản bên cạnh sự hỗ trợ về chính sách xúc tiến đầu tư của nhà nước. Các doanh nghiệp cần liên tục cập nhật, nghiên cứu, tính toán cách tính thuế giảm qua các năm để có thể áp dụng loại C/O thích hợp nhất. Theo mức cam kết cắt giảm thuế quan áp dụng từ 01/4/2010 sẽ giảm khá nhiều các dòng thuế đặc biệt là dành cho nhóm thủy sản, thịt rau, củ quả, da giày. Do vậy, trong thời gian thực hiện Hiệp định các doanh nghiệp nên quan tâm đến chứng từ về xuất xứ để cấp C/O về ưu đãi thuế quan. Đặc biệt giữa hai hiệp định Việt Nam- Nhật Bản và ASEAN - Nhật Bản luôn có sự tương đồng và bổ trợ cho nhau đối với nhiều mặt hàng. Doanh nghiệp nên nghiên cứu kỹ hai biểu thuế này, áp dụng một cách linh hoạt để tìm ra mức thuế thấp hơn nhằm đảm bảo lợi ích tối đa, tạo thuận lợi nhất cho hoạt động xuất khẩu. Thủy sản Duy trì tốc độ phát triển của ngành thủy sản hiện nay trên cơ sở tăng cường các yếu tố đảm bảo phát triển bền vững như: tái tạo nguồn lợi, an toàn cho người dân, từng bước điều chỉnh cơ cấu nghề cá, giám khai thác ven bờ, phát triển đánh bắt xa bờ Các doanh nghiệp xuất khẩu tôm và mực của Việt Nam cần xem xét, chấn chỉnh lại khâu nuôi trồng, bảo quản và chế biến nhằm chấm dứt hiện tượng dư thừa dư lượng chất Cloramphenicol trong thuỷ sản. Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nuôi trồng, chế biến và xuất khẩu thủy sản cùng các trung tâm chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y thủy sản thực hiện nghiêm ngặt việc sử dụng các loại hóa chất và kháng sinh trong nuôi trồng, chế biến và bảo quản thủy sản. Yêu cầu các doanh nghiệp tăng cường giám sát quá trình sản xuất và chế biến. Bởi trên thực tế, cũng đã có những trường hợp công nhân làm việc tại các nhà xưởng vệ tinh sử dụng kem bôi tay khi làm việc tại phân xưởng chế biến hoặc tại công đoạn bóc vỏ dẫn đến việc lây nhiễm kháng sinh có trong kem bôi tay vào sản phẩm. Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, phải thực hiện kiểm tra chứng nhận về dư lượng kháng sinh cấm trong thủy sản theo quy định của cơ quan chức năng Nhật Bản, đồng thời tham khảo kỹ các văn bản và quy định mới của Bộ Thủy sản. Đối với các doanh nghiệp nhập khẩu, cần phải đăng ký kiểm tra chất lượng theo quy định và chỉ được phép đưa lô hàng vào chế biến, tiêu thụ khi kết quả kiểm tra do Cục Quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y thủy sản và các trung tâm thuộc cục đạt yêu cầu Gỗ và sản phẩm gỗ Tiếp tục đẩy mạnh hình thức xuất khẩu trực tiếp sang thị trường Nhật Bản và tiếp xúc trực tiếp với khách hàng Nhật Bản. Hạn chế tối đa hình thức xuất khẩu gián tiếp thông qua trung gian phân phối nước ngoài. Tăng cường hoạt động Marketing thông qua mạng internet, liên tục cập nhật thông tin về sản phẩm, giá cả, mẫu mã. Tích cực tham gia các kỳ hội chợ EXPO diễn ra hàng năm và các kỳ hội chợ về ngành gỗ hàng năm của Nhật. Tiến tới xây dựng xưởng sản xuất, lắp ráp, bảo hành ngay tại Nhật Bản, điều này sẽ giúp doanh nghiệp chủ động tìm kiếm thêm khách hàng, kịp thời nắm bắt nhu cầu thị trường, cũng như các quy định mới từ phía Nhật Bản. Thực hiện đa dạng hóa mẫu mã sản phẩm, đầu tư sản xuất dòng sản phẩm chủ lực – sản phẩm nội thất, đặc biệt cần cải thiện sản phẩm theo hướng sáng tạo, độc đáo, tạo sự khác biệt. Cải thiện khâu thiết kế sản phẩm theo dạng bộ sưu tập với những phong cách khác nhau phù hợp với từng phân khúc thị trường. Luôn tuân thủ theo các tiêu chí chất lượng từ phía đối tác. Sản phẩm trước khi xuất khẩu cần được kiểm tra nghiêm ngặt, tỉ mỉ, đảm bảo chất lượng và giao hàng đúng hẹn. Tìm kiếm công nghệ, máy móc mới phù hợp khả năng tài chính nhằm giảm bớt tiêu hao nguyên liệu sản xuất và chi phí nhân công, tăng khả năng cạnh tranh. Cải thiện, nâng cao tay nghề đội ngũ nhân công thông qua các lớp đào tạo tại chỗ. Hàng điện tử và linh kiện máy tính Đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài thông qua các khung chính sách thuận lợi. Phát triển cơ sở hạ tầng và chuẩn bị đồng bộ các yếu tố phụ trợ là giải pháp cơ bản nhất để thu hút đầu tư sản xuất và xuất khẩu ở lĩnh vực này. Tăng tỉ trọng sản phẩm điện tử chuyên dùng và phụ tùng linh kiện bằng việc tập trung sản xuất, lắp ráp các sản phẩm điện tử chuyên dùng, các sản phẩm công nghệ cao để nâng cao năng lực công nghệ của các doanh nghiệp. Tận dụng tiềm năng sản xuất vật liệu điện tử, lĩnh vực mà Việt Nam có nhiều lợi thế về tài nguyên ưu tiên  phát triển một số lĩnh vực của công nghiệp phụ trợ như: chế tạo khuôn mẫu, đúc, ép nhựa, đột dập kim loại, xử lý bề mặt (sơn, mạ…) phục vụ cho quá trình sản xuất phụ tùng linh kiện cho ngành công nghiệp điện tử Dây và cáp điện Các doanh nghiệp sản xuất cần khai thác tối đa thị trường trong nước để giảm quy mô nhập khẩu, nhằm giảm mức độ phụ thuộc của Việt Nam vào các thị trường nguyên, nhiên, vật liệu sản xuất dây và cáp điện. Doanh nghiệp cũng cần nghiên cứu, điều chỉnh công nghệ, nâng cao phần giá trị gia tăng sản xuất trong nước thông qua việc khai thác các nguồn nguyên, nhiên, vật liệu sẵn có trong nước. Ngoài ra, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xuất khẩu dây và cáp điện cần đảm bảo nguồn vốn đầu tư để có thể tích trữ nhằm sản xuất trong thời gian dài 4. TRUNG QUỐC Về phía Nhà nước và các cơ quan chức năng Đẩy mạnh đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ xuất khẩu như các bến bãi, khu kiểm hoá tại các khu vực cửa khẩu biên giới; Đẩy nhanh tiến độ xây dựng kết cấu hạ tầng thương mại tại các khu vực cửa khẩu biên giới như kho tàng, chợ biên mậu, khu gia công chế xuất, phân loại đóng gói hàng hoá xuất khẩu. Đưa danh mục đầu tư cho các cửa khẩu vào danh mục của trái phiếu Chính phủ như áp dụng với y tế và giáo dục hiện nay Hướng các doanh nghiệp xuất nhập khẩu qua các cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu chính để đảm bảo ổn định và tránh được những rủi ro do chính sách biên mậu của Trung Quốc thay đổi. Đồng thời có cơ hội mở rộng thị trường cho hàng hoá vào sâu nội địa Trung Quốc Hỗ trợ, tư vấn cho các doanh nghiệp Việt Nam về cơ chế chính sách, đồng thời sẽ tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho các doanh nghiệp Trung Quốc nhập khẩu các mặt hàng của Việt Nam Cần cung cấp cho doanh nghiệp thông tin thị trường đầy đủ và chính xác. Bộ Công thương nên làm đầu mối thông tin cho các doanh nghiệp, tránh việc để doanh nghiệp tự đi ngang, đi tắt nhằm hạn chế rủi ro. Bộ Công thương sẽ là đầu mối nghiên cứu và xây dựng các chính sách đặc thù của từng địa phương đồng thời có hướng chuyển đổi cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu tránh tình trạng bão hòa sản phẩm Xây dựng qui chế hoạt động của các cửa khẩu phải phát huy được lợi thế địa lý của địa phương. Cụ thể, cần qui hoạch đâu là cửa khẩu quốc tế, đâu là "lối mòn" để địa phương có thể chủ động quản lý và đầu tư. Thay đổi cơ cấu hàng hóa xuất khẩu được xem là biện pháp quan trọng. Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc gồm 3 nhóm hàng chính là nguyên nhiên liệu và khoáng sản, chiếm trung bình 55%; nông sản, thủy sản chiếm 15%; hàng công nghiệp chiếm 10%. Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu sang Trung Quốc ít thay đổi, trong khi nhập khẩu rất đa dạng. Do đó, muốn tăng xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc cần có cơ cấu hàng hóa mới, đưa thêm nhiều mặt hàng mới. Khuyến cáo DN nên chuyển đổi thương mại với Trung Quốc sang hình thức làm ăn chính thống, vừa tăng kim ngạch vửa giảm rủi ro. Mặt hàng rau quả vừa qua là một ví dụ thành công, năm 2008 đã đạt trên 500 triệu USD, tăng hơn 180%, trong khi vấn đề thanh toán được đảm bảo Chính phủ nên tạo thuận lợi cho đầu tư các loại hình khu hợp tác kinh tế biên giới, quy hoạch hệ thống cửa khẩu, chợ biên giới để tạo thêm động lực và sự yên tâm cho các nhà đầu tư. Ngoài ra, Chính phủ cần rà soát hệ thống văn bản hợp tác với Trung Quốc, nếu cần có thể sửa đổi, bổ sung để tránh tình trạng điều hành, chỉ đạo quản lý nhà nước lúng túng. Để hỗ trợ tốt cho xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc, hoạt động xúc tiến thương mại qui mô quốc gia hay địa phương cần phải tích cực hơn nữa. Nghiên cứu đặc thù thương mại biên giới để tham mưu cho Chính phủ những chính sách phù hợp, đào tạo nhân lực và cung cấp thông tin thương mại cho các tỉnh. Về phía các doanh nghiệp Cần hướng tới để đáp ứng được yêu cầu của thị trường lớn, nhu cầu phong phú và đa dạng này chính là phải có nguồn hàng lớn, cung cấp ổn định và chất lượng đồng đều, bởi hầu hết những sản phẩm Việt Nam có thì Trung Quốc đều có nên sự cạnh tranh giữa các mặt hàng rất lớn. Để có được uy tín với các đối tác Trung Quốc cũng như có được niềm tin của người tiêu dùng Trung Quốc, các doanh nghiệp Việt nam cần quan tâm hàng đầu tới vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm, kiểm soát chắc chắn ngay từ nguồn nguyên liệu đầu vào, công nghệ chế biến, đóng gói bao bì, nhãn mác sản phẩm… Mặc dù hàng hóa Trung Quốc có lợi thế giá rẻ, tuy nhiên, hàng hóa của Việt Nam lại có ưu thế về chất lượng. Định hướng lâu dài vẫn phải là cạnh tranh về chất lượng sản phẩm. Nghiên cứu xây dựng hệ thống dịch vụ phân phối biên mậu để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá vào sâu trong nội địa của Trung Quốc. Tiếp cận thị trường tiềm năng thông qua các hội chợ quốc tế chuyên ngành tổ chức tại Trung Quốc, hệ thống các Hiệp hội ngành hàng của Trung Quốc, danh sách các doanh nghiệp Trung Quốc được Bộ Thương mại Trung Quốc công bố hàng năm. Tiếp cận trực tiếp thị trường thông qua đại lý bán lẻ hay chợ đầu mối ở một số tỉnh, hay mở cửa hàng giới thiệu sản phẩm. Tham gia kênh phân phối vào siêu thị cũng là cách an toàn và bền vững nhưng đòi hỏi nghiên cứu chiến lược và xây dựng tốt quan hệ. Phải chủ động tìm hiểu đối tác bằng cách thuê các doanh nghiệp đặc biệt của Trung Quốc có khả năng thẩm định lý lịch và khả năng tài chính của doanh nghiệp nước này. Các thương vụ Việt Nam tại Trung Quốc cũng có thể cung cấp danh sách các công ty đặc biệt này và báo giá dịch vụ thẩm định để doanh nghiệp Việt Nam tham khảo. Doanh nghiệp Việt Nam không nên chấp nhận mẫu hợp đồng mà doanh nghiệp Trung Quốc đưa sẵn và phải yêu cầu trọng tài kinh tế phía Việt Nam hoặc nước thứ ba. Nhiều doanh nghiệp nhỏ của Việt Nam đã phải bỏ cuộc khi theo đuổi các vụ kiện vì phí tổn cao khi cơ quan trọng tài ở Trung Quốc.   Đối với vấn đề thanh toán, Doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam cần yêu cầu doanh nghiệp Trung Quốc thanh toán ngay 30% giá trị hợp đồng, số còn lại thanh toán theo L/C at sight (thanh toán ngay) và chỉ ký hợp đồng khi đối tác đã mở L/C. Không nên thỏa thuận điều khoản thanh toán L/C trả chậm vì dễ bị đối tác lấy lý do không đạt chất lượng để ép giá. Các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu buôn bán qua đường biên giới hai nước nên dễ gặp rủi ro về thanh toán vì thế cần cập nhật thường xuyên các qui định về thanh toán, thuế. Doanh nghiệp Việt phải xây dựng, quảng bá và đăng ký thương hiệu; có chiến lược thâm nhập và phát triển thị trường. Doanh nghiệp Việt Nam cũng cần xây dựng quan hệ với bạn hàng Trung Quốc thông qua việc tận dụng các hội chợ quốc tế, chuyên ngành. Thông qua các hiệp hội ngành hàng của Trung Quốc, xây dựng hệ thống đại lý bán lẻ, mở cửa hàng giới thiệu, bán sản phẩm, liên doanh với doanh nghiệp Trung Quốc sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm tại Trung Quốc 5. SINGAPORE Các doanh nghiệp phải tự tìm cơ cấu mặt hàng thích ứng sự chuyển đổi nhanh của thị trường Singapore : đi vào những sản phẩm hàng hoá tiêu dùng đã qua chế biến, sản phẩm của các ngành công nghiệp hoặc đi vào các dạng sản phẩm công nghiệp, kỹ thuật cao như, thiết bị, máy móc, linh kiện đầu vào mà thị trường đang có nhu cầu. Nếu chỉ dựa vào  những mặt hàng xuất khẩu sẵn có, sẽ khó hy vọng tăng nhanh kim ngạch xuất vào thị trường này. Theo dõi xuất khẩu nhiều năm qua cho thấy, kim ngạch xuât khẩu vào Singapore chỉ ở mức trên/dưới USD 1tỷ/năm, không có những bước tăng đột biến về kim ngạch chính là ta chưa xây dựng được cơ cấu Kênh xuất vào thị trường nội địa Singapore, bao gồm hàng hoá tiêu dùng thực phẩm, lương thực và một phần nguyên liệu cho các ngành sản xuất công nghiệp à Phải nắm vững nhu cầu thị trường, tìm cách đáp ứng. Tổng kim ngạch nhập khẩu của Singapore theo kênh này khoảng từ USD100-110 tỷ/năm, trong đó cho thuần tuý tiêu dùng tại chỗ khoảng 30%, phần còn lại 70% là các dạng nguyên liệu, vật tư đầu vào (máy móc, thiết bị, phụ tùng, linh kiện điên tử, tin học…)nhăm tái tạo lại thành các sản phẩm hoàn chính, kỹ thuật cao, sản phẩm chế biến v.v. cho mục đích xuất khẩu và tái xuất khẩu. Khối lượng kim ngạch xuất khẩu hàng năm của nước này xấp xỉ khối lượng kim ngạch nhập khẩu kể trên. Một nhận xét là, nhập khẩu cho nhu cầu nội địa Singapore là rất lớn (USD 100-110 tỷ/năm) hiện tại xuất khẩu của Việt nam qua kênh này mới đạt trên/dưới USD1 tỷ/năm, chiếm dưới 1%, tổng kim ngạch nhập khẩu của Singapore. Kênh chung chuyển hàng xuất khẩu Việt Nam đi các khu vực khác. Đây là kênh có tầm quan trọng đặc biệt chung chuyển một khối lượng rất lớn hàng xuất Việt Nam  ra khu vực và thế giới. Như trên đã nói, muốn tăng nhanh xuất khẩu vào bất cứ khu vực thị trường nào, điều đầu tiên phải tính đến là tìm cơ cấu mặt hàng phù hợp nhu cầu thị trường và bên cạnh đó là các chính sách về thị trường, bạn hàng cho trước mắt và cho lâu dài. Nhóm hàng qua chung chuyển, cà phê, cao su, hạt tiêu, lạc nhân, gạo… góp phần quan trong thông qua kênh chung chuyển và do nhiều công ty đa quốc gia tại Singapore ký hợp đồng thực hiện và hàng được giao thẳng đi các khu vực khác hoặc tới nơi tiêu thụ. Chúng ta cần phải tranh thủ các bạn hàng này và có chính sách bạn hàng lâu dài để họ làm cầu nối cho hàng xuất của ta đi các thị trường xa, thị trường ta chưa có chân đứng và chưa có bạn hàng.  Khi xuất khẩu phải tuân thủ hệ thống chất lượng hàng hóa nhằm tạo sư tin cậy. Nhìn chung hàng hoá sản xuất tiêu thụ tại Singapore phải tuân thủ “Quy chế đăng ký chất lượng”, riêng lương thực, thực phẩm các dạng phải tuân thủ “luật kinh doanh thực phẩm”. 6. ÚC Khi tìm cách xâm nhập thị trường này, các doanh nghiệp cần tăng cường công tác xúc tiến thương mại, đẩy mạnh việc quảng bá, giới thiệu sản phẩm. Nhu cầu nhập khẩu giày dép của Australia vẫn trong xu hướng tăng. Vì vậy, doanh nghiệp Việt Nam muốn mở rộng thị trường tại Australia cần có những chuyến khảo sát thực tế thị trường này. Thâm nhập sâu vào thị trường Australia để tổ chức lại sản xuất làm cho hàng giày dép của nước ta thâm nhập vào thị trường Australia Để tăng kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc vào thị trường Úc, các doanh nghiệp cần sớm đa dạng hóa chủng loại mặt hàng truyền thống, các loại trang phục giải trí ngoài trời hoặc sản phẩm may dùng trong gia đình như vải drap, vỏ gối, khăn bàn,… Trong thời gian đầu, để mặt hàng mới tìm được chỗ đứng trên thị trường này, các doanh nghiệp nên chấp nhận những đơn hàng nhỏ với giá cạnh tranh. Đối với các mặt hàng lương thực thực phẩm, phải hết sức thận trọng và tuân thủ các tiêu chuẩn về vệ sinh và kiểm dịch để không bị đình chỉ nhập khẩu và mất uy tín với khách hàng. Mặc dù Úc là thị trường tương đối mở, có hệ thống pháp luật ổn định, nhưng các nhà xuất khẩu Việt Nam tại Úc cần liên hệ chặt chẽ với Thương vụ Việt Nam tại thị trường này để nắm bắt và cập nhật thông tin về thị trường và chính sách thương mại tại đây. Các doanh nghiệp cùng hiệp hội cần xúc tiến mở các cơ sở giới thiệu sản phẩm Việt Nam tại các trung tâm thương mại lớn như Sydney, Melbourne,… Các nhà nhập khẩu nước này không thích mặc cả. Họ sẵn sàng thương thảo một mức giá hợp lý nhưng không mặc cả để có mức giá giảm từ 20% trở lên. Nếu nhà cung cấp đưa ra mức giá không thực tế, nhà nhập khẩu Australia thường sẽ không xem xét đến đơn chào hàng. Vì vậy, khi báo giá cho nhà nhập khẩu Australia, điều quan trọng nhất là đưa ra mức giá hợp lý nhất và thường phải thấp hơn mức giá chào cho người mua hàng tại Mỹ và châu Âu với tỷ lệ mặc cả không quá 3% đến 5% Các doanh nghiệp Việt Nam cũng có thể xuất khẩu hàng hóa theo hình thức hàng đổi hàng. 7. NGA Bên cạnh việc nghiên cứu thị trường với mục đích tìm ra thị trường, chọn ra đối tác, kênh phát triển, hàng hóa của Việt Nam phải đạt chất lượng cao. Làm được điều này, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ không lo thiếu thị trường bởi Nga là một thị trường rộng lớn. Có rất nhiều khu vực thị trường ở Nga đều có nhu cầu với tất cả các chủng loại hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Nga, muốn đưa hàng về những khu vực này thành công, các doanh nghiệp Việt Nam ngoài việc cần chú ý đến chất lượng hàng hóa phải cao, mẫu mã, bao bì, đẹp và giá cả cạnh tranh… và cần phát triển được các kênh phân phối. Thêm nữa, các doanh nghiệp Việt Nam cần có sự hoạch định chính sách cụ thể, tạo được đơn chào hàng hấp dẫn, cơ chế giá cả phù hợp, thiết lập hệ thống dịch vụ, tìm hiểu nhu cầu của thị trường. Các nhà xuất khẩu Việt Nam có thể chọn lựa một trong 3 phương thức thanh toán khi làm ăn với đối tác Nga. Mức độ rủi ro giảm dần đối với 3 phương thức này là: Thanh toán chuyển tiền; Thanh toán nhờ thu (có thể nhờ thu thêm chứng từ); và thanh toán mở L/C. Khi lựa chọn phương thức thanh toán cần xem xét mức độ tín nhiệm của đối tác. Về thanh toán, để phù hợp với đặc thù của thị trường Nga, việc thanh toán, bảo lãnh dưới sự giám sát chặt chẽ của VRB sẽ giảm thiểu được rủi ro cho doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Trường hợp nhà nhập khẩu từ chối thanh toán 70% còn lại theo hình thức thanh toán trực tiếp, VRB sẵn sàng hỗ trợ nhà xuất khẩu thuê kho bãi và tìm kiếm các Nhà nhập khẩu thuỷ sản lớn khác của Nga có nhu cầu nhập khẩu thuỷ sản Việt Nam. Các nhà xuất khẩu Việt Nam nên ưu tiên chọn các đối tác nhập khẩu bên Nga là khách hàng, hay đối tác của VTB, hay VRB Moscow vì những người này đã hiểu rõ về thị trường Nga dẫn đến đỡ mất thời gian tìm hiểu thị trường. Để đẩy mạnh xuất khẩu vào Nga và hợp tác kinh doanh đầu tư có hiệu quả nên phát triển khuynh hướng thúc đẩy hợp tác phát triển xây dựng chiến lược đưa hàng hóa vào từng vùng miền cụ thể trên thị trường Nga, phương thức xác định thị trường tiềm năng. Các doanh nghiệp cũng cần đầu tư công nghệ, thiết bị hiện đại để có thể nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm của mình trên thị trường Nga, tập trung vào việc nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, đầu tư thích hợp cho việc quảng bá thương hiệu; bên cạnh việc trân trọng và phát huy truyền thống hữu nghị sẵn có. Phải có sự hợp tác chặt chẽ giữa các doanh nghiệp nhập khẩu và xuất khẩu của hai nước, trong đó có các doanh nghiệp trong cộng đồng người Việt tại Nga. Phải có sự hợp tác giữa các cơ quan kiểm tra chất lượng của hai nước, giữa Cục quản lý chất lượng nông, lâm, thuỷ hải sản Việt Nam và Cơ quan kiểm dịch động thực vật Liên bang Nga. Đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản vào thị trường Nga: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam và cơ quan đồng cấp phía Nga cần nhanh chóng thảo luận, thống nhất và đi đến ký kết hiệp định về chất lượng hàng nông, lâm, thủy sản giữa hai nước. Về lâu dài, hai bên cần nghiên cứu đi đến ký kết hiệp định về thương mại tự do giữa Việt Nam – Nga và liên minh Nga - Cadactan - Belarus. Đây là một hành lang pháp lý quan trọng giúp Việt Nam có thể đẩy mạnh hơn xuất khẩu vào Nga, giảm nhập siêu trong những năm tới”. Cần phải đẩy mạnh xúc tiến thương mại thường xuyên vào thị trường Nga như đưa hàng hóa đi tham dự hội chợ, triển lãm quốc tế ở Nga và cử các đoàn sang thị trường Nga khảo sát, tìm đối tác hợp tác kinh doanh, nhất là đối với các mặt hàng Việt Nam có thế mạnh. Để bảo đảm chất lượng sản phẩm, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải duy trì ngay từ những công đoạn ban đầu trong các khâu sản xuất, chế biến, đóng gói... mới có thể duy trì, tăng thị phần và đưa thêm các mặt hàng mới vào thị trường Nga. Mặt khác, cần giảm tỷ lệ xuất khẩu các mặt hàng nguyên liệu, tăng xuất khẩu các sản phẩm chế biến vào thị trường Nga để tăng giá trị hàng hóa./. 8. ASEAN Trong ASEAN, chỉ có Việt Nam, Thái Lan và Indonesia là có cơ cấu xuất khẩu tương đối đồng đều như xuất khẩu gạo, hàng nông sản. Trong khi các nước khác trong khối đều phải nhập khẩu như Philippines, Malaysia, Singapore, Brunei... Vì vậy, các DN Việt Nam đừng ngần ngại, bất cứ thị trường nào cũng luôn luôn có những “khoảng hở”, Việt Nam phải chịu khó theo dõi và nắm bắt những cơ hội cho các DN biết khai thác tốt thị trường. Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam ( VCCI ) nên thường xuyên tổ chức đoàn khảo sát nghiên cứu thị trường, nghiên cứu những mặt hàng chúng ta có thế mạnh để phát triển xuất khẩu sang ASEAN. Bên cạnh đó hợp với các nước bạn để trao đổi thông tin, tổ chức hội chợ triển lãm, xây dựng website để doanh nghiệp cập nhật thông tin mới nhất về thị trường. Các doanh nghiệp Việt Nam cần tận dụng những lợi thế và ưu đãi để xúc tiến xuất khẩu sang thị trường các nước ASEAN như Thái Lan, Indonesia, Malaysia. Nhiệm vụ đặt ra hiện nay là phải tổ chức nghiên cứu thị trường các nước ASEAN để hàng hóa sản xuất ra có thể cạnh tranh với các nước trong khu vực. Các doanh nghiệp Vịêt Nam cần chú ý đầu tư máy móc thiết bị để nâng cao năng lực cạnh tranh và Nhà nước cũng cần có những hỗ trợ về thông tin qua các cuộc hội thảo, đào tạo giới thiệu về thị trường các nước trong ASEAN, giới thịêu những ưu đãi và thuận lợi mà doanh nghiệp Việt Nam được hưởng cũng như những khó khăn mà doanh nghiệp có thể gặp phải, để doanh nghiệp định hướng chiến lược phát triển sản phẩm tại các thị trường này. Tập trung đẩy mạnh xuất khẩu sang Lào, Campuchia, Myanmar… trong năm 2010 là hết sức quan trọng . Vì hiện nay khi hàng hóa xuất khẩu sang một số thị trường truyền thống như Singapore đang gặp khó khăn do nhu cầu đã đến mức bão hòa Cần tận dụng hết tiềm năng hợp tác nội khối (dựa trên các Hiệp định đã ký về tự do thương mại, cam kết dỡ bỏ hàng rào kỹ thuật, thuế…) để tăng kim ngạch thương mại, tạo thuận lợi cho việc lưu thông hàng hóa giữa các nước trong ASEAN. Khai thác triệt để những tiềm năng, lợi thế trong thương mại nội khốí, tỷ trọng thương mại nội khối Để thúc đẩy xuất khẩu, Việt Nam cần có những biện pháp cũng như cơ chế chính sách nhằm đẩy mạnh xuất khẩu những sản phẩm thế mạnh như dệt may, giày dép, thuỷ sản… Đối với ngành thuỷ sản: tuy các nước ASEAN cũng xuất khẩu thuỷ sản, nhưng Việt Nam vẫn có thể thâm nhập vào những thị trường này. Tuy nhiên, để đẩy mạnh xuất khẩu, ngoài vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, việc ký thoả thuận về tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm giữa các cơ quan quản lý chất lượng các nước ASEAN là rất cần thiết. Đối với những mặt hàng nông sản không mang giá trị gia tăng cao thì Nhà Nước cần khuyến khích các doanh nghiệp chú trọng nhiều đến chất lượng để tăng thêm giá trị gia tăng cho sản phẩm.. KẾT LUẬN ™{˜ Kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường chủ lực của Việt Nam đều tăng trưởng qua các năm với số lượng lớn, kim ngạch cao. Nhà nước luôn khuyến khích hỗ trợ cho xuất khẩu song nguồn lực của nhà nước không phải là vô hạn do đó các doanh nghiệp cần phải nỗ lực, cố gắng trong hoạt động xuất khẩu của công ty mình bằng cách tận dụng những lợi thế mình có và liên kết với các doanh nghiệp khác để khắc phục những hạn chế, những điểm yếu của bản thân doanh nghiệp. Với những thành tựu mà VN đã đạt được như việc trở thành thành viên chính thức của khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), gia nhập WTO, ký kết các hiệp định thương mại song phương, đa phương với nhiều thị trường lớn đã đặt các doanh nghiệp Việt Nam trước những cơ hội to lớn cũng như những thách thức khó khăn. Các doanh nghiệp cần phải biết “sáng suốt” tận dụng triệt để những cơ hội để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của mình. Làm sao để có thể chuyên môn từ khâu tìm nguồn nguyên liệu đầu vào đến hoàn tất hợp đồng đầu ra, tạo được lòng tin cho nhà nhập khẩu bằng chất lượng đúng tiêu chuẩn, giá cả cạnh tranh… để từ đó có được những hợp đồng dài hạn với số lượng lớn không phải doanh nghiệp nào cũng làm được. Mong rằng trong tương lai Việt Nam sẽ có được vị thế trên thế giới bằng chính từng sản phẩm chất lượng cao “made in Việt Nam”…. TÀI LIỆU THAM KHẢO & GS.TS Võ Thanh Thu _Ths Ngô Thị Hải Xuân, 2006, Kinh tế và phân tích hoạt động kinh doanh thương mại, NXB Lao động – Xã hội www.gso.gov.vn _ Tổng cục thống kê Việt Nam www.moit.gov.vn _Bộ Công thương Việt Nam www.customs.gov.vn _ Tổng cục Hải quan Việt Nam www.ttnn.com.vn _ Cổng thông tin thị trường nước ngoài www.ngoaithuong.vn _ Cổng thông tin xuất khẩu Việt Nam www.vcci.com.vn _ Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam www.vinanet.com.vn _ Trang thông tin thị trường hàng hóa www.vietrade.gov.vn _ Cục xúc tiến thương mại www.khuyennongvn.gov.vn www.chinhphu.vn www.xttm.agroviet.gov.vn www.dangcongsan.vn www.thongtinthuongmaivietnam.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbai tap 2.doc
  • docxcau 2.docx
Luận văn liên quan