Thực trạng điều hành chính sách tỷ giá và quản lý ngoại hối của Việt Nam hiện nay

Lời mở đầu Đất nước và con người Việt Nam sau một thời gian dài đi qua bao đau thương và nghèo đói, trải qua không biết bao nhiêu gót ngựa dày xéo của các đạo quân xâm lược bành trướng thâm độc từ phương Bắc lẫn các đạo quân viễn chinh thực dân bóc lột từ phương Tây, thì giờ đây đất nước con người Việt Nam đang choàng tỉnh dậy mở mắt nhìn quanh năm châu bốn bể, bắt tay với các cường quốc từ Á sang Âu để tiến bước cùng nhịp bước văn minh của nhân loại sau một đêm dài chìm trong bóng tối. Nền kinh tế Việt Nam hiện nay tuy mới chỉ là một nền kinh tế thị trường “chớm nở” còn rất nhiều hạn chế và tiêu cực nhưng nó đang phát triển nhanh như vũ bão và như một tựa đề một cuốn sách “Vietnam, transition tiger” nó cho chúng ta thấy đây là thời điểm nghìn năm có một cần có những chính sách kinh tế thiết thực để thúc đẩy sự phát triển ấy sao cho đạt được một sự tối đa hoá lợi ích. Thương mại ngày càng phát triển, thương mại đem lại lợi ích cho mọi người và một đất nước thì không thể thiếu thương mại chính xác hơn là thương mại quốc tế. Với một đất nước mà tỷ trọng thương mại còn rất thấp so với thế giới như Việt Nam (đặc biệt là so với Trung Quốc), đồng tiền chưa được tự do chuyển đổi trong khi nguyên tắc khi mua bán cứ phải là “tiền - hàng” - “hàng - tiền” thì liệu một chính sách nào sẽ là phù hợp cho nền thương mại nước ta. Chính sách tỷ giá hối đoái sẽ luôn phát triển đi kèm với sự phát triển của thương mại, với những nền kinh tế mở như Việt Nam nếu không khôn khéo có một chính sách điều hành tỷ giá hối đoái, quản lý ngoại hối có lợi nhất trong thời gian này thì e rằng chúng ta sẽ phải trả giá trong tương lai khi mọi sự đã an bài và khi đã nằm lọt thỏm trong lưới của kẻ khác.Với mong muốn có một cái nhìn sơ lược về vấn đề tỷ giá hối đoái nhóm 5 đã thực hiện tiểu luận này thông qua việc điểm lại một số vấn đề cơ bản về tỷ giá hối đoái để người đọc đi từ sơ khai nhất đến từng bước sự hình thành tỷ giá thông qua quy luật cung - cầu thị trường, các công cụ tác động điều chỉnh tỷ giá của chính phủ từ những công cụ mang tính “thị trường” cho đến những công cụ mang tính “hành chính” và cuối cùng là điểm qua các giai đoạn điều hành tỷ giá ở Việt Nam cũng như nói sơ qua về tình hình quản lý ngoại hối ở Việt Nam hiện nay.

doc82 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4335 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng điều hành chính sách tỷ giá và quản lý ngoại hối của Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Việt Nam Quyết định số 425/2005/QĐ-NHNN ngày 13/4/2005 v/v sửa đổi khoản 3, điều 7 và khoản 3 điều 18 Quy chế tổ chức thực hiện những nhiệm vụ về quản lý Dự trữ ngoại hối nhà nước ban hành kèm theo Quyết định số 653/2001/QĐ-NHNN ngày 17/5/2001 của Thống đốc NHNN. 1703/2004/QĐ-NHNN 28/12/2004 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Quyết định số 1703/2004/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung Thông tư số 10/2003/TT-NHNN ngày 16/9/2003 của Thống đốc NHNN hướng dẫn thi hành Nghị định số 174/1999/NĐ-CP ngày 09/12/1999 của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng bạc và Nghị định số 64/2003/NĐ-CP ngày 11/6/2003 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 174/1999/NĐ-CP. 1132/2004/QĐ-NHNN 09/09/2004 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Quyết định số 1132/2004/QĐ-NHNN ngày 09/9/2004 v/v ban hành Quy chế Tổ chức và hoạt động của Vụ Quản lý ngoại hối 845/2004/QĐ-NHNN 08/07/2004 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Quyết định 845/2004/QĐ-NHNN ngày 08/7/2004 v/v ban hành Quy chế thanh toán trong mua bán, trao đổi hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và viện trợ giữa Việt Nam với Lào 648/2004/QĐ-NHNN 28/05/2004 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 648/2004/QĐ-NHNN ngày 28/5/2004 v/v sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 679/2002/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ngày 01/7/2002 về việc ban hành một số quy định liên quan đến giao dịch ngoại tệ của các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ. 03/2004/TT-NHNN 25/05/2004 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Thông tư 03/2004/TT-NHNN ngày 25/5/2004 hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với việc góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam. 17/2004/QĐ-NHNN 05/01/2004 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Quyết định 17/2004/QĐ-NHNN ngày 5/1/2004 của Thống đốc NHNN vềviệc ban hành Quy chế thanh toán trong mua bán, trao đổi hàng hoá và dịch vụ thương mại tại khu vực biên giới Việt Nam - Campuchia 11/2003/TT-NHNN 11/12/2003 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Thông tư 11/2003/TT-NHNN ngày 11/12/2003 hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với việc mua trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ của các tổ chức, cá nhân theo QĐ 182/2003/QĐ-TTg ngày 5/9/2003 của Thủ tướng CP 1168/2003/QĐ-NHNN 02/10/2003 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Quyết định số 1168/2003/QĐ-NHNN ngày 2/10/2003 của Thống đốc NHNN về việc sửa đổi Điều 1 Quyết định số 1081/2002/QĐ-NHNN ngày 7/10/2002 của Thống đốc NHNN về trạng thái ngoại tệ của các TCTD được phép hoạt động ngoại hối 63/1998/NĐ-CP 17/08/1998 Chính phủ Nghị định số 63/1998/NĐ-CP ngày 17/08/1998 của Chính phủ về quản lý ngoại hối. Thị trường ngoại hối ở Việt Nam- Thực trạng và giải pháp Thực trạng thị trường ngoại hối tại Việt Nam Dự trữ ngoại hối giảm mạnh. Chính sách quản lý DTNH hiện nay được thực hiện theo Nghị định số 86/1999/NĐ-CP, ngày 30/8/1999, về quản lý DTNH nhà nước và Quy chế tổ chức thực hiện những nhiệm vụ quản lý ngoại hối nhà nước ban hành kèm theo Quyết định số 653/2001/QĐ-NHNN, ngày 17/5/2001, của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN). Vào đầu năm 2010, phát biểu tại hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam (CG), đại diện của quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) đã đưa một thông tin gây sốc: cán cân thanh toán tổng thể thâm hụt 8,8 tỉ USD trong năm 2009 đã kéo dự trữ ngoại hối của Việt Nam xuống mức bảy tuần nhập khẩu. Các luồng vốn đầu tư trực tiếp (FDI), gián tiếp (FII) và cho vay từ bên ngoài đang giảm. Vốn FII chuyển qua cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam đã giảm từ mức 1,29 tỉ USD trong quý 1/2010 xuống 510 triệu USD trong quý 2/2010. Chủ tịch uỷ ban chứng khoán nhà nước Vũ Bằng quan điểm: dòng vốn FII đã giảm trong vài năm gần đây. Theo ông Bằng thì vào năm 2007, thị trường chứng khoán Việt Nam có khoảng 11 – 12 tỉ USD vốn FII, nhưng nay chỉ còn khoảng 7 tỉ USD vào hồi tháng 7/2010. Năm 2009, dự trữ ngoại hối của Việt Nam đã giảm xuống còn 13,85 tỷ USD vào cuối tháng 3/2009, thấp hơn 42% so với con số của cuối năm 2008, hãng thông tấn Reuters tổng hợp các số liệu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế cho biết và nói thêm rằng số liệu này cũng cho biết là dự trữ ngoại hối của Việt Nam tiếp tục sút giảm trong năm nay trong lúc tỉ giá của tiền đồng với đô la Mỹ tiếp tục bị áp lực mạnh. Số liệu thống kê tài chánh quốc tế của Quỹ Tiền tệ Quốc tế - được cập nhật cho tháng 9/2009 và đăng tải trên website của Quỹ, cho thấy dự trữ không tính vàng của Việt Nam vào cuối tháng 3 là 13,85 tỷ USD, giảm từ mức 15,49 tỉ của tháng hai và 15,74 tỉ của tháng giêng. Cuối năm 2009, dự trữ ngoại hối Việt Nam là 14,1 tỷ USD. Trong khi đó, theo thống kê dự trữ của nước ta vào cuối năm 2008 là 23,89 tỷ USD. Dự trữ ngoại hối giảm dẫn tới việc chính sách tiền tệ khó khăn hơn để tìm được điểm cân bằng cho cả hai vấn đề: giảm lãi suất và ổn định tỷ giá. Cung tiền tăng, đồng nội tệ sẽ rẻ đi và lãi suất giảm xuống nhưng tỷ giá sẽ tăng. Và ngược lại, giảm Cung tiền thì lãi suất tăng, cho dù tỷ giá lúc đó sẽ hạ hơn. Vì sao dự trữ ngoại hối giảm? Áp lực vàng Ngày 12/11/2009, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cấp hạn ngạch nhập khẩu vàng cho 6 – 7 doanh nghiệp và ngân hàng với tổng mức nhập khoảng 10 tấn. ACB được phép nhập 2 tấn; Sacombank 1,5 tấn; PNJ (Công ty Vàng bạc Đá quý Phú Nhuận), Eximbank, SJC mỗi đơn vị 1 tấn... Ở phía Bắc, đầu mối nhập vàng lớn nhất là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Các doanh nghiệp cho biết sẽ nhập hết hạn mức. Như thế nhập siêu của tháng 11 sẽ tăng thêm khoảng 360 triệu USD từ nhập khẩu vàng. Khi hạn ngạch nhập vàng hết hạn, nếu nhu cầu trong nước vẫn cao, NHNN có cho nhập tiếp không và nguồn ngoại tệ nào cân đối việc nhập vàng? Đang có những ý kiến nên chăng cơ cấu dự trữ ngoại hối của Việt Nam cần thay đổi, chuyển một phần nhất định từ đô la Mỹ sang vàng như nhiều quốc gia khác, trong đó có Trung Quốc, Ấn Độ đã làm. Nhà nước sẽ chọn thời điểm thích hợp để thay đổi cơ cấu dự trữ ngoại hối và điều đó không làm giảm bớt dự trữ ngoại hối quốc gia. Với số vàng có trong tay, Nhà nước đủ khả năng can thiệp vào thị trường, dập tắt các tín hiệu đầu cơ là thủ phạm gây nên “cơn sốt” vừa qua. Kiều hối giảm: Theo nguồn tin từ Ngân hàng Nhà nước tính đến ngày 31/12/2009 kiều hối chuyển về đạt 6,283 tỉ USD, giảm 12,8% so với năm 2008 (kiều hối về nước trong năm 2008 đạt 7,2 tỉ USD). Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước, lượng kiều hối chuyển về Việt Nam từ năm 2005 đến năm 2008 liên tục tăng (năm 2005 là 4 tỷ USD, năm 2006 là 4,2 tỷ USD, năm 2007 là 6 tỷ USD và năm 2008 là 7,2 tỷ USD). Như vậy, đây là lần đầu tiên, lượng kiều hối về Việt Nam sụt giảm sau 4 năm tăng liên tiếp. Trong 6 tháng đầu năm 2010, theo Ngân hàng Nhà nước (NHNN), lượng kiều hối về Việt Nam đạt 3,6 - 3,7 tỷ USD, tăng hơn 20% so cùng kỳ 2009 và kỳ vọng lượng kiều hối sẽ tăng mạnh hơn trong những tháng cuối năm. Nhập siêu: Nhìn từ cân đối xuất nhập khẩu năm 2010, Chủ nhiệm Hà Văn Hiền - Ủy ban Kinh tế của Quốc hội vẫn tỏ rõ sự lo ngại khi nhập siêu đạt mục tiêu dưới 20% kim ngạch xuất khẩu nhưng số tuyệt đối dự kiến vẫn là 13,5 tỷ USD, tăng 5% so với năm 2009. Nếu loại trừ đá quý, kim loại quý xuất khẩu thì nhập siêu vẫn trên 22%. Tổng cục Thống kê ước tính nhập siêu 10 tháng đầu năm 8,78 tỉ USD. Nhập siêu cả năm có thể vượt 10 tỉ đô la Mỹ. Trong khi, cán cân thanh toán tổng thể năm 2009 đã thâm hụt 8,8 tỷ USD và năm 2010 khả năng thâm hụt vẫn khoảng 4 tỷ USD. Phải tới năm 2011, theo dự báo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cán cân thanh toán tổng thể mới thặng dư khoảng 500 triệu USD. Thẩm tra của Ủy ban Kinh tế cho thấy, đây là yếu tố chính làm cho cán cân vãng lai thâm hụt khoảng 10% so với GDP. Trong khi theo tiêu chí của IMF thì tỷ lệ thâm hụt vãng lai 8% GDP sẽ ảnh hưởng đến cân đối vĩ mô của quốc gia. Nhập siêu kéo dài trong nhiều năm (2009 là 12,85 tỷ USD) đã làm sụt giảm nguồn dự trữ ngoại hối, tăng công nợ quốc gia và gây phá giá đồng nội tệ. Thâm hụt cán cân vãng lai lớn cùng với thâm hụt ngân sách cao, nợ công có xu hướng tăng nhanh sẽ là những trở ngại lớn cho sự phát triển kinh tế trong những năm tới đây, cơ quan thẩm tra lo ngại. Bảng 5.2. Tình hình nhập siêu của Việt Nam từ 2006 – 2009 Đơn vị tính: tỷ USD 2006 2007 2008 2009 2,8 12,4 18,029 12,85 Điều này đã làm cho dự trữ ngoại hối của Việt Nam biến chuyển: Bảng 5.3. Tình hình dự trữ ngoại hối của Việt Nam từ 2007 – 2009 Đơn vị tính: tỷ USD 2007 2008 2009 21.6 23 15.2 Ngoại hối trên thị trường chính thức Việt Nam Diễn biến của thị trường ngoại hối là ổn định và tích cực sau khi NHNN có một loạt các biện pháp quyết liệt nhằm giải quyết vấn đề tỷ giá như: tăng mạnh tỷ giá liên ngân hàng, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi USD từ 7% xuống còn 4%, quy định lãi suất tiền gửi bằng USD tối đa của các tổ chức kinh tế tại ngân hàng chỉ ở mức 1%. Ngoài ra, nguồn cung USD trong 2 tháng đầu năm 2010 cũng tương đối dồi dào nhờ nguồn kiều hối chảy về mạnh trong khi nhập siêu cũng chưa tới mức báo động (chỉ khoảng 1,7 tỷ USD, hoàn toàn được bù đắp bởi nguồn vốn FDI, ODA giải ngân) đã khiến cho hiện tượng khan hiếm USD hầu như không xảy ra. Theo dự báo tình hình tỷ giá từ nay cho tới cuối năm, NHNN sẽ tiếp tục điều hành theo hướng bình ổn thị trường ngoại hối. Cầu về USD có thể sẽ bắt đầu “nóng” từ quý 2 khi nhu cầu nhập khẩu gia tăng. Tuy nhiên, theo ước tính, các nguồn vốn mang lại ngoại tệ cho Việt Nam trong năm nay như FDI (đầu tư trực tiếp nước ngoài), ODA (vốn hỗ trợ phát triển chính thức), FII (vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài), và kiều hối nhiều khả năng sẽ tiếp tục tăng trưởng khá, giúp bù đắp được phần thâm hụt của cán cân thương mại. Khác với năm 2009, kỳ vọng NHNN tiếp tục giảm giá VND trong năm nay còn rất thấp, do đó sẽ hạn chế tâm lý găm giữ USD của các doanh nghiệp. Mặc dù vậy, cơn sốt tỷ giá vẫn có thể sẽ diễn ra cục bộ tại một số thời điểm trong năm nếu như giá vàng thế giới có những đợt tăng nóng. Việc Chính phủ chưa cho phép nhập khẩu vàng rộng rãi có thể sẽ thúc đẩy nhu cầu gom USD để nhập lậu vàng nhằm hưởng chênh lệch giá nhưng nhìn chung dự báo thị trường ngoại hối sẽ theo chiều hướng ổn định trong năm nay. Mặc dù thị trường vàng biến động rất mạnh nhưng tỷ giá trên các thị trường ít biến động và tương đối ổn định. Theo đánh giá của các chuyên gia ngành ngân hàng, thị trường ngoại hối tại Thành phố Hồ Chí Minh trong 6 tháng đầu năm nay ổn định trên cả 3 phương diện chính là tỷ giá ổn định, mức chênh lệch tỷ giá giữa thị trường tự do và trong hệ thống ngân hàng rất thấp, quan hệ cung-cầu về ngoại tệ ổn định. Về tỷ giá, mặc dù thị trường vàng biến động rất mạnh nhưng tỷ giá trên các thị trường ít biến động và tương đối ổn định. So với cuối năm 2009, tỷ giá bình quân trên thị trường liên ngân hàng tăng 3,36%; tỷ giá giao dịch mua - bán trong hệ thống ngân hàng tăng 2,8%. Trong khi đó tỷ giá trên thị trường tự do lại có mức giảm 2,2%. Mức chênh lệch tỷ giá giữa thị trường tự do và trong ngân hàng chỉ ở mức trong khoảng từ 10 – 40 VND/USD, thậm chí trong nhiều thời điểm tỷ giá trên thị trường tự do lại thấp hơn trong hệ thống ngân hàng. Các nhu cầu ngoại tệ hợp lý, hợp lệ của doanh nghiệp đã được đáp ứng, đảm bảo thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu trên địa bàn phát triển. Tổng doanh số mua ngoại tệ đã có mức tăng 10% và tổng doanh số bán ngoại tệ đã tăng 13,3% so với cùng thời gian này năm trước. Các chuyên gia ngành ngân hàng tại nhận định, nguyên nhân tạo ra sự ổn định của thị trường ngoại hối là do cơ chế chính sách về tỷ giá linh hoạt, quy định về trần lãi suất tiền gửi ngoại tệ của tổ chức cũng như mở rộng đối tượng vay ngoại tệ và các quy định ngừng hoạt động kinh doanh vàng đã tác động tích cực đến thị trường ngoại hối. Kết quả là sự găm giữ ngoại tệ của các doanh nghiệp, người dân giảm đáng kể, tâm lý nắm giữ ngoại tệ hạn chế. Bên cạnh đó, cung - cầu ngoại tệ khơi thông và chu chuyển linh hoạt đã tạo ra một sự ổn định rất cần thiết. Thị trường chợ đen (hay thị trường tự do) Thực tiễn Hiện nay trên thị trường có hiện tượng một số tổ chức, cá nhân lợi dụng hoạt động đại lý đổi ngoại tệ nhằm kinh doanh ngoại tệ trái phép; một số doanh nghiệp đã thực hiện việc quảng cáo, niêm yết giá bằng ngoại tệ trong hoạt động cung cấp hàng hóa và dịch vụ. Hiện tượng này xảy ra là do những nguyên nhân: Những khó khăn về thủ tục trong giao dịch với ngân hàng, là một trong những lý do để thị trường tự do có đất sống, và dần dần trở thành một đối trọng với ngân hàng trong việc là nơi cung cầu ngoại tệ, dẫn dắt giá cả thị trường. Việc mua ngoại tệ ở thị trường tự do nhanh chóng và dễ dàng, khác hẳn ở ngân hàng. Thị trường tự do, dường như có khả năng đáp ứng đủ nhu cầu ngày càng tăng và có lúc, đi trước dẫn dắt tỷ giá ở ngân hàng. Người dân đã quen với các tiệm thu đổi ngoại tệ thay vì ngân hàng. Cũng thường có những hiện tượng, sau những cơn sóng giá ở thị trường chợ đen, tỷ giá chính thức có những điều chỉnh phù hợp. Dần dần thị trường tự do cũng trở thành một phần của nền kinh tế, không chỉ là ngoại tệ, mà còn trong nhiều lĩnh vực khác từ tín dụng, huy động… nhất là trong tình trạng nền kinh tế tiền mặt như Việt Nam. Và ở một phương diện nào đó, nó đã bù đắp một phần thiếu hụt ngoại tệ cho ngân hàng. Nhà nước nào cũng muốn xóa nhưng nó vẫn tồn tại như một quy luật. Nó tồn tại vì nó có cầu thật và cung thật. Ngân hàng không mặn mà với các dịch vụ nhằm kéo người dân quay trở lại. Hiện nay nhu cầu vay ở ngân hàng chủ yếu là USD, Euro, tiền đồng và vàng, hầu như chẳng có ai vay các đồng ngoại tệ khác, trừ ở ngân hàng có giao dịch thanh toán quốc tế mạnh và đa dạng như Vietcombank, Eximbank… Ngân hàng không thể mở dịch vụ tiết kiệm khi không có nhu cầu. Do các dự báo về việc ngoại tệ tăng giá của các tổ chức nước ngoài đã làm tăng kỳ vọng của người dân, từ đó dẫn tới tăng nhu cầu tích trữ ngoại tệ, làm cầu ngoại tệ tăng, trong khi NHTW không cho phép các NHTM bán USD cho người dân phục vụ cho hoạt động tích trữ. Vấn đề này chỉ có thể được giải quyết ở thị trường chợ đen. Để kiểm soát và hạn chế hoạt động của thị trường chợ đen, Ngân Hàng Nhà Nước đã đưa ra một số biện pháp: Công văn số 2882/NHNN-QLNH và Công văn số 2881/NHNN-QLNH đề nghị Bộ Công an, Bộ Công thương và ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo các đơn vị chức năng kiểm tra. Công văn số 2878/NHNN-QLNH đề nghị Ban Tuyên giáo Trung ương và Bộ Thông tin – Truyền thông chỉ đạo các cơ quan thông tin đại chúng chỉ đăng, phát các nội dung quảng cáo, niêm yết giá hàng hóa, dịch vụ bằng ngoại tệ cho các tổ chức, cá nhân thuộc đối tượng được quảng cáo, niêm yết giá bằng ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam. Ngoài những trường hợp nêu trên, tổ chức, cá nhân chỉ được thực hiện quảng cáo, niêm yết giá hàng hóa, dịch vụ bằng đồng Việt Nam. Ban Tuyên giáo Trung ương và Bộ Thông tin – Truyền thông chỉ đạo, kiểm tra, yêu cầu các báo, đài không đăng tải, công bố các thông tin về tỷ giá mua bán ngoại tệ trên thị trường “chợ đen”. Công văn số 2880/NHNN-QLNH, Thống đốc yêu cầu các chi nhánh tại các tỉnh, thành phố phối hợp với các cơ quan chức năng trên địa bàn thực hiện kiểm tra, xử lý các trường hợp tổ chức, cá nhân vi phạm quy chế đại lý đổi ngoại tệ theo Quyết định 21/2008/QĐ-NHNN và quy định về việc quảng cáo, niêm yết giá hàng hóa, dịch vụ bằng ngoại tệ. Đối với các tổ chức tín dụng được phép cung ứng dịch vụ ngoại hối, Ngân hàng Nhà nước có Công văn số 2879/NHNN-QLNH yêu cầu phải đôn đốc, hướng dẫn các đại lý ủy nhiệm đổi ngoại tệ thực hiện nghiêm túc các quy định hiện hành về hoạt động đổi ngoại tệ. Những tồn tại của quản lý DTNH tại Việt Nam Một là, hành lang pháp lý cho hoạt động quản lý DTNH còn bộc lộ nhiều bất cập. Các nội dung liên quan đến khen thưởng và xử lý vi phạm về quản lý dự trữ chưa có hoặc mờ nhạt, không tạo ra được động lực cho cấp quản lý đầu tư dự trữ trực tiếp. Hai là, chiến lược quản lý DTNH vẫn thụ động, hoạt động đầu tư dự trữ đơn điệu, chưa tương xứng với các chiến lược phát triển kinh tế – xã hội trong bối cảnh hội nhập. Định hướng chiến lược quản lý DTNH chủ yếu mới chỉ đặt ra mặt cơ cấu đảm bảo an toàn tài sản, đáp ứng các nhu cầu chi tiêu trả nợ của Chính phủ, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế, mà chưa đặt ra mức dự trữ, hay căn cứ để xác định DTNH chính thức của nhà nước ở tầm vĩ mô phù hợp với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong từng thời kỳ như tăng trưởng kinh tế, chỉ số lạm pháp, xuất khẩu,… DTNH tăng chủ yếu do FDI, ODA và kiều hối tăng. Việc quản lý các luồng ngoại tệ ra, vào Việt Nam nhất là nguồn trả nợ (như L/C trả chậm, bảo lãnh…) còn hạn chế do sự phối hợp chưa hiệu quả, chưa nhịp nhàng trong điều hành xuất, nhập khẩu, ngân sách... Hình thức đầu tư còn đơn giản chủ yếu dưới hình thức tiền gửi tại các ngân hàng, các công cụ tài chính như trái phiếu chính phủ, chưa áp dụng các hình thức đầu tư mang lại lợi nhuận cao như đầu tư vào cổ phiếu hay uỷ thác đầu tư vào các quỹ. Ba là, cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin còn rất hạn chế. Mặc dù nhận được sự tài trợ một số dự án của các nhà tài trợ quốc tế như Ngân hàng Phát triển Châu á…, nhưng các dự án này mới chỉ tập trung vào phần công nghệ thông tin phục vụ mảng kinh doanh, nghiệp vụ… Công nghệ thông tin phục vụ thu thập thông tin số liệu, phân tích dự báo còn hạn chế. Bốn là, thiếu cán bộ có trình độ và kinh nghiệm thực hiện quản lý dự trữ ngoại hối và chuyên gia phân tích, dự báo giỏi. Nhân lực có trình độ chuyên môn làm việc tại NHNN nói chung và tại bộ phận quản lý nói riêng còn thiếu. Nguyên nhân chủ yếu là do sự đãi ngộ về tiền lương, thưởng… chưa hợp lý. Hơn nữa, công tác đào tạo, đãi ngộ đội ngũ chuyên gia phân tích thị trường chưa được quan tâm đúng mức. Hơn nữa, việc điều hành quản lý dự trữ trực tiếp được giao cho Sở Giao dịch trong khi đơn vị tham mưu chiến lược là Vụ Quản lý ngoại hối không tiếp xúc trực tiếp và liên tục với thị trường quốc tế nên các chính sách còn chậm so với biến động trên thị trường tài chính tiền tệ trong khu vực, sự biến động của thị trường trong khủng hoảng; kế hoạch chuyển đổi cơ cấu đồng tiền còn bị động. Công tác phân tích thị trường để thực hiện kinh doanh ngoại hối trên thị trường quốc tế chủ yếu còn ở giai đoạn tập dợt. Đáng lo ngại là chất lượng báo cáo lập và phân tích dự báo các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô thấp, chậm và độ tin cậy số liệu không cao. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng quyết định điều hành hoạt động trong quản lý DTNH… có thể dẫn đến những tổn thất về giá trị DTNH. Giải pháp Để khắc phục những tồn tại nêu trên, trong quá trình xây dựng và thực thi cơ chế quản lý dự trữ ngoại hối, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau: Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung quy định quản lý DTNH: NHNN cần rà soát, chỉnh sửa những điểm còn bất cập như đã nêu ở trên. Đồng thời, cần bổ sung và hoàn thiện các quy trình tạo thuận lợi cho quá trình tác nghiệp, đảm bảo an toàn như: Quy trình đầu tư DTNH cần đảm bảo mô tả công việc cụ thể, trách nhiệm của từng bộ phận, trong đó, quy định rõ các bước công việc xử lý đối với một đề xuất mới. Xây dựng quy định thống nhất về hồ sơ, các mẫu biểu về báo cáo đề xuất, tờ trình phân tích… Quy định DTNH đảm bảo yêu cầu hội nhập quốc tế, thị trường chứng khoán phát triển, là thành viên của WTO, tự do tài khoản vãng lai và mức độ tự do tài khoản vốn cao… Quy định DTNH phải đáp ứng sự chủ động đối với cán bộ trực tiếp tác nghiệp đầu tư dự trữ, cũng như đảm bảo việc quản lý của cán bộ cấp cao. Thứ hai, hoàn thiện chức năng nhiệm vụ của các cấp quản lý DTNH, tách nhiệm vụ ban hành quy định và tác nghiệp. Việc quản lý DTNH được phân thành 3 cấp rõ ràng với chức năng và nhiệm vụ độc lập: Cấp quản lý dự trữ ngoại hối cao nhất là Thống đốc NHNN, cấp thứ 2 là Ban điều hành quản lý DTNH và cấp thứ 3 là Vụ Quản lý dự trữ ngoại hối. Ban điều hành quản lý DTNH ban hành các quy định có tính định hướng chuẩn mức cho quản lý DTNH, thực hiện giám sát và thực hiện các nhiệm vụ có ảnh hưởng lớn đến quỹ DTNH gồm: Xây dựng danh mục đầu tư chuẩn; Phê duyệt chiến lược đầu tư DTNH; Giám sát thực hiện quản lý DTNH; Phê duyệt những dự án đầu tư dự trữ lớn; Phê duyệt lựa chọn đối tác nhận uỷ thác đầu tư DTNH bên ngoài… Thứ ba, hình thành các quỹ DTNH theo chức năng và xây dựng cơ cấu ngoại tệ và cơ cấu đầu tư DTNH cho từng quỹ. Dự trữ được chia thành các quỹ khác nhau và mỗi quỹ sẽ được đầu tư bằng những công cụ và hình thức khác nhau đảm bảo việc quản lý DTNH đạt hiệu quả tối đa và phân tán rủi ro, đồng thời phải hình hành cơ chế điều chuyển giữa các quỹ. Mỗi quỹ dự trữ sẽ được xây dựng danh mục đầu tư chuẩn, phân cấp quản lý đầu tư... để đảm bảo dự trữ ngoại hối được quản lý tốt nhất. Đặc biệt, Quỹ dự trữ đầu tư dài hạn phải chú trọng đến công việc đánh giá, lựa chọn đối tác. Thứ tư, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trực tiếp quản lý DTNH và cán bộ phân tích, dự báo kinh tế vĩ mô. NHNN cần thường xuyên tổ chức đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, đồng thời tổ chức những buổi hội thảo và cử cán bộ tham gia các lớp tập huấn về phòng chống rủi ro trong hoạt động đầu tư, nghiên cứu hệ thống văn bản chế độ, quy chế quy định liên quan đến hoạt động đầu tư dự trữ. Thứ năm, có chiến lược tăng DTNH phù hợp với mục tiêu phát triển quốc gia. Ngoại tệ chuyển vào nước ta chủ yếu là kiều hối, ngoại tệ do cá nhân mang từ nước ngoài về, nguồn ngoại tệ do khách du lịch nước ngoài chi trả tại Việt Nam, tiền lương của người Việt Nam làm việc tại các doanh nghiệp nước ngoài,… Trong đó, kiều hối là nguồn thu ngoại tệ lớn. Để khai thác tối đa nguồn ngoại tệ này, chúng ta cần tạo niềm tin cho kiều bào về sự ổn định kinh tế – chính trị – xã hội trong nước để họ yên tâm chuyển tiền về nước. Cơ quan hải quan cần kiểm soát chặt chẽ hơn nguồn kiều hối lậu chảy về; NHNN khuyến khích các Ngân hàng thương mại mua để tăng nguồn kiều hối thu hút vào ngân hàng và bán cho NHNN. Đô la hóa và thực trạng tại Việt Nam Lý luận chung về đô la hóa Khái niệm Đô la hóa có thể hiểu một cách thông thường là trong một nền kinh tế khi ngoại tệ được sử dụng một cách rộng rãi thay thế cho đồng bản tệ trong toàn bộ nền hoặc một số chức năng tiền tệ,nền kinh tế đó bị coi là đô la hóa toàn bộ hoặc một phần. Theo tiêu chí của IMF, một nền kinh tế coi là có tình trạng đô la hóa cao khi mà tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm trên 30% trong tổng khối tiền tệ mở rộng bao gồm: tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi ngoại tệ. Phân loại Căn cứ vào phạm vi đô la hóa được phân ra làm 3 loại như sau: Đô la hóa không chính thức là trường hợp đồng đô la được sử dụng rộng rãi trong nền kinh tế, mặc dù không được quốc gia đó chính thức thừa nhận. Ở những nước có nền kinh tế bị đô la hóa không chính thức, phần lớn người dân đã quen với việc sử dụng đồng đô la nhưng Chính phủ vẫn cấm niêm yết giá hàng hóa bằng đô la, cấm dùng đô la đối với hầu hết giao dịch trong nước. Đô la hóa không chính thức có thể bao gồm các loại sau: Các loại trái phiếu ngoại tệ và các tài sản phi ngoại tệ ở nước ngoài. Tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước ngoài. Tiền gửi ngoại tệ ở các ngân hàng trong nước. Trái phiếu hay các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ cất trong túi. Đô la hóa bán chính thức hay còn gọi là đô la hóa từng phần là tình trạng đồng đô la được sử dụng như một đơn vị kế toán, phương tiện trao đổi, dự trữ giá trị và phương tiện thanh toán trong khi đồng nội tệ vẫn tồn tại và lưu thông. Đồng đô la có  chức năng như một đồng tiền hợp pháp thứ hai của nền kinh tế. Các nước ở tình trạng này vẫn duy trì một Ngân hàng Trung ương để thực hiện chính sách tiền tệ của họ. Đô la hóa chính thức hay còn gọi là đô la hóa hoàn toàn xảy ra khi đồng ngoại tệ là đồng tiền hợp pháp duy nhất được lưu hành.Nghĩa là đồng ngoại tệ không chỉ được sẻ dụng hợp pháp trong các hợp đồng giữa các bên tư nhân mà còn hợp pháp trong các khoản thanh toán của Chính phủ. Nếu đồng ngoại tệ còn tồn tại thì nó chỉ có vai trò thứ yếu và thường chỉ là đồng tiền xu hay các đồng tiền mệnh giá nhỏ. Thông thường, các nước chỉ áp dụng đô la hóa chính thức khi đã thất bại trong việc thực thi các chương trình ổn định kinh tế. Căn cứ vào hình thức: đô la hóa thể hiện dưới ba hình thức sau: Đô la hóa thay thế tài sản : thể hiện qua tỉ lệ tiền gửi ngoại tệ trên tổng phương tiện thanh toán (FCD/M2) Đô la hóa phương tiện thanh toán : là mức độ sử dụng ngoại tệ trong thanh toán Đô la hóa định giá, niêm yết: là việc niêm yết, quảng cáo, định giá bằng ngoại tệ. Đô la hóa ở Việt Nam Thực trạng đô la hóa ở Việt Nam Trong nền kinh tế Việt Nam, đồng ngoại tệ được sử dụng nhiều nhất trong công việc thanh toán và giao dịch chính là đồng USD của Mỹ, nó chiếm một tỷ trọng lớn nhất trong rổ tiền ngoại tệ của nước ta. Vì vậy, khi xét tới tình trạng đô la hóa ở Việt Nam thì ta xét tới việc sử dụng đồng USD tại nước ta. Tình hình sử dụng USD ở Việt Nam Pháp lệnh Ngoại hối đã được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 13/12/2005 và có hiệu lực từ ngày 1/6/2006. Thực hiện mục tiêu trên lãnh thổ VN chỉ sử dụng đồng VN - một mục tiêu khá quan trọng của Pháp lệnh, tác động tới nhiều mặt trong đời sống và hoạt động kinh tế xã hội của nước ta, Pháp lệnh đã dành riêng một chương để quy định việc quản lý ngoại hối trên lãnh thổ VN theo hướng từng bước hạn chế đô la hoá, cụ thể là : "Nghiêm cấm triệt để các giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo bằng ngoại tệ giữa các tổ chức, cá nhân trên lãnh thổ VN (trừ các giao dịch với tổ chức tín dụng, các trường hợp thanh toán thông qua trung gian gồm thu hộ, ủy thác, đại lý và các trường hợp cần thiết khác được Thủ tướng cho phép). Hạn chế đến chấm dứt việc các tổ chức được bán hàng, cung cấp dịch vụ thu ngoại tệ tại VN... ". Tuy nhiên, trên thị trường, niêm yết bằng đồng USD đã trở nên phổ biến đến mức, rất ít người tiêu dùng biết đến qui định niêm yết đơn vị tiền tệ này là sai. Từ những đồ giá trị nhỏ như chiếc USB, con chuột máy tính, loa… đến các sản phẩm tiêu dùng hàng ngày như hàng quần áo, giày dép, đồ ăn trong các nhà hàng cũng được nhiều nơi niêm yết bằng USD. Giám đốc một công ty máy tính ở TPHCM cũng cho biết những đầu mối cung cấp hàng chào giá USD song song với VNĐ nhưng thực tế chỉ chấp nhận thanh toán bằng USD. Ngay cả các chương trình quảng cáo, khuyến mại cũng đều công bố bằng tiền USD. Không đâu xa, gói kích cầu của Chính phủ... cũng được nhắc đến là “1 tỷ USD” chứ ít nói là 17.000 tỷ đồng. Giá rao bán, cho thuê của nhiều dự án bất động sản có vốn đầu tư nước ngoài hay nội địa hiện vẫn được niêm yết bằng USD một cách công khai, dù Ngân hàng Nhà nước đã có văn bản nghiêm cấm chính thức hôm 11/9 vừa qua. Trên bảng niêm yết giá của các công ty bất động sản lớn như CBRE Việt Nam, Savills Việt Nam hay nhiều đại lý nhà đất khác, các dự án có giá rao bán bằng USD chiếm một tỷ lệ không nhỏ. Chẳng hạn tại CBRE Việt Nam, dự án Hillstate Villa 1 trên đường Tô Hiệu, Hà Đông (Hà Nội) đang được niêm yết giá dao động từ 1.200 đến 1.500 USD một m2, dự án chung cư Canal Park Apartment ở Thạch Bàn, Long Biên (Hà Nội) có giá 1.200 - 1.450 USD một m2… Điều này gây ra nhiều rủi ro cho người mua hàng, vấn đề là phía người bán lấy giá nào làm hệ quy chiếu. Nếu họ lấy giá USD làm quy chiếu và tính theo biến động giá trên thị trường tự do từng ngày, thì dù có báo giá và thanh toán bằng VND, khách hàng vẫn là người hứng chịu rủi ro nhiều nhất. Khi xảy ra biến động tỉ giá, thiệt hại đổ lên đầu người tiêu dùng. Chính vì thế dù biết là vi phạm pháp luật, nhưng nhiều DN vẫn cứ làm. Từ thực trạng trên cho thấy, USD được sử dụng khá phổ biến và dễ dàng ở Việt Nam. Vậy tại sao phải niêm yết giá USD trong khi chúng ta xài VND? “Cái gốc vấn đề này là ở chỗ, ở mọi nơi, từ cơ quan quản lý nhà nước đến người dân đều “dính” USD, trong các câu chuyện trao đổi, người ta cũng thường quy ra USD. Chúng ta đặt ra quy định nhưng lại quên là đã có quy định như vậy”, Tiến sĩ Vũ Đình Ánh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu giá cả thị trường nhận xét. Đây còn là câu chuyện về tâm lý người tiêu dùng. Nhiều người Việt Nam vẫn có thói quen nhắc tới giá trị hàng hoá bằng USD như là một sự khẳng định về đẳng cấp của sản phẩm. Theo lý giải của các doanh nghiệp ôtô, vì lý do các doanh nghiệp đều phải nhập khẩu linh kiện bằng ngoại tệ USD, chi phí đầu vào được tính bằng tiền USD nên nếu để đầu ra là tiền VND thì các doanh nghiệp sẽ bị thiệt hại khi tỷ giá tăng. Trên thị trường nhà đất, tình trạng niêm yết USD cũng khá phổ biến. Về phía người bán, việc thuê văn phòng thường ký hợp đồng từ 1 đến 5 năm nên phải niêm yết giá USD để tránh rủi ro do tiền đồng trượt giá. Hơn nữa, tỷ lệ khách thuê là các cá nhân và tổ chức nước ngoài cũng nhiều nên việc niêm yết giá theo USD hợp lý hơn. Chị Phước, nhân viên CBRE Việt Nam, cho hay: “Chúng tôi bán sản phẩm theo nhu cầu của chủ đầu tư nên chủ đầu tư niêm yết giá thế nào chúng tôi phải để nguyên giá như thế, dù là USD hay VND”. Vì đặc thù của dự án bất động sản là quá trình giao dịch kéo dài từ khi góp vốn lần đầu đến khi hoàn thành, nên việc thanh toán bằng USD đảm bảo tính hiệu quả của dự án. Khi tỷ giá biến động, lạm phát, giá nguyên vật liệu tăng…, chủ đầu tư sẽ không bị ảnh hưởng nếu niêm yết giá theo USD. Việc chủ đầu tư đã quen với niêm yết giá và thanh toán bằng USD, giờ phải chuyển qua VND sẽ gặp không ít khó khăn. Việc niêm yết giá bằng USD khiến giá cả sản phẩm, dự án ổn định trong một thời gian dài, nếu chuyển qua VND thì giá có thể biến động ngày một, gây khó cho việc rao bán, quảng cáo. Thực tế cho thấy người mua - thuê nhà hay mua ô tô giá trị từ chục ngàn đến hàng trăm ngàn USD, thời gian thanh toán thường kéo dài. Nhiều người e ngại tỉ giá tăng, tích trữ USD, góp phần tăng cầu ngoại tệ. Khi đó, giới kinh doanh ngoại tệ sẽ tranh thủ tăng tỉ giá, kéo theo tâm lý tích trữ của nhiều người làm thị trường ngoại tệ thêm căng thẳng. Mặt khác, một số hàng hóa niêm yết bằng USD đều là hàng nhập khẩu. Các đầu mối cung cấp hàng chỉ giao dịch bằng ngoại tệ để tránh rủi ro khi tỉ giá biến động nhưng chứng từ thanh toán lại bằng VNĐ, cơ quan chức năng bó tay. Nguyên nhân xảy ra tình trạng đô la hóa ở Việt Nam Do nhu cầu phòng chống rủi ro các loại trong đó có rủi ro lạm phát và bản tệ bị mất giá so với ngoại tệ, rủi ro sụp đổ một thể chế tiền tệ , rủi ro gắn với sự yếu kém của các cơ quan chức năng của chính phủ. Nguyên nhân mang tính lịch sử, đó là sự mất lòng tin vào đồng nội tệ của người dân do những cuộc khủng hoảng tiền tệ sau năm 1985 và những năm 1997-1998. Thêm vào đó là hiện tượng lạm phát phi mã trong những năm cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 càng làm làm cho đồng nội tệ mất giá nhanh và tạo cho những người giữ tiền cảm thấy quá rủi ro khi giữ một khối lượng đồng nội tệ lớn. Hơn thế nữa, sau một thời gian ổn định, chỉ số giá đang ngày càng gia tăng khiến mọi người thêm ngần ngại hơn trong việc chuyển từ ngoại tệ sang VND. Người ta thích dùng USD không chỉ vì tính ổn định mà còn vì sự gọn nhẹ và tiện dụng của nó. Trong cơ chế kinh tế thị trường mở cửa, quá trình quốc tế hóa giao lưu thương mại, đầu tư và hợp tác kinh tế ngày càng tác động trực tiếp vào nền kinh tế và tiền tệ của mỗi nước nên trong từng nước xuất hiện nhu cầu sử dụng đơn vị tiền tệ thế giới để thực hiện một số chức năng của tiền tệ Một nguyên nhân khác đó là nguồn ngoại tệ tiền mặt ở nước ta không ngừng tăng nhanh, đặc biệt là USD bởi vì nước ta có rất nhiều kênh để huy động ngoại tệ: Nguồn kiều hối ngày càng có xu hường tăng mạnh với mức tăng bình quân 10%/năm và tới năm 2010 dự tính sẽ lên tới 5 tỷ USD. Lượng ngoại tệ chi tiêu ở Việt Nam của khách du lịch nước ngoài  cũng tăng nhanh cùng với lượng du khách đến Việt Nam. Tiền lương và thu nhập của người Việt Nam làm việc trong các dự án liên doanh, dự án 100% vốn đầu tư nước ngoài, dự án quốc tế, cơ quan nước ngoài tại Việt Nam... được trả bằng ngoại tệ. Số lượng người nước ngoài đến Việt Nam làm việc, sinh sống, làm ăn, học tập v.v... ngày càng gia tăng, chi tiêu ngoại tệ tiền mặt rất lớn, nhất là tiền thuê nhà của các hộ gia đình người Việt Nam và chi trả các dịch vụ khác. Tiền viện trợ không hoàn lại, tiền của các tổ chức tài chính vi mô, tổ chức từ thiện quốc tế, tổ chức phi chính phủ nước ngoài v.v... Bên cạnh đó là nguồn vốn tài trợ của các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế, Chính phủ các nước. Hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam bao gồm cả đầu tư trực tiêp và đầu tư gián tiếp. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ngày một gia tăng cùng với sự phát triển của nền kinh tế. Ngoại tệ từ các hoạt động buôn lậu và một số nguồn ngoại tệ qua các hoạt động kinh tế ngầm khác mà chính phủ Việt Nam chưa thể quản lý. Với lượng tiền mặt ngoại tệ lớn như vậy đang ồ ạt đổ về, buộc Việt Nam phải đứng trước tình trạng đô la hóa nền kinh tế ngày càng trầm trọng. Trước những nguyên nhân trên chúng ta cần nhận định rõ rằng: Đô la hóa là tình trạng khó tránh khỏi đối với những nước có xuất phát điểm thấp, đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế và từng bước hội nhập như Việt Nam. Xóa bỏ đô la hóa không phải là xóa bỏ hoàn toàn và phủ định tất cả vì cũng giống như lạm phát, phải duy trì ở một mức độ phù hợp và ổn định để thúc đẩy phát triển kinh tế. Chúng ta phải chấp nhận sự hiện diện của đô la hóa trên cơ sở kiềm chế, khai thác mặt lợi, hạn chế mặt tiêu cực… Giải pháp cho thực trạng đô la hóa Cần mạnh tay Nhiều quốc gia khu vực châu Á không có tình trạng niêm yết hay thanh toán hàng hóa bằng USD. Giá trị cốt lõi của một thị trường tiền tệ là pháp luật rõ ràng, quản lý thị trường vừa rõ vừa nghiêm. Sự thành công của thị trường tiền tệ nằm ở sự cân đối những giá trị cốt lõi đó. Mới đây, Chính phủ đã yêu cầu các bộ, ngành, chính quyền địa phương tăng cường kiểm tra, xử lý những đơn vị quảng cáo, niêm yết, mua - bán ngoại tệ. Thế nhưng, các cơ quan chức năng vào cuộc chưa quyết liệt, có chăng chỉ là thu hồi giấy phép một số đại lý thu đổi ngoại tệ, xử phạt một vài tiệm vàng mua – bán ngoại tệ trái phép. Đầu năm 2008, khi nhập siêu bắt đầu tăng, chi cục Quản lý thị trường Hà Nội đã có kiểm tra việc niêm yết bằng tiền USD nhưng báo cáo về Cục thì cho thấy, chưa phát hiện vi phạm?! Pháp luật Việt Nam quy định rất rõ về việc niêm yết giá sản phẩm khi bán tại Việt Nam, vậy mà thực trạng này vẫn diễn ra bình thường và công khai. Ngân hàng Nhà nước ta luôn thay đổi tỷ giá VND/USD, mục đích là để tạo thuận lợi cho xuất khẩu. Thế nhưng, việc tăng tỉ giá cũng khiến cho các công ty bán ô tô, đồ điện tử niêm yết giá bán theo USD khiến cho người dân bị móc túi mà không hề biết. Để đảm bảo lợi ích cho người tiêu dùng, thiết nghĩ, các cơ quan chức năng cần vào cuộc và làm thật triệt để để bảo vệ lợi ích cho người tiêu dùng, nhất là trong thời điểm kinh tế khủng hoảng hiện nay. Ý thức và lòng tự tôn dân tộc Đây là việc đã được quy định rõ ràng trong pháp luật, phải được chấp hành nghiêm. Cơ quan chủ trì việc này là Ngân hàng Nhà nước phải xem xét, thắt chặt lại, xử lý nghiêm minh. Nhưng quan trọng hơn hết, về lâu dài, cần phải có sự tuyên truyền, thay đổi nhận thức về việc sử dụng ngoại tệ, nội tệ ngay từ cơ quan quản lý Trung ương. Nếu ai đã từng đến ít nhất là một vài nước trong khu vực như Singapore, Malaysia thì biết bạn không thể sử dụng đồng USD trực tiếp mà bắt buộc phải đổi thành tiền nước sở tại. Rất nhiều lần người Việt Nam đến đó đã năn nỉ người bán vui lòng nhận hộ tiền USD nhưng người bán hàng dứt khoát không nhận. Dùng đồng nội tệ là biểu hiện của lòng tôn vinh dân tộc. Việc thực hiện nghiêm điều này không chỉ tránh được các sai số cho chính sách tiền tệ, mà còn để người Việt Nam phải có ý thức coi trọng chính đất nước mình, đồng tiền của mình, văn hóa của mình. Không có lý do gì mà chúng ta lại chấp nhận việc niêm yết giá dịch vụ, hàng hóa bằng ngoại tệ. Các nước bạn rất tôn trọng đồng tiền của quốc gia họ. Họ sẵn sàng từ chối mặc dù giá trị món hàng là khá lớn. Thiết nghĩ, luật pháp chúng ta rất vững vàng, chắc chắn nhưng ý thức trong việc thi hành luật vẫn còn nhiều vấn đề bất cập nên mới dẫn đến tình trạng trên. Kiến nghị mục tiêu phát triển cho chính sách tỷ giá cũng như chính sách ngoại hối của Việt Nam trong tương lai Quá trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi chính sách TGHĐ phải liên tục được hoàn thiện và điều chỉnh thích ứng với môi trường trong nước và quốc tế thường xuyên thay đổi. Để góp phần khai thác tối đa những lợi ích và giảm thiểu những tổn thất từ hội nhập kinh tế quốc tế, chính sách TGHĐ ở Việt Nam trong thời gian tới cần hoàn thiện. Theo nhiều ý kiến chuyên gia và với tình hình thực tế, chúng tôi nêu lên một số kiến nghị như sau: Thay đổi tỷ giá để tăng xuất khẩu Thực tế đã chứng minh, dựa vào sự mất cân đối trầm trọng của cán cân ngoại thương cứ dai dẳng trong mấy năm qua thì có thể nói rằng tiền đồng Việt Nam đang bị định giá quá cao, nhất là so với đồng Nhân dân tệ (RMB), chính là điểm yếu của kinh tế Việt Nam. Chính đồng tiền đang bị định giá quá cao làm cho hàng hóa của Việt Nam không thể cạnh tranh nổi với hàng hóa Trung Quốc cho dù ngay trên sân nhà của mình. Có nhiều ước lượng khác nhau về mức độ định giá thấp hơn giá trị thực của đồng Nhân dân tệ và mức độ tiền đồng cao giá so với đồng Đô la Mỹ. Nếu dựa vào số liệu từ bài viết của TS. Võ Đại Lược và TS. tại thảo “Ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng: Kinh tế Việt Nam năm 2010, triển vọng năm 2011” sẽ thấy đồng Nhân dân tệ đang được định giá thấp hơn so với đồng Đô la Mỹ 30% trong khi tiền đồng đang bị định giá cao hơn 15% so với đồng Đô la. Hai kịch bản tỷ giá được trình bày trong bảng 7.1. Bảng 7.1. Hai kịch bản tỷ giá Tỷ giá Hiện tại Đúng giá Đúng giá/Hiện tại USD/VND 19.500 22.425 15% USD/RMB 6,93 4,85 -30% RMB/VND 2.815 4.625 64% Phân tích trên cho thấy, việc đồng tiền Việt Nam đang bị định giá cao hơn trên 60% so với đồng Nhân dân tệ giống như hàng hóa sản xuất ở Việt Nam bị đánh thuế hơn 60% so với hàng hóa sản xuất từ Trung Quốc. Chừng nào vấn đề tỷ giá chưa được giải quyết thì việc nâng cao khả năng cạnh tranh, phát triển công nghiệp phụ trợ của Việt Nam vẫn chỉ là ước muốn. Chỉ có điều chỉnh tỷ giá mới có thể giúp cân bằng ngoại thương. Nếu Việt Nam không chủ động thì khi dữ trữ ngoại hối còn ở mức quá thấp và vì một lý do nào đó mà dòng vốn đảo chiều thì việc phá giá bắt buộc và bị động sẽ gây ra những tổn hại rất lớn cho nền kinh tế. Hơn thế, song song với việc điều chỉnh tỷ giá đồng tiền, việc cắt giảm chi tiêu công, nhất là những khoản đầu tư kém hiệu quả là một trong những yêu cầu bắt buộc vì mất cân đối bên ngoài rất khó giải quyết khi mà mất cân đối bên trong trầm trọng vẫn diễn ra. Việc thay đổi tỷ giá được đánh giá là bước đi quan trọng nhằm giảm bớt những khó khăn cho hệ thống ngân hàng trong việc huy động USD tài trợ cho nhu cầu xuất khẩu, cũng như thay đổi sự mất cân đối nguồn ngoại tệ giữa thị trường chính thức và thị trường chợ đen. Đồng thời điều này cũng làm tăng sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam so với hàng nhập khẩu, từ đó chuyển dịch cán cân thương mại có lợi cho ổn định kinh tế vĩ mô của Việt Nam Lý thuyết và kinh nghiệm quốc tế cho thấy rằng việc thay đổi tỷ giá một cách chủ động, có thể kiểm soát được sẽ có tác dụng rất lớn tới tăng cường sức cạnh tranh của nền kinh tế, tăng xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, tuy nhiên thực tế thì có thể sẽ tăng sức ép lên lạm phát do chính hàng trong nước nâng giá lên để tương ứng với hàng nhập khẩu tăng giá do tỷ giá thay đổi. Thế nên cần phá giá một cách chủ động, vừa tầm, không có nguy cơ ảnh hưởng đến hệ thống trong xã hội. Hoàn thiện thị trường ngoại hối và công tác quản lý ngoại hối ở Việt Nam Hoàn thiện thị trường ngoại hối Việt Nam để tạo điều kiện cho việc thực hiện chính sách  ngoại hối có hiệu qủa bằng cách mở rộng thị trường ngoại hối để các doanh nghiệp, các định chế tài chính phi ngân hàng tham gia thị trường ngày một nhiều, tạo thị trường hoàn hảo hơn, nhất là thị trường kỳ hạn và thị trường hoán chuyển để các đối tượng kinh doanh có liên quan đến ngoại tệ tự bảo vệ mình. Quản lý tốt dự trữ ngoại hối, tăng tích lũy ngoại tệ: xây dựng chính sách phát triển xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Tiết kiệm chi ngoại tệ, chỉ nhập những hàng hóa cần thiết cho nhu cầu sản xuất và những mặt hàng thiết yếu trong nước chưa sản xuất được. Ngoại tệ dự trữ khi đưa vào can thiệp trên thị trường phải có hiệu qủa. Lựa chọn  phương án phù hợp cho việc dự trữ cơ cấu ngoại tệ. Trong thời gian trước mắt vẫn xem đồng USD có vị trí quan trọng trong dự trữ ngoại tệ của mình nhưng cũng cần đa dạng hóa ngoại tệ dự trữ để phòng tránh rủi ro khi USD bị mất giá. Nới lỏng tiến tới tự do hóa trong quản lý ngoại hối, hoạt động này bao gồm việc giảm dần , tiến đến loại bỏ sự can thiệp trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước trong việc xác định tỷ giá, xóa bỏ các qui định mang tính hành chính trong kiểm soát ngoại hối, thiết lập tính chuyển đổi cho đồng tiền Việt Nam, sử dụng linh hoạt và hiệu quả các công cụ quản lý tỷ giá, nâng cao tính chủ động trong kinh doanh tiền tệ của các ngân hàng thương mại … Nâng cao chất lượng đồng thời hạ giá thành sản phẩm hàng hóa xuất khẩu, để tiết kiệm và tăng nguồn thu ngoại tệ Đối với các mặt hàng xuất khẩu, nhà nước nên có biện pháp miễn hoặc giảm thuế dối với các mặt hàng cần khuyến khích để chiếm lĩnh thị trường. Đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu mới thành lập cũng cần có biện pháp hỗ trợ để nó có thể đi vào hoạt động một cách có hiệu quả. Việc định hướng xuất khẩu để tạo nguồn thu ngoại tệ, nhà nước cần có các chính sách, khuyến khích bao gồm thuế ưu đãi và tín dụng trợ cấp, giảm thuế hải quan cho các hàng hóa trung gian và nguyên liệu thô tái sản xuất. Về nhập khẩu, cần kiểm tra nghiêm ngặt, để ngăn chặn tình trạng nhập lậu trốn thuế. Việc nhập hàng trả chậm, cần phải cân nhắc tránh trường hợp đi vay vốn nước ngoài, trong lúc vay vốn trong nước đang tồn đọng. Hạn chế nhập hàng trả chậm, chỉ nhập các loại hàng hóa là tư liệu sản xuất. Cần quan tâm đến chất lượng thông tin XNK . Đừng để vấn đề chậm thông tin và đói thông tin gây ảnh hưởng xấu đến giá cả XNK và làm giảm hiệu quả kinh tế XNK. Cần có các tổ chức xúc tiến thương mại, triển khai thương mại điện tử, nhằm gia tăng kim ngạch bằng việc nâng cao chất lượng hàng hóa xuất nhập khẩu, củng cố duy trì chỗ đứng cho hàng hóa XNK, tại các thị trường trọng điểm trên thế giới. Phát triển thị trường mới, sản phẩm mới cho ngành XNK, đa dạng hóa cơ cấu tiền tệ trong giao dịch thương mại quốc tế, nâng cao sự cân đối cung cầu ngoại tệ. Hoàn chỉnh thị trường ngoại hối liên ngân hàng  Điều kiện cần thiết để qua đó nhà nước có thể nắm được mối quan hệ cung cầu về ngoại tệ, đồng thời qua đó thực hiện biện pháp can thiệp của nhà nước khi cần thiết. Trước mắt cần có những biện pháp thúc đẩy các ngân hàng có kinh doanh ngoại tệ tham gia vào thị trường ngoại tệ liên ngân hàng , song song đó phải  củng cố và phát triển thị trường nội tệ liên ngân hàng với đầy đủ các nghiệp vụ hoạt động của nó, tạo điều kiện cho NHNN phối hợp, điều hòa giữa hai khu vực thị trường ngoại tệ và thị trường nội tệ một cách thông thoáng. Hoàn thiện cơ chế điều chỉnh tỷ giá hối đoái Việt Nam Để đảm bảo cho tỷ giá phản ánh đúng quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường nên từng bước loại bỏ dần việc qui định khung tỷ giá với biên độ quá chặt của Ngân hàng nhà nước đối với các giao dịch của các NHTM và các giao dịch quốc tế (Hiện nay biên độ này là 0,25%). NHNN chỉ điều chỉnh tỷ giá trên các phiên giao dịch ngoại tệ liên ngân hàng và theo hướng có tăng có giảm để kích thích thị trường luôn sôi động và tránh hiện tượng găm giữ đô la. Thực hiện chính sách đa ngoại tệ Hiện nay trên thị trường ngoại tệ, mặc dù USD có vị thế mạnh hơn hẳn các ngoại tệ khác, song nếu trong quan hệ tỷ giá chỉ áp dụng một loại ngoại tệ trong nước sẽ làm cho tỷ giá ràng buộc vào ngoại tệ đó, cụ thể là USD. Khi có sự biến động về giá cả USD trên thế giới, lập tức sẽ ảnh hưởng đến quan hệ tỷ giá của USD đến VND mà thông thường là những ảnh hưởng rất bất lợi. Chúng ta nên lựa chọn những ngoại tệ mạnh để thanh toán và dự trữ, bao gồm một số đồng tiền của những nước mà chúng ta có quan hệ thanh toán, thương mại và có quan hệ đối ngoại chặt chẽ nhất để làm cơ sở cho việc điều chỉnh tỷ giá của VND ví dụ như đồng EURO, yên Nhật  vì hiện nay EU, Nhật  là những thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Chế độ tỷ giá gắn với một rổ ngoại tệ như vậy sẽ làm tăng tính ổn định của TGHĐ danh nghĩa. Nâng cao vị thế đồng tiền Việt Nam Nâng cao sức mạnh cho đồng tiền Việt Nam bằng các giải pháp kích thích nền kinh tế như: hiện đại hoá nền sản xuất trong nước, đẩy mạnh tốc độ cổ phần hóa doanh nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ, tăng cường thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, xây dựng chính sách thích hợp để phát triển nông nghiệp, khuyến khích xuất khẩu, bài trừ tham nhũng … Tạo khả năng chuyển đổi từng phần cho đồng tiền Việt Nam: đồng tiền chuyển đổi được  sẽ tác động tích cực đến hoạt động thu hút vốn đầu tư , hạn chế tình trạng lưu thông nhiều đồng tiền trong một quốc gia. Hiện tượng đô la hóa nền kinh tế được hạn chế. Việc huy động các nguồn lực trong nền kinh tế trở nên thuận lợi hơn, hoạt động xuất nhập khẩu của quốc gia đó năng động hơn. Đồng tiền tự do chuyển đổi làm giảm sự can thiệp trực tiếp của Chính phủ vào chính sách quản lý ngoại hối và cơ chế điều hành tỷ giá, giúp cho tốc độ chu chuyển vốn được đẩy mạnh, góp phần đẩy nhanh tiến độ hội nhập kinh tế thế giới. Tuy nhiên, muốn tạo khả năng chuyển đổi cho VND phải có đủ lượng ngoại tệ dự trữ và nền kinh tế vững mạnh. Khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam phải được nhanh chóng cải thiện. Sử dụng có hiệu quả công cụ lãi suất để tác động đến tỷ giá, thu hẹp lãi suất giữa đồng ngoại tệ và đồng ngoại tệ Chính phủ phải tiến hành từng bước tự do hóa lãi suất, làm cho lãi suất thực sự là một loại giá cả được quyết định bởi chính sự cân bằng giữa cung và cầu của chính đồng tiền đó trong thị trường chứ không phải bởi những quyết định can thiệp hành chính của Chính phủ. Việc thu hẹp lãi suất giữa đồng ngoại tệ và đồng ngoại tệ sẽ giúp tăng khả năng thanh khoản cho thị trường ngoại hối và cả thị trường tiên tệ trong cả nước. Trong tương lai, với hệ thống toàn cầu hóa để hòa nhịp với các nước trong khu vực, lãi suất VND sẽ phải tương đương với lãi suất USD và phải giữ tương đối ổn định, như vậy sẽ tạo điều kiện cho việc điều chỉnh tỷ giá sát với cung cầu thị trường tiền tệ. Phát triển song song hai thị trường ngoại hối và thị trường tiền tệ, điều này vừa xóa bỏ tâm lý bất lợi đối với nguồn vay từ VND, vừa tạo điều kiện phát triển thị trường ngoại hối, chuyên môn hóa và tăng tính thanh khoản của hai thị trường. Khi hai thị trường này hình thành và phát triển, ta sẽ có điều kiện hạ lãi suất VND trong bối cảnh tỷ số lạm phát đã được kiềm chế, do vậy cũng khuyến khích đầu tư và phát triển kinh tế. Phối hợp các chính sách kinh tế vĩ mô để hoạt động can thiệp vào tỷ giá đạt hiệu quả cao Chú trọng hoàn thiện công cụ nghiệp vụ thị trường mở nội tệ. Chính sách tiền tệ được thực hiện qua 3 công cụ: lãi suất tái chiết khấu, dự trữ bắt buộc và nghiệp vụ thị trường mở nội tệ. Tuy nhiên, NVTTM nội tệ là công cụ quan trọng nhất vì nó tác động trực tiếp đến lượng tiền cung ứng, vì vậy nó quyết định đến sự thành bại của chính sách tiền tệ quốc gia, bên cạnh đó nó còn tham gia tích cực vào việc hỗ trợ chính sách tỷ giá khi cần thiết. Chẳng hạn khi phá giá sẽ tăng cung nội tệ, dẫn đến nguy cơ tạo ra lạm phát. Để giảm lạm phát người ta tiến hành bán hàng hóa giao dịch trong thị trường mở nội tệ, từ đó làm giảm cung nội tệ và lạm phát do đó cũng giảm theo. Đối với chính sách tài chính tiền tệ, tăng cường sử dụng nguồn vốn trong nước để bù đắp thiếu hụt ngân sách, phương án tốt nhất để thực hiện bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước là bằng vốn vay trong nước, hạn chế tối đa việc vay nợ nước ngoài. Hoàn thiện hệ thống thông tin trong ngân hàng Vận dụng dự báo tỷ giá để phòng ngừa và hạn chế rủi ro. Hoạt động dự báo có một tầm quan trọng rất lớn trong việc phòng ngừa rủi ro hoặc đầu cơ. NHTW có thể sử dụng  các nhân tố cơ bản như thuyết PPP, hiệu ứng Fisher quốc tế để dự báo. Ngoài ra, NHTW cần theo dõi, phân tích diễn biến thị trường tài chính quốc tế một cách có hệ thống để có những cơ sở vững chắc cho đánh giá, dự báo sự vận động của các đồng tiền chủ chốt. Nhanh chóng thực hiện các công cụ phòng ngừa rủi ro Trong điều kiện tỷ giá hiện nay tiềm tàng nhiều nhân tố bất ổn chúng ta cần  phải gấp rút triển khai các công cụ phòng ngừa rủi ro. Chính phủ đã cho phép các NHTM thực hiện các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn tiền tệ. Vấn đề là các NHTM và doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và những doanh nghiệp có thu, chi bằng ngoại tệ phải nhanh chóng sử dụng các công cụ này để phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Tóm lại, chính sách TGHĐ Việt Nam trong thời gian tới phải được phối hợp đồng bộ với các chính sách quản lý vĩ mô khác mới đem lại hiệu quả cao cho nền kinh tế. Để đạt được mục tiêu của chính sách đó Đảng, Chính phủ Việt Nam cần phải có những bước đi phù hợp. hy vọng rằng trong thời gian tới việc quản lý ngoại hối ở Việt Nam sẽ có những bước cải tiến đáng kể đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế thế giới. Lời kết Quy mô tiểu luận đã rất dài tuy nhiên nội dung của nó thì theo quan điểm của nó chưa thực sự thoả mãn theo tâm nguyện của cả nhóm vì đề tài tỷ giá là một đề tài sâu rộng nắm một vai trò quan trọng trong kinh tế học quốc tế, để rõ hơn thì ta có thể thấy trong tất cả các chương của giáo trình “Kinh tế học quốc tế”của Paul R.Krugman-Maurice Obstefld (tập 2) lẫn trong giáo trình “Tài chính quốc tế hiện đại trong nền kinh tế mở” của PGS. Nguyễn Văn Tiến thì yếu tố “tỷ giá” luôn nắm một tỷ trọng khá lớn trong cả cuốn sách. Vì vậy cho nên trong bài tiểu luận này, nhóm đã cố gắng phác họa một vài nét chung nhất đồng thời nói về tình hình thực tiễn của Việt Nam để chúng ta có thể có một nhận thức sơ khai về tỷ giá. Tiểu luận có nhiều lỗi chắc chắn là điều đã xảy ra vì vậy một sự góp ý chân thành cũng như những ý tưởng chia sẻ là điều mà nhóm quan tâm nhất từ cô giáo và các bạn. Mọi chia sẻ xin gửi về email: businessmen20102011@gmail.com . Chúc cô giáo Diệu Thảo và các bạn một ngày vui vẻ.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng điều hành chính sách tỷ giá và quản lý ngoại hối của việt nam hiện nay (83 trang).doc
Luận văn liên quan