Tuy gặt hái được nhiều thành tựu quan trọng, nhưng xuất khẩu gạo Việt Nam hiện giờ vẫn còn nhiều yếu kém: chất lượng và giá cả xuất khẩu còn thiếu sức cạnh tranh, thị trường xuất khẩu chưa thực sự ổn định.
Cùng với xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, mức độ cạnh tranh trên thị trường gạo ngày càng gay gắt, xuất khẩu gạo cũng ngày càng gặp nhiều khó khăn.
54 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4153 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam từ năm 2001 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các năm từ năm 2004 đến năm 2006
Nhìn chung thì giá gạo xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn này thường thấp hơn giá gạo thế giới do chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn nghiêm ngặt của thị trường như chủng loại.
Ngay sau khi gia nhập WTO, năm 2007 lần đầu tiên giá gạo của Việt Nam vượt mốc 300 USD/tấn đối với hầu hết các loại gạo (gạo 5% tấm, 10% tấm, 15% tấm). Đây cũng là lần đầu tiên giá gạo Việt Nam xuất khẩu ngang bằng với gạo Thái Lan cùng cấp các loại, từ 5% tấm, 10%,15% đến 20% tấm, và có thời điểm, giá gạo loại 25% tấm vượt cao hơn Thái Lan. Trong năm này Việt Nam đã trúng thầu cung cấp 474000 tấn gạo loại 25% tấm cho Philippin và một gói thầu cung cấp 14000 tấn gạo tẻ hạt dài cho thị trường Nhật Bản. Bên cạnh đó nhu cầu gạo ở Trung Đông và Châu Phi tăng mạnh. Chính lượng cầu tăng mạnh trong khi nguồn cung của thế giới tăng không nhiều đã làm cho giá gạo xuất khẩu của Việt Nam luôn ở mức cao kể từ đầu năm. [20]
Năm 2008 là năm có nhiều biến động mạnh trong giá gạo xuất khẩu, có lúc giá gạo của Việt Nam tăng lên tới 1050 USD/tấn. Giá gạo chia làm 2 xu hướng rõ rệt: tăng mạnh trong 5 tháng đầu năm, giảm mạnh trong 7 tháng cuối năm, giá gạo xuất khẩu bình quân cả năm là 610 USD/ tấn, tăng 86,7% so với năm 2007. Nguyên nhân giá gạo tăng đột biến là do lạm phát cao khiến chính phủ các nước tạm ngưng xuất khẩu gạo để ổn định tình hình trong nước, điều này dẫn đến nguồn cung giảm mạnh khiến giá gạo thế giới tăng cao. [10]
Năm 2009 giá gạo xuất khẩu bình quân của Việt Nam chỉ đạt 405,42 USD/tấn đã giảm 33,54% so với năm 2008
Năm 2009 giá xuất khẩu bình quân từ đầu năm đến 5/12 chỉ đạt 405 USD/tấn, giảm 180 đô la so với cùng kỳ năm 2008, nhưng lượng gạo giao trong tháng 11 đạt mức giá bình quân đến 413,71 đô la Mỹ/tấn, tức những tháng cuối năm gạo đang được giá. [21]
Trước đó, từ đầu năm đến tháng 9, tình hình mua bán gạo trên thế giới vẫn trầm lắng, giá gạo hầu như không thay đổi, thậm chí có lúc xuống thấp trong thời điểm từ tháng 3-6. Nguyên nhân xuất phát từ thông tin Ấn Độ trúng mùa và đưa lượng gạo dự trữ lên mức hơn 20 triệu tấn, cao nhất từ trước đến nay, và có thể xuất khẩu khoảng 2 triệu tấn. Trong khi đó, Thái Lan vẫn tiếp tục thực hiện chương trình mua lúa có trợ giá cho nông dân, nâng mức tồn kho gạo lên hơn 6 triệu tấn và nhiều khả năng bán gạo tồn kho nhằm giảm chi phí, hao hụt khi lưu kho. Mặt khác, khủng hoảng tài chính trên thế giới cũng khiến việc mua bán gạo cấp thấp bị giới hạn do nhu cầu viện trợ từ các nước nghèo không được đáp ứng kịp thời.
Năm 2010 bình quân giá gạo xuất khẩu đạt 468 USD/tấn, tăng 5,02% so với năm trước và đặc biệt giá gạo xuất khẩu năm này vượt giá gạo xuất khẩu bình quân thế giới.
Hình 2.2. Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam và thế giới giai đoạn 2007-2010
Nguồn: Bộ thương mại, 2010
Như vậy giá gạo xuất khẩu của nước ta nhìn chung đã ngày càng bám sát hơn giá bình quân trên thị trường xuất khẩu gạo thế giới và đã vượt giá xuất khẩu gạo bình quân thế giới vào năm 2010. Điều đó cho thấy gạo xuất khẩu của Việt Nam đã có nhiều cải thiện hơn về mặt chất lượng.
Bên cạnh đó giá gạo Việt Nam đã dần dần ngang bằng với giá gạo của Thái Lan, đây là một tín hiệu vui giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo cũng như người nông dân có nguồn vốn để tiếp tục sản xuất và xuất khẩu.
Hình 2.3. Giá gạo trắng Việt Nam so với Thái Lan từ năm 2003 đến tháng 3 năm 2010 ( USD/tấn)
Nguồn: Tổ chức Nông Lương Liên Hiệp Quốc (FAO)
Tuy nhiên, giá xuất khẩu bình quân của 4 cường quốc còn lại so với giá bình quân của thế giới thấp nhất cũng là trên 90%, cao nhất là gần 120% thì giá của chúng ta chỉ đạt khoảng 80% giá bình quân của thế giới. Đó là giá bán thấp nhất trong số 5 nước xuất khẩu gạo nhiều nhất thế giới là Thái Lan, Ấn Độ, Việt Nam, Mỹ và Pakistan.
Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), hiện nay giá gạo xuất khẩu của Việt Nam đang tăng mạnh, loại 5% tấm có giá 490-505 USD/tấn, loại 25% tấm giá khoảng 480 USD/tấn, tính đến cuối tháng 7, các doanh nghiệp đã xuất khẩu 4,619 triệu tấn gạo, trị giá 2,187 tỷ USD, giá xuất khẩu bình quân đạt 473,37 USD/tấn, tăng 35,11 USD/tấn so với cùng kỳ năm trước.
2.2. Thực trạng thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam từ 2001 đến nay.
2.2.1. Cơ cấu thị trường xuất khẩu theo khu vực
Trong giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2006, thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam ngày càng được mở rộng. Năm 2001, gạo Việt Nam mới xuất khẩu sang hơn 50 nước, và đến năm 2006 đã xuất khẩu đến hơn 60 thị trường và có mặt ở cả 5 châu lục. Trong đó Châu Á và Châu Phi là 2 thị trường nhập khẩu gạo lớn của Việt Nam.
Hình 2.4. Tỷ trọng xuất khẩu gạo bình quân đến các châu lục giai đoạn 2001-2006 (%)
Nguồn: Bộ thương mại, 2008
Giai đoạn 2001-2006, trung bình Châu Á chiếm 47% thị phần xuất khẩu gạo của Việt Nam (Hình 2.2). Đứng vị trí thứ hai là châu Phi, trung bình chiếm hơn 25% thị phần xuất khẩu gạo của Việt Nam (Hình 2.2). Thị trường Châu Mỹ cũng nhập khẩu một số lượng lớn gạo chiếm 9,68% thị phần xuất khẩu của Việt Nam. Do khu vực này cũng là nơi sản xuất gạo với số lượng lớn để xuất khẩu, thêm nữa gạo không phải là thương thực chính ở đây nên gạo nhập khẩu không nhiều.
Mặc dù lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam vào Trung Đông giai đoạn 2001-2006 chỉ đứng sau Châu Á và Châu Phi nhưng Trung Đông vẫn chỉ được coi là thị trường tiềm năng của xuất khẩu gạo Việt Nam. Nguyên nhân là do, những nước giàu ở khu vực này như các tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất, Oman… thì chủ yếu nhập khẩu các loại phẩm cấp cao của Thái Lan, những thị trường có nhu cầu đối với gạo chất lượng trung bình của Việt Nam như Irac, Iran.. thì lượng gạo nhập khẩu hay bị gián đoạn do chiến tranh, xung đột chính trị. Do vậy lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này không ổn định mặc dù nhu cầu tiêu dùng gạo Việt Nam ở thị trường Trung Đông là tương đối cao.
Châu Âu vốn là thị trường tiêu dùng khó tính, với nhiều tiêu chuẩn chất lượng khắt khe. Bên cạnh đó khu vực này chủ yếu nhập khẩu các loại gạo phẩm cấp cao vị thế gạo xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này cũng chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ (5,32%).
So với trước khi gia nhập WTO, tỷ trọng xuất khẩu gạo của Việt Nam theo khu vực mặc dù có sự thay đổi nhưng hạng sắp xếp theo khối lượng thì không thay đổi. Châu Á vẫn là thị trường nhập khẩu gạo hàng đầu Việt Nam, tiếp đến là Châu Phi. Theo báo cáo thường niên ngành hàng lúa gạo Việt Nam 2008 và triển vọng 2009 của Trung tâm Thông tin phát triển nông nghiệp nông thôn (AGROINFO), xuất khẩu gạo của Việt Nam năm 2008 giảm mạnh tại thị trường Châu Á và tăng mạnh tại thị trường Châu Phi.
Năm 2008, xuất khẩu gạo Việt Nam sang thị trường Châu Á giảm mạnh so với năm 2007 (giảm từ 78,1% năm 2007 xuống còn 58,8% năm 2008). Trong số các thị trường có tỷ trọng xuất khẩu gạo tăng thì thị trường Châu Phi là tăng mạnh nhất, tăng hơn gấp đôi so với năm 2007 (từ 8,4% năm 2007 lên 22% năm 2008). (Hình 2.4)
Hình 2.5 Kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam đi các thị trường năm 2007-2008 (%)
Nguồn: AGROINFO, tính theo Tổng cục Hải quan
Năm 2009, châu Á tiếp tục đóng vai trò là thị trường xuất khẩu gạo quan trọng nhất của Việt Nam. Theo Báo cáo thường niên ngành hàng gạo năm 2009 của Công ty cổ phần Phân tích và Dự báo thị trường Việt Nam (AGROMONITOR), xuất khẩu gạo sang các nước châu Á chiếm đến 61,68% tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam (so với mức 58,8% của năm 2008). Tiếp đến là Châu Phi - chiếm đến 30% trong tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam. Còn lại các châu lục khác chỉ chiếm 8,32% tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam. [16]
Đến năm 2010 khu vực tỷ trọng xuất khẩu gạo vào các khu vực thay đổi không đáng kể, châu Á chiếm 61,29% ; châu Phi chiếm 29,64%; Châu Mỹ chiếm 5,22%, châu Âu chiếm 3,33%; còn lại là thị trường châu Úc chiếm 0,52% tổng số lượng xuất khẩu.
2.2.2. Cơ cấu thị trường theo quốc gia.
Năm 2003, cơ cấu thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam có sự thay đổi nhỏ. Cuộc chiến tranh tại Irac khiến lượng gạo nhập khẩu từ Việt Nam vào nước này giảm đáng kể. Tuy nhiên, với việc có thêm nhiều thị trường mới đã mở ra cũng trong năm đó như Libang, Xiri, các nước Châu phi như Kenya, Senegal,…nên xuất khẩu gạo của Việt Nam vẫn ở mức cao.
Năm 2006, Châu Á vẫn là thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam với gần 1,43 triệu tấn, chiếm 76,7% tổng lượng gạo xuất khẩu của cả nước. Thị trường Philipin chiếm vị trí số một với mức nhập khẩu 33% tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam. Ngoài ra trong năm này Nhật Bản cũng được coi là một thị trường tiềm năng của gạo Việt Nam với những cam kết nâng dần lượng gạo nhập khẩu từ năm 2007 khoảng 150000 tấn đến 350000 nghìn tấn vào năm 2010. [4]
Trước khi gia nhập WTO gạo Việt Nam được xuất khẩu đến hơn 60 quốc gia năm 2006 thì đến năm 2008, con số này đã tăng lên gấp đôi (128 quốc gia)
Cơ cấu thị trường xuất khẩu gạo năm 2008 của Việt Nam có sự thay đổi đặc biệt trong việc xuất khẩu gạo sang thị trường Indonexia. Thực tế các năm trước đây, cũng như năm 2007, Indonexia luôn là thị trường gạo xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam (chiếm 24% tổng lượng xuất khẩu), thì năm 2008, nước này đã giảm mạnh lượng nhập khẩu gạo (chỉ chiếm hơn 1% tổng lượng gạo xuất khẩu) do đã có thể tự đáp ứng được nhu cầu gạo tại thị trường trong nước. Thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam năm 2008 vẫn là Philippines chiếm 40% tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam. 3 thị trường có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất là Philippines, Malaysia, Cuba. Đây đều là các thị trường truyền thống chiếm 63,8% về giá trị và 54,8% về lượng. [16]
Bảng 2.2. Khối lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam tới 10 thị trường nhập khẩu chính 2007-2008
Năm
Nước
2007
2008
Khối lượng
(nghìn tấn)
Kim ngạch
(triệu USD)
Khối lượng
( nghìn tấn)
Kim ngạch
( triệu USD)
Philipine
1458
466
1479
1088
Cuba
431
167
488
411
Malaysia
377
116
457
263
Senegal
191
94
200
100
Iraq
-
-
190
95
Bờ Biển Ngà
148
46
185
51
Đông Ti Mo
134
46
165
47
Singapore
82
26
150
39
Ghana
130
40
125
30
Indonexia
1169
379
76
19
Nguồn: Tổng cục hải quan, 2008
Sang năm 2009 thì thị trường xuất khẩu gạo chính của Việt Nam vẫn là các nước châu Á chiếm đến 61,68% tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam (so với mức 50,8% của năm 2008). Trong đó, xuất khẩu gạo sang thị trường Philippines chiếm hơn một nửa thị phần của toàn khu vực châu Á (chiếm tới 35% trong tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam năm 2009). Theo đó, lượng gạo mà Việt Nam xuất khẩu sang Philippines trong năm 2009 đạt gần 1,7 triệu tấn, trị giá hơn 912 triệu USD.
Tiếp theo phải kể đến Malaysia, từ vị trí thứ ba trong năm 2008, đã vươn lên đứng thứ hai với thị phần 9%, tương đương với lượng gạo nhập khẩu hơn 611 nghìn tấn, trị giá khoảng 271 triệu USD. Các quốc gia và lãnh thổ châu Á nằm trong nhóm 10 thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam năm 2009 còn có Singapore (329.000 tấn và 134 triệu USD ), Đông Timo (242.000 tấn và 97 triệu USD), Đài Loan (203.000 tấn và 81 triệu USD) và Iraq (168.000 tấn và 68 triệuUSD ). [16]
Châu Á là thị trường xuất khẩu gạo chủ chốt của Việt Nam trong năm 2009 khi có tới sáu trong 10 thị trường có tốc độ tăng trưởng lớn nhất. Cụ thể, 10 thị trường có kim ngạch nhập khẩu gạo từ Việt Nam trên 1 triệu đô la và có tốc độ tăng trưởng kim ngạch lớn nhất năm 2009 bao gồm: Kiribati (tăng 10,608%), Campuchia (tăng 2,516%), Li Băng (tăng 2,124%), Hồng Kông (tăng 758%), Mỹ (tăng 714%), Nigeria (tăng 614%), Brunei (tăng 506%), Đài Loan (tăng 493%), Trung Quốc (tăng 397%) và Fiji (tăng 365%). Đáng chú ý là Đài Loan từ vị trí thứ 23 trong bảng xếp hạng năm 2008 đã vươn lên đứng trong nhóm 10 thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam trong năm 2009. [16]
Đến năm 2010 Thị trường truyền thống chủ đạo của xuất khẩu gạo Việt Nam vẫn là Philippines, Indonesia, Cu Ba, Malaysia và Đài Loan; trong đó, dẫn đầu về lượng và kim ngạch trong năm 2010 là thị trường Philipines với 1,48 triệu tấn, trị giá 947,38 triệu USD (chiếm 21,4% về lượng và chiếm 29,17% tổng kim ngạch); thị trường Indonesia xếp vị trí thứ 2 với trên 687 nghìn tấn, trị giá 346,02 triệu USD (chiếm 9,98% về lượng và chiếm 10,65% tổng kim ngạch); thứ 3 là Singapore với 539,3 nghìn tấn, trị giá 227,79 triệu USD (chiếm 7,83% về lượng và chiếm 7,01% tổng kim ngạch); tiếp đến Cu Ba gần 472,3 nghìn tấn, trị giá 209,22 triệu USD (chiếm 6,86% về lượng và chiếm 6,44% tổng kim ngạch); sau đó là 2 thị trường cũng đạt kim ngạch trên 100 triệu USD là: Malaysia 177,69 triệu USD; Đài Loan 142,7 triệu USD.[23]
Hình 2.6. 10 thị trường lớn nhất trong cơ cấu xuất khẩu gạo của Việt Nam (7 tháng 2010)
Nguồn: Tính từ số liệu của Tổng cục Hải quan
Đa số các thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam năm 2010 đều giảm về lượng và kim ngạch so với năm 2009, tuy nhiên có 5 thị trường xuất khẩu tăng cả lượng và kim ngạch so với năm 2009, trong đó tăng mạnh nhất là xuất khẩu sang Indonesia (tăng 3763,79% về lượng và tăng 4696,30% về kim ngạch); xuất khẩu sang Hồng Kông đứng thứ 2 về mức tăng trưởng (tăng 194% về lượng và tăng 222,42% về kim ngạch); sau đó là Đài Loan (tăng 72,3% về lượng và tăng 74,85% về kim ngạch); Singapore (tăng 64,65% về lượng và tăng 70,51% về kim ngạch). Ngược lại, kim ngạch xuất khẩu gạo giảm mạnh so với năm 2009 ở các thị trường Italia (giảm 83,21% về lượng và giảm 75,94% về kim ngạch); Tây Ban Nha (giảm 79,16% về lượng và giảm 75,45% về kim ngạch) và Ucraina (giảm 64,98% về lượng và giảm 60,95% về kim ngạch).[23]
Nhìn chung thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam từ khi gia nhập WTO không chỉ phát triển mạnh về chiều rộng mà còn cả về chiều sâu. Việt Nam đã chiếm lĩnh được một số thị trường khó tính như EU, Bắc Mỹ, Úc và Nhật Bản. Tuy nhiên, các thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam vẫn nằm ở Châu Á. Còn các thị trường Châu Phi Việt Nam mới chỉ xuất qua các trung gian khác vì chưa có điều kiện tiếp cận trực tiếp với thị trường này cũng như còn nhiều khó khăn trong việc thanh toán. Phần lớn các khu vực thị trường này có trình độ tiêu dùng thấp, khả năng thanh toán kém. So với Thái Lan việc gạo Việt Nam dành được những thị trường tiêu thụ có chất lượng tiêu dùng cao còn rất hạn chế.
Trong năm 2010,Thị trường truyền thống chủ đạo của xuất khẩu gạo Việt Nam vẫn là Philippines, Indonesia, Cu Ba, Malaysia và Đài Loan; trong đó, dẫn đầu về lượng và kim ngạch trong năm 2010 là thị trường Philipines với 1,48 triệu tấn, trị giá 947,38 triệu USD (chiếm 21,4% về lượng và chiếm 29,17% tổng kim ngạch); thị trường Indonesia xếp vị trí thứ 2 với trên 687 nghìn tấn, trị giá 346,02 triệu USD (chiếm 9,98% về lượng và chiếm 10,65% tổng kim ngạch); thứ 3 là Singapore với 539,3 nghìn tấn, trị giá 227,79 triệu USD (chiếm 7,83% về lượng và chiếm 7,01% tổng kim ngạch); tiếp đến Cu Ba gần 472,3 nghìn tấn, trị giá 209,22 triệu USD (chiếm 6,86% về lượng và chiếm 6,44% tổng kim ngạch); sau đó là 2 thị trường cũng đạt kim ngạch trên 100 triệu USD là: Malaysia 177,69 triệu USD; Đài Loan 142,7 triệu USD.
Đa số các thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam năm 2010 đều giảm về lượng và kim ngạch so với năm 2009, tuy nhiên có 5 thị trường xuất khẩu tăng cả lượng và kim ngạch so với năm 2009, trong đó tăng mạnh nhất là xuất khẩu sang Indonesia (tăng 3763,79% về lượng và tăng 4696,30% về kim ngạch); xuất khẩu sang Hồng Kông đứng thứ 2 về mức tăng trưởng (tăng 194% về lượng và tăng 222,42% về kim ngạch); sau đó là Đài Loan (tăng 72,3% về lượng và tăng 74,85% về kim ngạch); Singapore (tăng 64,65% về lượng và tăng 70,51% về kim ngạch). Ngược lại, kim ngạch xuất khẩu gạo giảm mạnh so với năm 2009 ở các thị trường Italia (giảm 83,21% về lượng và giảm 75,94% về kim ngạch); Tây Ban Nha (giảm 79,16% về lượng và giảm 75,45% về kim ngạch) và Ucraina (giảm 64,98% về lượng và giảm 60,95% về kim ngạch).
Bước sang năm 2011, gạo xuất khẩu của nước ta có nhiều khả quan.
Lượng gạo xuất khẩu của cả nước trong tháng 3/2011 đạt 895.614 tấn, trị giá 447,7 triệu đô la (tăng 81,1% về lượng và tăng 85,55% về trị giá so với tháng 2/2011); đưa tổng lượng gạo xuất khẩu cả quí 1 lên 1,93 triệu tấn, thu về 970,64 triệu đô la, chiếm 4,94% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá cả nước (tăng 33,77% về lượng và tăng 22,47% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2010).
Đây là tháng thứ 6 liên tục, thị trường Indonesia luôn dẫn đầu cả về lượng và kim ngạch xuất khẩu, tháng 3 này xuất sang Indonesia gần 281 nghìn tấn gạo, thu về 137,73 triệu đô la; tính chung cả 3 tháng xuất sang thị trường này 684,9 nghìn tấn gạo, trị giá 343,04 triệu đô la (chiếm 35,48% về lượng và chiếm 35,34% trị giá).
Thị trường Cuba đứng thứ 2 trong tháng với 109 nghìn tấn, trị giá 57,2 triệu đô la; tính cả 3 tháng xuất sang thị trường này 156,7 nghìn tấn gạo, trị giá 85,1 triệu đô la (chiếm 8,12% về lượng và chiếm 8,77% trị giá).
Xếp thứ 3 trong tháng là thị trường Trung Quốc với 60,6 nghìn tấn, trị giá 30,4 triệu đô la; cộng gộp cả 3 tháng là 69,9 nghìn tấn, trị giá 36,4 triệu đô la (chiếm 3,62% về lượng và chiếm 3,75% tổng trị giá).
Tính chung cả 3 tháng đầu năm 2011, có 8 thị trường xuất khẩu gạo đạt kim ngạch trên 10 triệu đô la, dẫn đầu là Indonesia 343,04 triệu đô la; tiếp đến Cuba 85,1 triệu đô la, Malaysia 60 triệu đô la; Singapore 48,66 triệu đô la; Trung Quốc 36,39 triệu đô la; Philippines 29,9 triệu đô la; Hồng Kông 20,16 triệu đô la; Đài Loan 13,17 triệu đô la.
Trong số 21 thị trường xuất khẩu gạo quí 1/2011, có 4 thị trường mới so với cùng kỳ năm ngoái là Trung Quốc, Đông Timo, Brunei, Bỉ; còn lại 17 thị trường truyền thống thì có 10 thị trường đạt mức tăng trưởng dương về kim ngạch và 7 thị trường bị sụt giảm kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái; trong đó thị trường đột biến về mức tăng trưởng cả về lượng và kim ngạch là thị trường Indonesia tăng 5166% về lượng và tăng 4069,7% về kim ngạch; tiếp sau đó là một số thị trường cũng đạt mức tăng mạnh trên 100% về lượng và kim ngạch như: Tây Ban Nha (tăng 379% về lượng và tăng 299,4% về kim ngạch); Hồng Kông (tăng 173,05% về lượng và tăng 205,4% về kim ngạch); Australia (tăng 108,1% về lượng và tăng 113,3% về kim ngạch).
Ngược lại, xuất khẩu gạo giảm mạnh ở các thị trường sau: Philippines (giảm 93,96% về lượng và giảm 93,86% về kim ngạch), Ucraina (giảm 71,65% về lượng và giảm 69,27% về kim ngạch); Đài Loan (giảm 72,58% về lượng và giảm 67,55% về kim ngạch) và Hà Lan (giảm 60,86% về lượng và giảm 59,97% về kim ngạch).
Bảng 2.3. Xuất khẩu gạo sang các thị trường quí I/2011(Nguồn: Bộ Công Thương)
Thị trường
T3/2011
3T/2011
Tăng, giảm 3T/2011 so với cùng kỳ
Lượng
(tấn)
Trị giá
(USD)
Lượng
(tấn)
Trị giá
(USD)
Lượng
(%)
Trị giá
(%)
Tổng cộng
895.614
447.695.478
1.930.235
970.644.060
+33,77
+22,47
Indonesia
280.925
137.726.100
684.850
343.041.425
+5166,05
+4069,71
Cu Ba
108.950
57.193.669
156.700
85.097.814
+59,82
+94,08
Malaysia
48.674
26.061.804
119.293
60.008.818
+1,96
+12,23
Singapore
49.593
24.470.474
95.775
48.662.239
+21,09
+31,97
Trung Quốc
60.647
30.378.637
69.852
36.392.254
*
*
Philippines
45.324
28.703.578
47.259
29.899.973
-93,96
-93,86
Hồng Kông
19.859
11.192.066
34.158
20.159.957
+173,05
+205,39
Đài Loan
14.202
6.899.271
26.311
13.172.899
-72,58
-67,55
Nga
10.032
5.025.086
11.765
5.911.183
-16,54
-10,41
Đông Timo
2.830
1.349.600
10.460
5.118.820
*
*
Brunei
2.294
1.171.290
4.524
2.517.090
*
*
Nam Phi
300
152.600
3.350
1.720.150
+10,82
+19,74
Australia
477
292.513
1.852
1.181.390
+108,09
+113,33
Ucraina
150
91.150
1.056
577.530
-71,65
-69,27
Tiểu vương Quốc Ả Rập thống nhất
412
255.130
824
519.625
-10,82
+12,36
Tây Ban Nha
0
0
570
320.670
+378,99
+299,39
Ba Lan
0
0
405
187.166
-14,74
-14,60
Bỉ
500
186.000
500
186.000
Italia
121
70.590
246
155.340
-25,45
-14,42
Pháp
24
26.855
194
143.832
-
-
2.2.3. Một số đối thủ cạnh tranh chủ yếu của gạo xuất khẩu Việt Nam.
Hình 2.7. các nước xuất khẩu gạo hàng đâug thế giới.
Có thể thấy rằng, trong thời gian qua, gạo xuất khẩu của Việt Nam đã có mặt ở hầu hết thị trường trên thế giới, song một thực tế có thể thấy rằng, gạo xuất khẩu của Việt Nam có rất nhiều đối thủ cạnh tranh mạnh trên thị trường thế giới.
Thái Lan.
Thái Lan là nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới với lượng gạo và kim ngạch xuất khẩu gạo gấp 2 lần so với nước đứng vị trí thứ hai là Việt Nam. Năm 2004 là năm đỉnh cao của Thái Lan về xuất khẩu gạo, với sản lượng đạt 10,137 triệu tấn. Nhưng do có nhiều nước cũng tăng xuất khẩu gạo nên thị phần của nước này giảm xuống chỉ chiếm khoảng 37% thị trường gạo thế giới. Đến năm 2005, do diễn biến thới tiết không thuận lợi của lũ lụt kéo dài làm ảnh hưởng tới sản lượng lúa của Thái Lan chỉ đạt khoảng 13,360 triệu tấn.
Lượng gạo xuất khẩu của Thái Lan trong năm này giảm xuống còn 7,274 triệu tấn, chiếm 25% sản lượng gạo xuất khẩu toàn cầu. Dù vậy,năm đó Thái Lan vẫn giữ vị trí thứ nhất thế giưới, vượt hẳn Việt Nam là nước đứng thứ hai thế giới đến 2,1 triệu tân.Năm 2006, sản lượng gạo Thái Lan đạt mức 18,2 triệu tấn. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới sản lượng xuất khẩu gạo của nước này. Mặc dù vậy, sản lượng gạo xuất khẩu của Thái Lan cũng tăng đến mức 7,376 triệu tấn, chiếm tỷ trọng 26% trong tổng sản lượng xuất khẩu toàn thế giới, tăng 1% so với năm 2005.
Xuất khẩu gạo Thái Lan năm 2007 đạt 9,5 triệu tấn, chiếm 31,4% tổng sản lượng gạo xuất khẩu của thế giới, vượt 8,5 triệu tấn của chính phủ và càng cao hơn với 7,3 triệu tấn xuất khẩu năm 2006.Chính phủ Thái Lan đã nỗ lực mở rộng thị trường tiêu thụ gạo của mình bằng cách cử phái đoàn thương mại sang nhiều thị trường mới như Senagal, Ghana,Tunisia, các tiểu vương quốc Ảrập thống nhất và Trung Quốc. Các thị trường náy rất tin tưởng vào tiêu chuẩn và chất lượng gạo Thái. Hầu hết họ đều tăng nhập khẩu gạo Thái Lan.
Căn cứ vào số liệu ước tính mới nhất, trong số các nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, Thái Lan sẽ đóng vai trò chính trong năm 2011, với kim ngạch xuất khẩu tăng lên 9,7 triệu tấn, tăng từ 9,0 triệu tấn trong năm 2010 và cao hơn mục tiêu chính thức là 9,5 triệu tấn.Và đây là đối thủ cạnh tranh lớn nhất của gạo xuất khẩu của Việt Nam.
Ân Độ.
Xuất hiện trên thị trường thế giời từ rất sớm, vào những năm đầu thế kỷ xx đến nay Ân Độ đã trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo lớn của thế giới.Nếu như những năm 60 của thế kỷ xx, sản lượng gạo xuất khẩu của Ân Độ chỉ khoảng 0,1 triệu tấn thì đến những năm gần đây sản lượng gạo xuất khẩu của Ân Độ luôn ở mức trên 2 triệu tấn với tỷ trọng chiếm 12 -14% tổng sản lượng gạo xuất khẩu thế giới.
Gạo xuất khẩu chủ yếu của Ân Độ là gạo Đồ và gạo Basmati. Đây là gạo xuất khẩu gạo Basmati lớn nhất thế giới chủ yếu sang Ảrập Xêút và các nước Trung Đông khác, Châu Âu và Châu Mỹ. Lợi thế của Ân Độ là luôn đảm bảo cung cấp gạo không biến đổi gen cho bất kì nơi nào trên thế giới. Mặt khác nâng cao gạo chất lượng cao đang phát triển trên thị trường thế giới sẽ là cơ hội tốt cho Ân Độ. Thêm vào đó, gạo hạt dài của Ân Độ có giá cạnh tranh hơn nhiều so với gạo của Việt Nam, không chỉ có vậy lượng gạo xuất khẩu của Ân Độ chiếm 10% tổng sản lượng gạo xuất khẩu toàn thế giới.
2.3. Đánh giá về năng lực canh tranh của gạo xuất khẩu của Việt Nam từ năm 2001 đến nay.
Từ một quốc gia thiếu đói, chỉ trong một thời gian ngắn, Việt Nam đã vươn lên trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, tạo ra một lượng thặng dư ngoại tệ cho đất nước nhập khẩu máy móc, trang thiết bị hiện đại hóa cho nhiều ngành công nghiệp đồng thời, giữ vững an ninh lương.
Đến năm 2007, kinh tế Việt Nam mới chính thức hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, nhưng người nông dân sản xuất gạo Việt Nam đã tham gia thị trường toàn cầu từ trước đó gần 2 thập niên. Có thể thấy từ khi gia nhập WTO, xuất khẩu gạo của Việt Nam đã có nhiều bước tiến quan trọng, lượng gạo xuất khẩu ngày càng lớn, chất lượng ngày càng cao và giá gạo xuất khẩu dần ngang bằng với giá gạo của thế giới. Gạo Việt Nam ngày càng có mặt ở hầu hết các thị trường trên thế giới,chinh phục được cả những thị trường khò tính nhất.Cùng với đó, thị phần gạo xuất khẩu của việt nam ngày càng được khẳng định trên thị trường thế giới.
Hiện nay, tình hình xuất khẩu gạo Việt Nam đang có nhiều thuận lợi. Đặc biệt, trong khi một số nước lớn về xuất khẩu gạo có xu hướng giảm nhưng xuất khẩu gạo của Việt Nam vẫn tăng trưởng cả về lượng và giá trị, so với lượng gạo xuất khẩu của cùng kỳ năm 2010 thì đến nay đã tăng 13,79%.
Với thị trường toàn cầu, gạo Việt Nam ngày càng khẳng định được vị trí, giữ được giá xuất khẩu, loại gạo cấp trung bình có khả năng cạnh tranh cao. Việc duy trì các thị trường truyền thống đóng vai trò nền tảng giúp ngành lúa gạo Việt Nam có thời gian khắc phục khiếm khuyết về giống lúa, chất lượng gạo, tập quán canh tác, sức chứa kho dự trữ, công nghệ sau thu hoạch, công nghệ chế biến…
Theo kết quả nghiên cứu của chuyên gia tham gia tham gia đề án quốc gia về nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa dịch vụ Việt Nam thì chi phí sản xuất lúa Việt Nam hiện vẫn còn thấp trong khu vực Đông Nam Á.Thậm chí với điều kiện thiên nhiên thuận lợi, chi phí sản xuất lúa tại Đồng Bằng Sông Cửu Long còn được coi là nhỏ hơn thế giới(=80,95% so với Thái Lan) . Nguyên nhân chủ yếu là do chi phí cho lao động chỉ bằng 1/3 so với Thái Lan và năng suất lúa cao hơn 1,5 lần .
Quan sát cơ cấu khối lượng xuất khẩu gạo trong vài năm trở lại đây, có thể thấy, tỷ trọng gạo có chất lượng (loại 5% tấm) đã tăng lên qua các năm. Điều này cho thấy sức cạnh tranh đã được cải thiện đáng kể.
Quan sát diễn biến giá gạo cùng loại của Việt Nam và Thái Lan trong 5 năm trở lại đây cũng cho thấy gạo Việt Nam đang dần tiệm cận với giá gạo Thái Lan.
Hiên nay, nhu cầu lương thực thế giới không ngừng tăng lên trong đó có nhu cầu về gạo, thì với lợi thế là một nước sản xuất và xuất khẩu lúa gạo hàng đầu thế giới Việt Nam hoàn toàn có thể nâng cao vị trí xuất khẩu gạo trong tương lai. Như vậy, trong thời gian tới, sức cạnh tranh gạo Việt Nam sẽ được cải thiện nếu chúng ta làm tốt 2 khâu là: chất lượng và thương hiệu.
2.4. Những vấn đề đặt ra của xuất khẩu gạo Việt Nam trong thời gian tới
Về thị trường
Mặc dù gạo Việt Nam đã có mặt trên hơn 100 nước thuộc tất cả các đại lục nhưng số lượng gạo do các tổ chức Việt Nam trực tiếp kí kết với các thị trường còn chiếm tỷ lệ thấp, số bán qua trung gian nước ngoài còn chiếm tỷ lệ lớn (tới 65%) đặc biệt là thị trường Châu Phi. Nguyên nhân là do một số doanh nghiệp Việt Nam còn chạy theo lối cò con, chỉ tính đến cái lợi trước mắt mà chưa tính đến lợi ích lâu dài và lợi ích toàn cục. Một số chính sách vĩ mô của nhà nước chưa chuyến đổi kịp với diến biến của thị trường trong nước và quốc tế cũng làm giảm khả năng cạnh tranh của lúa gạo Việt Nam trên thị trường thế giới.
Hơn nữa, Việt Nam và Thái Lan lại có chung một số thị trường xuất khẩu gạo vì vậy Việt Nam phải đương đầu với một số đối thủ cạnh tranh có lợi thế về nhiều mặt: chất lượng gạo, kinh nghiệm sản xuất và xuất khẩu…Cho đến nay do không ngừng nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu, thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam tiếp tục mở rộng nhưng trong tương lai gần chủ yếu vẫn tập trung vào những thị trường đòi hỏi chất lượng không cao và giá rẻ như Châu Phi, Nam Mỹ.
Trong suốt quá trình xuất khẩu gạo từ năm 1989 đến nay, sở dĩ Việt Nam chưa dành được sự ưu ái của thị trường thế giới bên cạnh lý do chất lượng gạo thấp còn có lý do chúng ta chậm trong xây dựng thương hiệu. Không phải gạo Việt Nam hoàn toàn yếu kém về mặt chất lượng, Việt Nam có rất nhiều sản phẩm chất lượng cao và độc đáo như gạo thơm, gạo dò nhưng nhiều người tiêu dùng thế giới lại không biết đến. Họ tưởng chỉ có Thái Lan mới có. Có tình trạng này là do Việt Nam chưa xây dựng được thương hiệu cho những mặt hàng độc đáo. Các doanh nghiệp trong nước thiếu thông tin về thị trường thế giới và không chủ động tiếp cận đối tác. Bên cạnh đó thì các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu gạo chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thời gian hoạt động thương mại chưa lâu, thiếu kĩ năng trong tham gia thị trường quốc tế. Điều này khiến cho các doanh nghiệp mất chi phí trung gian mà còn không có cơ hội thể hiện thương hiệu sản phẩm và thương hiệu doanh nghiệp trên thị trường, làm mất cơ hội được giới thiệu về sản phẩm và đất nước Việt Nam với thế giới.
Tóm lại hoạt động xuất khẩu gạo Việt Nam chưa thực sự ổn định chủ yếu vẫn là các thị trường nhỏ, có yêu cầu không cao và không ổn định. Xuất khẩu gạo Việt Nam vẫn thiếu một chiến lược đối với các thị trường lớn. Chúng ta chưa thiết lập được một hệ thống thị trường và bạn hàng đáng lớn ổn định cũng như thương hiệu sản phẩm. Gạo của Việt Nam chưa thực sự xâm nhập được vào các thị trường khó tính như Nhật Bản, Hàn Quốc, EU.
Về chất lượng gạo xuất khẩu
Bên cạnh vấn đề về thị trường xuất khẩu thì còn có vấn đề lớn về chất lượng gạo xuất khẩu. Mặc dù chất lượng gạo của Việt Nam đã được cải thiện tương đối ấn tượng trong hơn 1 thập kỉ qua, nhưng nhìn chung chất lượng gạo xuất khẩu vẫn còn ở mức thấp so với gạo của các nước xuất khẩu khác nên ảnh hưởng tới giá bán và thị trường trong xuất khẩu. Gạo xuất khẩu của Việt Nam luôn có giá thấp nhất nếu so với gạo cùng loại của các nước khác. Nhà nhập khẩu khó mua giá cao do chất lượng gạo Việt Nam không đồng đều. Có nhiều nguyên nhân khiến chất lượng gạo Việt Nam chưa bắt kịp với nhiều nước xuất khẩu khác, nhưng chủ yếu là do các nguyên nhân sau đây.
Thứ nhất: giống là khâu đầu tiên có ảnh hưởng quan trọng tới chất lượng sản phẩm của gạo nước ta. Ở một số địa phương hiện nay vẫn trồng đại trà các giống lúa cũ đã thoái hóa hoặc các giống lúa lai của Trung Quốc ngắn ngày cho năng suất cao nhưng chất lượng gạo thấp không đảm bảo các tiêu chuẩn về độ dài hạt, độ trong, điểm bạc bụng của gạo xuất khẩu [6]. Mặt khác do phong trào sản xuất hướng vào năng suất và sản lượng trước đây đã làm mất đi nhiều giống lúa đặc sản quý có phẩm chất gạo cạnh tranh được với gạo thơm hay Hương Nhài của Thái Lan.
Thứ hai: đặc tính phân tán, tự phát, quy mô nhỏ lẻ của các hộ nông dân là cản trở lớn để có thể tăng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam. Với quy mô nhỏ, sản xuất phân tán, chất lượng lúa không đồng đều, khiến nông dân trồng lúa chỉ có thể duy trì tình trạng sản xuất tự cung, tự cấp là chủ yếu, điều này được thể hiện rõ ở đồng bằng sông Hồng. Ngay cả ở đồng bằng sông Cửu Long (chiếm 95% lượng gạo xuất khẩu), tuy nhiên diện tích đất canh tác bình quân đầu người cao nhất cả nước nhưng nhược điểm trên cũng chưa được khắc phục. Toàn vùng có 1700 trang trại trồng lúa hàng hóa nhưng quy mô đất lúa trung bình một trang trại từ 3-5 ha chiếm gần 60%, chỉ có 4,9% có quy mô trên 10ha. Với quy mô nhỏ như vậy, khả năng ứng dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất lúa bị hạn chế rất nhiều. [23]
Thứ ba, cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ chế biến, bảo quản lúa gạo xuất khẩu còn yếu kém lại không phân bổ đều. Hiện nay công tác bảo quản và lưu trữ sau thu hoạch của nước ta còn nhiều tồn tại. Hệ thống kho lưu trữ của nước ta phần lớn không đảm bảo đúng tiêu chuẩn kĩ thuật nên tỷ lệ tỷ lệ hư hao do nấm mốc, côn trùng và chuột còn cao. Mặt khác 80% lượng thóc của Việt Nam lại được xay xát và chế biến tại các cơ sở nhỏ và các hộ nông dân không được trang bị đồng bộ về phới sấy và kho chứa. Hệ thống nhà máy xay xát đánh bóng gạo xuất khẩu những năm gần đây tuy có được trang bị hiện đại hơn nhưng số lượng còn ít, chủ yếu được bố trí ở thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Mỹ Tho. Trong khi đó những vùng và địa phương có nhiều hàng hóa phục vụ xuất khẩu khác ở đồng bằng sông Cửu Long và duyên hải Nam Trung Bộ…không có các nhà máy chế biến và đánh bóng gạo hiện đại. Chính vì những lý do trên nên tỷ lệ tấm, rạn vỡ hạt, tỷ lệ tạp chất, độ đục còn cao so với Thái Lan và Mỹ. Điều này là trở ngại rất lớn đối với xuất khẩu gạo của Việt Nam và Mỹ.
Thứ tư, một nguyên nhân sâu sa dẫn đến tình trạng chất lượng gạo của Việt Nam không cao là do môi trường trường đầu tư cho sản xuất lúa không hấp dẫn. Người nông dân nhiều khi phải đối mặt với nạn dịch bệnh xảy ra trên cây lúa. Chi phí cho việc mua phân bón, thuốc trừ sâu rất tốn kém. Mà việc tiếp cận với nguồn vốn tín dụng của hộ nông dân vẫn rất hạn chế. Điều này làm ảnh hưởng không ít đến năng suất và chất lượng gạo.
Về giá cả
Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam luôn thấp hơn so với giá gạo thế giới. Việt Nam có giá bán thấp nhất trong số 5 nước xuất khẩu gạo nhiều nhất thế giới (xét theo khối lượng) là Thái Lan, Ấn Độ, Mỹ, Pakistan. Giá xuất khẩu bình quân của 4 nước trên so với giá bình quân của thế giới thấp nhất cũng là trên 90%, cao nhất gần 120% thì giá của chúng ta chỉ đạt khoảng 80% giá bình quân của thế giới.
Nguyên nhân chủ yếu khiến giá gạo Việt Nam luôn thấp hơn so với giá gạo thế giới là do chất lượng gạo thương phẩm chưa cao, không hợp gu các thị trường có sức mua và chất lượng cao như Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Úc, EU...
Ngoài ra, vấn đề tổn thất sau thu hoạch đang đặt ra 1 thách thức không nhỏ đối với gạo Việt Nam. Tổn thất sau thu hoạch của Việt Nam thường từ 9%-17%, có lúc lên đến 30%, cao hơn nhiều lần so với các nước khác như Ấn Độ chỉ 3%-3,5%, Bangladesh 7%, Indonesia 6%-17%. Ngoài ra theo kết quả điều tra của cục chế biến nông lâm sản và nghề muối- Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn cho thấy, tỷ lệ thất thoát và hao hụt trong quá trình thu hoạch , bảo quản và chế biến ở nước ta vẫn còn khá cao. Thất thoát trong khâu suốt lúa khoảng 0,8-2%, thất thoát khâu phới sấy khoảng 0,5-7%, thất thoát trong xay xát 7%-12%. [26]
Với những lý do trên làm cho chất lượng gạo của Việt Nam vẫn còn kém. Vì thế gạo Việt Nam trên thị trường thế giới thường bị ép giá thấp hơn so với gạo cùng loại của các nước khác, đặc biệt là gạo Thái Lan.
Bên cạnh đó, những yếu kém của cơ sở hạ tầng làm tăng chi phí xuất khẩu, mức độ chênh lệch cao giữa giá trong nước và giá tại cảng là điều bất lợi cho xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thương mại thế giới. Chi phí sản xuất ở Việt Nam có lợi thế hơn nhiều so với Thái Lan: chi phí lao động bằng 1/3, tỷ lệ diện tích được tưới gấp 2 lần, hệ số quay vòng đất gấp 1,33 lần, năng suất gấp 1,5 lần các chỉ tiêu liên quan đến giá trị vật tư đầu vào bằng 50%-80% chi phí của Thái Lan. Do vậy chi phí sản xuất lúa gạo của Việt Nam bình quân từ 90-110USD/tấn, trong khi chi phí của Thái Lan là 120-150USD/tấn. Tuy nhiên chênh lệch giữa giá gạo trong nước và giá gạo tại cảng lại khá lớn do chi phí dịch vụ xuất khẩu gạo của Việt Nam cao. Điều đó xuất phát từ sự yếu kém của hệ thống cơ sở hạ tầng, vận tải, bốc dỡ. Chi phí bốc dỡ xếp hàng và chi phí tại cảng Sài Gòn cao chiếm 1,6% giá xuất khẩu, ở Thái Lan chi phí này bằng ½ Việt Nam, tốc độ bốc dỡ chậm so với Thái Lan 6 lần, làm tốn thêm 6000 USD/ ngày. [25]
Chương 3: Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu gạo Việt Nam trong thời gian tới
3.3.1 Về phía nhà nước
Dự báo dài hạn về thị trường, trên cơ sở đó quy hoạch vùng sản xuất chuyên canh gạo xuất khẩu
Nhà nước cần có những dự báo dài hạn về nhu cầu của thị trường, hướng sản xuất để triển khai tới cơ sở tham gia hoạt động xuất khẩu. Từ những dự báo đó, các doanh nghiệp cũng như người dân sẽ chủ động hơn trong việc đầu tư sản xuất.
Đầu tư những vùng chuyên canh lúa gạo xuất khẩu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng khoa học kĩ thuật đồng bộ, tăng khả năng kiểm soát chất lượng gạo xuất khẩu.
Nước ta vẫn chủ yếu xuất khẩu những loại gạo mà ta có chưa hẳn là xuất khẩu cái mà thị trường cần đến. Cần phải nhanh chóng quy hoạch các vùng chuyên canh lúa phục vụ xuất khẩu, chỉ có như vậy mới có thể đáp ứng được nhu cầu của thị trường, tăng sức cạnh tranh. Nhà nước đã xác định vùng chuyên canh lúa xuất khẩu là đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long.
Quy hoạch từng vùng trồng các giống lúa khác nhau để tránh sự lai tạp giữa các loại giống cùng trồng xen lẫn trong cùng một vùng. Cũng có thể quy hoạch từng vùng lúa để phục vụ cho xuất khẩu sang thị trường có nhu cầu khác nhau, giảm diện tích gạo có chất lượng thấp, mở rộng hơn nữa diện tích gạo có chất lượng cao nhằm đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao.
Nhanh chóng hoàn thiện quy hoạch các vùng lúa xuất khẩu của cả nước và kế hoạch cụ thể trong việc ưu tiên đầu tư vốn, khoa học kĩ thuật để phát triển sản xuất lúa trong từng thời kì, nhưng phải đảm bảo phù hợp với quy hoạch và kế hoạch xuất khẩu gạo của cả nước của thời kì đó. Trong đó cần quan tâm giải pháp khuyến khích tích tụ và tập trung đất lúa trong vùng quy hoạch lúa xuất khẩu ở đòng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng để từng bước hiện đại hóa quy trình sản xuất lúa nhằm nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu. Về đầu tư, cần ưu tiên cho các công trình thủy lợi ở các vùng lúa xuất khẩu để thực hiện.
Cơ cấu lại giống lúa theo hướng nâng cao chất lương để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu
Tăng cường đầu tư trại giống cấp tính để sản xuất đầu dòng, cung cấp cho các điểm trình diễn, câu lạc bộ, các tổ chức nhân giống sau đó cung ứng đến mọi tổ chức, cá nhân, hộ nông dân sản xuất kinh doanh giống thương phẩm đại trà thành một mạng lưới rộng rãi, được phép mua bán, trao đổi trực tiếp với nông dân, tạo thị trường giống sôi động, đều khắp.
Dùng kinh phí khuyến nông để mở nhiều đợt tập huấn, hội thảo, tham quan, trình diễn, chuyển giao kĩ thuật…nhằm phổ cập và nâng cao kiến thức về giống cho nông dân: dùng các phương tiện thông tin đại chúng kết hợp với các tổ chức, hợp tác xã, hộ nông dân và các tổ chức quần chúng để tuyên truyền, vận động người dân chuyển đổi cơ cấu giống lúa.
Có cơ chế chính sách về quản lý, sản xuất lúa giống, khuyến khích mọi thành phấn kinh tế trong nước và liên doanh với nước ngoài được phép sản xuất và kinh doanh giống lúa, có đăng kí và chịu sự quản lý của nhà nước như miễn giảm thuế, trợ giá giống gốc, hợp tác quốc tế xuất nhập khẩu giống.
Hình thành mạng lưới thu gom, vận chuyển lúa gạo xuất khẩu theo hợp đồng
Xây dựng mới các cơ sở chế biến lúa gạo xuất khẩu tại các vùng sản xuất lúa hàng hóa phục vụ xuất khẩu gạo theo quy hoạch. Tiến tới hình thành mạng lưới thu gom lúa hàng hóa theo mô hình hợp tác xã hoặc tổ hợp tác thu mua lúa thống nhất giữa các địa phương theo phương thức hợp đồng kinh tế và giá cả hợp lý. Giải quyết thỏa đáng quan hệ giữa Nhà nước, nông dân và các doanh nghiệp xuất khẩu gạo trong phân phối lợi nhuận theo hướng quan tâm nhiều hơn đối với người trồng lúa. Nâng cấp, hiện đại hóa các cơ sở chế biến, đánh bóng gạo xuất khẩu hiện có đồng thời xây dựng các cơ sở mới cần thiết theo quy hoạch. Đầu tư vốn ngân sách để nâng cấp hệ thống kho tàng, cơ sở phơi sấy, đường sá, bến cảng, nhất là cảng Cần Thơ nhằm phục vụ đắc lực và hiệu quả xuất khẩu gạo.
Nâng cao kĩ thuật canh tác
Cần cử cán bộ chuyên môn xuống cấp xã để truyền đạt kĩ thuật. Hướng dẫn canh tác cho các hộ nông dân trồng lúa xuất khẩu theo quy trình đã biên soạn trước cho từng loại giống. Các quy trình này thông qua hoạt động thực tiễn phải được thường xuyên nâng cao cho phù hợp.
Đầu tư cho khoa học công nghệ và cơ sở hạ tầng cho sản xuất và xuất khẩu gạo
Xuất phát từ tình trạng sản xuất và xuất khẩu gạo như hiện nay, điều thiết yếu là cần nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu. Chất lượng gạo xuất khẩu liên quan đến các khâu sản xuất, bảo quản, vận chuyển, vì vậy việc đầu tư khoa học công nghệ, cơ sở hạ tầng phải được thực hiện đồng bộ.
Trong sản xuất: Đầu tư vốn cho công tác nghiên cứu khoa học công nghệ, ứng dụng vào sản xuất đặc biệt là nghiên cứu các giống lúa mới phục vụ xuất khẩu và các phương thức canh tác mới theo hướng cơ giới hóa trong sản xuất.
Tiếp tục củng cố, nâng cao hiệu quả mạng lưới khuyến nông, biến nó thành cầu nối để chuyển giao khoa học kĩ thuật và công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp. Đẩy mạnh việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kĩ thuật, cán bộ khuyến nông cũng như cho nông dân về các kĩ thuật canh tác mới.
Cung cấp đầy đủ, kịp thời các thông tin về thị trường, giá cả… để các doanh nghiệp cũng như người dân có những thay đổi phù hợp với các thông tin đó.
Các khâu sau thu hoạch: đây là một trong nhũng khâu quan trọng nhất trong việc quyết định chất lượng hạt gạo. Vì vậy, cần đầu tư các trang thiết bị, máy móc hiện đại phục vụ cho các khâu này.
Hoàn thiện môi trường đầu tư trong sản xuất và xuất khẩu gạo
Nhà nước cần đổi mới một số cơ chế, chính sách nhằm phục vụ có hiệu quả hoạt động sản xuất và xuất khẩu lúa gạo. Ví dụ hiện nay chính sách tín dụng vẫn chưa thực sự tạo điều kiện cho việc xuất khẩu, khả năng tiếp cận các nguồn vốn tín dụng ngân hàng của nông dân, doanh nghiệp còn nhiều hạn chế.
Và để chính sách tín dụng tạo điều kiện tốt cho việc xuất khẩu thì nhà nước nên đề cập đến các vấn đề sau:
Thứ nhất, nhu cầu vay vốn sản xuất của nông dân hiện nay đòi hỏi các ngân hàng cần cải tiến thủ tục cho vay, đồng thời nâng cao nghiệp vụ của cán bộ cơ sở
Thứ hai, mở rộng kịp thời mạng lưới qũy tín dụng nhân dân trên toàn địa bàn nông thôn nhằm tăng khả năng cung ứng vốn nhanh chóng, đồng thời giám sát được mục đích vay và đảm bảo tốt khả năng hoàn trả
Thứ ba, tăng cường hình thức tín dụng tín chấp thông qua các tổ chức liên gia có sự tổ chức của các hội nông dân, hội phụ nữ mà không cần thế chấp song khả năng hoàn trả vẫn được đảm bảo chắc chắn
Thứ tư, chú ý mở rộng hình thức tín dụng thương mại cho nông dân vay qua các doanh nghiệp xuất khẩu gạo. Các doanh nghiệp này vay tiền của ngân hàng thương mại rồi nhập vật tư ứng trước cho nông dân. Đến vụ tu hoạch doanh nghiệp thu lại tiền cho vay bằng thóc
Thứ năm, để tăng cường hơn nữa nguồn vốn vay đến nông dân, Nhà nước cần ban hành quy chế buộc các ngân hàng thương mại cũng dành một phần vốn vay cho nông nghiệp
3.3.2 Về phía doanh nghiệp kinh doanh gạo xuất khẩu
Nâng cao năng lực cạnh tranh trong và ngoài nước
Việc gia nhập WTO tạo ra không ít thách thức cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt Nam. Chính vì lẽ đó trong thời gian tới các doanh nghiệp cần chú trọng tới việc đa dạng hóa chủng loại hàng để xâm nhập vào nhiều loại thị trường hơn. Đồng thời, cần nâng cao chất lượng gạo nhằm đáp ứng được thị hiếu người tiêu dùng ở các quốc gia khó tính.
Cần có sự đầu tư thích đáng đối với các máy móc thiết bị
Với các máy móc, thiết bị hiện đại các doanh nghiệp xuất khẩu gạo sẽ tạo ra sản phẩm đạt chất lượng cao ở tất cả các khâu như sau thu hoạch, chế biến, đóng gói bao bì, chuyên chở tới nơi xuất hàng
Với giải pháp này sẽ khắc phục được lý do làm cho chất lượng gạo của Việt Nam thấp hơn các nước khác đó là cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ chế biến, bảo quản lúa gạo xuất khẩu còn yếu kém lại phân bổ không đồng đều
Đẩy mạnh hoạt động tiếp thị mở rộng thị trường xuất khẩu
Một trong những nguyên nhân gây nên sự yếu kém đối với thị trường gạo xuất khẩu của Việt Nam là chưa thiết lập được hệ thống thị trường và bạn hàng đáng tin cậy vì vậy các doanh nghiệp cần phải:
Các doanh nghiệp phải chú trọng nghiên cứu kĩ nhu cầu của các loại thị trường để xác định rõ nhu cầu về số lượng, chất lượng, phương thức thanh toán, từ đó tìm kiếm bạn hàng tin cậy, có uy tín để cùng hợp tác.
Cần giữ vững các thị trường quen thuộc và truyền thống như: Inđônêxia, Cuba, Malaixia đồng thời mở rộng ra các thị trường mới nhất là các nước châu Phi, đây là thị trường có nhu cầu nhập khẩu lớn các loại gạo có phẩm cấp thấp, giá rẻ mà Việt Nam có thể dễ dàng đáp ứng. Để thực hiện được mục tiêu này các doanh nghiệp cần phải tạo và giữ uy tín của mình thông qua việc nghiêm chỉnh thực hiện các hợp đồng đã kí kết đúng hạn, đúng số lượng.
Chú trọng công tác nghiên cứu thị trường và khuyếch trương, quảng bá sản phẩm mở rộng thị trường xuất khẩu, vươn tới những thị trường mới, triển vọng
Các doanh nghiệp cần có sự liên kết trong việc tìm hiểu các thông tin thị trường, tình hình cung, cầu, cạnh tranh. Thành lập các tổ chức thông tin, có hệ thống khai thác nguồn thông tin cơ sở, có phương pháp và nhân lực xử lý thông tin nhanh nhạy, kịp thời
Xây dựng thương hiệu gạo Việt Nam lớn mạnh, tạo uy tín trên trường quốc tế
Đây là một vấn đề rất khó khăn với các doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt Nam. Các doanh nghiệp cần đẩy mạnh quảng bá thương hiệu ra thị trường nước ngoài như tham gia các hội chợ triển lãm quốc tế, thông qua các hoạt động du lịch… nhằm tạo ra hình ảnh gạo Việt Nam trong mắt người tiêu dùng quốc tế, trên cơ sở đó thâm nhập sâu hơn vào thị trường hiện có và mở rộng ra thị trường mới. Các doanh nghiệp xuất khẩu gạo cần phải gắn kết nhau, hỗ trợ nhau và khẳng định uy tín của mình không những bằng sản phẩm chất lượng cao, mà còn bằng cả hình ảnh đáng tin cậy.
3.3.3 Về phía người sản xuất gạo xuất khẩu
Tổ chức thành lập các hợp tác xã, hiệp hội để giúp đỡ nhau trong các khâu sản xuất, trao đổi các thông tin thị trường hữu ích, nhận được các ưu đãi từ các dịch vụ khuyến nông, tư vấn về quản lý, thương mại. Các thành viên của hợp tác xã, hiệp hội còn có thể mua được các vật liệu giá rẻ, giảm được giá thành sản xuất, đảm bảo chất lượng ổn định đồng nhất. Với giải pháp này phần nào khắc phục được đặc tính phân tán, tự phát, quy mô nhỏ lẻ của các hộ nông dân trong sản xuất và tiêu thụ lúa gạo.
Người nông dân cũng cần phải thay đổi tư duy nhận thức về sản xuất lúa gạo
Trước đây khi chưa tham gia vào thị trường quốc tế, thì việc sản xuất lúa gạo của nông dân chỉ để đáp ứng tiêu dùng trong nước nên giá trị kinh tế của sản xuất lúa gạo không cao so với từ khi tham gia thị trường quốc tế. Vì vậy người nông dân cần thay đổi căn bản nhận thức về tập quán canh tác, sản xuất và tạo ra những sản phẩm có giá trị kinh tế cao, nhằm cải thiện đời sống.
Bên cạnh đó người dân phải thường xuyên tìm hiểu các kiến thức về các giống lúa mới có năng suất cao chất lượng tốt, các kĩ thuật canh tác từ lúc gieo mạ cho đến lúc thu hoạch để từ đó áp dụng cho sản xuất nhằm đạt được lợi nhuận tối đa. Người dân cần phải học hỏi và áp dụng triệt để các tiến bộ khoa học kĩ thuật vào đồng ruộng. Đầu tiên là khâu chọn giống, phải là giống chất lượng cao. Đồng thời áp dụng quy trình bón phân cân đối, sử dụng thuốc trừ sâu hợp lý để cho năng suất cao.
KẾT LUẬN
Sản xuất và xuất khẩu gạo là lĩnh vực có vị trí đặc biệt trong đời sống kinh tế thế giới, nhất là đối với các quốc gia đang phát triển có lợi thế xuất khẩu gạo. Với Việt Nam gạo là một sản phẩm quan trọng, gạo không chỉ đóng vai trò trong việc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng lương thực hàng ngày của dân Việt Nam mà còn là mặt hàng có giá trị xuất khẩu. Nhờ có các điều kiện về tự nhiên, về lao động và điều kiện về thể chế chính sách thuận lợi mà hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam được phát triển và mở rộng. Từ một nước lạc hậu, thiếu đói, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới. Điều này đem lại vai trò rất lớn đối với nền kinh tế Việt Nam. Hoạt động xuất khẩu gạo không những đóng góp vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển mà còn có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Mặc dù hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam bị ảnh hưởng bởi rất nhiều nhân tố như: thị trường, cơ sở vật chất kĩ thuật và công nghệ của sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, các chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ nhưng Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất lớn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là từ khi gia nhập WTO. Tổng sản lượng, kim ngạch xuất khẩu và giá cả gia tăng, chất lượng gạo xuất khẩu ngày càng được cải thiện, thị trường xuất khẩu được mở rộng.
Tuy gặt hái được nhiều thành tựu quan trọng, nhưng xuất khẩu gạo Việt Nam hiện giờ vẫn còn nhiều yếu kém: chất lượng và giá cả xuất khẩu còn thiếu sức cạnh tranh, thị trường xuất khẩu chưa thực sự ổn định.
Cùng với xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, mức độ cạnh tranh trên thị trường gạo ngày càng gay gắt, xuất khẩu gạo cũng ngày càng gặp nhiều khó khăn. Sẽ xuất hiện thêm nhiều rào cản thương mại cũng như các hình thức bảo hộ nông nghiệp mới tinh vi và phức tạp hơn, núp dưới hình thức là hàng rào kĩ thuật các đòi hỏi vệ sinh, các điều kiện lao động, các chỉ tiêu môi trường ...Thêm vào đó, sự hỗ trợ từ phía nhà nước đã bị xóa bỏ trong khi sức cạnh tranh của gạo lại chưa đủ mạnh.
Để giải quyết vấn đề này, chúng ta cần kết hợp thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, phải bắt đầu từ sự chuyển biến về chất trong sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam. Nâng cao năng lực cạnh tranh và xây dựng một thương hiệu gạo trên thị trường thế giới là những việc làm cấp bách trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, đặc biệt khi Việt Nam là thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Sinh Cúc (2004), “Xuất khẩu gạo, một thành tựu nổi bật của nước ta”, Tạp chí cộng sản 8/2004.
2. Nguyễn Sinh Cúc (2007), “Sản xuất và xuất khẩu gạo ở nước ta”, Tạp chí cộng sản số 15 (135).
3. Ngọc Dương, Anh Phương (2007), “Xuất khẩu đạt kết quả ngoạn mục”, Kinhtế 2006-2007, Việt Nam và thế giới, tr 14-17.
4. Thanh Hải, Duy Hiếu (2000), “Sản xuất và xuất khẩu gạo trong thời gian qua”, Báo Thương mại số 4/2000.
5. Nguyễn Đình Long (2007), Hiệp hội ngành hàng nông sản xuất khẩu ở ViệtNam, NXB nông nghiệp, Hà Nội.
6. Thúy Nga (2000), “Mậu dịch gạo thế giới thời gian gần đây và triển vọng”, Báo Thương mại số 4/2000.
7 Vũ Hùng Phương ( 2004), “Xuất khẩu gạo Việt Nam, thực trạng và giải pháp”, Tạp chí kinh tế và dự báo số 4/ 2004 (372).
8. Phạm Hà Sơn ( 2004), “Việt Nam gia nhập WTO cơ hội và thách thức”, Lao động và công đoàn tr 8-9,26.
9. Phạm Công Tú (1998), Triển vọng thị trường hàng nông sản thế giới và khả năng xuất khẩu ở Việt Nam đến năm 2010, Đề tài nghiên cứu, TT thông tin Khoa học công nghệ thành phố Hồ Chí Minh.
10. Quang Thuần (2008), “Khan hiếm gạo xuất khẩu”, Thanh niên số 26 (4417) ngày 26/1/2008.
11. Nguyễn Văn Trung (2006), Phát triển sản xuất lúa và những giải pháp chủyếu để đẩy mạnh xuất khẩu gạo ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội.
12. Nguyễn Trung Văn ( 2001), Lúa gạo Việt Nam trước thiên niên kỉ mới hướng xuất khẩu, NXB chính trị quốc gia.
13. Mai Thị Thanh Xuân (2006), “Xuất khẩu gạo của Việt Nam giai đoạn 1989-2006: thực trạng và giải pháp”, Tạp chí nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông, số 8/2006.
14.
15.
16.
17.
18.
19.
20.
21.
22.
23.
24.
25.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BÁO CÁO TỐT NGHIỆP THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM TỪ NĂM 2001 ĐẾN NAY.docx