Mục lục
Lời Mở dầu 3
Chương I Những vấn đề cơ bản về khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) 5
1. Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và AFTA nói riêng. 5
1.1. Cơ sở của hội nhập kinh tế . 5
1.2. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tê đối với Việt Nam. 6
2. Quá trình hình thành và phát triển của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA ). 9
2.1. Quá trình hình thành và phát triển. 9
2.2. Sự ra đời và những mục tiêu chính của AFTA. 10
2.3. Những quy định chung về AFTA-CEPT . 11
3. Những cơ hội và thác thức đối với nền kinh tế Việt Nam khi tham gia AFTA. 16
3.1. Những cơ hội thuận lợi cho Việt Nam khi tham gia vào AFTA Những năm gần đây đầu tư của các nước ASEAN đang có xu hướng tăng nhanh. Sự tham gia của Việt Nam vào AFTA sẽ tạo ra thuận lợi cho sự phát triển kinh tế phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước 16
3.2. Những khó khăn và thách thức đặt ra cho Việt Nam khi tham gia vào AFTA-CEPT . 18
Chương II Thực trạng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong điều kiện thực hiện lộ trình AFTA-CEPT 20
1. Quá trình thực hiện cam kết của Việt Nam với AFTA-CEPT . 20
1.1. Các hoạt động chuẩn bị để thực hiện CEPT/ AFTA của Việt Nam. 20
1.2. Về tổ chức. 20
1.3. Về lịch trình cắt giảm thuế tổng thể. 21
1.4. Các biện pháp phi thuế quan. 23
1.5. Trong lĩnh vực hải quan. 24
2. Thực trạng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong quá trình thực hiện lộ trình AFTA-CEPT . 27
2.1. Tình hình kim ngạch xuất khẩu từ 1986 đến nay. 27
2.2. Tình hình xuất khẩu theo mặt hàng. 29
2.3. Tình hình xuất khẩu theo thị trường. 31
2.4. Những tác động khi tham gia AFTA tới xuất khẩu của Việt Nam 33
3. Đánh giá chung về tình hình xuất khẩu của Việt Nam từ khi tham gia AFTA-CEPT đến nay. 35
3.1. Những kết quả đạt được. 35
3.2. Những hạn chế và nguyên nhân. 35
Chương III Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam trong điều kiện thực hiện lộ trình AFTA - CEPT 37
1. Quan điểm xuất khẩu của Việt Nam. 37
2. Một số biện pháp chủ yếu thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam trong điều kiện thực hiện lộ trình AFTA-CEPT 37
2.1. Nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá 38
2.2. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao tỷ trọng các mặt hàng chế biến. 39
2.3. Thực hiện tốt công tác đào tạo cán bộ và cung cấp thông tin 40
3. Một số kiến nghị với nhà nước . 41
3.1. Hoàn thiện hệ thống chính sách 41
3.2. Thống nhất các tiêu chuẩn quốc gia của Việt Nam, đáp ứng được và hài hoà với các tiêu chuẩn quốc tế. 46
Kết luận 48
Tài liệu tham khảo 49
52 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3152 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong điều kiện thực hiện lộ trình AFTA - CEPT, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hực hiện việc phân tích 2 loại thuế là thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế giá trị gia tăng hiện cũng đánh trên hàng nhập khẩu ra khỏi thuế nhập khẩu hiện nay, trước khi tiến hành việc cắt giảm thuế nhập khẩu thực sự từ 1998 . Do đó, mức thuế nhập khẩu phải giảm trên phần thuế nhập khẩu còn lại sẽ là thấp so với mức phải giảm nếu không có sự phân tích hai loại thuế trên.
Có thể nói Việt Nam thực hiện rất ngiêm túc và rất thậm trọng việc giảm thuế quan, để tránh ảnh hưởng tới nguồn thu ngân sách và làm giảm được giá hàng nhập khẩu góp phần cải thiện điều kiện kinh doanh và tiêu dùng trong nước còn các doanh nghiệp Việt Nam sẽ được hưởng mức thuế ưu đãi khi xuất khẩu hàng hoá sang các nước ASEAN.
Các Danh mục hàng hoá thực hiện CEPT của Việt Nam được xây dựng tuân theo nguyên tắc chỉ đạo của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và công bố với các nước ASEAN ngày 10/12/1995 tại phiên họp lần thứ 8 của Hội đồng AFTA cụ thể như sau:
Bảng 3: Danh mục hàng hoá trong khuôn khổ CEPT của Việt Nam năm 1995
Danh mục hàng hoá
Số nhóm mặt hàng chịu thuế
Tỷ lệ %
Giảm thuế ngay
1633
54,1
Loại trừ tạm thời
1189
39,5
Loại trừ hoàn toàn
65
5,5
Nhạy cảm
26
0,9
Tổng
3013
100
Nguồn: Ban thư ký ASEAN
Đến tháng 02/1998, các Danh mục trong khuôn khổ CEPT của Việt Nam thay đổi do việc phân loại hàng hoá vào các Danh mục thực hiện CEPT và thực hiện thống nhất biểu thuế quan.
Bảng 4: Danh mục hàng hoá trong khuôn khổ CEPT của Việt Nam từ
1996-1998
Danh mục hàng hoá
Tổng số các nhóm hàng chịu thuế
1996
1997
1998
Giảm ngay
857
1497
1661
Loại trừ tạm thời
1189
1143
1317
Nhạy cảm
26
26
26
Loại trừ hoàn toàn
146
146
213
Tổng
2218
2812
3217
Nguồn: Bộ tài chính và Ban thư ký ASEAN
Đến năm 2003, tổng các mặt hàng được đưa vào danh mục các mặt hàng cắt giảm ngay(IL) là 4230 dòng thuế, trong đó 2960 dòng có thuế suất 0-5%. Dự kiến có khoảng 1940 dòng thuế thuộc danh mục loại trừ tạm thời được chuyển vào cắt giảm năm 2001-2003 để đến năm 2006 thuế suất nhập khẩu toàn bộ các dòng thuế thực hiện AFTA dúng theo cam kế 0-5% Nguồn: Trần Cao Thành- khu vực mậu dịch tự do Đông nam á, hội nhập của Việt Nam –Tạp chí Nghiên cứ Đông Nam á 2/2003
Các biện pháp phi thuế quan.
Ở nước ta, các biện pháp phi thuế quan bao gồm những biện pháp hạn chế số lượng mặt hàng, hạn ngạch, giấy phép, các tiêu chuẩn kỹ thuật. Những hạn chế về số lượng và hạn ngạch được thể hiện trong quy định của Chính phủ về các mặt hàng xuất nhập khẩu. Trong đó những mặt hàng cấm xuất nhập khẩu là những mặt hàng để bảo đảm an ninh xã hội, sức khoẻ con người, bảo vệ nguồn tài nguyên quý hiểm và môi trường. Các mặt hàng có liên đến cân đối của nền kinh tế quốc dân Chính phủ sẽ quy định khối lượng được phép nhập và phân bổ hạn mức nhập khẩu như: tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng tiêu dùng không được vượt quá 20% giá trị xuất hàng năm. Ngoài ra, Chính phủ cũng đưa ra những nhóm hàng thuộc diện quản lý theo bộ chuyên ngành và những nhóm hàng quản lý bằng hạn ngạch. Cho đến nay, Việt Nam chỉ áp dụng hạn ngạch đối với 2 nhóm hàng là gạo và dệt may xuất khẩu vào EU và Canada do đó năm 2001 sẽ là năm tất cả các hàng vào phi thuế quan phải được loại bỏ đối với các sản phẩm trong Danh mục này của Việt Nam.
Vào đầu mỗi năm Việt Nam ban hành một thông tư hướng dẫn vào các hạn chế định hướng sẽ được áp dụng. Tuy nhiên, Việt Nam đã sẵn sàng đệ trình một Danh mục chính thức về các hạn chế định lượng cho ban thư ký ASEAN. Các hạn chế định lượng cần được loại bỏ ngay với một số các hàng hoá trong Danh mục giảm thuế ngay của Việt Nam đã đệ trình cho ASEAN vào năm 1995 để các mặt hàng này được hợp pháp hoá hưởng các ưu đãi theo CEPT.
Còn về các hàng rào phi thuế quan khác, việc thực hiện cam kết bãi bỏ theo CEPT sẽ rất khó về tính bảo thủ, thiếu lành mạnh của nền kinh tế Việt Nam hiện nay, một bản thảo Danh sách các hàng rào phi thuế liên quan.Trong đó nhiều nhóm mặt hàng quan trọng với lịch trình cắt giảm mang tính chất bảo hộ có vẻ đã làm chậm đi tiến trình thực hiện cam kết xoá bỏ hàng rào phi thuế quan theo CEPT. Các hàng rào về tiêu chuẩn kỹ thuật về đảm bảo vệ sinh môi trường và sức khoẻ hiện nay vẫn đang được tiếp tục áp dụng cho các hàng hoá trong Danh mục giảm ngay.
Việt Nam đã cam kết đệ trình sớm danh mục các hạn chế về số lượng(QRS) và các biện pháp phi thuế quan khác(NTBS) xong do các biện pháp phi thuế quan của Việt Nam đơn giản chủ yếu là các biện pháp như : giấy phép hay hạn ngạch trong khi đó các biện pháp phi thuế quan mà các nước ASEAN khác đang áp dụng lại rất đa dạng đặc biệt là các biện pháp về tổ chức kỹ thuật và chất lượng là những biên pháp phức tạp và tinh vi mà ở Việt Nam hiện nay chưa áp dụng, cho nên để đáp ứng được yêu cầu bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước, trước mắt Việt Nam cần phải gấp rút ban hành bổ sung các biện pháp phi thuế quan tương tự như các nước ASEAN đang áp dụng, nhất là các biện pháp mà trong tương lai có thể không bị loại bỏ trước khi chúng ta đệ trình danh mục các biện pháp phi thuế quan của ta cho ASEAN và tiến hành loại bỏ chúng.
Trong lĩnh vực hải quan.
Việt Nam cũng đã hợp tác và đang đàm phán với các nước ASEAN trên một loạt các vấn đề như : điều hoà thống nhất danh mục biểu thuế quan, điều hoà thống nhất trị giá hải quan, điều hoà thống nhất quy trình thủ tục hải quan, lập luồng xanh để thông qua nhanh cho các sản phẩm của CEPT, đặc biệt là tiến lới hiệp định hải quan ASEAN sẽ ký kết.
* Thống nhất biểu thuế quan
Việt Nam có nghĩa vụ xem xét lại hệ thống phân loại thuế quan của mình sao cho phù hợp với quy định của hiệp định hợp tác hải quan. Theo đó các nước thành viên khối ASEAN sẽ sử dụng biểu thuế quan theo hệ thống điều hoà của hội đồng hợp tác hải quan hệ 8 chữ số. Biểu thuế quan điều hoà ASEAN (AHTN) được hy vọng sẽ có khoảng 6400 nhóm mặt hàng khi ASEAN hoàn thành.
Việc thống nhất Danh mục phân loại hàng hoá xuất nhập khẩu năm 1992 của Việt Nam (hệ 6 chữ số) với biểu 8 chữ số được bắt đầu từ năm 1995 và được thực hiện vào năm 1996 (như một phần của quá trình chuẩn bị để trở thành thành viên ASEAN, tham gia ASEAN. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khác biệt lớn giữa hệ thống phân loại thuế hiện nay của Việt Nam và biểu thuế quan điều hoà HS 8 chữ số. Điều này là do việc phân loại một số mặt hàng của Việt Nam dựa trên việc sử dụng chứ không phải kiểu mặt hàng. Trong những trường hợp này, cần có những ghi chú, giải thích đi kèm các mã số hải quan và những vấn đề của việc giải thích đã dẫn tới các thủ tục hành chính rườm rà và mâu thuẫn nhau.
Theo các quan chức Chính phủ cho biết thì Việt Nam hiện đang làm việc trên cơ sở phân loại thuế quan được sưả đổi phù hợp với AHTN và dự định sẽ sớm đưa vào áp dụng.
* Thống nhất hệ số tính giá hải quan.
Việc tính giá hải quan (nghĩa là cách định giá trị hàng nhập khẩu của nước nhập) có 3 mục đích chính: Tính thuế nhập khẩu, thu nhập số liệu thống kê và quy định hạn ngạch, giấy phép nhập khẩu. Do vậy, để thực hiện được cải cách thuế quan trong khuôn khổ AFTA các quốc gia cần thống nhất hệ thống tính giá hải quan. Hiện nay có 3 phương pháp tính giá hải quan được các nước ASEAN áp dụng: gồm chính sách giá theo giá các giao dịch GATT (GATT Transactions Value - GTV) ,theo quy định giá Brussels (BDV), theo giá tiêu dùng trong nước (HCV).
Các quốc giá ASEAN đã đồng ý thực hiện việc định giá theo GVT vào năm 1997 và Việt Nam năm 2000.
Trong khi đó, hiện nayViệt Nam đang áp dụng đồng thời phương pháp tính BDV, GTV và cả hệ thống giá tham khảo (bảng giá tối thiếu để tính thuế) cho một số nhóm hàng nhất định hệ thống giá tham khảo là giá tối thiểu sử dụng để tính trị giá thuế. Việc chuyển sang hệ thống GTV là rất khó khăn đối với Việt Nam vì sự tồn tại các hoạt động gian lận thương mại quốc tế. Tuy nhiên, nhận thức được tầm quan trọng của việc thống nhất cách tính giá hải quan, Việt Nam đã xây dựng kế hoạch áp dụng GTV. Hiện nay, Tổng cục Hải quan cũng đang trong quá trình nghiên cứu và đào tạo các nhân viên của mình về Hiệp định định giá GATT (GVT)
* Thống nhất thủ tục hải quan
Các quốc gia ASEAN gồm cả Việt Nam đã đồng ý áp dụng mẫu tờ khai hàng hoá ASEAN chung và bộ thủ tục hải quan chung dựa trên các tập quán quốc tế tốt nhất.
Ở nước ta do sự thiếu đồng nhất và việc sử dụng bảng giá tham khảo trong định giá hải quan đã làm cho việc thống nhất các thủ tục hải quan trở nên rất khó khăn. Việt Nam vẫn chưa áp dụng tờ khai hải quan chung ASEAN vì thiếu hệ thống mã số hoàn chỉnh trên toàn quốc và hệ thống quản lý thiếu hoàn thiện. Do vậy, để áp dụng mẫu này, Việt Nam đã và đang cải thiện hệ thống đánh mã số, đào tạo cán bộ hải quan và hệ thống mới và cải thiện hoạt động quản lý.
* Tham gia xây dựng hệ thống luồng xanh hải quan
Việt Nam bắt đầu tham gia hệ thống luồng xanh hải quan vào ngày 01/01/1996 như các quốc gia ASEAN khác. Mục tiêu hiện nay của Việt Nam là xem xét và rà soát lại việc thực hiện để tìm những cách thức cải thiện hệ thống. Theo nguồn tin Chính phủ, trong năm 1996 chỉ có 100 giấy chứng nhận xuất xứ được ban hành để tham gia hệ thống này. Nguyên nhân chủ yếu là do khoản lợi chênh lệch giữa thuế suất thông thường và thuế suất CEPT rất nhỏ (ở Việt Nam hiện nay hai thuế suất này hầu như bằng nhau), không đủ để khuyến khích các nhà xuất nhập khẩu tham gia hệ thống này.
* Thống nhất các tiêu chuẩn kỹ thuật
Bộ khoa học công nghệ và môi trường chịu trách nhiệm quản lý các tiêu chuẩn đo lượng và quản lý chất lượng. Cho đến nay, Việt Nam đã ban hành hơn 5000 tiêu chuẩn hiệu quả. Việt Nam cũng đã thống nhất các biện pháp kỹ thuật và áp dụng các chứng nhận tiêu chuẩn theo hướng và các tiêu chuẩn của tổ chức tiêu chuẩn thế giới (ISO). Việt Nam cũng đang trong tiến trình áp dụng những hướng dẫn của Uỷ ban cố vấn ASEAN về tiêu chuẩn và chất lượng (ACCSQ). Các điều luật quy định về tiêu chuẩn vệ sinh của Việt Nam đã được ban hành từ năm 1993.
* Phụ phí hải quan
Các nước ASEAN quyết định các quốc gia thành viên ASEAN phải có lịch trình xoá bỏ các phụ phí hải quan vào cuối năm 1996. Việt Nam có 2 nhóm hàng phải chịu phụ phí hải quan là thép xây dựng nhập khẩu và hạt điều nhập khẩu. Theo các quan chức Chính phủ, phụ phí này sẽ được loại bỏ trong tương lai.
Thực trạng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong quá trình thực hiện lộ trình AFTA-CEPT .
Tình hình kim ngạch xuất khẩu từ 1986 đến nay.
Chiến lược phát triển kinh tế hướng về xuất khẩu trong những năm qua của Việt Nam đã thu được những thành tựu đáng khích lệ. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng năm thời kỳ 1990-1999 đạt 20%, được xếp vào mức cao nhất thế giới (xấp xỉ Trung Quốc).Từ chỗ chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng thu nhập quốc dân (GDP) 24% năm 1991, đến nay xuất khẩu đã chiếm gần 50% (2002). Nếu như năm 1992 tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam chỉ đạt xấp xỉ 2tỷ USD thì đến năm 2002 đã đạt 16,5 tỷ USD, gấp gần 8 lần so với năm 1992. năm 2003 đạt khoảng 20 tỷ USD nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu trong 8 năm(1996-2003) đạt 17,5%/năm; gấp 2,5 lần so với tốc độ tăng trưởng bình quân của GDP.
Hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam đã có mặt ở hầu hết các thị trường lớn trên thế giới như EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản, ASEAN …
Có thể nói trong 18 năm đổi mới xuất khẩu của Việt Nam đã trở thành trụ cột của nền kinh tế và là động lực tăng trưởng kinh tế chủ yếu, xuất khẩu cũng góp phần vào việc giải quyết các vấn đề cấp bách của xã hội như : giải quyết công ăn viẹc làm, xoá đói giảm nghèo, thúc đẩy quá trình chuyển sang kinh tế thi trường và chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với biến đổi của thị trường thế giới.
Bảng: Kim ngạch xuất khẩu qua các năm.
Năm
Xuất khẩu ( triệu USD)
Tốc độ tăng (%)
1991
2087,1
-13,2
1992
2580,7
23,7
1993
2985,2
15,7
1994
4054,3
35,8
1995
5448,9
34,4
1996
7255,9
33,2
1997
9185,0
26,6
1998
9360,3
1,9
1999
11541,4
23,3
2000
14482,7
25,5
2001
15027,0
3,8
2002
16705,8
11,2
2003
19880,0
19,0
Nguồn : Số liệu bộ Thương Mại
Bảng: Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu theo nhóm hàng(%).
Năm
1995
2000
2001
2002
2003
Hàng công nghiệp và khoáng sản
25,3
37,2
34,9
31,2
30,9
Hàng công nghiệp và tiểu thủ CN
28,5
33,9
35,7
38,3
40,0
Hàng nông, lâm sản
34,8
18,8
17,3
18,4
17,9
Hàng thuỷ sản
11,4
10,2
12,1
12,1
11,2
Biểu đồ 1 Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu theo nhóm hàng năm 2003
Hàng công nghiệp nặng và khoáng sản
Hàng công nghiệp và
tiểu thủ công nghiệp
Hàng nông
lâm
sản
Hàng thuỷ sản
Tình hình xuất khẩu theo mặt hàng.
Giai đoạn trước 1989 : Việt Nam chưa có dầu thô và gạo để xuất khẩu nên tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước chưa bao giờ vượt quá 1 tỷ USD. Trong cơ cấu xuất khẩu chung hàng nông-lâm-hải sản có xu hướng giảm dần, hàng công nghiệp nặng và khoáng sản có xu hướng tăng dần, hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp không thay đôi. Bắt đầu từ năm 1989, kim ngạch xuất khẩu của ta đạt trên 1 tỷ USD do các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đã có mặt hàng dầu thô, điều này làm tỷ trọng hàng công nghiệp nặng và khoáng sản lại có chiều hướng tăng lên trong thời kỳ này từ 0,8% năm 1986 lên 15,6% năm 1990
Giai đoạn 1991-1995: xu hướng hàng công nghiệp nặng và khoáng sản vẫn tiếp tục tăng cao nhất là năm 1992 chiếm 37% kim ngạch xuất khẩu của nước, sau đó là sự lên ngôi của mặt hàng dệt may, chế biến hải sản và giày dép xuất khẩu. Như vậy, kinh tế nước ta đang ở trong giai đoạn mở đầu để chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp , giai đoạn để nền công nghiệp khởi động bằng lợi thế về địa lý, về nhân lực…làm cho nền kinh tế tăng trưởng theo hướng xuất khẩu.
Giai đoạn 1996-2000: Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam có sự thay đổi tích cực xong sự chuyển dịch này vẫn còn chậm. Năm 1996 cơ cấu mặt hàng nông lâm hải sản và công nghiệp nặng, khoáng sản chiếm 71,6% . năm 2000 tỷ trọng này là 62,%. Riêng đối với hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp tăng nhanh năm 1997 nhưng có xu hướng trững lại ở năm 1998và 1999. Đến năm 2000 tỷ trọng này đạt tới 37,9% trong cơ cấu xuất khẩu của cả nước.
Như vậy, trong thời kỳ đổi mới, đã hình thành một số mặt hàng chủ lực. Năm 1991 đó là 4 mặt hàng: dầu thô, thuỷ hải sản, gạo, dệt may. Năm 2000 có thêm 8 nặt hàng: cà phê, cao su, nhân điều, giầy dép, than đá, hàng điện tử, hàng thủ công mỹ nghệ và rau quả, chúng sẽ là các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh của Việt Nam trong những năm tới.
Năm 2001 cà fê và hạt tiêu vẫn giữ vị trí cao trên thế giới. Gạo trở lại vị trí số hai thế giới sau Thái Lan, Dệt may tăng mạnh, năm 2001 chưa tới 2 tỷ USD, năm 2002 đạt 2,6 tỷ USD, năm 2003 đạt 3,6 tỷ USD. Thuỷ sản đến tháng 10/2000 mới đạt 1 tỷ USD thì năm 2002 vượt 2 tỷ USD, năm 2003 dù gặp khó khăn vẫn đạt 2,3 tỷ USD, trong đó xuất khẩu tôm vào Nhật dứng thứ nhì sau Indonexia…
Bảng: Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu trong những năm qua.
Mặt hàng
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
Dầu thô(nghìn tấn)
8750,0
9638,0
12145,0
14881,9
15423,5
16731,6
16879,0
17169,0
Dệt may(triệu tấn)
1150,0
1503,0
1450,0
1746,2
1891,9
1975,4
2752,0
3630,0
Giày dép(triệu USD)
530,0
978,0
1031,.0
1387,1
1471,7
1578,4
1867,0
2225,0
Thuỷ sản(triệu USD)
697,0
782,0
858,0
973,6
1478,5
1816,4
2023,0
2217,0
Gạo(nghìn tấn)
3003,0
3575,0
3730,0
4508,3
3476,7
3721,0
3241,0
3820,0
Cà fê(nghìn tấn)
284,0
392,0
382,0
482,0
733,9
931,0
719,0
700,0
Điện tử máy tính (triệu USD)
585
788,6
695,6
505,0
686,0
Thời báo kinh tế Việt Nam 2003-2004
Bảng: Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu theo nhóm hàng(%)
Mặt hàng chủ lực
2000
2001
2002
2003
Dầu thô
24,2
20,8
19,6
19,0
Dệt may
13,1
13,1
16,5
18,3
Giày dép
10,2
10,6
11,2
11,2
Thuỷ sản
10,2
12,1
12,1
11,2
Gạo
4,6
4,1
4,3
3,6
Điện tử, máy tính
5,4
4,7
2,9
3,5
Sản phẩm gỗ
2,0
2,2
2,6
2,8
Cà phê
3,5
2,6
1,9
2,4
Cao su
1,1
1,1
1,6
1,9
Thủ công mỹ nghệ
2,0
2,1
2,0
1,8
Dây điện và dây cáp điện
0,0
1,2
1,1
1,5
Hạt điều
1,2
1,0
1,3
1,4
Than đá
0,6
0,8
0,9
0,9
Sản phẩm nhựa
0,7
0,8
0,9
0,9
Xe đạp và phụ tùng xe đạp
-
-
0,9
0,8
Rau quả
1,5
2,3
1,2
0,8
Hạt tiêu
1,0
0,6
0,6
0,5
Cộng 17 mặt hàng
81,3
80,1
81,5
82,4
Nguồn Thời báo kinh tế Việt Nam phần kinh tế năm 2003-2004
Tình hình xuất khẩu theo thị trường.
Tính tới thời điểm năm 2000, Việt Nam có quan hệ Thương Mại với 160 quốc gia và vùng lãnh thổ, đã ký hiệp định Thương Mại với 61 nước và đã có thoả thuận về đối xử tối huệ quốc(MFN) với 72 nước.
Một trong những thành tựu to lớn trong 18 năm qua là Việt Nam đã vượt qua được cuộc khủng hoảng khi từ tưởng truyền thống không còn nũa, ,đảm bảo được yêu cầu xuất khẩu hàng hoá.Thay vào thị trường liên xô -đông âu, châu á nay đã nhanh chóng trở thành thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam ,năm 1991 tỷ trọng của thị trường này chiếm 77% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, trong hai năm sau đó do khai thông thị trường Đông âu và Bắc mỹ, tỷ trọng của thị trường châu á có giảm xuống nhưng vẫn duy trì ở mức trên dưới 60%tổng kim ngạch xuất khẩu.
Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào EU nói riêng và châu âu nói chung tăng đều qua các năm. Năm 1991 tỷ trọng xuất khẩu vào EU mới chiếm 5,7% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam nhưng đến năm 2000 đã là 21,7%.
Quan hệ thương mại với bắc mỹ, trong đó chủ yếu là mỹ đã có bước phát triển nhanh kể từ khi bình thường hoá quan hệ năm 1995. Lúc đó kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ chỉ đạt 170 Triệu USD đến năm 2000 đã đạt 732,44 triệu USD, chiếm tỷ trọng 5,1% trong tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước hơn hẳn con số 3,1% năm 1995. Triển vọng ở thị trường này rất lớn nhất là khi Việt Nam đã ký hiệp định Thương Mại với Mỹ và được hưởng quy chế quan hệ Thương Mại bình thường. Xuất khẩu sang thị trường châu Đại Dương cũng được tăng lên khá nhanh, tỷ trọng của thị trường này từ chỗ chỉ chiếm 0,2% năm 1991 lêm 8,89% năm 2000.
Bảng:Những bạn hàng lớn của Việt Nam 10 tháng năm 2003.
Tên nước và vùng lãnh thổ
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Xuất siêu(+) nhập siêu(-)
Mỹ
3401,5
1030,0
+2371,5
Nhật
2354,3
2495,0
-140,7
CHND Trung Hoa
1331,5
2496,1
-1164,6
Australia
1159,5
221,9
+937,6
Singapore
860,1
2335,2
-1475,1
Đức
674,9
479,7
+195,2
Đài Loan
607,6
2317,5
-1709,9
Anh
604,9
177,9
+427,0
Indonesia
413,7
459,9
-46,2
Hà lan
398,7
302,6
+96,1
Nguồn số liệu bộ Thương Mại-Thời báo kinh tế Việt Nam .
Những tác động khi tham gia AFTA tới xuất khẩu của Việt Nam
Cũng giống như các nước thành viên khác, AFTA sẽ mở ra nhiều cơ hội mới, nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức cho Việt Nam, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang trong thời kỳ chuyển đổi từ kinh tế tập chung quan niêu bao cấp kém hiệu quả sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, hầu hết các ngành công nghiệp còn non yếu xuất khẩu chủ yếu ở dạng nguyên liệu thô và thuế nhập khẩu còn là một nguồn thu quan trọng của ngân sách. Việt Nam bắt đầu tham gia AFTA từ 1/1/1996 bằng việc đưa ra 875 mặt hàng vào thực hiện CEPT , xong tất cả các mặt hàng này đều ở khung thuế suất 0-5%. Mặt khác chúngta cũng chưa đệ trình cho ASEAN danh mục các biện pháp phi thuế quan để tiên hành loại bỏ chúng nên có thể nói thực tế đến nay AFTA vẫn chưa tác động mạnh mẽ đến Việt Nam. Tuy nhiên, ở một mức độ nào đó trước mắt cũng như lâu dài AFTA đã tác động tới xuất khẩu của Việt Nam như thế nào? Những thuận lợi và khó khăn trước mắt của xuất khẩu Việt Nam khi tham gia vào AFTA ?
Thuận lợi.
Việc tham gia AFTA sẽ giúp hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN được hưởng thuế suất ưu đãi CEPT thấp của các nước ASEAN, hạ giá thành các sản phẩm xuất khẩu, tăng cường khả năng cạnh tranh về giá của các hàng hoá này tạo điều kiện thúc đẩy xuất khẩu.
Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ được hưởng lợi thế từ việc nhập khẩu nguyên liệu vật tư từ các nước ASEAN với mức thuế nhập khẩu thấp góp phần làm giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm thúc đẩy sản xuất phát triển tiến tới thúc đẩy xuất khẩu phát triển .
Việt Nam sẽ có một thị trường xuất khẩu rộng lớn nằm kề bên có đòi hỏi về chất lượng không phải quá cao, với các ưu đãi buôn bán sé được mở ra cho các doanh nghiệp Việt Nam khi ASEAN bao gồm 10 thành viên với 500 Triệu dân thì đây là một thị trường không nhỏ có được thị trường tiêu thụ mới là một yếu tố giúp huy động tiềm năng lao động và tài nguyên dồi dào của Việt Nam vào phát triển xuất khẩu.
Về lâu dài, AFTA có tác động làm thay đổi cơ cấu công nghiệp ở các nước ASEAN, một số ngành sử dụng nhiều lao động và tài nguyên như dệt may, chế biến thực phẩm… ở một số nước sẽ giảm đi trong khi đó Việt Nam lại có lợi thế phát triển các ngành nàyvà như vậy tất yếu sẽ dẫn đến khả năng Việt Nam sẽ tăng xuất khẩu các sản phẩm thuộc các ngành này trên thị trường ASEAN.
AFTA sẽ cũng có tác động gián tiếp làm tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường ngoài ASEAN do nhập được đầu vào cho sản xuất xuất khẩu từ các nước ASEAN với giá rẻ hơn. Mặt khác, với tư cách là thành viên của ASEAN, Việt Nam sẽ có điều kiện để khai thác những lợi thế mới trong quan hệ Thương Mại với các nước lớn.
Khó khăn.
Khả năng cạnh tranh của hàng hoá trong nước còn yếu( về giá cả, chất lượng, mẫu mã…). Do quy mô sản xuất còn nhỏ bé, công nghệ lạc hậu, năng suất lao động thấ,a công tác quản lý kém hiệu quả.
Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là các mặt hàng dầu thô, nông lâm hải sản chưa qua chế biến hoặc mới sơ chế, dệt may, giầy dép và các sản phẩm hàng thủ công mỹ nghệ, một số khoáng sản thô…Những mặt hàng này cũng tương tự như những mặt hàng xuất khẩu của ASEAN nên ta không có nhiều lợi thế khi xuất khẩu những mặt hàng này trong điều kiện hội nhập AFTA- CEPT
CEPT dành ưu đãi chủ yếu cho hàng chế biến trong khi đó tỷ trọng hàng chế biến trong xuất khẩu của Việt Nam chỉ chiếm 18% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Trong những mặt hàng Việt Nam có khả năng xuất khẩu thì nhiều mặt hàng chưa được các nước ASEAN khác đưa vào danh mục cắt giảm thuế quan tuy có một số mặt hàng nông sản mới được bổ xung vào thực hiện CEPT. Xong tỷ trọng của nó trong xuất khẩu của Việt Nam lại rất nhỏ.
2/3 doanh số buôn bán của Việt Nam của ASEAN là với Singapore. Trong khi đó thuế suất nhập khẩu của nước này gần như bằng 0 trước khi thực hiện AFTA và rất nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Singapore được tái xuất đi các nước phát triển khác.
Các bạn hàng khác như Inđônêsia, ThaiLand, Philipine hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là nông sản chưa chế biến. Những nước này cũng xuất khẩu hàng nông sản rất mạnh và nhiều mặt hàng nông sản chưa chế biến được các nước này xếp trong danh mục hàng nông sản nhạy cảm để chưa phải thực hiện cắt giảm thuế, như vậy Việt Nam chưa được hưởng nhiều ưu đãi lắm khi tham gia vào AFTA.
Đánh giá chung về tình hình xuất khẩu của Việt Nam từ khi tham gia AFTA-CEPT đến nay.
Những kết quả đạt được.
Nhìn chung, tình hình xuất khẩu của Việt Nam từ khi tham gia AFTA-CEPT đến nay đã đạt được những thành tựu đáng kể, đến nay sản phẩm hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam đã có mặt trên thị trường của hơn 150 nước thuộc khắp các châu lục. Trong những năm qua Việt Nam đã ký thêm được 60 hiệp định Thương Mại với các nước, năm 2000 kim ngạch xuất khẩu tăng gấp 6 lần so với năm 1990 và đến năm 2003 kim ngạch xuất khẩu đạt gần 20 tỷ USD. Giai đoạn 1991-2000 kim ngạch xuất khẩu tính trên đầu người năm 2000 đạt 180USD/Người/năm là mức của một quốc gia có ngoại thương tương đối phát triển, năm 2003 kim ngạch tính theo đầu người khoảng 250 USD. Một số sản phẩm của Việt Nam trên trường quốc tế: hàng thứ 2 về gạo( sau ThaiLand),nhân Điều ( sau Ấn Độ) hàng thứ 3 về CàFe… Cơ cấu xuất khẩu đã được cải thiện theo hướng tăng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng các sản phẩm thô, tạo một số mặt hàng có khối lượng lớn và thị trường tương đối ổn định. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm đã qua chế biến tăng từ khoảng 8% năm 1991 lên 40% năm 2000 trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Tóm lại xuất khẩu đã thực sự khởi sắc, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu cao đã góp phần quan trọng vào tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo nguồn thu ngoại tệ cần thiết cho công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, góp phần tích cực tiến tới cân bằng cán cân vãng lai, nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ảnh hưởng tích cực tới phát triển thị trường trong nước, kích thích sản xuất, tăng thu nhập cho người lao động.
Những hạn chế và nguyên nhân.
Hạn chế :
Quy mô xuất khẩu của nước ta còn quá nhỏ so với các nước trong khu vực kim ngạch tính theo đầu người năm 2003 là 250 USD, trong khi đó năm 2000 Trung Quốc đạt 358,8 USD, Thái Lan đạt 1113,8 USD.
Cơ cấu hàng xuất khẩu còn lạc hậu so với các nước, tỷ trọng hàng thô, hàng sơ chế còn cao, hàng gia công còn chiếm tỷ trọng lớn trong các sản phẩm công nghiệp. Xuất khẩu dịch vụ còn thấp và giá thành cao chưa phù hợp với yêu cầu của thi trường.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chưa bám sát tín hiệu của thi trường, do đó có nhiều sản phẩm làm ra khó tiêu thụ hơn cac nước trong khu vực như gạo, cà fê, chè, cao su …Việc đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh các mặt hàng xuất khẩu còn hạn chế ; đầu tư trực tiếp cho các khâu tiêu thụ sản phẩm như hoạt động xúc tiến thương mại, lập các trung tâm thương mại, kho ngoại quan ở nước ngoài..ít được quan tâm.
Nguyên nhân :
Đầu tư cho sản xuất hàng xuất khẩu những năm gần đây tuy có được chú trọng nhưng còn dàn trải , rườm rà, chưa tập chung vốn đầu tư cho chương trình sản xuất hang xuất khẩu trọng điểm để tăng sản lượng và nâng cao sức cạnh tranh củahàng xuất khẩu. Các DN có vốn đầu tư nước ngoài chưa quan tâm đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm của DN mà còn nặng về sản xuất tiêu dùng trong nước.
Việc đề ra cơ chế quản lý nhằm thực hiện phương châm hướng mạnh về xuất khẩu và hội nhập kinh tế khu vực và thế giới còn lúng túng và thiếu đồng bộ nên môi trường và cơ sở pháp lý cho hoạt động xuất nhập khẩu còn nhiều hạn chế.
Sự phối hợp giữa các bộ và địa phương đã có những chuyển biến tích cực nhưng chưa tạo được nguồn lực, sức mạnh tổng hợp nhất là việc xây dựng kết cấu hạ tàng trong thương mại phục vụ hoạt đọng xuất khẩu và xúc tiến thương mại.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN LỘ TRÌNH AFTA - CEPT
Quan điểm xuất khẩu của Việt Nam.
Có thể nói nhu cầu trao đổi xuất hiện từ thời cổ đại nhưng chỉ khi ra đời nền sản xuất hàng hoá TBCN mới dẫn đến sự phá vỡ tính chất kép kín của từng đơn vị kinh tế trong từng quốc gia và của từng nước. Tự do thương mại gắn thị trường dân tộc với thị trường thế giới, gắn phân công lao động trong nước với phân công lao động quốc tế. Ngoại thương trở nên không thể thiếu được đối với nền sản xuất đó, như LêNin đã nhận xét:" không có thị trường bên ngoài thì một số nước TBCN không thể sống được".
Nước ta và một số nước khác đã có lúc xem vấn đề độc lập kinh tế và xây dựng một nền kinh tế hoàn chỉnh mang tính chất tự cung tự cấp để tránh sự lệ thuộc vào nước ngoài. Thực tế đã chỉ ra rằng không có một quốc gia nào có thể đề ra một mục tiêu đầy tham vọng như vậy. Bởi vì không có quốc gia nào dù giàu mạnh như Mỹ hay Trung Quốc lại xây dựng một nền kinh tế tự cung tự cấp tốn kém về cả vật chất và thời gian.
Đất nước ta cũng vậy, chúng ta nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của xuất khẩu, quá trình chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu ở nước ta trong giai đoạn vừa qua đã diễn ra rất sôi động. Đảng ta xác định phải thực hiện 3 chương trình: lương thực- Thực phẩm; sản xuất hàng tiêu dùng, sản xuất hàng xuất khẩu. Đến nay, sau 15 năm đổi mới, với chính sách đa phương hoácác hoạt động kinh tế quốc dân và thực hiện chủ trương khuyến khích xuất khẩu của đảng và nhà nước , hoạt động xuất khẩu của Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc, ngày càng có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới
Một số biện pháp chủ yếu thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam trong điều kiện thực hiện lộ trình AFTA-CEPT
Để khắc phục những tồn tại trong quá trình hội nhập đồng thời để nâng cao hiệu quả tham gia của Việt Nam không chỉ trong lĩnh vực thương mại mà còn trong các lĩnh vực khác. qua bước đầu nghiên cứu, xin đưa ra một số giải pháp cơ bản sau.
Nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá
Việt Nam so với các nước khác có lợi thế về tài nguyên thiên nhiên đa dạng và phong phú, vị trí địa lý thuận lợi trong giao lưu quốc tế, nguồn lao động trẻ và dồi dào...Đây là những lợi thế dựa trên các điều kiện sản xuất vốn có lợi thế về chi phí sản xuất. Nhờ những lợi thế này mà hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra ở Việt Nam có sức cạnh tranh về giá cả, đặc biệt là những hàng hoá có hàm lượng lao động và nguyên liệu cao. Những lợi thế này đã góp phần quyết định cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam.Việt Nam chủ yếu xuất khẩu dầu thô, gạo, khoáng sản, dệt may...
Do vậy, để nâng cao tính cạnh tranh, trước hết phải sử dụng triệt để và có hiệu quả hơn những lợi thế này thông qua việc áp dụng công nghệ tiên tiến hiện đại và công nghệ phù hợp. Hơn thế nữa, các điều kiện sản xuất vốn có phải luôn được hoàn thiện, tái tạo và phát triển, nhất là đối với sức lao động, biến lợi thế "cấp thấp" thành lợi thế "cấp cao" thông qua việc phát triển nguồn nhân lực (đặc biệt là giáo dục và đào tạo) cũng như khoa học công nghệ. Nguồn nhân lực với trình độ kỹ thuật và tri thức khoa học cao không những hấp thụ được công nghệ tiên tiến, làm chủ được kinh doanh mà còn có khả năng cải tạo, hoàn thiện công nghệ đã có và sáng tạo ra công nghệ mới. Công nghệ tiên tiến kết hợp với các lợi thế về tài nguyên, vị trí, địa lý, nguồn nhân lực là điều kiện lý tưởng cho việc tranh giành và giữ vững lợi thế cạnh tranh.
Đổi mới công nghệ còn là một biện pháp để tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm - một yếu tố sống còn đối với hầu hết các doanh nghiệp hiện nay. Trong cuộc gặp gỡ giữa Thủ tướng Chính phủ và các doanh nghiệp gần đây, Chính phủ đã thể hiện quyết tâm làm hết sức mình để tạo ra thị trường khoa học và công nghệ, nhà khoa học công nghệ với các doanh nghiệp.
Từng doanh nghiệp cần đánh giá đúng thực trạng về công nghệ của mình, cùng các nhà khoa học về công nghệ tìm giải pháp khắc phục những nhược điểm, nhất là tìm cách đầu tư đổi mới công nghệ phù hợp. Trên cơ sở thực lực của mình, các doanh nghiệp đề ra chiến lược, kế hoạch đầu tư cho công nghệ mới hay đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ. Sự lựa chọn công nghệ do doanh nghiệp quyết định, khi doanh nghiệp sẵn sàng bỏ vốn chịu lỗ hoặc hưởng lãi để quyết định đầu tư công nghệ thì yêu cầu là phải chọn công nghệ phù hợp nhất: phù hợp về chi phí, về năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Lúc này các doanh nghiệp cần đến sự trợ giúp, tư vấn về các tiêu chuẩn kỹ thuật cũng như việc đánh giá, thẩm định các hợp đồng chuyển giao công nghệ. Không nhất thiết phải là công nghệ hiện đại và hiện đại nhất.
Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao tỷ trọng các mặt hàng chế biến.
- Chuyển hoàn toàn và chuyển mạnh sang hàng chế biến sâu, giảm tới mức tối đa hàng nguyên liệu, và giảm tới mức thấp các hàng sơ chế, nghĩa là chuyển hẳn từ xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên sang xuất khẩu giá trị thăngj dư. Phải mở ra các mặt hàng hoàn toàn mới. Một mặt, chuyển từ xuất khẩu sản phẩm thô sang xuất khẩu hàng chế biến đối với những mặt hàng đã có. Mặt khác, cần mở ra các mặt hàng hiện nay chưa có, nhưng có tiềm năng và triển vọng, phù hợp với xu hướng quốc tế. Đó là các mặt hàng: sản phẩm kỹ thuật điện, sản phẩm điện tử, máy công nghiệp, dịch vụ.
- Đầu tư chế biến: Khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng các loại giống cao sản trong nuôi trồng và công nghệ chế biến rau quả thực phẩm, nông sản, hải sản... đáp ứng đúng nhu cầu và thị hiếu của thị trường được hưởng ưu đãi miễn giảm các loại thuế như thế xuất khẩu, thuế lợi tức.
Nguyên tắc để hưởng ưu đãi là chế biến càng sâu, tăng giá trị càng cao thì mức ưu đãi trong chính sách càng lớn. Ngoài ra, còn được hưởng ưu đãi về miến thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị, phụ tùng như quy định của luật khuyến khích đầu tư trong nước.
- Đầu tư cho sản xuất các nguyên phụ liệu (kể cả thiết bị phụ tùng để sản xuất hàng xuất khẩu).
Trường hợp này nhằm tạo nên sự đồng bộ trong sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu, làm tăng tỷ trongj chế biến của mặt hàng. Do đó nên có những ưu đãi về miễn giảm thuế nhập khẩu, thuế lợi tức.
- Đối với sản phẩm thô hoặc sơ chế
Cần phải hạn chế đến mức tối đa việc xuất khẩu hàng thô như tài nguyên, nguyên liệu thô và hàng sơ chế bằng việc nâng cao thuế xuất khẩu với từng mức độ khác nhau. Có loại cần phải áp dụng mức độ quản lý tuyệt đối như cấm xuất khẩu đã áp dụng đối với gỗ tròn, gỗ xẻ, song mây nguyên liệu, hạt điều thô.
- Khuyến khích các hình thức đầu tư, liên doanh, liên kết với nước ngoài để sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu. Thông qua hình thức này, Việt Nam có thể tiếp cận được công nghệ sản xuất mới và các loại máy móc thiết bị tương đối hiện đại mà trong nước không có. Từ đó sẽ nâng cao chất lượng và hàm lượng chế biến của sản phẩm.
Thực hiện tốt công tác đào tạo cán bộ và cung cấp thông tin
Điều rất cấp bách là ngay từ bây giờ cần có một bộ máy đủ mạnh có thẩm quyền điều phối sự tham gia cuả tất cả các Bộ, ngành trong việc tiến hành các công tác liên quan đến quá trình hội nhập quốc tế, đặc biệt chuẩn bị cho việc đàm phán gia nhập WTO. Một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo việc tham gia hiệu quả vào quá trình hội nhập là cần phải có lực lượng lao động được đào tạo tốt về nghề nghiệp và khẻo mạnh về chất.Việt Nam tham gia các phiên họp của AFT và APEC nên phải tăng cường thêm cán bộ có chuyên môn để giải quyết nhiều vấn đề tại chỗ mà không nhất thiết phải gửi vấn đề đó về nước. Do đó, phát triển nguồn nhân lực phải là ưu tiên hàng đầu. Đồng thời để đáp ứng những đòi hỏi của các tiêu chuẩn thương mại quốc tế, Nhà nước cần chú trọng chính sách đào tạo và tái đào tạo lực lượng lao động cho phù hợp với những thay đổi và yêu cầu của thị trường thế giới, cần có thị trường lao động linh hoạt hơn. Nhà nước cũng như các doanh nghiệp cần thường xuyên mở các lớp đào tạo, các khoá bồi dưỡng ngắn hạn hay dài hạn để nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý cũng như đội ngũ công nhân lao động, đề người lao động tiếp thu được phương pháp quản lý và kỹ thuật công nghệ mới, nâng cao hiệu quả làm việc. Bên cạnh đó cần tranh thủ sự hỗ trợ kỹ thuật của Ban thư ký ASEAN, APEC, WTO, các nước thành viên và các tổ chức quốc tế khác trong việc giúp Việt Nam đào tạo đội ngũ cán bộ có năng lực để chuẩn bị cho việc gia nhập các tổ chức này và tiếp tục tham gia các hoạt động sau này của các tổ chức đó.
Thiếu thông tin về thị trường nước ngoài là một trong những khó khăn lớn nhất của các doanh nghiệp xuất khẩu hiện nay. Trong thời gian tới Bộ thương mại, các tổ chức xúc tiến thương mại cần đảm bảo cung cấp thông tin cho cá doanh nghiệp một cách nhanh nhất. Có lẽ đến lúc cần có luật thông tin hay các quy định nói rõ việc mua bán thông tin như thế nào, thông tin nào được mua bán, vấn đề sử dụng, truy cập Internet, đưa thông tin lên mạng... Trong từng doanh nghiệp cần có bộ phận tiếp nhận và xử lý thông tin, hơn thế nữa phải tích cực chủ động tìm kiếm thông tin, bởi vì chính doanh nghiệp là những người biết tìm thông tin gì có lợi cho mình nhất, phù hợp với hoạt động kinh doanh của mình nhất. Từ đó có những quyết định kịp thời và đúng đắn.
Bên cạnh các thông tin về thị trường, về bạn hàng, cần phổ cập những kiến thức về hội nhập, những kiến thức liên quan đến định chế khu vực cũng như toàn cầu về lĩnh vực thương mại cho các doanh nghiệp. Hơn nữa, cũng cần cung cấp thông tin đầy đủ về chính sách, quan điểm và lịch trình hội nhập của Đảng và Nhà nước. Từ đó các doanh nghiệp nắm bắt được thực tiễn cũng như các vấn đề của hội nhập để xác định được chiến lược kinh doanh có hiệu quả trong điều kiện mở cửa và tự do hoá thương mại.
Một số kiến nghị với nhà nước .
Để đẩy nhanh, mạnh quá trình hội nhập kinh tế của nước ta với các nước trong khu vực. Tăng nhanh sản lượng cũng như chất lượng các mặt hàng xuất khẩu tận dụng tối đa những lợi thế do chương trình cắt giảm thuế quan CEPT mang lại. Bên cạnh những cố gắng của doanh nghiệp thì cũng cần có sự cải cách của nhà nước trên một số lĩnh vực nhằm đảm bảo môi trường thông thoáng cho hoạt động xuất khẩu . ở đây tôi chỉ đưa ra những kiến nghị nhỏ với mong muốn đáp ứng được các yêu cầu đó.
Hoàn thiện hệ thống chính sách
Chính sách thương mại
Trên cơ sở những mặt còn hạn chế trong chính sách thương mại, căn cứ vào phương hướng phát triển ngoại thương của nước ta đến năm 2010 - 2020 cùng với xu hướng phát triển của thế giới, chính sách thương mại của Việt Nam cần sửa đổi nhiều hơn nữa mới đáp ứng được nhu cầu phát triển của đất nước và nhanh chóng đưa nền kinh tế nước ta hoà nhập với kinh tế khu vực và thế giới.
Việc cải cách chính sách thương mại phải tuân theo các nguyên tắc sau:
+ Cải cách chính sách thương mại phải đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội, nghĩa là phải phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam, phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế và không gây lên những bất ổn, biến động mạnh, ảnh hưởng đến đời sống nhân dân.
+ Tuân thủ các hiệp định, các thoả thuận quốc tế hiện có:
Trước hết những biện pháp nào không cần thiết ta có thể loại bỏ và làm cho các biện pháp còn lại thực hiện đơn giản nhất, tạo điều kiện thuận lợi cho xuất nhập khẩu. Việt Nam cần chú trọng xây dựng các biện pháp phi thuế quan tinh vi hơn như các biện pháp về tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn vệ sinh, về nhãn hiệu hàng hoá, về chất lượng sản phẩm và có định hướng theo chính sách bảo hộ sản xuất trong nước. Tiến trình loại bỏ các rào cản phi quan thuế được tiến hành kết hợp chặt chẽ với quá trình cắt giảm thuế quan.
Bước 1: Bắt đầu bằng việc giảm các biện pháp hành chính
Bước 2: Giảm các biện pháp phi thuế quan phổ thông: giấy phép, hạn ngạch...
Bước 3: Tăng cường áp dụng các biện pháp kỹ thuật và các hình thức bảo hộ gián tiếp vô hình khác (cơ chế tỷ giá hối đoái, lãi suất, tín dụng ngân hàng...).
Việt Nam cần tự do hoá hoàn toàn quyền kinh doanh xuất nhập khẩu để tất cả các sản phẩm không phải chịu hạn chế định lượng (trừ các mặt hàng vì các lý do sức khỏe, an toàn, môi trường) và được nhập khẩu tự do với việc trả thuế thích hợp. Đối với một số mặt hàng như xăng đầu, phân bón, những hạn chế nhập khẩu cần xoá bỏ tức thì và được thay thế bằng thuế quan. Đối với sắt thép xi măng, những mặt hàng Việt Nam chưa sản xuất đủ đáp ứng nhu cầu trong nước và có mức giá cao gần gấp đôi giá nhập khẩu, thuế suất tạm thời chỉ nên được áp dụng trong một thời gian ngắn, sau đó phải loại bỏ để các ngành vươn lên theo kịp các ngành tương ứng của các nước khác. Cần giảm nhanh chóng số các mặt hàng thuộc diện quản lý chuyên ngành của các Bộ và chỉ áp dụng đối với các mặt hàng có liên quan đến sức khoẻ, an toàn và môi trường. Đối với nhóm hàng hoá cần dược bảo hộ mạnh để duy trì sự tồn tại và phát triển như: dệt, da, may mặc, hoá chất... Việt Nam có thể áp dụng biện pháp chuyển hạn ngạch thành thuế quan, trước mắt có thể đánh thuế quan cao để bảo hộ nhưng mức thuế đất cũng sẽ được giảm dần.
Như vậy, cần phân loại hàng hoá thành nhiều nhóm theo yêu cầu của bảo hộ và tình hình sản xuất, phát triển của từng ngành.
Đơn giản hoá thủ tục xuất nhập khẩu. Việt Nam cần cố gắng đơn giản hoá và điều hoà thủ tục nhằm thông quan sản phẩm của ASEAN nhanh chóng và hiệu quả, triển khai hệ thống luồng xanh hải quan để nhanh chóng hoàn thành các thủ tục hải quan cho các sản phẩm của CEPT, giảm thiểu mọi rắc rối về vấn đề thủ tục trong quan hệ thương mại của Việt Nam với các nước. Để thực hiện được điều này đòi hỏi Việt Nam phải có một sự đổi mới toàn diện, đặc biệt về cơ chế quản lý và bộ máy làm việc còn quan liêu, qua nhiều cửa.
Chính sách thuế
Ngày nay, thuế không còn là một vấn đề chỉ mang tính quốc gia nữa mà đã mang tính quốc tế. Một trong những tiêu chuẩn gia nhập các khối kinh tế trên thế giơí là phải cải cách hệ thống chính sách thuế phù hợp các chuẩn mực của khu vực và thế giới. Hệ thống thuế của Việt Nam còn nhiều hạn chế. Do vậy, việc cải cách hệ thống thuế, mà quan trọng nhất đối với quá trình hội nhập là thuế xuất khẩu, nhập khẩu là một ất yếu. Việc cải cách đó phải đáp ứng được một số nguyên tắc:
+ Thuế xuất khẩu, nhập khẩu phải là công cụ điều tiết xuất nhập khẩu để tiến tới bỏ hạn chế xuất nhập khẩu theo hạn ngạch và định hướng.
+ Hệ thống cơ cấu thuế suất, định giá và tính thuế phải đảm bảo các nguyên tắc chuẩn mực quốc tế, phù hợp với thông lệ quốc tế và chính sách kinh tế - tài chính của nước ta.
Để đảm bảo thực hiện các mục tiêu và định hướng phát triển kinh tế xã hội và tham gia hiệu quả vào AFTA, trong tương lai, Việt Nam cần có một chính sách thuế năng động và hợp lý, thực sự là đòn bẩy kinh tế, phát huy các tác dụng trong quá trình phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập vào khu vực và thế giới. Những định hướng về chính sách thuế trong điều kiện Việt Nam hội nhập được xác định theo hai mục tiêu chính: cố gắng hạn chế phần giảm thu của ngân sách khi thực hiện cam kết và giảm thuế nhập khẩu, đồng thời sử dụng hệ thống thuế như một công cụ kinh tế vĩ mô để khuyến khích sản xuất và xuất khẩu, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. Hai mục tiêu này cần được thực hiện thông qua toàn bộ hệ thống thuế.
Cần cải cách thuế theo hướng giảm dựa vào thuế sản xuất và tăng tỷ lệ thu từ thuế tiêu dùng và thuế thu nhập nhằm khuyến khích sản xuất và đầu tư. Đây cũng là xu thế chung của các nước tiên tiến trên thế giới. Đối với nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu, thuế nhập khẩu sẽ được giảm đến mức thấp nhất.
Các mức thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt đánh vào hàng nhập khẩu không phải chịu cam kết giảm thuế sẽ được điều chỉnh phù hợp, đáp ứng được yêu cầu bảo hộ gián tiếp và đảm bảo cho nguồn thu ngân sách. Hiện nay, thuế tiêu thụ đặc biệt mới chỉ áp dụng với các mặt hàng: thuốc lá, rượu, bia, ô tô nhập khẩu, xăng. Tuy nhiên những mặt hàng này không thuộc danh mục các mặt hàng đưa vào thực hiện CEPT. Vì vậy, thuế tiêu thụ đặc biệt cần mở rộng diện đánh thuế đối với một số mặt hàng tiêu dùng cao cấp như tủ lạnh, điều hoà nhiệt độ... Cùng một mặt hàng thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt thì dù có sản xuất trong nước hay nhập khẩu thì đều phải chịu thuế như nhau. Việc hoàn thiện hai sắc thuế VAT và thuế tiêu thụ đặc biệt sẽ góp phần làm giảm nhẹ phần giảm thu của ngân sách từ việc giảm thuế nhập khẩu.
Trên cơ sở sửa đổi thuế tiêu thụ đặc biệt thu cả vào hàng nhập khẩu như trên sẽ có điều kiện sử đổi thuế nhập khẩu theo hướng giảm bớt số mức thuế suất và hạ thấp thuế tối đa để tiến tới tương đồng với các nước khu vực và thế giới. Các mức thuế suất thuế nhập khẩu một mặt được giảm xuống đối với một số mặt hàng nhất định, mặt khác một số mặt hàng có thể được nâng thuế suất lên. Đặc biệt là những mặt hàng hiện đang có thuế suất nhỏ hơn 5% (hoặc bằng 0%). Những thuế suất này cần được xem xét cụ thể căn cứ theo kim ngạch xuất nhập khẩu cũng như tình hình sản xuất để nâng lên tới mức 3 - 5%. Như vậy sẽ bù đắp được những thiếu hụt cho ngân sách khi thực hiện cắt giảm thuế nói chung mà vẫn đảm bảo thực hiện các quy định của CEPT.
Để tạo điều kiện thuận lợi trong việc thực thi các chính sách thuế cần phải đơn giản hoá các mức thuế trong biểu thuế xuất nhập khẩu tức là giảm dần số lượng các mức thuế khác nhau. Việc này sẽ tạo điều kiện quản lý tốt hơn, tránh thất thu thuế.
Xuất phát từ tính bất ổn định, hay thay đổi của biểu thuế mà trong thời gian tới các nhà hoạch định chính sách Việt Nam cần nghiên cứu kỹ lưỡng và khoa học hơn trước khi đưa ra một mức thuế. Khi điều chỉnh một mức thuế nào đó phải xem xét một cách toàn diện kim ngạch nhập khẩu, khả năng sản xuất mặt hàng đó trong nước hiện tại, tương lai và ảnh hưởng tới nguồn thu ngân sách. Như vậy sẽ tránh được tình trạng quá nhiều thay đổi trong chính sách, làm cho các doanh nghiệp và cán bộ tính thuế dễ theo dõi và tránh nhầm lẫn.
Đồng thời, cần có một chính sách miễn giảm thuế hợp lý. Hiện nay có một số mặt hàng được xét miễn giảm thuế theo mục đích sử dụng và những mục tiêu cần ưu tiên hỗ trợ. Hơn nữa, quy định về miễn giảm thuế quá phức tạp. Điều này dễ gây ra tình trạng gian lận, khai sai mục đích sử dụng để được hưởng ưu đãi, gây thất thu cho ngân sách. Vì vậy, cần quy định các trường hợp miễn giảm một cách rõ ràng và khoa học hơn. Nên chăng, với những mục tiêu cần ưu tiên, hỗ trợ, Nhà nước nên trợ cấp qua ngân sách, không nên sử dụng công cụ thuế để trợ giá?
Một vấn đề quan trọng nữa trong tiến trình hội nhập của Việt Nam là phải có chiến lược cắt giảm thuế quan hợp lý. Chiến lược cắt giảm thuế quan này là một cơ chế để Việt Nam thực hiện CEPT, đồng thời cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc gia nhập các tổ chức thương mại khác hay ký kết các hiệp định song phương.
Một là, cần có kế hoạch và lịch trình cắt giảm thuế cụ thể từng mặt hàng, tạo sự chủ động của các xí nghiệp để nâng cao năng lực cạnh tranh. Việt Nam cần đặt mục tiêu thực hiện kế hoạch giảm thuế trước năm 2003 đối với những ngành có lợi thế so sánh trước mắt và trước năm 2006 đối với những ngành có lợi thế so sánh tiềm năng.
Hai là, giữ nguyên mức thuế nhập khẩu đối với các nước ngoài ASEAN tạo ra sự chênh lệch giữa các nước ASEAN và các nước ngoài ASEAN, kích thích nước ngoài đầu tư vào ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng.
Thuế quan là một vấn đề hết sức nhạy cảm đối với nền kinh tế trong giai đoạn hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Việt Nam đã là thành viên của ASEAN, hệ thống thuế của Việt Nam cần phải từng bước cải cách sao cho phù hợp với những quy định của tổ chức này.
Việc hoàn thiện các chính sách cho quá trình hội nhập của Việt Nam yêu cầu cần đặt ra ở đây là cần được xây dựng một cách hoàn chỉnh, đồng bộ và có cơ sở khoa học, được tổ chức thực hiện có kết quả, làm cho việc thực hiện chính sách đổi mới hoạt động ngoại thương được dễ dàng hơn.
Thống nhất các tiêu chuẩn quốc gia của Việt Nam, đáp ứng được và hài hoà với các tiêu chuẩn quốc tế.
Tiêu chuẩn hoá không chỉ là một vấn đề cốt lõi của quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá của Việt Nam, mà còn là đòi hỏi tất yếu của việc thu hút đầu tư và thương mại của thế giới vào thị trường Việt Nam.
Tiêu chuẩn đo lường chất lượng cũng là vấn đề được các tổ chức quốc tế có liên quan đến kinh tế - thương mại rất chú trọng. ASEAN có Uỷ ban tư vấn về tiêu chuẩn và chất lượng (ACCSQ) - được thành lập nhằm thúc đẩy tiến trình hoàn thiện khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA) thông qua các biện pháp tháo gỡ, tiến tới xoá bỏ các rào chắn kỹ thuật trong thương mại giữa các nước.
Việt Nam đã tham gia Hiệp định về thừa nhận lẫn nhau (MRA) và mới đây đã cùng các nước thành viên ASEAN khác ký một hiệp định khung về việc thừa nhận lẫn nhau về chất lượng sản phẩm. Vì vậy, trong xu hướng toàn cầu hoá hiện nay, việc áp dụng thực hiện và được chứng nhận đạt hoặc phù hợp quản lý chất lượng theo ISO 9000 được coi như một điều kiện cơ bản và là giấy thông hành cho các doanh nghiệp thâm nhập và có chỗ đứng trên thương trường quốc tế.
Học tập kinh nghiệm các nước ASEAN, từ năm 1995, Việt Nam đã không ngừng cải tiến cả về tổ chức và phương thức chứng nhận chất lượng của mình để tiếp cận và vươn tới chuẩn mực chung của các nước ASEAN. Từ năm 1996, ngoài việc chứng nhận chất lượng cho sản phẩm, đã triển khai hoạt động chứng nhận hệ thống chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000, có sự kết hợp, đánh giá với các tổ chức chứng nhận của Anh, Pháp, Singapo... Để có được sự thừa nhận lẫn nhau thì cơ chế kiểm tra và cấp chứng chỉ hàng hoá phải thoả mãn các yêu cầu:
+ Có phòng thử nghiệm sản phẩm đạt các chuẩn mực phổ biến (ví dụ phù hợp với hướng dẫn số 25 của ISO).
+ Có chuyên viên kiểm tra đánh giá chất lượng sản phẩm được huấn luyện theo các chuẩn mực phổ biến, ví dụ: theo ISO 10011 - 10012.
+ Phải có những thoả ước được ký kết giữa các tổ chức kỹ thuật muốn thừa nhận lẫn nhau hoặc giữa các quốc gia cho những lĩnh vực thừa nhận cụ thể.
Như vậy, để có thể hoà hợp với các tiêu chuẩn quốc tế, để tham gia vào các Hiệp định về thừa nhận lẫn nhau, Việt Nam cần:
- Làm cho các doanh nghiệp thấy rõ lợi ích và tác dụng của việc quản lý chất lượng theo ISO 9000 thông qua việc tổ chức các hội thảo, hội nghị, lớp tập huấn về thực hiện quản lý chất lượng theo ISO 9000 đồng thời cử cán bộ, chuyên viên xuống các doanh nghiệp giảng giải, hướng dẫn.
KẾT LUẬN
Hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới nói chung và hội nhập vào Khu vực mậu dịch tự do ASEAN(AFTA) nói riêng là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế trong nước và phù hợp với xu thế của thời đại của đảng và nhà nước. Tuy nhiên việc tham gia hội nhập kinh tế cũng đặt nền kinh tế nước ta trước nhiều khó khăn và thử thách đặc biệt là trong lĩnh vực xuất nhập khẩu.
Có thể nói, vấn đề thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam khi hội nhập AFTA là một trong những yếu tố có tính chất sống còn đối với phát triển kinh tế nước ta hiện nay. Để làm được việc đó, chúng ta không chỉ phải tìm ra những giải pháp phù hợp cho việc cắt giảm thuế quan mà còn phải đưa ra nhưng cải cách, những chính sách tương ứng trong những lĩnh vực có liên quan như: Tăng cường năng lực sản xuất của các doanh nghiệp trong nước để tăng năng lực cạnh tranh của hàng hoá trong nước, có chính sánh đào tạo cán bộ xuất nhập khẩu hợp lý, cung cấp đầy đủ thông tin cho các doanh nghiệp xuất khẩu về các mặt hàng, các khách hàng và bạn hàng đang có nhu cầu trên thế giới, có các chính sánh khuyến khích xuất khẩu…
Trong đề án này, với kiến thức còn nhiều hạn chế người viết chỉ mong muốn đưa ra những hiểu biết về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN(AFTA) và sự tham gia của Việt Nam vao AFTA-CEPT , thực trạng xuất khẩu của nước ta khi tham gia hội nhập AFTA từ đó đưa ra một số biện pháp để thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam .
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tạp chí Kinh tế đối ngoại 6/03, 4/03
Tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới 4/01
Tạp chí Tài chính 2/01, 7/01, 5/01
Tạp chí Phát triển kinh tế
Tạp chí lý luận chính trị 11/01
Tạp chí Kinh tế châu á- Thái Bình Dương 3/03, 6/03, 1/04
Tạp chí kinh tế đối ngoại
Tạp chí Kinh tế và phát triển
Việt Nam Hội Nhập ASEAN
Hội nhập AFTA - cơ hội và thách thức
Thời báo kinh tế Việt Nam 2003-2004.
Tạp chí kinh tế và dự báo số 8/2003.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DATV1039.doc