PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI:
Đầu tư phát triển là nhiệm vụ chiến lược, một giải pháp chủ yếu để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội theo hướng tăng trưởng cao, ổn định và bền vững cho một đất nước cũng như trong từng địa phương.
Thời gian vừa qua cùng với cả nước, tỉnh Ninh Bình đã có nhiều cố gắng và thu được một số kết quả trong lĩnh vực đầu tư phát triển. Việc quản lý dự án theo điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng, thực hiện quy chế đấu thầu đã có tiến bộ. Nhiều dự án đầu tư đã hoàn thành và từng bước phát huy hiệu quả, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải thiện từng bước đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Song đến nay so với mặt bằng chung của cả nước, Ninh Bình vẫn là tỉnh có điểm xuất phát và tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế thấp. Tổng ngân sách dành cho đầu tư phát triển rất nhỏ, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư còn hạn chế. Bởi vậy, vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển luôn thu hút sự quan tâm của các cấp, các ngành. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, tỉnh Ninh Bình đang trong tiến trình đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá - hiện đại hoá, phấn đấu đưa tốc độ tăng trưởng GDP ngày một cao và bền vững, nhằm nhanh chóng khắc phục tình trạng tụt hậu về kinh tế. Đặt ra nhu cầu đầu tư phát triển rất lớn, trong khi các nguồn lực nhất là nguồn vốn đầu tư của Nhà nước còn hạn hẹp. Vì thế, việc nghiên cứu tìm ra các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển bằng vốn Nhà nước càng là vấn đề cấp thiết. Xuất phát từ yêu cầu thực tế đó, tôi đã chọn vấn đề: “Phân tích thực trạng và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện quản lý các dự án đầu tư phát triển sử dụng vốn ngân sách trên địa bàn tỉnh Ninh Bình” làm đề tài tốt nghiệp. Sinh viên mong mỏi có thể đóng góp một phần nhỏ bé hỗ trợ cho việc nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, đồng thời, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của tỉnh.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
2.1. Làm sáng tỏ về mặt lý luận, thực tiễn về đầu tư, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước và công tác quản lý hoạt động đầu tư, trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
2.2. Đánh giá thực trạng tình hình đầu tư phát triển và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển và công tác quản lý hoạt động đầu tư từ ngân sách Nhà nước những năm vừa qua ở tỉnh Ninh Bình. Những kết quả đạt được, những tồn tại cần khắc phục, để tiếp tục đổi mới và phát triển.
2.3. Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh Ninh Bình nhằm đáp ứng yêu cầu và mục tiêu phát triển kinh tế trong giai đoạn tới.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến đầu tư, quản lý đầu tư và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển. Phương hướng chiến lược phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Ninh Bình và các giải pháp quản lý đầu tư xây dựng liên quan đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển.
Phạm vi nghiên cứu: Tập trung vào lĩnh vực đầu tư phát triển bằng vốn ngân sách Nhà nước tại tỉnh Ninh Bình trong thời gian qua (2003 – 2006) và giai đoạn tới đến năm 2010.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Luận văn sử dụng lý luận và phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, kết hợp lịch sử với logic, kết hợp các phương pháp thống kê, so sánh, phân tích và tổng hợp, đồng thời kết hợp với tổng kết rút kinh nghiệm thực tiễn ở địa phương để nghiên cứu, giải quyết vấn đề đặt ra của đề tài.
5. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN:
Luận văn được chia làm 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về đầu tư, đầu tư phát triển và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển từ ngân sách.
Chương 2: Phân tích thực trạng sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh Ninh Bình
112 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3026 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng và giải pháp hoàn thiện quản lý các dự án đầu tư phát triển sử dụng vốn ngân sách trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ển kinh tế ven biển, khai thác vùng bãi bồi ven biển huyện Kim Sơn, đưa vào nuôi trồng thuỷ sản, trồng cói (riêng sản lượng tôm sú đến năm 2010 có 3 – 4 ngàn tấn); đồng thời xây dựng nhà máy chế biến thuỷ sản để nâng cao giá trị xuất khẩu.
6. Phát triển tiểu thủ công nghiệp, phát triển ngành nghề. Trong đó, chú trọng 2 nghề truyền thống đang có cơ hội và điều kiện phát triển tốt là chế biến cói và thêu ren.
7. Hoàn thiện một bước cơ bản về cơ sở hạ tầng then chốt về giao thông, thuỷ lợi, điện, bưu chính viễn thông, các công trình văn hoá xã hội, trường học, phát thanh truyền hình, thể dục thể thao, khu vui chơi giải trí, công viên, quảng trường ..
8. Xây dựng Bệnh viện Đa khoa 700 giường và nâng cấp các cơ sở khám chưa bệnh.
9. Các chương trình phát triển kinh tế - xã hội theo không gian và lãnh thổ, phát triển đô thị gắn với phát triển công nghiệp, dịch vụ; phát triển nông thôn gắn với công nghiệp chế biến, tiểu thủ công nghiệp nông thôn; quy hoạch khu dân cư, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn trước hết là giao thông nông thôn, kiên cố kênh mương, nước sạch và vệ sinh môi trường.
Kết hợp đầu tư mới với đầu tư chiều sâu cho các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, kết hợp đầu tư của Nhà nước với chủ trương xã hội hoá các lĩnh vực văn hoá, xã hội. Chú ý đầu tư cho miền núi, vùng cao, vùng nghèo và khó khăn. Cải tiến các quy chế hiện hành để nâng cao chất lượng lập, thẩm định dự án, các thủ tục xây dựng cơ bản, các khâu của quá trình quản lý đầu tư và xây dựng. Tranh thủ khai thác tối đa các công trình đầu tư hoàn thành.
3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN SỬ DỤNG VỐN NGÂN SÁCH
Để thúc đẩy nhanh tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh, phát triển các lĩnh vực văn hoá - xã hội, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, thu hút được các nguồn lực cho đầu tư phát triển, tận dụng mọi cơ hội từ bên ngoài cho phát triển kinh tế của tỉnh. Đồng thời cần thực hiện các biện pháp chấn chỉnh quản lý đầu tư và xây dựng, nâng cao hiệu quả đầu tư, nhất là nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước theo Chỉ thị 29/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, trong đó cần tập trung vào các vấn đề trọng tâm sau đây:
3.3.1. Đổi mới công tác kế hoạch hoá đầu tư.
Kế hoạch hoá đầu tư là khâu tiền đề rất quan trọng trong quá trình đầu tư, là cơ sở để tiến hành đầu tư. Kế hoạch hoá đầu tư lập trên cơ sở chương trình và dự án được duyệt phù hợp với chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội đồng thời phản ánh tất cả các nguồn vốn đầu tư trên địa bàn. Kế hoạch đầu tư bao gồm: kế hoạch quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, kế hoạch chuẩn bị đầu tư, kế hoạch chuẩn bị thực hiện dự án; kế hoạch thực hiện dự án.
Để nâng cao hiệu quả vốn đầu tư cần khẩn trương đổi mới công tác kế hoạch hoá đầu tư theo hướng lập kế hoạch đầu tư dài hạn (5 năm hoặc ít nhất 3 năm) nhằm xác định cho được chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành và lãnh thổ, làm cơ sở cho việc lập kế hoạch đầu tư hàng năm. Tiến hành điều chỉnh cơ cấu đầu tư. Rà soát lại mục tiêu đầu tư, nguồn vốn và cơ cấu vốn của từng dự án bảo đảm tính hợp lý, hiệu quả. Lựa chọn dự án đầu tư hiệu quả đi đôi với tập trung vốn cho những công trình then chốt thuộc hạ tầng kinh tế xã hội, một số ngành công nghiệp quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế, những dự án có tính khả thi cao về vốn, có lợi thế về tài nguyên và đạt hiệu quả cao đối với toàn bộ nền kinh tế. Kiên quyết đình hoãn hoặc dãn tiến độ các công trình quy mô lớn thiếu tính khả thi về vốn và hiệu quả kinh tế xã hội thấp. Cần cắt giảm các dự án không có hoặc có ít khả năng cạnh tranh, có nguy cơ lãng phí vốn gây gánh nặng cho nền kinh tế. Giảm dự án nhóm C đi đôi với việc rà soát và sắp xếp thứ tự ưu tiên cho các công trình và dự án nhằm tập trung vốn đầu tư cho những công trình quan trọng hiệu quả và cần thiết trước.
a. Về bố trí kế hoạch vốn đầu tư.
- Soát xét lại các công trình và nguồn vốn để cân đối đầu tư tập trung, dứt điểm. Xem xét một số công trình đã bố trí chuẩn bị đầu tư có thể ngừng triển khai nếu thấy chưa cấp bách để tập trung cho các dự án trọng điểm. Các dự án không trong quy hoạch, không rõ mục tiêu, không giải phóng được mặt bằng thì chưa đầu tư xây dựng.
- Trong việc bố trí kế hoạch đầu tư các năm sau cần quan tâm ưu tiên đầu tư cho vùng cao, vùng sâu, vùng xa, nhất là đối với một số xã đặc biệt khó khăn. Đề nghị các cấp lãnh đạo tỉnh cần thống nhất chủ trương, mục tiêu đầu tư, thống nhất giải thích thuyết phục một số huyện, ngành không được bố trí dự án thông suốt trong việc thực hiện điều chỉnh cơ cấu đầu tư khắc phục tư tưởng nể nang, chia vốn.
- Đề nghị cấp có thẩm quyền quyết định đầu tư chỉ phê duyệt những dự án hiệu quả khả thi và đảm bảo nguồn vốn, chỉ ghi kế hoạch thực hiện dự án đối với các dự án đã hoàn thành kế hoạch chuẩn bị đầu tư. Phấn đấu các dự án đưa vào kế hoạch cần tập trung vốn dứt điểm, đúng tiến độ, tránh dàn trải, kéo dài để sớm đưa công trình vào sử dụng phát huy hiệu quả.
- Trong công tác kế hoạch hoá đầu tư cần chú ý kết hợp giữa đầu tư mới với đầu tư chiều sâu để nâng cao hiệu quả kinh tế. Cần khắc phục ngay tình trạng dự án đã được bố trí kế hoạch vẫn chưa đủ thủ tục.
- Đề nghị cấp có thẩm quyền giao cho Sở Kế hoạch và Đầu tư chủ động phối hợp với các Sở, ngành liên quan trong việc nắm đầy đủ và kịp thời toàn bộ các nguồn vốn đầu tư trên địa bàn như nguồn vốn đầu tư của các Bộ, ngành Trung ương, các tổ chức quốc tế và nước ngoài, vốn đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh và dân cư, phục vụ cho việc nghiên cứu kinh tế và hoạch định chính sách. Thực hiện 3 năm, 5 năm tổng kết đánh giá việc huy động, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư và những vấn đề rút ra cho công tác kế hoạch hoá ở giai đoạn tiếp theo.
b. Về lập và quản lý quy hoạch
Rà soát, lập mới, điều chỉnh, bổ sung các quy hoạch, nhất là quy hoạch ngành, quy hoạch xây dựng chi tiết các thị xã, thị trấn, thị tứ, các cụm công nghiệp, các khu vực có khả năng thu hút đầu tư cho phù hợp với tình hình mới và quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đã được duyệt.
Tổ chức tốt việc quản lý đầu tư theo quy hoạch, nhất là quy hoạch phát triển hạ tầng.
Phân công, phân cấp cụ thể trong việc lập, quản lý các quy hoạch.
c. Về chủ trương đầu tư
- Đối với chủ trương cho lập dự án mới: Ngoài các dự án đã được thông báo chuẩn bị đầu tư trong năm kế hoạch, các chủ đầu tư chỉ được trình xin chủ trương lập đối với các dự án thực sự cấp bách và các dự án xin nguồn tài trợ của các tổ chức quốc tế, nguồn hỗ trợ chủ yếu từ Trung ương. UBND tỉnh sẽ xem xét kỹ các chủ trương cho phép lập dự án để tập trung vốn đầu tư giải quyết tồn tại nợ đọng và thực hiện các dự án cấp bách đã được phê duyệt.
- Đối với chủ trương cho phép lập lại, điều chỉnh bổ sung: Chủ đầu tư phải giải trình nguyên nhân điều chỉnh, bổ sung, phê duyệt lại dự án và phải nộp báo cáo giám sát đánh giá đầu tư cùng với hồ sơ dự án (nếu chưa lập báo cáo đánh giá giám sát đầu tư theo quy định).
Nếu việc điều chỉnh, bổ sung do sai sót của đơn vị tư vấn, chủ đầu tư phải phạt đơn vị tư vấn với giá trị 20%¸30% giá trị hợp đồng, giao Sở Kế hoạch và Đầu tư theo dõi, báo cáo UBND tỉnh những đơn vị tư vấn lập dự án có chất lượng thấp để UBND tỉnh có biện pháp không cho phép các đơn vị tư vấn này thực hiện công tác tư vấn lập dự án vốn ngân sách do tỉnh quản lý với thời gian 1¸3 năm, chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm trước UBND tỉnh do không kiểm tra để xảy ra các các sai sót đó.
Nếu việc điều chỉnh, bổ sung do sai sót của các cơ quan quản lý, thủ trưởng cơ quan và các cá nhân có liên quan phải chịu trách nhiệm trước UBND tỉnh.
- Không cho phép thay đổi quy mô của các dự án khi chưa đi vào giai đoạn thực hiện đầu tư.
- Văn phòng UBND tỉnh có trách nhiệm kiểm tra và chuẩn bị các thủ tục cần thiết, trình giao ban UBND tỉnh về chủ trương đầu tư từng dự án.
3.3.2. Nâng cao chất lượng lập, thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư.
Lập, thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư là công việc hết sức quan trọng, là khâu quyết định cho sự thành bại của quá trình đầu tư một dự án. Từ những đặc điểm của hoạt động đầu tư phát triển có thể phải chịu nhiều rủi ro và mang tính mạo hiểm cao nên trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư việc nghiên cứu khảo sát tính toán và dự đoán đòi hỏi thật kỹ lưỡng, chính xác, trên tất cả các phương diện nhằm đảm bảo an toàn và hiệu quả vốn đầu tư. Đây là vấn đề quan trọng nhất.
3.3.2.1. Về việc lập dự án
Thông thường những dự án lớn (nhóm A và 1 phần nhóm B) phải lập dự án tiền khả thi rồi đến dự án khả thi. Những dự án còn lại chỉ lập dự án khả thi. Ở tỉnh Ninh Bình lâu nay và sắp tới chủ yếu là dự án đầu tư vừa và nhỏ nên tôi chỉ đi sâu vào những biện pháp nâng cao chất lượng lập dự án khả thi.
- Về việc lập nhóm soạn thảo hoặc thuê tư vấn lập dự án. Để phù hợp với quá trình khai thác sử dụng, chống lãng phí hình thức và buộc chủ đầu tư gắn trách nhiệm từ đầu với dự án, kiến nghị cấp có thẩm quyền cần lựa chọn người chủ trì lập dự án và quy định người đó sau này sẽ làm Giám đốc Ban quản lý dự án, rồi làm Giám đốc doanh nghiệp khi hoàn thành giai đoạn xây dựng. Người đó có trách nhiệm điều tra khảo sát phát hiện các tiềm năng, nguồn lực, lợi thế, cơ hội đầu tư và nhu cầu thị trường sản phẩm mình dự kiến sản xuất … để đi đến quyết định lập dự án đầu tư. Cấp có thẩm quyền như Tỉnh uỷ, UBND tỉnh, Sở chủ quản chỉ định hướng chứ không làm thay Giám đốc Ban quản lý dự án hoặc Giám đốc doanh nghiệp sau này. Trên cơ sở đó người chủ trì có thể lập nhóm soạn thảo hoặc đi thuê tư vấn. Cơ quan tư vấn là tổ chức làm thuê cho chủ đầu tư, do vậy không nên khoán trắng cho họ mà người chủ trì phải chủ động yêu cầu và phối hợp cung cấp thông tin, nhất là quá trình điều tra cơ bản, phải đảm bảo trung thực, khách quan để việc tính toán lựa chọn địa điểm, quy mô, công nghệ, thiết bị, nhu cầu vốn, hiệu quả của dự án được chính xác. Tránh tình trạng chế biến, bóp méo số liệu phục vụ đơn thuần cho việc lập và thông qua dự án một cách hình thức, chiếu lệ. Như vậy dự án đầu tư là sản phẩm của chính người chủ trì. Có như vậy mới tạo ra điều kiện thuận lợi cho việc thẩm định phê duyệt dự án, thực hiện dự án và vận hành sử dụng dự án. Điều này phù hợp với chế độ quy định là chủ đầu tư phải là người trình cấp có thẩm quyền phê duyệt dự án khả thi. Khắc phục tình trạng cấp trên thuê tư vấn lập dự án sau đó giao cho một cơ quan hay một người khác thực hiện.
Thực tế ở Ninh Bình thời gian qua cho thấy có 1 số chủ đầu tư đi thuê tư vấn lập dự án với mục tiêu chính là làm thủ tục để “chạy vốn”, miễn là làm sao trình duyệt được. Một vài Giám đốc Ban quản lý quan niệm rằng việc lập, triển khai dự án là theo yêu cầu của lãnh đạo tỉnh chứ không phải là nhu cầu của doanh nghiệp mà họ là đại diện. Đây là một sai lầm lớn cần phải sớm khắc phục.
+ Về nội dung và phương pháp xác định 1 số chỉ tiêu chủ yếu trong việc lập dự án cần tính toán một cách cụ thể, đầy đủ và kỹ lưỡng hơn. Phấn đấu hạn chế đến mức thấp nhất việc phát sinh, bổ sung điều chỉnh dự án. Cụ thể đáng chú ý 1 số chỉ tiêu sau:
a. Tổng mức đầu tư
Do yêu cầu về quản lý đầu tư và xây dựng là:
Tổng mức Tổng dự toán Giá trị
đầu tư (dự toán) quyết toán
(a) (b) (c)
Tổng mức đầu tư là giới hạn chi phí tối đa mà người có thầm quyền quyết định đầu tư cho phép nên trong quá trình tính chỉ tiêu này phải rất cụ thể, chi tiết các loại chi phí, phải dự phòng lường yếu tố lạm phát và chi phí phát sinh … phấn đấu không phải xin điều chỉnh tổng mức đầu tư.
b. Chỉ tiêu lợi nhuận kế hoạch, tỷ suất lợi nhuận, NPV, IRR
Yêu cầu phải tính đầy đủ chi phí “đầu vào” nhất là tính đủ khấu hao cơ bản, tiền thuê đất để xác định đúng giá thành sản phẩm, dịch vụ. Không được tuỳ tiện cắt giảm, bỏ sót chi phí để tăng chỉ tiêu lợi nhuận, phục vụ cho việc thẩm định và trình duyệt dự án. Thực tế 1 số dự án tính đủ yếu tố đầu vào thì lỗ hoặc kéo dài thời gian vay vốn trả nợ nên chủ đầu tư thường muốn giảm chi phí đầu vào để tạo ra lãi danh nghĩa, để đối phó với cơ quan hữu trách. Đây là điểm đáng cảnh tỉnh cho các cơ quan thẩm định và tổ chức tài trợ vốn.
c. Xác định đúng đắn các yếu tố “đầu ra” của dự án
Như giá bán sản phẩm, nhu cầu thị trường về sản phẩm của dự án, khả năng cạnh tranh của sản phẩm, dự kiến thị phần của sản phẩm, đây là những điều kiện sinh tồn của dự án. Những vấn đề trên nếu tính toán cảm tính sẽ phải trả giá đắt khi vận hành và khai thác công trình.
3.3.2.2. Về công tác thẩm định dự án đầu tư, thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán và phê duyệt dự án đầu tư
Thẩm định dự án có vai trò rất quan trọng trong việc giúp cho chủ đầu tư, tổ chức tài trợ vốn đánh giá một cách khách quan tính hợp lý, tính hiệu quả, tính khả thi của dự án giúp cấp có thẩm quyền quyết định đầu tư được đúng đắn. Thẩm định dự án là một chức năng chủ yếu trong quản lý Nhà nước về đầu tư, thẩm định dự án phải được xem xét toàn diện về quy hoạch xây dựng, các phương án kiến trúc công nghệ, sử dụng đất đai, tài nguyên hiệu quả kinh tế xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái phương diện tài chính và các khía cạnh xã hội khác đảm bảo dự án có tính khả thi giúp cho người có thẩm quyền ra quyết định đầu tư. Thời gian qua ở Ninh Bình việc thẩm định do Sở Kế hoạch và Đầu tư chủ trì tham khảo ý kiến của 1 số Sở, ngành liên quan. Sau 1 thời gian triển khai cho thấy chất lượng thẩm định dự án còn nhiều hạn chế. Một phần do chất lượng lập dự án thấp, phần do năng lực, trình độ, kinh nghiệm, phương pháp tổ chức thực hiện của cán bộ thực thi còn bất cập. Nên đặt ra yêu cầu phải nâng cao chất lượng thẩm định dự án. Ngoài những nội dung kiểm tra, cần đánh giá một cách khách quan, toàn diện từng chỉ tiêu của dự án, đặc biệt là một số chỉ tiêu đáng chú ý ở phần 3.1.3.1 trên. Cơ quan thẩm định quan tâm hơn nữa đến một số chỉ tiêu sau:
- Về tài chính: cần kiểm tra kỹ tổng số vốn, cơ cấu vốn tự có của doanh nghiệp - Nguồn vốn bảo đảm thực hiện dự án. Đây là yếu tố quan trọng quyết định tính khả thi của dự án. Kiểm tra lại kết quả tính toán tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu, giá trị hiện tại thuần (NPV), tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR), điểm hoà vốn, thời gian thu hồi vốn, là những chỉ tiêu người lập dự án hay tính toán sai hoặc nhầm do cả vô tình và hữu ý.
- Về hiệu quả kinh tế xã hội cần kiểm tra lại các chỉ tiêu: giá trị gia tăng; mức độ giải quyết việc làm, tỷ lệ đóng góp cho ngân sách nhà nước.
+ Về công nghệ, tác động môi trường và kế hoạch tiến độ thực hiện dự án đều là những vấn đề quan trọng mà chủ dự án khi lập chưa lường trước được.
+ Về phương pháp và thời gian thẩm định. Tuỳ theo loại dự án mà cơ quan chủ trì thẩm tra phân công cán bộ có hiểu biết trong lĩnh vực đó đảm nhiệm. Và các cán bộ đó phải chịu trách nhiệm cá nhân trước Nhà nước. Đối với 1 số dự án lớn, phức tạp nên tổ chức hội thảo khoa học. Trường hợp cần tham khảo ý kiến 1 số ngành, cơ quan chủ trì phải gửi yêu cầu và thời gian hoàn thành. Nếu có ý kiến quan điểm khác nhau ở những vấn đề lớn cơ quan chủ trì cần mời đại diện các ngành bàn bạc thống nhất. Trường hợp chưa thống nhất phải báo cáo đầy đủ cho người có thẩm quyền phê duyệt dự án quyết định. Cần khắc phục tư tưởng nể nang, dễ dãi, giản đơn trong việc thẩm định dự án. Về thời gian, yêu cầu phải tiến hành khẩn trương tránh những thủ tục rườm rà, phiền hà, thực hiện đúng hoặc sớm hơn mốc thời gian quy định. Mặt khác thông qua việc thẩm định dự án, với chức năng của mình Sở Kế hoạch và Đầu tư hàng năm nên thống nhất hướng dẫn các chủ dự án về nội dung phương pháp kinh nghiệm, thời gian lập dự án, định hướng đầu tư để các chủ dự án có nhu cầu đầu tư chủ động lập dự án tìm nguồn vốn tài trợ, khắc phục tình trạng thiếu dự án, dự án lập và thẩm định vội vàng chất lượng thấp.
Tổ chức học tập, quán triệt và thực hiện nghiêm túc Nghị định 53/2007/NĐ-CP ngày 4/4/2007 của Chính phủ quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực kế hoạch đầu tư.
- Chủ đầu tư phải nâng cao trách nghiệm trong việc lựa chọn nhà thầu tư vấn lập dự án, thiết kế kỹ thuật, thực hiện chọn thầu theo đúng quy định. Thường xuyên kiểm tra đôn đốc đơn vị tư vấn, tôn trọng và không can thiệp trái với chuyên môn nghiệp vụ của các đơn vị tư vấn, tuyệt đối nghiêm cấm việc bắt ép các đơn vị tư vấn làm theo ý chủ quan không có cơ sở khoa học.
- Các đơn vị tư vấn phải nâng cao trách nhiệm hơn nữa chất lượng của công tác tư vấn. Phải thực hiện các công việc tư vấn một cách đúng đắn, khoa học. Các đơn vị tư vấn phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về các sản phẩm tư vấn của mình, về sự chính xác của tài liệu khảo sát và các số liệu tính toán. Những ép buộc của chủ đầu tư trái với nghiệp vụ chuyên môn, đơn vị tư vấn phải thuyết phục trên cơ sở các luận cứ khoa học và các quy định của Nhà nước quản lý đầu tư và xây dựng, nếu không thuyết phục được phải lập báo cáo riêng gửi UBND tỉnh và các cơ quan thẩm định công tác tư vấn đó, trong trường hợp này cơ quan tư vấn sẽ không phải chịu trách nhiệm về các sai sót do việc ép buộc của chủ đầu tư gây ra.
- Các cơ quan chịu trách nhiệm thẩm định các sản phẩm tư vấn:
+ Phải chịu trách nhiệm về tính trung thực, đúng đắn của báo cáo thẩm định và chất lượng của sản phẩm tư vấn trình duyệt.
+ Kiến nghị UBND tỉnh chỉ đạo chủ đầu tư:
Phạt đơn vị tư vấn về những tính toán thiếu chính xác. Mức phạt từ 10%¸50% giá trị hợp đồng, tuỳ vào mức độ thiếu chính xác.
Chấm dứt hợp đồng và phạt đơn vị tư vấn có sản phẩm tư vấn có chất lượng thấp không cho thực hiện công tác tư vấn đó ở các dự án do địa phương quản lý trong vòng 1¸3 năm, gửi thông báo tới các cơ quan quản lý đầu tư xây dựng và các huyện, thị.
3.3.3. Đổi mới công tác cán bộ quản lý dự án và khai thác sử dụng
Trong quản lý đầu tư và xây dựng, vốn đầu tư được Nhà nước giao cho chủ đầu tư quản lý. Trong thực tế đối với những dự án đầu tư bằng hình thức tín dụng, tính phổ biến chủ đầu tư đồng thời là chủ dự án. Vì vậy, vai trò chủ dự án trong giai đoạn thực hiện đầu tư, Giám đốc doanh nghiệp trong giai đoạn khai thác sử dụng là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của một dự án đầu tư. Do đặc điểm của hoạt động đầu tư phát triển là lượng vốn lớn, thời gian đầu tư và thu hồi dài, có thể chịu nhiều rủi ro nên việc đầu tư hết sức quan trọng là phải lựa chọn được người làm chủ dự án có đủ năng lực, tố chất cần thiết về quản lý kinh doanh, muốn làm và dám chịu trách nhiệm trước cấp trên và tập thể lao động, để tiến hành từ khâu đầu tiên đến khâu cuối cùng, từ lúc lập dự án đến khi thu hồi hết vốn. đây là một vấn đề mới trong công tác cán bộ và là khâu có ý nghĩa rất quan trọng nhằm đề cao trách nhiệm cá nhân chủ dự án, Giám đốc doanh nghiệp và là điều kiện để hạn chế những chủ dự án có tính cơ hội, thiếu hoặc đùn đẩy trách nhiệm. Thực tế cho thấy có những Giám đốc khi không hoàn thành nhiệm vụ lại đổ lỗi cho tổ chức phân công, còn bản thân đến lúc đó mới nói mình không muốn hoặc không đủ khả năng trình độ. Dẫn đến hậu quả cuối cùng là Nhà nước gánh chịu. Vì vậy kiến nghị cấp có thẩm quyền cần đổi mới công tác cán bộ đối với chức danh chủ dự án, theo hướng chủ động và nhất quán lựa chọn cán bộ đủ tiêu chuẩn để sau khi kết thúc giai đoạn xây dựng chủ dự án chuyển sang làm Giám đốc doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Đề nghị cấp có thẩm quyền trong quá trình chỉ đạo lập, thẩm định phê duyệt dự án cần chọn được cán bộ quản lý dự án đảm bảo yêu cầu mới quyết định đầu tư. Chủ dự án ngoài tiêu chuẩn về năng lực, phẩm chất, kinh nghiệm quản lý kinh tế, kiến thức và tố chất kinh doanh nên chọn người trẻ tuổi hoặc có thời gian công tác còn lại dài hơn vòng đời dự án. Có vậy mới tạo điều kiện cho dự án đạt hiệu quả kinh tế và thu hồi được vốn (trong phần lập dự án trước đây đã trình bày). Mặt khác khi dự án đi vào khai thác sử dụng đề nghị Nhà nước cần có quy định cụ thể về quyền lợi và nghĩa vụ của Giám đốc doanh nghiệp Nhà nước trong quá trình tổ chức sản xuất kinh doanh và thu hồi vốn.
Thực hiện nghiêm túc Luật đấu thầu
Đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng được các yêu cầu của bên mời thầu trên cơ sở cạnh tranh giữa các nhà thầu. Đấu thầu là một phương pháp quản lý dự án có hiệu quả nhất, tiên tiến nhất. Đây là nguyên tắc quản lý đầu tư và xây dựng nhằm chống độc quyền, tăng cường cạnh tranh. Từ thực tế áp dụng ở địa bàn tỉnh Ninh Bình thời gian qua, chúng tôi thấy tỉnh cần tiến hành tổng kết rút kinh nghiệm mặt được và chưa được, đồng thời tập trung chỉ đạo để đạt hiệu quả cao hơn. Gắn chủ trương điều chỉnh lại kế hoạch đầu tư theo hướng tập trung dứt điểm sẽ là một điều kiện thuận lợi cho công tác đấu thầu. Đề nghị:
- Tiến hành tổ chức đấu thầu rộng rãi tất cả các gói thầu, chỉ những gói thầu thực sự có tính chất cấp bách, chủ đầu tư báo cáo UBND tỉnh cho phép đấu thầu hạn chế.
- Các gói thầu xin chỉ định thầu, chủ đầu tư phải trình hồ sơ năng lực của ít nhất 3 nhà thầu để UBND tỉnh xem xét.
- Giao Sở Kế hoạch và Đầu tư tổ chức thực hiện công tác thanh tra đấu thầu, kịp thời báo cáo UBND tỉnh.
Để nâng cao chất lượng đấu thầu hay chỉ định thầu, yếu tố hết sức quan trọng là nâng cao chất lượng khảo sát thiết kế kỹ thuật, thiết kế kỹ thuật thi công và chất lượng lập tổng dự toán, dự toán chi tiết. Trong đó hết sức chú trọng việc lựa chọn áp dụng biện pháp thi công (nhất là đối với các công trình giao thông). Có vậy công tác đấu thầu, chỉ định thầu mới có ý nghĩa thiết thực.
Nâng cao kỷ luật và chất lượng quyết toán vốn đầu tư
Theo chế độ quy định thì công trình dự án hoàn thành đưa vào khai thác sử dụng, chậm nhất là 9 tháng đối với dự án nhóm B; 6 tháng đối với dự án nhóm C chủ đầu tư phải quyết toán công trình hoàn thành để bàn giao tài sản cho đơn vị sử dụng. Đây là khâu cuối cùng rất quan trọng của quá trình đầu tư vốn. Nó quyết định giá trị của công trình đối với người sử dụng. Do đặc điểm của hoạt động đầu tư phát triển là thời gian dài nhiều yếu tố liên quan đến giá thành sản phẩm lại biến động, việc quản lý, theo dõi phức tạp, nhất là trong điều kiện chúng ta xác định kinh tế quốc doanh là chủ đạo, các sản phẩm đầu tư xây dựng thuộc sở hữu Nhà nước là chính … nên việc xác định đúng giá trị đích thực của sản phẩm đầu tư xây dựng trong cơ chế quản lý hiện hành là việc rất khó khăn.
Vì vậy tình trạng chủ đầu tư và nhà thầu đề nghị quyết toán cao hơn giá trị đích thực, công trình xây dựng hoàn thành chưa được quyết toán, quyết toán chậm đang là phổ biến. Nhất là các dự án thuộc ngân sách huyện, xã. Như trong phần đánh giá đã đề cập, vấn đề là Nhà nước phải bổ sung quy định sao cho mọi chủ đầu tư, cấp trên chủ đầu tư buộc phải quan tâm đến việc quyết toán. Khắc phục tư tưởng thấy công trình khánh thành là xong công việc. Để từng bước khắc phục tình trạng này, theo tôi cấp có thẩm quyền cần chỉ đạo các ngành, nắm chính xác số lượng dự án đầu tư hoàn thành bằng vốn Nhà nước đến nay chưa được duyệt quyết toán theo quy định, để có giải pháp xử lý. Đối với dự án mới hoàn thành cần hướng dẫn chủ đầu tư và nhà thầu lập báo cáo quyết toán theo chế độ trong thời gian quy định. Tuỳ theo quy mô và tính chất phức tạp của từng dự án cơ quan cấp phát hoặc cho vay vốn trực tiếp thẩm tra báo cáo quyết toán hoặc trình cấp có thẩm quyền thành lập tổ tư vấn thẩm tra quyết toán. Dù có tổ tư vấn hay không có tổ tư vấn trách nhiệm chính vẫn do cơ quan chủ trì thuộc ngành tài chính, ngân hàng, vẫn do cá nhân từng cán bộ thẩm tra quyết toán. Vì vậy các cán bộ làm công tác này phải có năng lực để phát hiện ra những sai trái, thủ thuật của chủ đầu tư và nhà thầu trong công tác quyết toán như khối lượng khống, áp định mức, đơn giá cao hơn quy định phải đảm bảo thời gian thẩm tra theo chế độ và phải công tâm không được tiêu cực thông qua việc hợp thức hoá cho nhà thầu. Trong thẩm tra quyết toán đối với công trình đấu thầu hết sức chú ý đến chất lượng, chủng loại vật liệu và biên bản nghiệm thu chất lượng công trình, bản vẽ hoàn công, khối lượng phát sinh ngoài thầu. Đối với công trình chỉ định thầu hết sức chú ý đơn giá và khối lượng. Thực hiện nghiêm túc việc giữ lại 5% giá trị chờ quyết toán. Đề nghị:
- Tất cả các công trình kết thúc đầu tư phải thanh, quyết toán theo đúng thời gian quy định. Các công trình thanh, quyết toán chậm so với qui định, cơ quan thẩm định quyết toán có quyền đề nghị UBND tỉnh phạt chủ đầu tư 10%¸30% giá trị chi phí Ban quản lý dự án. Không thẩm định các quyết toán chưa đủ thủ tục theo quy định. Các cơ quan cấp phát và thẩm định quyết toán phải chịu trách nhiệm về việc cấp phát, thẩm định quyết toán sai khi các cơ quan kiểm tra phát hiện ra.
- Tiến hành lập và thông báo giá vật liệu theo tháng. Giá được lập theo đúng quy trình, phải phù hợp với thị trường và phải tạo điều kiện khuyến khích cạnh tranh giữa các nhà cung cấp vật liệu. Giao Sở Tài chính và Sở Xây dựng lập và trình UBND tỉnh Quyết định ban hành bảng hệ số điều chỉnh giá vật liệu đến chân công trình với mật độ điểm tính toán dầy hơn (có thể tới cụm xã, phường có giá tương đối giống nhau) để thay thế Quyết định: 1837/QĐ-UB ngày 22/12/1999, hiện đang có nhiều điểm không phù hợp với tình hình mới. Không duyệt đơn giá vật liệu riêng cho từng công trình nếu vật liệu đó (hoặc vật liệu có tính chất tương tự) đã có thông báo chung. Sở Xây dựng có trách nhiệm kiến nghị Bộ Xây dựng sửa đổi các định mức không phù hợp và lập định mức chi phí các công việc đang áp dụng nhưng chưa có trong tập định mức dự toán XDCB ban hành theo Quyết định số: 1242/1998/QĐ-BXD ngày 25/11/1998 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng.
Đẩy nhanh tốc độ giải ngân vốn đầu tư
Giải ngân vốn đầu tư có vị trí rất quan trọng trong hoạt động đầu tư. Nó không chỉ có ý nghĩa trong việc giải ngân vấn đề tài chính cho các nhà thầu, trong việc đẩy nhanh tiến độ thi công, bàn giao, sớm đưa công trình vào khai thác sử dụng mà nó còn tác động trực tiếp đến các quan hệ kinh tế ở tầm vĩ mô.
Như phần đánh giá thực trạng tình hình, việc giải ngân vốn đầu tư không riêng tỉnh Ninh Bình mà phạm vi trên toàn quốc đều chậm. Không riêng vốn ODA, vốn cấp phát mà cả vốn tín dụng, mặc dù Nhà nước trong các năm đã tập trung tháo gỡ song kết quả vẫn chưa như mong muốn. Để từng bước khắc phục căn bệnh kinh niên này tôi xin nêu một số giải pháp. Trước hết về việc giải phóng mặt bằng đây là việc tiền đề cho việc thực hiện dự án. Để giải quyết được vấn đề này, trên cơ sở chế độ chính sách Nhà nước Ban quản lý dự án cần khẩn trương xây dựng phương án đền bù và thông qua cấp có thẩm quyền phê duyệt. Sau đó chuẩn bị đủ kinh phí, quỹ đất đai (trường hợp phải cấp lại), đến thời điểm triển khai cần chỉ đạo khẩn trương đồng loại, dứt điểm. Không để cho người dân chần chừ, tính toán lâu trên mảnh đất của họ. Trong quá trình tiến hành cần kết hợp chặt chẽ với chính quyền cơ sở, các đoàn thể quần chúng, chú trọng phương pháp thuyết phục, giải thích để dân tự nguyện chấp nhận. Nếu các chế độ đền bù tương đối thoả đáng mà một số ít hộ không chịu di chuyển thì phải cương quyết cưỡng chế. Không nên để tình trạng một vài hộ chây ỳ ngang nhiên thách thức chính quyền, làm cản trở việc chung. Ngay trên địa bàn thành phố Ninh Bình việc giải phóng mặt bằng kè bờ Tây sông Vân là những dẫn chứng cụ thể.
Hai là khẩn trương hoàn chỉnh hồ sơ thủ tục đầu tư và xây dựng, thông thường 6 tháng đầu năm hầu hết các chủ dự án tập trung vào việc thuê tư vấn thiết kế - lập tổng dự toán; tổ chức đấu thầu. Riêng việc đấu thầu công trình nhóm C có chủ dự án triển khai mất 3 tháng làm cho thời gian khởi công chậm lại. Để khắc phục vấn đề này điều quan trọng là đảm bảo điều kiện ghi kế hoạch đúng quy định của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Đồng thời đề nghị cấp có thẩm quyền khi giao kế hoạch đầu tư hàng năm nên ghi rõ công trình nào thuộc diện phải đấu thầu, công trình nào thuộc diện cho khoán gọn sẽ khắc phục được cơ bản tình trạng trên.
Ba là, cơ quan cấp phát, cho vay phải đảm bảo đúng tiến độ thời gian, khối lượng hoàn thành phù hợp với thiết kế dự toán được duyệt và phải kiểm tra giám sát việc sử dụng vốn đã thanh toán. Thực hiện nghiêm túc, công khai quy trình cấp phát cho vay. Thực hiện đơn giản một số giấy tờ thuộc trách nhiệm của các cơ quan khác như giấy cấp đất, giấy phép hành nghề, giấy phép xây dựng. Trường hợp trong quá trình thanh toán vốn có những sai sót thì tách phần đó riêng, cho thanh toán ngay phần đủ điều kiện. Khắc phục nghịch lý Nhà nước có vốn, nhà thầu cần vốn mà ách tắc chậm chễ. Trường hợp do nguyên nhân khách quan dẫn đến tình trạng khối lượng hoàn thành có mà thiếu thủ tục thì cơ quan tài chính - Ngân hàng phải báo cáo cấp có thẩm quyền vận dụng tháo gỡ như cho phép tạm cấp, hoặc cho vay vốn một tỷ lệ nhất định trong khi chờ đợi hoàn chỉnh thủ tục. Mặt khác phải chú ý nâng cao kiến thức kỹ thuật – kinh tế xây dựng cơ bản cho cán bộ chuyên quản để có điều kiện đáp ứng về chất lượng quản lý và thời gian giải quyết công việc. Trường hợp chủ đầu tư không làm hoặc chần chừ làm quá chậm thủ tục nghiệm thu thanh toán cho nhà thầu khi nhà thầu đủ điều kiện thì phải quy trách nhiệm vật chất cho chủ đầu tư.
Tổ chức, cá nhân có thẩm quyền cấp phát, cho vay vốn không được gây phiền hà sách nhiễu với khách hàng. Trường hợp cấp phát cho vay không đúng tiến độ, gây lãng phí, thất thoát vốn và tài sản của Nhà nước thì phải bồi thường và bị xử lý theo Pháp luật.
Chống thất thoát vốn Nhà nước trong đầu tư và xây dựng.
Lãng phí, thất thoát, tiêu cực, tham nhũng trong hoạt động kinh tế xã hội nói chung và lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản nói riêng là vấn đề được xã hội rất quan tâm. Đó là vấn đề phức tạp liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành. Đòi hỏi phải được nghiên cứu kỹ lưỡng, khách quan, thận trọng để tìm ra nguyên nhân và giải pháp khắc phục.
Xuất phát từ đặc điểm của đầu tư phát triển ngành xây dựng và sản phẩm xây dựng là tiến hành thời gian dài: phạm vi rộng lớn, tính chất chi phí phức tạp, trừu tượng, nhiều loại ẩn khuất khó xác định; giá cả lại biến động nên việc xác định chất lượng và giá trị đích thực của sản phẩm xây dựng rất khó khăn. Mặt khác chủ sở hữu các nguồn vốn đầu tư và tài sản mới hình thành là Nhà nước. Các chủ đầu tư là người chủ sử dụng công trình nhưng không phải là người chủ thực sự của đồng vốn nên thường họ thiếu ý thức tiết kiệm trong chi tiêu, thậm chí còn tìm cách xin được càng nhiều vốn của Nhà nước càng tốt. Từ đó tạo ra những kẽ hở gây thất thoát, lãng phí, tiêu cực, tham nhũng vốn đầu tư của Nhà nước dưới nhiều hình thức tinh vi khác nhau.
Thực tế cho thấy thất thoát vốn đầu tư của Nhà nước thường do 2 nguyên nhân:
- Về nguyên nhân trực tiếp: Thất thoát do chủ đầu tư và nhà thầu cố tình vi phạm các quy định về quản lý đầu tư và xây dựng như thi công ăn bớt khối lượng và chất lượng theo thiết kế được duyệt; trong thanh toán khai tăng chi phí và giá cả … Tuy nhiên trên tổng thể thì thất thoát từ nguyên nhân trực tiếp không phải là chủ yếu. Vì các đối tượng sợ bị xử lý pháp luật khi sự cố xảy ra.
- Về nguyên nhân gián tiếp: do sơ hở bởi chính sách chế độ quản lý đầu tư và xây dựng chưa chặt chẽ. Như việc xác định chủ trương đầu tư, công tác kế hoạch hoá vốn đầu tư, thanh quyết toán … Làm cho vốn thất thoát không xác định được rõ đối tượng và mức độ vi phạm nên thất thoát do nguyên nhân này là chủ yếu.
Để ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng thất thoát, lãng phí, tham nhũng trong lĩnh vực đầu tư và xây dựng cần coi trọng các biện pháp phòng ngừa, cần khẩn trương bổ sung hoàn chỉnh về cơ chế, chính sách quản lý đầu tư và xây dựng cho chặt chẽ gắn trách nhiệm cá nhân từng khâu công việc hạn chế sơ hở, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát:
Đây là một việc lớn, phức tạp, bao gồm nhiều công việc nhiều nội dung song trước mắt cần tập trung vào một số giải pháp chủ yếu sau:
a. Về quyết định đầu tư phải bảo đảm quyết định trúng, kịp thời, hiệu quả. Đây là khâu quan trọng có ý nghĩa tiên quyết. Nếu việc quyết định đầu tư sai lầm sẽ dẫn tới lãng phí rất lớn. Vì sản phẩm xây dựng cơ bản không dẽ dàng chuyển mục đích sử dụng.
- Việc quyết định các thủ tục xây dựng cơ bản như phê duyệt thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán, dự toán chi tiết, cấp có thẩm quyền cần tổ chức thẩm định nghiêm túc, chặt chẽ. Trên cơ sở thiết kế đầu tư đảm bảo hệ số an toàn, công năng sử dụng của công trình, biện pháp thi công hợp lý, phẩm chất vật liệu phù hợp, định mức, đơn giá áp đúng, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất việc điều chỉnh bổ sung, một biện pháp tích cực ngăn chặn sơ hở tiêu cực thất thoát.
Thực tế cho thấy chỉ riêng việc quyết định biện pháp thi công không phù hợp đã gây thất thoát rất lớn. Đặc biệt là lĩnh vực cầu đường, nhiều khi chi phí cho việc áp dụng biện pháp thi công chiếm tỷ trọng khá lớn trong giá trị sản phẩm xây dựng. Nhiều khi chênh lệch trong việc áp dụng giữa các biện pháp thi công thủ công và cơ giới rất cao. Đây là 1 trong những sơ hở mà nhà thầu có thể móc ngoặc với tổ chức tư vấn. Đề nghị cấp có thẩm quyền không cho phép chủ đầu tư vừa thiết kế vừa thi công trừ trường hợp đặc biệt do thiên tai.
b. Về công tác kế hoạch hoá
Sau chủ trương đầu tư, khâu kế hoạch cũng góp phần không nhỏ làm lãng phí thất thoát vốn đầu tư từ thực trạng công tác kế hoạch hoá vốn đầu tư nêu ở phần trên để tạo ra sự ách tắc, cửa quyền, phiền hà và hiện tượng “chạy vốn” trong quá trình bố trí kế hoạch. Đây là những điều kiện cho tiêu cực phát sinh. Để ngăn chặn các hiện tượng trên cơ chế kế hoạch cần sớm hoàn thiện theo hướng phải coi trọng việc xây dựng kế hoạch đầu tư dài hạn trên cơ sở kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Dành vốn thoả đáng cho giai đoạn chuẩn bị đầu tư và coi nhiệm vụ chuẩn bị đầu tư phải đi trước một bước làm cơ sở cho kế hoạch đầu tư hàng năm. Chỉ bố trí kế hoạch đầu tư theo những dự án đã đảm bảo nguồn vốn và theo hướng tập trung dứt điểm như phần giải pháp đổi mới công tác kế hoạch hoá đầu tư.
c. Tăng cường quyền hạn trách nhiệm chủ đầu tư
Theo quy định của điều lệ, chủ đầu tư là người trực tiếp quản lý sử dụng vốn đầu tư, quản lý sử dụng tài sản sau đầu tư nên chủ đầu tư phải có trách nhiệm từ khâu lập dự án đến quá trình khai thác sử dụng. Để tăng cường quyền hạn và trách nhiệm chủ đầu tư, ngăn ngừa thất thoát lãng phí cần chấn chỉnh khâu này theo hướng sau:
- Chuyển nhiệm vụ chủ đầu tư từ một số Sở chuyên ngành như Sở Giáo dục, Sở Y tế về cơ quan trực tiếp sử dụng công trình là trường học, bệnh viện … nhằm gắn trách nhiệm trong quá trình đầu tư và sử dụng.
- Xác định rõ trách nhiệm cá nhân của chủ đầu tư đối với hoạt động đầu tư. Quản lý chặt chẽ chủ đầu tư trong việc thành lập Ban quản lý dự án, trong việc lựa chọn nhà thầu, trong đấu thầu và chỉ định thầu, phân chia gói thầu, việc thay đổi thiết kế và các phát sinh sau đấu thầu, phương thức thanh toán và thời gian thanh toán, việc quản lý giá cả và thời gian xây dựng. Ban hành cơ chế kiểm tra và ràng buộc chủ đầu tư nhằm hạn chế sự chi phối các hoạt động đấu thầu và thanh quyết toán công trình. Đây là khâu quan trọng để hạn chế thất thoát, tham nhũng.
Tăng cường công tác tập huấn, hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ cho các cơ quan, các cán bộ quản lý đầu tư, các chủ đầu tư, các nhà thầu.
Các huyện, thị phải tăng cường hiểu biết về quản lý đầu tư và xây dựng cho cán bộ làm công tác quản lý đầu tư và xây dựng để đáp ứng với nhiệm vụ được phân cấp theo Quyết định: 1188/2006/QĐ-UBND ngày 02/6/2006 của UBND tỉnh.
UBND tỉnh sẽ tiến hành thành lập Ban quản lý dự án chung các dự án có qui mô lớn hoặc các dự án chủ đầu tư không đủ năng lực quản lý.
Đối với các cơ quan không có chuyên môn quản lý đầu tư và xây dựng sẽ áp dụng hình thức chủ nhiệm điều hành dự án. Đối với các chủ đầu tư là cơ quan của tỉnh, Ban quản lý dự án của tỉnh trực tiếp điều hành dự án hoặc chủ đầu tư có thể thuê các đơn vị tư vấn có đủ khả năng để điều hành dự án. Đối với các chủ đầu tư là các cơ quan của huyện, thị, chủ đầu tư có thể sử dụng Ban quản lý dự án của huyện, thị hoặc thuê các tổ chức tư vấn để điều hành dự án.
d. Áp dụng triệt để hình thức đấu thầu, khoán gọn
Như phần đánh giá và giải pháp về công tác đấu thầu đã trình bày để công tác đấu thầu được áp dụng rộng rãi trước hết cần chấn chỉnh và hoàn thiện cơ chế kế hoạch theo hướng đã nêu ở phần trên. Đồng thời cải tiến thủ tục sao cho gọn nhẹ, đơn giản, dễ làm phù hợp với trình độ tổ chức thực hiện của chủ đầu tư và các nhà thầu. Đồng thời quy định rõ trách nhiệm quyền hạn cụ thể về kinh tế và pháp luật với chủ đầu tư. Phải thực hiện đúng trình tự quy định, làm tốt công tác chuẩn bị đấu thầu hết sức chú ý hồ sơ mời thầu; Xác định đúng “giá xét thầu” để làm cơ sở cho việc đánh giá, xét chọn.
Mặt khác, nên làm thử và mở rộng hình thức khoán gọn như đã trình bày. Trường hợp cần thiết phải áp dụng hình thức giao thầu cần hoàn thành đầy đủ thiết kế kỹ thuật, dự toán trước khi cấp có thẩm quyền quyết định.
e. Cải tiến thủ tục cấp phát, cho vay vốn, chấn chỉnh và tăng cường kỷ luật quyết toán vốn đầu tư
Lâu nay việc thanh toán vốn bao gồm cả cấp phát và cho vay, việc quyết toán công trình thường chậm. Gây ách tắc về tài chính cho đơn vị thi công, chậm tiến độ xây dựng và tạo ra sơ hở trong công tác quản lý vốn. Để khắc phục những tồn tại trên cần quy định rõ trách nhiệm của từng khâu, từng cấp và từng người có liên quan một cách cụ thể gắn với chế độ thưởng phạt nghiêm minh.
f . Công tác quản lý chất lượng công trình xây dựng
Tăng cường công tác quản lý chất lượng theo đúng Quyết định số: 18/2003/QĐ-BXD ngày 27/6/2003 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng ban hành Quy định về quản lý chất lượng công trình xây dựng.
Các cơ quan quản lý đầu tư và xây dựng, các chủ đầu tư, các nhà thầu phải chịu trách nhiệm kiểm tra, theo dõi thường xuyên chất lượng của sản phẩm từ tư vấn đến thi công xây lắp và cung cấp thiết bị. Công trình có chất lượng kém, trách nhiệm trước tiên thuộc về chủ đầu tư.
Sở Xây dựng tăng cường công tác thanh tra chất lượng các công trình xây dựng do tỉnh quản lý. Phát hiện, báo cáo UBND tỉnh những sai phạm về chất lượng, để xử lý kịp thời. Sở Xây dựng và các Sở xây dựng chuyên ngành chịu trách nhiệm trước UBND tỉnh về những công trình kém chất lượng của ngành mình.
g. Phân cấp quản lý đầu tư và xây dựng
Thực hiện tốt việc phân cấp quản lý đầu tư và xây dựng theo Quyết định số: 1188/2006/QĐ-UBND ngày 02/6/2006 của UBND tỉnh, giành quyền tự quyết định và tự chịu trách nhiệm cho các cấp ở cơ sở và các chủ đầu tư.
Cấp được uỷ quyền phải thực hiện chế độ báo cáo về công tác quản lý đầu tư và xây dựng lên cơ quan cấp trên.
UBND tỉnh, các cơ quan quản lý đầu tư và xây dựng ở tỉnh phải thực hiện chế độ hậu kiểm, tăng cường công tác thanh tra, giám sát đầu tư, giám sát chất lượng xây dựng các công trình, dự án đã được phân cấp.
h. Công tác giám sát đánh giá đầu tư
Nâng cao chất lượng công tác GSĐGĐT, rà soát và chấn chỉnh các khâu trong hoạt động đầu tư và xây dựng:
- Coi trọng chất lượng giám sát và giải pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả, chống thất thoát.
- Các nghành, UBND huyện, thị xã rà soát lại các qui hoạch, thực hiện giám sát từng khâu bố trí đầu tư đảm bảo tuân thủ theo qui hoạch, đánh giá tổng thể đầu tư, bố trí kế hoạch tập trung và rà soát lại từng dự án để đảm bảo hiệu quả, thực hiện giám sát thường xuyên trong tất cả các khâu của quá trình đầu tư (chuẩn bị đầu tư, phê duyệt TKKT, tổng dự toán, đấu thầu, quản lý vốn, ký hợp đồng, thanh quyết toán,...) tìm các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư kế hoạch 5 năm, kịp thời rút kinh nghiệm và chấn chỉnh công tác quản lý đầu tư.
Đối với các dự án đầu tư trong quá trình thực hiện giám sát đầu tư, ở dự án đầu tư nào phát hiện thấy những yếu tố thay đổi so với dự án ban đầu hoặc những vấn đề mới phát sinh, phải báo cáo kịp thời và nhất thiết đánh giá lại tính khả thi và hiệu quả của dự án trước khi quyết định điều chỉnh hoặc tiếp tục thực hiện.
Những dự án không báo cáo GSĐGĐT không bố trí kế hoạch đầu tư và không được điều chỉnh dự án, đề nghị Kho bạc Nhà nước không cấp vốn thanh toán.
Tăng cường công tác giám sát cộng đồng: Tất các các dự án, chương trình đầu tư (trừ công trình bí mật quốc gia) đều phải được thực hiện giám sát cộng đồng trong toàn bộ quá trình đầu tư. Các phương án qui hoạch đã được phê duyệt, các chương trình dự án phải được công bố công khai nội dung cơ bản trên các phương tiện thông tin đại chúng thích hợp (như: niêm yết, pa-nô, phát thanh, truyền hình ...) để dân biết dân bàn, dân giám sát.
Nâng cao trình độ cán bộ quản lý vốn đầu tư phát triển
Cán bộ trong lĩnh vực đầu tư xây dựng nói chung và cán bộ quản lý vốn đầu tư xây dựng nói riêng luôn là nhân tố quan trọng trong hoạt động đầu tư phát triển. Cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng hiện nay đặt ra yêu cầu rất cao đối với cán bộ làm công tác quản lý vốn. Do đối tượng quản lý rất rộng lớn, phức tạp và đa dạng, lãng phí thất thoát còn lớn, nên người cán bộ quản lý vốn từ cán bộ làm công tác thẩm định, tín dụng, cấp phát, tổng hợp, ngoài kiến thức, kinh nghiệm về quản lý tài chính – tín dụng đầu tư, rất cần kiến thức về kinh tế, kỹ thuật trong lĩnh vực đầu tư xây dựng, kiến thức tin học, ngoại ngữ, nhất là trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý và hội nhập quốc tế, nhiệm vụ nâng cao trình độ cán bộ đặt ra như một yêu cầu cấp bách. Có như vậy cán bộ quản lý vốn đầu tư mới giúp cho Nhà nước đầu tư đúng mục đích, đạt hiệu quả, mới phát hiện được những sơ hở của cơ chế chính sách, những vi phạm của các đối tượng quản lý nhằm chống thất thoát nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
Để nâng cao trình độ đòi hỏi cán bộ trong ngành phải tích cực học tập, nghiên cứu tranh thủ tiếp thu những thông tin mới, các kinh nghiệm quản lý vốn đầu tư của nước ngoài. Mặt khác cơ quan cũng cần đầu tư thời gian, kinh phí mua sách báo, cử cán bộ đi dự các cuộc hội thảo, tổ chức tập huấn nghiệp vụ với các hình thức thích hợp gắn với chế độ kiểm tra, thi tay nghề, có chính sách khen thưởng thoả đáng đối với những người có thành tích phát hiện ra những sai trái có giá trị lớn trong việc thanh quyết toán. Nhằm hạn chế tiêu cực, đề nghị Nhà nước nghiên cứu trích thưởng cho người có công chống thất thoát vốn Nhà nước trong đầu ta xây dựng. Đồng thời hết sức chú ý đến việc tu dưỡng đạo đức, phẩm chất, tinh thần trách nhiệm của người cán bộ quản lý vốn, mặt khác cơ quan cần tăng cường kiểm tra giám sát ngăn ngừa phiền hà, tiêu cực, đi liền với việc thực hiện nghiêm túc pháp lệnh công chức, pháp lệnh chống tham nhũng và pháp lệnh thực hành tiết kiệm chống lãng phí.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Công tác quản lý các dự án đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước hiện nay là một vấn đề bức xúc và liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành. Việc nghiên cứu, tìm ra các giải pháp hoàn thiện quản lý các dự án đầu tư phát triển sử dụng vốn ngân sách, nhằm khắc phục những hạn chế trong hoạt động đầu tư và xây dựng ở tỉnh Ninh Bình khi nền kinh tế chuyển đổi theo cơ chế thị trường và hội nhập là việc làm cú ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn.
Trên cơ sở phân tích những thế mạnh và những điểm yếu trong công tác quản lý đầu tư trong thời gian qua và để đáp ứng yêu cầu và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn tới, Tỉnh Ninh Bình cần đề xuất phương hướng, chiến lược đầu tư phát triển, về một số giải pháp chủ yếu có tính thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh.
Trước mắt cần tập trung điều chỉnh cơ cấu đầu tư, đổi mới công tác kế hoạch hoá, hết sức quan tâm đến việc lập và thẩm định dự toán đầu tư, đổi mới công tác cán bộ quản lý dự án, thực hiện nghiêm túc Luật đấu thầu, đẩy nhanh tốc độ giải ngân, làm tốt công tác quyết toán, thực hiện tích cực và hiệu quả việc chống thất thoát lãng phí trong đầu tư - xây dựng, nâng cao trình độ cán bộ quản lý vốn đầu tư. Trong các giải pháp trên thì giải pháp lập và thẩm định dự án đầu tư giữ vai trò quyết định.
Các biện pháp trên cần được thực hiện đồng bộ nhằm tạo hiệu ứng mạnh để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
KHUYẾN NGHỊ
Để hoàn thiện công tác quản lý các dự án sử dụng vốn ngân sách cùng với việc thực hiện các giải pháp trên, tôi xin đề xuất với cấp có thẩm quyền một số kiến nghị như sau:
- Khuyến nghị Thủ tướng Chính phủ trong việc phân cấp quản lý kế hoạch đầu tư cho các ngành, địa phương cần quy định các biện pháp hữu hiệu khắc phục tình trạng đầu tư phân tán, dàn trải như hiện nay theo hướng:
+ Quy định số lượng dự án tối đa được bố trí vào kế hoạch đầu tư hàng năm của từng địa phương tương ứng với số vốn được bố trí.
+ Quy định mức khống chế về thời gian đầu tư cho một dự án nhóm C có mức vốn dưới 3 tỷ đồng chỉ bố trí xây dựng trong 1 năm. Số dự án nhóm C còn lại phải hoàn thành trong 2 năm. có vậy mới khắc phục được tình trạng rời rạc, phân tán, nể nang trong việc bố trí vốn, góp phần nâng cao hiệu quả vốn đầu tư.
+ Để chủ động trong việc thu hồi vốn đầu tư gắn quyền lợi với trách nhiệm của Giám đốc doanh nghiệp. Kiến nghị với Nhà nước có chính sách cụ thể đối với những dự án đầu tư bằng hình thức tín dụng, khi thu hồi đủ vốn đầu tư cần quy định cho Giám đốc cùng tập thể lao động được hưởng một phần giá trị còn lại và giá trị gia tăng thêm dưới hình thức cổ phần. Trong đó quy định cụ thể hệ số giành cho Giám đốc và những người có nhiều công đóng góp. Có vậy mới tạo ra động lực và mới hạn chế tiêu cực, thất thoát tham nhũng.
- Để tăng trách nhiệm và sự ràng buộc đối với các nhà thầu trong việc thực hiện chế độ quyết toán công trình, kiến nghị Bộ Tài chính bổ sung chế độ giữ vốn chờ quyết toán theo hướng giữ lại 5% giá trị hạng mục công trình hoặc công trình hoàn thành quyết toán thay cho quy định chỉ giữ 5% kế hoạch vốn đầu tư hàng năm. Thực tế có nhiều trường hợp kế hoạch vốn đầu tư hàng năm rất ít nếu chỉ giữ lại 5% kế hoạch thì không đủ sức nặng để nhà thầu và chủ đầu tư quan tâm đến việc quyết toán.
- Khuyến nghị cấp có thẩm quyền có quy định ràng buộc đối với những Sở, ngành, huyện, thị xã, thành phố nếu không chấp hành chế độ quyết toán công trình hoàn thành thì chưa bố trí kế hoạch đầu tư cho các dự án tiếp theo.
- Khuyến nghị Nhà nước bổ sung hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật, chế độ kế toán chủ đầu tư và quy định về lợi nhuận định mức … cho phù hợp với sự phát triển của khoa học công nghệ và cơ chế thị trường.
- Để góp phần chống thất thoát, tiêu cực trong quản lý đầu tư và xây dựng, kiến nghị Nhà nước nghiên cứu quy định chế độ trích thưởng cho những người có công chống thất thoát, lãng phí vốn Nhà nước như phát hiện trong thiết kế, dự toán, thanh toán, quyết toán dự án sai chế độ quy định với giá trị kinh tế lớn.
- Khuyến nghị Thủ tướng Chính phủ có cơ chế phân bổ ngân sách ưu tiên cho các tỉnh chậm phát triển, trong đó có Ninh Bình (so sánh qua chỉ số GDP/người), tăng mức đầu tư XDCB theo cân đối nguồn ngân sách tập trung cho địa phương để có thêm nguồn cân đối cho một số công trình cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện thu hút đầu tư và tăng năng lực phát triển sản xuất và khai thác tiềm năng.
TÓM TẮT LUẬN VĂN
Công tác quản lý các dự án đầu tư phát triển sử dụng vốn ngân sách hiện nay là một vấn đề bức xúc và liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành. Việc nghiên cứu, tìm ra các giải pháp hoàn thiện quản lý các dự án đầu tư phát triển sử dụng vốn ngân sách, nhằm khắc phục những hạn chế trong hoạt động đầu tư và xây dựng ở tỉnh Ninh Bình khi nền kinh tế chuyển đổi theo cơ chế thị trường và hội nhập là việc làm có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn. Trong luận văn này tôi tập trung hoàn thành một số công việc sau:
1. Đã hệ thống hoá những lý luận cơ bản liên quan đến đầu tư, dự án đầu tư, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, và công tác quản lý vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước.
2. Đã mô tả, phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý các dự án sử dụng vốn ngân sách tại tỉnh Ninh Bình một cách trung thực, khách quan. Rút ra những kết quả đạt được, những tồn tại thiếu sót cần khắc phục. Đây là những vấn đề quan trọng làm cơ sở cho việc đề ra các giải pháp, nhằm hoàn thiện công tác quản lý các dự án sử dụng vốn ngân sách.
3. Đề xuất phương hướng, chiến lược đầu tư phát triển, về một số giải pháp chủ yếu có tính thiết thực nhằm nhằm hoàn thiện công tác quản lý các dự án sử dụng vốn ngân sách nói chung và trên địa bàn tỉnh Ninh Bình nói riêng, nhằm đáp ứng yêu cầu và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn tới.
Trước mắt cần tập trung điều chỉnh cơ cấu đầu tư, đổi mới công tác kế hoạch hoá, hết sức quan tâm đến việc lập và thẩm định dự toán đầu tư, đổi mới công tác cán bộ quản lý dự án, thực hiện nghiêm túc Luật đấu thầu, đẩy nhanh tốc độ giải ngân, làm tốt công tác quyết toán, thực hiện tích cực và hiệu quả việc chống thất thoát lãng phí trong đầu tư - xây dựng, hoàn chỉnh cơ chế chính sách quản lý và nâng cao trình độ cán bộ quản lý vốn đầu tư. Trong các giải pháp trên thì giải pháp lập và thẩm định dự án đầu tư giữ vai trò quyết định.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. PGS.PTS Nguyễn Ngọc Mai (1998), Giáo trình Kinh tế đầu tư, Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội
2. PGS.PTS Nguyễn Ngọc Mai (1995), Phân tích và quản lý dự án đầu tư, NXB Khoa học kỹ thuật
3. Nguyễn Trung Dũng (1993), Tính toán và đánh giá dự án đầu tư trong nền kinh tế thị trường, NXB Khoa học kỹ thuật
4.TS. Nguyễn Ái Đoàn (2004), Kinh tế học vĩ mô, NXB Chính trị Quốc gia
5. Trần Thu Hà (2005), Bài giảng môn quản lý dự án, Đại học Bách khoa HN.
6. Chính phủ, Nghị định Nghị định số: 52/1999/NĐ-CP, 12/2000/NĐ-CP, 07/2003/NĐ-CP, Quy chế Quản lý đầu tư và xây dựng
7. Chính phủ, Nghị định số 16/2005/NĐ-CP và Nghị định số 112/2006/NĐ-CP, Hướng dẫn và quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình
8. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghiĩa Việt nam, Luật Đầu tư số 59/2005/QH11 ngày 22/9/2005
9. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghiĩa Việt nam, Luật Đấu thầu số 61//2005/QH11 ngày 29/11/2005
10. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Trung tâm bồi dưỡng cán bộ kinh tế – kế hoạch (2004), Bài giảng nghiệp vụ kế hoạch và đầu tư
11.Tỉnh uỷ Ninh Bình (2006), Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ XIX
12. Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Ninh Bình, Quy hoạch phát triển KT - XH tỉnh Ninh Bình đến năm 2010
13. Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Ninh Bình (2006), Báo cáo kế hoạch phát triển KT - XH 5 năm 2006 – 2010
14. Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Ninh Bình (2004), Báo cáo về Tình hình và những giải pháp chấn chỉnh quản lý đầu tư và xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước trong thời gian tới
15. Cục Thống kê Ninh Bình (2005), Ninh Bình 50 năm xây dựng và phát triển 1955 - 2004
16. Cục Thống kê Ninh Bình (2006), Niên giám thống kê Ninh Bình (các năm)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng và giải pháp hoàn thiện quản lý các dự án đầu tư phát triển sử dụng vốn ngân sách trên địa bàn tỉnh Ninh Bình <ThS>.DOC